Đề tài Chi phí sản xuất kinh doanh và các biện pháp quản lý chi phí sản xuất kinh doanh

Giá thành sản xuất sản phẩm = Chi phí vật tư trực tiếp + Chi phí nhân công trực tiếp + Chi phí sản xuất chung. * Giá thành tiêu thụ của sản phẩm, dịch vụ tiêu thụ bao gồm: - Giá thành sản xuất của sản phẩm, dịch vụ tiêu thụ - Chi phí bán hàng : Là toàn bộ các chi phí liên quan tới việc tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ, bao gồm các chi phí bảo hành sản phẩm. - Chi phí quản lý doanh nghiệp : Bao gồm các chi phí cho bộ máy quản lý và điều hành doanh nghiệp, các chi phí có liên quan đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp như : Chi phí công cụ lao động nhỏ, khấu hao tài sản cố định phục vụ cho bộ máy quản lý và điều hành doanh nghiệp, tiền lương và các khoản trích nộp theo quy định của bộ máy quản lý và điều hành doanh nghiệp, chi phí mua ngoài, chi phí khác bằng tiền phát sinh ở doanh nghiệp như chi phí về tiếp khách, giao dịch, chi các khoản trợ cấp thôi việc cho người lao động.

doc35 trang | Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1013 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Chi phí sản xuất kinh doanh và các biện pháp quản lý chi phí sản xuất kinh doanh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
xưởng. Giá thành sản xuất sản phẩm = Chi phí vật tư trực tiếp + Chi phí nhân công trực tiếp + Chi phí sản xuất chung. * Giá thành tiêu thụ của sản phẩm, dịch vụ tiêu thụ bao gồm: - Giá thành sản xuất của sản phẩm, dịch vụ tiêu thụ - Chi phí bán hàng : Là toàn bộ các chi phí liên quan tới việc tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ, bao gồm các chi phí bảo hành sản phẩm. - Chi phí quản lý doanh nghiệp : Bao gồm các chi phí cho bộ máy quản lý và điều hành doanh nghiệp, các chi phí có liên quan đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp như : Chi phí công cụ lao động nhỏ, khấu hao tài sản cố định phục vụ cho bộ máy quản lý và điều hành doanh nghiệp, tiền lương và các khoản trích nộp theo quy định của bộ máy quản lý và điều hành doanh nghiệp, chi phí mua ngoài, chi phí khác bằng tiền phát sinh ở doanh nghiệp như chi phí về tiếp khách, giao dịch, chi các khoản trợ cấp thôi việc cho người lao động. Giá thành tiêu thụ = giá thành sản xuất + chi phí bán hàng + chi phí quản lý doanh nghiệp. 1.3.3. Phân loại giá thành sản phẩm Để giúp cho việc nghiên cứu và quản lý tốt giá thành sản phẩm cũng như xây dựng giá cả hàng hoá cần phải phân biệt các loại giá thành khác nhau. Có hai cách phân loại chủ yếu là : * Phân loại giá thành theo cơ sở số liệu và thời điểm tính giá thành: - Giá thành kế hoạch : Giá thành kế hoạch là giá thành sản phẩm được tính trên cơ sở chi phí sản xuất kế hoạch và sản lượng kế hoạch. - Giá thành định mức : Giá thành định mức là giá thành được tính trên cơ sở định mức chi phí sản xuất và sản lượng sản phẩm hàng năm. - Giá thành thực tế : Là giá thành sản phẩm được tính trên cơ sở số liệu chi phí sản xuất thực tế đã phát sinh và tập hợp được trong kỳ cũng như sản lượng đã sản xuất thực tế trong kỳ. * Phân loại giá thành theo phạm vi các chi phí cấu thành: - Giá thành sản xuất: Giá thành sản xuất là biểu hiện bằng tiền các hao phí vật chất và hao phí lao động sống mà doanh nghiệp chi ra để hoàn thành việc sản xuất sản phẩm nhất định. Giá thành sản xuất sản phẩm bao gồm : các chi phí sản xuất, chế tạo sản phẩm (chi phí nguyên liệu vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí sản xuất chung) tính cho sản phẩm, công việc hay lao vụ đã hoàn thành. - Giá thành tiêu thụ của sản phẩm tiêu thụ: Là biểu hiện bằng tiền các hao phí vật chất và hao phí lao động sống mà doanh nghiệp chi ra để hoàn thành việc sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, lao vụ nhất định. Giá thành sản phẩm tiêu thụ bao gồm : Bao gồm giá thành sản xuất và chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp tính cho sản phẩm tiêu thụ. Giá thành toàn bộ dùng để xác định kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. 1.3.4. Mối quan hệ giữa chi phí sản xuất kinh doanh và giá thành sản phẩm. Mỗi doanh nghiệp khi đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh của mình, thì doanh nghiệp đó phải bỏ ra những khoản chi phí nhất định để tiến hành sản xuất ra sản phẩm. Từ đó ta thấy chi phí sản xuất kinh doanh và giá thành sản phẩm có mối quan hệ mật thiết với nhau, giá thành sản phẩm cao hay thấp phụ thuộc vào chi phí cao hay thấp. Chi phí sản xuất và giá thành đều giống nhau về chất : đều biểu hiện bằng tiền các hao phí về lao động sống và lao động vật hoá nhưng trong phạm vi và nội dung của chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm cũng có những điểm khác nhau. Chi phí sản xuất là tính toàn bộ những chi phí sản xuất phát sinh trong một kỳ nhất định (tháng, quý, năm). Giá thành sản phẩm thì giới hạn số chi phí sản xuất có liên quan đến một khối lượng sản phẩm, dịch vụ hoàn thành. II. Các nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến chi phí sản xuất kinh doanh và giá thành sản phẩm và các biện pháp phấn đâú giảm chi phí hạ giá thành sản phẩm 2.1. Các nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến chi phí sản xuất kinh doanh và giá thành sản phẩm 2.1.1 Những tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ Sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật và công nghệ việc áp dụng nhanh chóng những thành tựu khoa học và công nghệ vào sản xuất là nhân tố cực kỳ quan trọng cho phép các doanh nghiệp giảm được chi phí hạ thấp giá thành sản phẩm và thành công trong kinh doanh. Máy móc hiện đại dần dần thay thế sức người trong những công việc lao động nặng nhọc cũng như đòi hỏi sự tinh vi, chính xác và từ đó làm thay đổi điều kiện của quá trình sản xuất. Với trình độ chuyên môn hoá, tự động hoá cao, với sự ra đời của các công nghệ mới, không chỉ có chi phí về tiền lương được hạ thấp mà còn hạ thấp cả mức tiêu hao nguyên vật liệu để sản xuất ra sản phẩm. Nhiều loại vật liệu mới ra đời với tính năng tác dụng hơn, chi phí thấp hơn cũng làm cho chi phí nguyên vật liệu được hạ thấp. 2.1.2. Tổ chức sản xuất và sử dụng con người Đây là một nhân tố quan trọng để nâng cao năng suất lao động giảm chi phí và hạ giá thành sản phẩm của doanh nghiệp, nhất là đối với doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động trong sản xuất. Việc tổ chức lao động khoa học sẽ tạo ra sự kết hợp các yếu tố sản xuất một cách hợp lý, loại trừ được tình trạng lãng phí lao động, lãng phí giờ máy, có tác dụng rất lớn thúc đẩy nâng cao năng suất lao động giảm chi phí và hạ giá thành sản phẩm - dịch vụ. 2.1.3. Nhân tố tổ chức quản lý tài chính doanh nghiệp Nhân tố này tác động mạnh mẽ tới chi phí sản xuất kinh doanh và hạ giá thành sản phẩm. Bởi lẽ chi phí sản xuất kinh doanh là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ lao động sống và lao động vật hoá qua đó ta thấy để sản xuất kinh doanh doanh nghiệp cần phải có một lượng vốn tiền tệ nhất định, qua quá trình sản xuất lượng vốn tiền tệ này sẽ bị tiêu hao nên việc quản lý và sử dụng chúng tốt là một trong những hoạt động tài chính chủ yếu của doanh nghiệp. Hoạt động tài chính có tác động lớn tới việc hạ thấp chi phí sản xuất kinh doanh và giá thành sản phẩm từ đó làm tăng lợi nhuận của doanh nghiệp. 2.2. Các phương hướng biện pháp giảm chi phí hạ giá thành Phấn đấu giảm phí và hạ giá thành là biện pháp chủ yếu để tăng lợi nhuận của doanh nghiệp. Muốn giảm chi phí và hạ giá thành thì phải thực hiện đồng bộ nhiều phương hướng, biện pháp sau: 2.2.1 Giảm chi phí nguyên vật liệu, nhiên liệu, năng lượng trong giá thành sản phẩm Trong giá thành sản phẩm, để tiết kiệm nguyên liệu, vật liệu, năng lượng cần phải cải tiến kết cấu của sản phẩm, cải tiến phương pháp công nghệ, sử dụng tổng hợp nguyên liệu, lợi dụng triệt để phế liệu, sử dụng vật liệu thay thế, giảm tỷ lệ phế phẩm, bảo quản, vận chuyển. Tiết kiệm nguyên vật liệu, nhiên liệu, năng lượng sẽ làm cho chi phí nguyên vật liệu... trong giá thành giảm và sẽ làm cho giá thành giảm nhiều vì trong kết cấu giá thành tỷ trọng nguyên vật liệu chiếm bộ phận lớn nhất, có doanh nghiệp chiếm từ 60-80%. 2.2.2. Giảm chi phí tiền lương và tiền công trong giá thành sản phẩm Muốn giảm chi phí tiền lương trong giá thành sản phẩm cần tăng nhanh năng suất lao động, bảo đảm cho năng suất lao động tăng nhanh hơn tiền lương bình quân và tiền công. Như vậy cần : cải tiến tổ chức sản xuất, cải tiến tổ chức lao động, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật công nghệ, nâng cao trình độ cơ giới hoá tự động hoá, hoàn thiện định mức lao động, tăng cường kỹ thuật lao động, áp dụng các hình thức tiền lương, tiền thưởng và trách nhiệm vật chất để kích thích lao động, đào tạo nâng cao trình độ kỹ thuật công nhân. Tốc độ tăng năng suất lao động nhanh hơn tốc độ tăng tiền lương bình quân và tiền công sẽ cho phép giảm chi phí tiền lương trong giá thành sản phẩm do đó khoản mục tiền lương trong giá thành sản phẩm sẽ giảm theo tỷ lệ với tỷ trọng tiền lương trong giá thành. 2.2.3. Giảm chi phí cố định trong giá thành sản phẩm Muốn giảm chi phí cố định trong giá thành sản phẩm cần phấn đấu tăng nhanh, tăng nhiều sản phẩm hàng hoá sản xuất ra. Tốc độ tăng và quy mô tăng sản phẩm hàng hoá sẽ làm cho chi phí cố định trong giá thành sản phẩm giảm vì tốc độ tăng chi phí cố định chậm hơn tốc độ tăng quy mô và sản lượng. Nói cách khác là tốc độ tăng chi phí cố định không lệ thuộc với tốc độ và quy mô tăng của sản lượng. Để tăng sản lượng hàng hoá cần phải sản xuất nhiều. Muốn sản xuất nhiều thì phải sản xuất nhanh trên cơ sở tăng năng suất lao động, phải mở rộng quy mô sản xuất, tinh giảm bộ máy quản lý doanh nghiệp, giảm các hao hụt mất mát do ngừng sản xuất gây ra. chương II Thực trạng công tác quản lý chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm tại trung tâm thiết bị lưới điện phân phối công ty sản xuất thiết bị điện I. Khái quát chung về tình hình sản xuất kinh doanh của Trung tâm. 1.1 Quá trình hình thành và phát triển của Trung tâm thiết bị lưới điện phân phối. Trung tâm thiết bị lưới điện phân phối được thành lập ngày 30 tháng 4 năm 1988 tại Hà Nội theo quyết định số 553/NL - TCCBLĐ của Bộ thương Mại và Quyết dịnh thành lập lại doanh nghiệp Nhà nước số 1170/NL-TCCBLĐ ngày 24.6.1993 theo nghị định 388/CP của Chính phủ. Trung tâm hoạt động dưới sự quản lý toàn diện của Công ty sản xuất thiết bị điện và chịu sự quản lý của Nhà nước về hoạt động kinh danh xuất nhập khẩu của Bộ thương mại, Trung tâm thiết bị lưới điện phân phối đặt trụ sở tại : Số 14 Phố Bích Câu - Phường Quốc Tử Giám - Quận Đống Đa - HN. Tên giao dịch: VINAELECTRO. Điện thoại : 7.320.946 Quá trình hình thành phát triển của trung tâm có thể phân chia làm hai giai đoạn như sau: - Giai đoạn I : Từ khi thành lập ( 1988 ) đến năm 1991. - Giai đoạn II : từ 1991 đến nay. Xuất phát từ những đặc điểm kinh tế xã hội trong nước và trên thế giới cũng như sự thay đổi về cơ chế quản lý kinh tế nên trong những giai đoạn phát triển của trung tâm cũng có những đặc điểm khác nhau. 1.2. Chức năng nhiệm vụ của Trung tâm Chức năng và nhiệm vụ của Trung tâm được quy định cụ thể trong điều lệ về tổ chức và hoạt động của Trung tâm được thể hiện ở như sau: - Tiếp nhận vật tư hàng hoá, thiết bị kỹ thuật điện thuộc chương trình lưới điện 35KV trên toàn quốc theo hiệp định ngày 19/5/1987 giữa Việt Nam và Liên Xô cũ. - Năm 1991 Trung tâm được Bộ Năng lượng giao nhiệm vụ dịch vụ uỷ thác nhập khẩu, cung ứng vật tư, nguyên liệu thiết bị điện và tiêu thụ sản phẩm cho các đơn vị trong Công ty. Phạm vi hoạt động - Xuất nhập khẩu: + Vật liệu và thiết bị phục vụ phát triển lưới điện, phân phối và truyền tải điện từ khâu gia công, chế tạo, lắp đặt và sửa chữa. + Các dịch vụ, kỹ thuật ngành sửa chữa và chế tạo thiết bị điện kể cả nguồn lưới - thiết bị dùng điện. + Hợp tác quốc tế trong lĩnh vực vật liệu, thiết bị kỹ thuật điện, xây dựng và tham gia các hình thức hợp tác để phát triển các công trình điện tại Việt Nam. + Có quan hệ hợp tác với trên 100 doanh nghiệp, Công ty, tổ chức trong và ngoài nước để thực thi các dự án phát triển điện lực Việt Nam. - Cung ứng vật tư - điện lực: + Thực hiện các dịch vụ lưu thông vận tải các loại hàng đặc chủng của ngành điện theo yêu cầu của khách hàng. + Quản lý và cung ứng vật tư - thiết bị điện thuộc chương trình phát triển lưới điện 35KV và các chương trình phát triển lưới điện nông thôn bằng nguồn vốn vay nước ngoài. 1.3. Tổ chức bộ máy quản lý và tổ chức công tác kế toán ở Trung tâm 1.3.1. Đặc điểm tổ chức bộ máy quản lý Bộ máy quản lý của Trung tâm được tổ chức theo cơ cấu quản lý trực tuyến chức năng và được thể hiện qua sơ đồ sau : Sơ đồ cơ cấu tổ chức bộ máy của Trung tâm Giám đốc Phòng Tổchức hành chính Phòng Tài chính kế toán Phòng Kế hoạch vật tư Phòng Dự án đấu thầu Phòng Kinh doanh-Tiếp thị Cửa hàng GTSP 1.3.2. Tổ chức công tác kế toán * Trưởng phòng: Phụ trách chung, chịu sự điều hành, chịu trách nhiệm trực tiếp trước giám đốc và pháp luật. Điều hành tổ chức hoạt động tài chính của Trung tâm. * Kế toán bán hàng : Theo dõi hàng hoá nhập xuất tồn, theo dõi thẻ kho chi tiết cho từng loại hàng hoá. Viết hoá đơn bán hàng theo lệnh xuất kho, theo dõi cho đến khi khách hàng nhận đầy đủ hàng hoá, theo dõi đôn đốc thu nợ (nếu có) chi tiết cho từng khách hàng. * Kế toán thanh toán Theo dõi tiền gửi ngân hàng, ngoại tệ : căn cứ chứng từ, hạch toán vào sổ, lưu giữ chứng từ theo trình tự thời gian, cân đối dự báo tình hình về ngoại tệ để báo cáo lãnh đạo. Theo dõi thanh toán các hợp đồng mua bán. * Kế toán quỹ, tiền lương và BHXH Kiểm soát chứng từ thu chi vào sổ quỹ, kiểm quỹ hàng ngày. Cuối tháng, quý, năm lập báo cáo quỹ, tiền lương và BHXH. * Kế toán TSCĐ Hàng tháng tính khấu hao TSCĐ chi tiết cho từng loại tài sản, theo dõi tăng, giảm, theo dõi thẻ kho chi tiết cho từng loại tài sản, vào bảng kê TSCCĐ. * Nhân viên kinh tế của cửa hàng GTSP: Có nhiệm vụ thu nhập chứng từ định kỳ chuyển về phòng TC - KT kiểm tra và ghi sổ kế toán. Có trách nhiệm báo cáo giải trình đầy đủ và trung thực số liệu về phòng để tổng hợp, lập báo cáo. * Kế toán tổng hợp, Thuế : Cuối quý năm căn cứ vào các báo cáo chi tiết của các bộ phận, kiểm soát và lập báo cáo tài chính. Tập hợp các nhật ký chứng từ, bảng kê, lên sổ cái, gửi báo cáo tài chính (theo pháp lệnh kế toán) định kỳ lên các cơ quan chức năng 1.4. Tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của Trung tâm * Về thị trường : Nếu như trong giai đoạn I, thị trường của Trung tâm chủ yếu là Liên Xô cũ và các nước xã hội chủ nghĩa do đặc điểm kinh tế đối ngoại nước ta lúc bấy giờ và thị trường bán của Trung tâm chỉ duy nhất là các đơn vị trong ngành điện Việt Nam thì trong giai đoạn phát triển thứ hai của Trung tâm có sự thay đổi và mở rộng cả thị trường mua lẫn thị trường bán. Về thị trường nhập khẩu, hiện nay Trung tâm đã có quan hệ giao dịch với nhiều bạn hàng nước ngoài ở hầu hết các khu vực trên thế giới như : Trung Quốc, Đài Loan, Anh, Đức. Về thị trường bán cũng có những thay đổi đó là việc Trung tâm mở rộng việc buôn bán kinh doanh với các đơn vị ngoài Công ty sản xuất thiết bị điện. Bên cạnh những việc xác định thị trường Trung tâm là các đơn vị thuộc Công ty sản xuất thiết bị điện, Trung tâm còn mở rộng thị trường bằng việc cung cấp các vật tư thiết bị lưới điện cho các doanh nghiệp trong cả nước. * Về vốn kinh doanh : Hiện nay tỷ trọng vốn lưu động trên tổng số vốn là chủ yếu, chiếm tỷ trọng 70%. Năm 2001, tổng số vốn kinh doanh của Trung tâm đạt 5.065.000.000 đồng trong đó vốn lưu động chiếm 70.68% hàng năm. Vốn kinh doanh của Trung tâm thường xuyên được bổ sung từ hai nguồn vốn chính là vốn tự bổ sung và ngân sách nhà nước, đạt tốc độ tăng trưởng vốn bình quân hàng năm khá cao. Điều nay thể hiện qua bảng số liệu sau : Bảng 2 : Cơ cấu nguồn vốn kinh doanh của Trung tâm TT Năm Vốn cố định BQ Vốn lưu động BQ Tổng vốn KDBQ Lượng vốn (1000đ) Tỷ trọng (%) Lượng vốn (1000đ) Tỷ trọng (%) Lượng vốn (1000đ) Tỷ trọng (%) 1 1999 702.000 17,76 3.250.000 82,24 3.952.000 100 2 2000 881.000 20,75 3.364.000 79,25 4.245.000 100 3 2001 1.485.000 29,32 3.580.000 70,68 5.065.000 100 Nhìn vào Bảng 2, ta thấy quy mô hoạt động sản xuất của Trung tâm ngày càng mở rộng và đạt được hiệu quả. Vốn cố định năm 2001 tăng đáng kể so với năm 2000 = 68,58 % ( tức là 604.000 ngàn đồng) phần tăng này một phần do Trung tâm được ngân sách nhà nước cấp và một phần do Trung tâm vay của ngân hàng. Cũng trong năm 2000 Trung tâm bắt đầu đưa trụ sở mới và sử dụng bước đầu đem lại hiệu quả cho Trung tâm thể hiện tổng vốn kinh doanh của Trung tâm năm 2001 tăng 19% so với năm 2000. Đây có lẽ là bước thuận lợi cho Trung tâm hoạt động sản xuất kinh doanh tốt hơn trong các năm tới. * Về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh : Mặc dầu đứng trước những khó khăn do những cuộc khủng hoảng tài chính khu vực, trên thế giới mà nền kinh tế Việt Nam cũng bị ảnh hưởng, tỷ giá USA tăng cao khiến việc nhập khẩu một số ngành gặp nhiều khó khăn. Có thể nói nguồn đem lại doanh thu lớn hàng năm cho Trung tâm chính là việc xuất nhập khẩu mặt hàng của Trung tâm ra các đối tác nước ngoài mà chủ yếu là các nước Tây Âu và Đông Âu, trong khi giá thành nhập khẩu vật tư, thiết bị phục vụ cho công nghiệp trao đổi bằng ngoại tệ không thay đổi thì giá tiêu thụ tại thị trường lại tăng lên, các khách hàng trong nước khó có khả năng chấp nhận sự thay đổi nay. Mặc dù vậy, bằng sự cố gắng vươn lên, Trung tâm không những duy trì được hoạt động của mình mà còn phát huy hiệu quả tích cực thể hiện ở bảng sau đây: Bảng 3 : Kết quả hoạt động SXKD của Trung tâm từ 1999 - 2001 Chỉ tiêu Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 TH TH/KH % TH 2000/1999 % TH 2001/2000 % Tổng D.Thu (tỷ đ ) 25 139 30 120 32 107 Kim nghạch XNK (Tr USD) 6,1 130 9,1 149 9,2 101 Thu nộp NSNN (tỷ đ) 5,2 137 11 211 6,5 59 Lợi nhuận (tr.đ) 300 128 504 168 704 140 Thu nhập bquân ( đ/ng ) 886.463 110 1.081.661 122 1.116.125 103 II. Thực trạng công tác quản lý chi phí sản xuất kinh doanh và giá thành sản phẩm của Trung tâm một số năm qua 2.1. Những thuận lợi và khó khăn của Trung tâm trong công tác quản lý chi phí Trong công tác quản lý chi phí, cùng với việc tập hợp chi phí theo yếu tố đúng theo quy định chế độ của nhà nước ban hành, Trung tâm luôn luôn tập trung nghiên cứu, tìm tòi để đưa ra các giải pháp cụ thể nhằm giảm thiểu tối đa chi phí trong hoạt động kinh doanh, hạ giá thành sản phẩm. Qua đó giá bán sản phẩm của từng mặt hàng đã hạ mặc dù một số chi phí trong từng mặt hàng vẫn có xu thế tăng lên. Bên cạnh những ưu điểm mà Trung tâm đã đạt được trong công tác quản lý chi phí, Trung tâm vẫn còn những nhược điểm cần được khắc phục. Công tác lập kế hoạch chi phí hoạt động kinh doanh còn sơ sài chưa được coi trọng trong công tác quản lý chi phí, chưa được vận dụng tốt trong công tác quản lý chi phí hoạt động kinh doanh và hạ giá bán sản phẩm. Hàng hoá của Trung tâm chủ yếu là nhập khẩu theo những hợp đồng đã ký kết sẵn, nên Trung tâm chưa thực sự chủ động trong việc xác định chi phí cũng như giá bán của sản phẩm đó. Đối với việc sử dụng các yếu tố của quá trình hoạt động kinh doanh thì việc áp dụng các hình thức thưởng phạt chưa được tốt nên chưa taọ được sự thi đua cạnh tranh nhau trong Trung tâm. Chi phí dịch vụ mua ngoài và chi phí bằng tiền khác còn cao chưa tương ứng với kết quả đem lại. Đánh giá hiệu quả kinh doanh bằng mối quan hệ giữa doanh thu đạt được và chi phí bỏ ra trong quá trình hoạt động kinh doanh Hiệu quả kinh doanh = Doanh thu Chi phí Hiệu quả kinh doanh năm 2000 = 29.893 =1,10 27.215 Hiệu quả kinh doanh năm 2001 = 31.903 =1,07 29.901 Từ kết quả tính toán trên ta thấy hiệu quả kinh doanh năm 2000 là 1,10 tức là một đồng chi phí bỏ ra năm 2000 tạo ra doanh thu lớn hơn một đồng chi phí bỏ ra năm 2001 là 1,10 - 1,07 = 0,03 đồng. Từ đó ta thấy đây cũng là một trong những nhược điểm mà Trung tâm cần khắc phục. 2.2. Khái quát về chi phí sản xuất kinh doanh của Trung tâm Trung tâm thiết bị lưới điện phân phối tập hợp chi phí hoạt động sản xuất kinh doanh theo yếu tố chi phí và được chia ra năm loại: - Yếu tố chi phí nguyên vật liệu - Yếu tố chi phí nhân công - Yếu tố chi phí khấu hao tài sản cố định - Yếu tố chi phí dịch vụ mua ngoài - Yếu tố chi phí bằng tiền khác. Để đánh giá khái quát về thực trạng quản lý chi phí hoạt động kinh doanh của Trung tâm ta đi phân tích đánh giá công tác quản lý chi phí hoạt động kinh doanh của Trung tâm trong hai năm qua ở bảng sau : Bảng 4 : Tập hợp chi phí sản xuất kinh doanh theo yếu tố của Trung tâm thiết bị lưới điện phân phối trong một số năm qua Đơn vị : 1.000 đ Yếu tố chi phí Năm 2000 Năm 2001 Chênh lệch Số tiền TT Số tiền TT Số tiền TT 1. Chi phí NLVL 26.903.155 94,08 28.327.538 92,8 1.424.383 5,29 2. Chi phí NC 442.292 1,16 774.000 2,53 331.708 75 3. Chi phí KHTSCĐ 131.423 0,5 81.213 0,3 50.210 -38,2 4. Chi phí DVMN 526.451 1,84 659.221 2,2 132.770 25 5. Chi phí bằng tiền 593.440 2,1 700.909 2,3 107.469 18 Tổng chi phí 28.596.761 100 30.542.881 100 1.946.120 6,8 * Chi phí nguyên liệu, vật liệu: Chi phí nguyên liệu vật liệu là khoản chi phí cấu thành nên thực thể của sản phẩm. Nhìn vào kết quả tính toán ở bảng trên ta thấy chi phí nguyên liệu vật liệu của Trung tâm chiếm tỷ trọng lón nhất trong tổng chi phí từ 92,7% - 94%. Năm 2001 chi phí nguyên liệu vật liệu đã tăng lên so với năm 2000 với mức tăng 1.424.388 ngàn đồng tương ứng với tỷ lệ tăng 5,29% và chiếm tới 73% trong mức tăng của tổng chi phí. Trên góc độ là một nhà quản lý chi phí, thì chi phí nguyên liệu vật liệu là trọng tâm trong công tác quản lý chi phí của Trung tâm. Việc tiết kiệm khoản chi phí này là nhân tố quyết định việc phấn đấu hạ giá thành của sản phẩm. Nguyên liệu vật liệu ở Trung tâm chính là giá vốn hàng hoá mà Trung tâm nhập khẩu về bao gồm các loại chi phí như : giá mua hàng hoá, thuế nhập khẩu phải nộp, chi phí vận chuyển, chi phí quản lý, bao bì,... Công tác quản lý chi phí nguyên liệu : đối với tất cả các loại nguyên liệu vật liệu Trung tâm nhập khẩu về đều tiến hành nhập kho, khi có khách hàng mua mới xuất kho giá thực tế nguyên liệu vật liệu xuất kho được tính theo đơn giá nguyên liệu vật liệu xuất kho theo giá bình quân nguyên liệu vật liệu xuất kho * Chi phí nhân công : ở Trung tâm thiết bị lưới điện phân phối : chi phí nhân công bao gồm toàn bộ tiền lương và các khoản phụ cấp bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn của nhân viên quản lý. Tiền lương thực tế phải trả cho nhân viên quản lý được căn cứ vào hệ số lương cơ bản của từng cán bộ công nhân viên. Các khoản trích theo lương bao gồm : bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn được tính vào chi phí hoạt động kinh doanh theo đúng chế độ quy định hiện hành của nhà nước. - Bảo hiểm xã hội : 15% tính vào tiền lương cơ bản. - Bảo hiểm y tế : 2% tính vào tiền lương cơ bản. - Kinh phí công đoàn : 2% tính theo tiền lương thực tế. Chi phí nhân công của Trung tâm chiếm một tỷ trọng khá lớn trong tổng chi phí từ 1,6% đến 2,53%. Năm 2001 chi phí nhân công của Trung tâm đã tăng lên so với năm 2000 là 331.708 ngàn đồng với tỷ lệ tăng tương ứng là 75%. Điều này cho thấy trong năm 2001 đời sống cán bộ công nhân viên của Trung tâm đã được cải thiện đáng kể thông qua tổng quỹ lương tăng lên. Trong khi đó tốc độ tăng doanh thu thuần năm 2001 chỉ đạt 7,5%, mà tổng quỹ lương của Trung tâm năm 2001 lại tăng lên 75%. Điều này cho thấy việc tăng quỹ lương của Trung tâm là quá cao so với doanh thu thuần đạt được, chưa phản ánh đúng thực chất hiệu quả kinh doanh mang lại. Nhưng điều này cũng dễ lý giải bởi vì Trung tâm ngoài hoạt động kinh doanh thì còn thực hiện cung cấp hàng cho chương trình 35KV của Tổng công ty điện lực Việt Nam, nên sẽ được trả tiền lương, điều này có thể lý giải tại sao doanh thu thuần chỉ tăng có 7,5%, mà trong khi đó tổng quỹ lương lại tăng lên 75%. * Chi phí khấu hao : Theo kết quả tính toán ở bảng trên ta thấy chi phí khấu hao chiếm một tỷ trọng rất nhỏ trong tổng chi phí, đây cũng là đặc điểm cơ bản của loại hình doanh nghiệp thương mại - dịch vụ. Năm 2001 chi phí khấu hao là 81.213 ngàn đồng giảm 50.210 ngàn đồng so với năm 2000 - tương ứng với tỷ lệ giảm 38,2%. Qua tìm hiểu thực tế năm 2001, Trung tâm đã thanh lý một số tài sản hết thời hạn khấu hao và đánh giá lại tài sản cố định để việc tính khấu hao được chính xác hơn. Nên đã làm chi phí khấu hao tài sản cố định của Trung tâm trong năm 2001 giảm đi so với năm 2000. * Chi phí dịch vụ mua ngoài : Chi phí dịch vụ mua ngoài là khoản chi phí hết sức cần thiết phục vụ cho quá trình hoạt động kinh doanh của Trung tâm bao gồm (điện, điện thoại và các dịch vụ khác....). Qua bảng so sánh cho thấy chi phí dịch vụ mua ngoài của Trung tâm không ngừng tăng lên với mức tăng 132.770 ngàn đồng đạt tỷ lệ tăng 25%, cũng theo số liệu chi tiết của chi phí và số liệu của doanh thu cho thấy thì tốc độ tăng của doanh thu qua so sánh của hai năm 2000 và 2001 tương ứng (tốc độ tăng doanh thu chỉ đạt 6,7% trong khi tốc độ tăng chi phí dịch vụ mua ngoài tăng với 25%, tăng hơn ba lần tốc độ tăng doanh thu). Qua tìm hiểu số liệu thực tế cho thấy chi phí dịch vụ mua ngoài tăng lên chủ yếu tăng ở hai khoản : chi phí giao nhận giám định hàng hoá và chi phí thử nghiệm sản phẩm công tơ điện tử, khoản chi phí này tuỳ theo từng thời điểm cũng như theo từng mặt hàng mà thời điểm đó Trung tâm nhập khẩu, nếu như nhập khẩu chủng loại máy móc nhiều thì các khoản chi phí về giám định, thử nghiệm sản phẩm sẽ tăng lên. * Chi phí bằng tiền khác : Chi phí bằng tiền không phải là khoản chi phí trực tiếp tạo ra sản phẩm hàng hoá như : chi phí tiếp khách, quảng cáo, các loại thuế, công tác phí, văn phòng phí... Tuy nhiên nó cũng là một trong những khoản chi phí tương đối lớn mà doanh nghiệp phải chi ra trong quá trình hoạt động kinh doanh của mình qua bảng 4 cho thấy chi phí bằng tiền năm 2001 tăng 107.469 ngàn đồng đạt tỷ lệ tăng 18%, đem so sánh tỷ lệ tăng doanh thu chỉ đạt 6,7%. Cho thấy tốc độ tăng chi phí bằng tiền lớn hơn hai lần so với mức tăng của doanh thu nguyên nhân làm tăng chi phí bằng tiền là tăng khoản tiền tiếp khách năm 2001 tăng 75.713 ngàn đồng với tỷ lệ tăng 48,6% chiếm tỷ trọng 22,2% tổng chi phí bằng tiền. Vậy cũng như khoản chi phí dịch vụ mua ngoài và các chi phí khác, công tác quản lý chi phí bằng tiền còn yếu kém, chưa tiết kiệm gây lãng phí làm ảnh hưởng tới hoạt động sản xuất kinh doanh của Trung tâm. Năm 2001 doanh thu của Trung tâm là 31.903.333 ngàn đồng tăng 2.009.725 ngàn đồng với tỷ lệ tăng 6,7%. Như vậy tốc độ tăng doanh thu năm 2001 là 6,7% nhỏ hơn tốc độ tăng chi phí là 6,8%, mặc dù chênh lệch giữa tốc độ tăng doanh thu và chi phí là không đáng kể,. Nhưng điều này cho thấy công tác quản lý chi phí hoạt động kinh doanh của Trung tâm chưa tốt. Đây là nguyên nhân chính làm giảm lợi nhuận của Trung tâm trong năm vừa qua. 2.3. Tình hình thực hiện nhiệm vụ hạ giá thành sản phẩm ở Trung tâm ở Trung tâm thiết bị lưới điện phân phối hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá phục vụ cho ngành điện, nên sản phẩm của nó khá đa dạng và phong phú. Từ đó muốn đánh giá chi phí sản xuất kinh doanh của Trung tâm ta đi sâu phân tích nhiệm vụ hạ giá thành của một số sản phẩm có thể so sánh được của Trung tâm: dây thép mạ kẽm, nhôm thỏi. Đây là hai sản phẩm chủ yếu mà Trung tâm nhập thường xuyên nên có thể so sánh được đối với việc đánh giá công tác hạ giá thành sản phẩm. Do việc Trung tâm chưa thực sự coi trọng công tác kế hoạch hoá công tác quản lý chi phí cũng như kế hoạch hạ giá thành của Trung tâm, nên ở đây ta chỉ đi sâu phân tích sự biến động các yếu tố chi phí trong giá thành của hai sản phẩm thực hiện qua hai năm 2000 và 2001. Dựa vào đặc điểm trong việc quản lý giá thành sản phẩm của Trung tâm, để có được những đánh giá đúng thực tế về vấn đề này ta đi phân tích sự biến đổi chi phí trong giá thành đơn vị sản phẩm từ đó phát hiện sự tăng giảm của các yếu tố trong giá thành sản phẩm giúp Trung tâm biết được sẽ khai thác việc giảm giá thành sản phẩm ở yếu tố nào. Đầu tiên ta đi xem xét chi phí của hai sản phẩm tiêu thụ trong hai năm. Bảng 5 : chi phí sản phẩm dây thép mạ kẽm Yếu tố chi phí Năm 2000 Năm 2001 Chênh lệch Số tiền TL (%) TT 1. Chi phí NLVL 629.647 834.974 + 205.327 32,60 93,5 2. Chi phí NC 7.350 8.834 +1.484 20,19 0,67 4. Chi phí DVMN 8.590 10.515 +1.925 22,41 0,87 5. Chi phí bằng tiền 50.299 63.266 +12.967 25,78 5,9 3. Chi phí KHTSCĐ 7.156 5.037 -2.119 -29,61 -0,94 Tổng chi phí 703.042 922.626 219.584 31,23 100 Doanh thu 712.303 869.157 156.854 22,02 Bảng 6 : chi phí sản phẩm nhôm thỏi Yếu tố chi phí Năm 2000 Năm 2001 Chênh lệch Số tiền TL (%) TT 1. Chi phí NLVL 8.046.610 7.521.165 -525.445 -6,53 -93,8 2. Chi phí NC 18.251 20.552 +2.301 +12,61 +0,4 4. Chi phí DVMN 26.392 25.650 -742 -2,81 0,13 5. Chi phí bằng tiền 159.632 121.652 -37.980 -23,79 6,7 3. Chi phí KHTSCĐ 8.174 10.159 1.985 24,28 0,35 Tổng chi phí 8.259.059 7.699.178 -559.881 -6,78 100 Doanh thu 8.292.874 7.732.805 -560.069 -6,7 Qua số liệu tính toán ở hai bảng trên ta thấy được chi phí của hai sản phẩm dây thép mạ kẽm và nhôm thỏi. Đối với sản phẩm dây thép mạ kẽm chi phí sản xuất kinh doanh năm 2001 tăng 219.584 ngàn đồng so với năm 2000 với tỷ lệ tặng 31,23% trong đó chỉ có yếu tố chi phí khấu hao là giảm 2.119 ngàn đồng với tỷ lệ giảm là 29,61% còn lại các yếu tố chi phí khác đều tăng lên. - Chi phí nguyên liệu vật liệu tăng 205.327 ngàn đồng với tỷ lệ tăng 32,60% chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng mức tăng toàn bộ chi phí 93,50%. - Chi phí nhân công tăng 1.484 ngàn đồng với tỷ lệ tăng 20,19% chiếm tỷ trọng 0,67% trong tổng chi phí. - Chi phí dịch vụ mua ngoài tăng 1.925 ngàn đồng với tỷ lệ tăng 22,41% chiếm tỷ trọng 0,87% trong tổng chi phí. - Chi phí bằng tiền khác tăng 12.967 ngàn đồng với tỷ lệ tăng 25,78% chiếm tỷ trọng 5,8% trong tổng chi phí. - Chi phí khấu hao giảm 2.119 ngàn đồng với tỷ lệ giảm 29,61% chiếm tỷ trọng 0,94%. Doanh thu sản phẩm dây thép mạ kẽm năm 2001 cũng tăng hơn so với năm 2000 là 156.854 ngàn đồng với tỷ lệ tăng 22,02%. Trong khi đó tốc độ tăng chi phí 31,23% lớn hơn tốc độ tăng doanh thu. Như vậy ta thấy tốc độ tăng chi phí của sản phẩm dây thép mạ kẽm là chưa hợp lý. Đối với sản phẩm nhôm thỏi thì chỉ có yếu tố chi phí nhân công là tăng lên năm 2001 tăng lên 2.301 ngàn đồng với tỷ lệ tặng 12,61% chiếm tỷ trọng 0,4% trong tổng chi phí. Tổng chi phí năm 2001 giảm so với năm 2000 là 559.881 ngàn đồng với tỷ lệ giảm 6,78%. Trong đó chi phí nguyên liệu vật liệu năm 2001 giảm so với năm 2000 là 525.445 ngàn đồng với tỷ lệ giảm 6,53% chiếm tỉ trọng 93,80% trong tổng chi phí. Chi phí dịch vụ mua ngoài giảm 742 ngàn đồng với tỷ lệ giảm 2,81% chiếm tỉ trọng 0,13%. Chi phí bằng tiền khác giảm 37.980 ngàn đồng với tỷ lệ giảm 23,79% chiếm tỉ trọng 6,7% tổng chi phí. Chi phí khấu hao giảm 1.985 ngàn đồng tương ứng với tỷ lệ giảm 24,28% chiếm 0,35% tổng chi phí. Doanh thu năm 2001 giảm hơn so với năm 2000 là 560.069 ngàn đồng tương ứng với tỷ lệ giảm 6,7%. Trong khi đó tốc độ giảm của chi phí 6,78% thì tốc độ giảm doanh thu là 6,7%. Như vậy việc giảm chi phí của sản phẩm nhôm thỏi có thể coi như là hợp lý. Nhìn vào kết quả phân tích chi phí trên đây thì ta mới chỉ nhận biết được một cách tổng quát các yếu tố chi phí và doanh thu. Như vậy, ta chưa thể đánh giá một cách chính xác công tác quản lý chi phí hoạt động kinh doanh và hạ giá thành sản phẩm của Trung tâm tăng hay giảm và hợp lý hay không hợp lý vậy chúng ta đi sâu phân tích giá thành đơn vị sản phẩm, từ đó xem xét sự biến động của các khoản mục trong giá thành sản phẩm. Căn cứ vào đặc điểm của công tác quản lý giá thành sản phẩm của Trung tâm, để có được đánh giá đúng đắn về vấn đề này ta dùng phương pháp phân tích sự biến đổi chi phí trong giá thành đơn vị sản phẩm từ đó phát hiện được các chi phí làm tăng, giảm giá thành sản phẩm giúp Trung tâm biết được khai thác khả năng giảm giá thành ở khoản mục chi phí nào. Vì công tác kế hoạch giá thành ở Trung tâm chưa thực sự được chú trọng cho nên ở đây có thể thấy rõ được sự biến động các khoản mục chi phí trong giá thành sản phẩm được thực hiện qua hai năm 2000 và 2001. Bảng 7 : Giá thành đơn vị dây thép mạ kẽm Đơn vị 1000đ Yếu tố chi phí Năm 2000 Năm 2001 Chênh lệch Số tiền TL (%) 1. Chi phí NLVLTT 8.061 8.235 174 2,15 2. Chi phí NCTT 93 86 -7 -7,5 4. Chi phí SXC 745 723 -22 2,95 Giá thành 8.899 9.044 145 1,63 Bảng 8 : Giá thành đơn vị sản phẩm nhôm thỏi Đơn vị 1000đ Yếu tố chi phí Năm 2000 Năm 2001 Chênh lệch Số tiền TL (%) 1. Chi phí NLVLTT 13.053 13.003 -50 0,38 2. Chi phí NCTT 32 33 1 3,1 4. Chi phí SXC 254 301 47 18,5 Giá thành 13.339 13.337 -2 0,014 Qua số liệu của hai bảng tính giá thành đơn vị sản phẩm dây thép mạ kẽm và nhôm thỏi có thể thấy rằng giá thành của sản phẩm dây thép mạ kẽm tăng, còn giá thành sản phẩm nhôm thỏi thì đã giảm song mức giảm không đáng kể. Năm 2001 giá thành đơn vị sản phẩm dây thép mạ kẽm 9.044 ngàn đồng/1tấn sản phẩm so với giá thành đơn vị sản phẩm năm 2000 là 8.899 ngàn đồng/1 tấn sản phẩm thì đã tăng 145 ngàn đồng/1 tấn sản phẩm với tỷ lệ tăng tương đối là 1,63%. Còn với sản phẩm nhôm thỏi năm 2001 giá thành sản phẩm đã giảm được 2 ngàn đồng/tấn sản phẩm với tỷ lệ giảm tương đối là 0,014%. Cũng qua hai bảng 7 và 8 ở trên ta thấy rằng: sự tăng giảm của từng mục chi phí đã tổng hợp nên mức hạ của giá thành sản phẩm. Đối với sản phẩm dây thép mạ kẽm chi phí nhân công trực tiếp và chi phí sản chung đã giảm cụ thể : Chi phí nhân công trực tiếp giảm 7 ngàn đồng/1 tấn sản phẩm với tỷ lệ giảm tương đối 7,5%. Chi phí sản xuất chung trực tiếp giảm 22 ngàn đồng/1 tấn sản phẩm với tỷ lệ giảm tương đối 2,95%. Song khoản mục chi phí nguyên vật liệu lại tăng lên hơn mức hạ của các khoản mục trong giá thành, làm giá thành sản phẩm vẫn tăng lên. Còn sản phẩm nhôm thỏi chi phí nguyên vật liệu trực tiếp giảm còn chi phí nhân công trực tiếp và chi phí sản xuất chung lại tăng lên cụ thể: Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp giảm 50 ngàn đồng/1 tấn sản phẩm với tỷ lệ giảm tương đối 0,38%. Chi phí nhân công trực tiếp tăng 1 ngàn đồng/1 tấn sản phẩm với tỷ lệ tăng tương ứng 3,1%. Chi phí sản xuất chung tăng 47 ngàn đồng/1 tấn sản phẩm với tỷ lệ 18,5%. Để đánh giá được mức độ ảnh hưởng của từng khoản mục chi phí tới giá thành sản phẩm cũng như công tác quản lý các khoản mục chi phí đó của Trung tâm, ta tiến hành phân tích từng khoản mục chi phí trong giá thành. * Khoản mục chi phí nguyên liệu vật liệu trực tiếp trong giá thành đơn vị sản phẩm Dây thép mạ kẽm được Trung tâm nhập khẩu từ Hàn Quốc nó là vật liệu phụ cho việc sản xuất dây điện cao thế. Tác dụng của nó không phải là dẫn điện mà là chịu lực. Khoản mục nguyên liệu vật liệu trực tiếp trong sản phẩm dây thép mạ kẽm năm 2001 tăng 174 ngàn đồng/1 tấn sản phẩm với tỷ lệ tăng 2,15% so với năm 2000. Chi phí nguyên liệu vật liệu chiếm tỷ trọng chủ yếu trong kết cấu của giá thành sản phẩm nên việc thay đổi khoản mục này có tác động tích cực đến giá thành đơn vị của sản phẩm. Năm 2001 chi phí nguyên liệu vật liệu trực tiếp tăng hơn năm 2000 là do giá cả trên thị trường có sự biến động hàng hoá nhập khẩu cập cảng quá xa nơi bán làm cho giá cả nguyên liệu vật liệu Trung tâm nhập về tăng cao. Còn đối với sản phẩm nhôm thỏi yếu tố chi phí nguyên liệu vật liệu trực tiếp năm 2001 giảm so với năm 2000 là 50 ngàn đồng/1 tấn sản phẩm với tỷ lệ giảm 0,38%. Sản phẩm nhôm thỏi Trung tâm nhập khẩu từ nước Nga do trong năm 2000 nước Nga có sự biến động về thị trường, tỷ lệ lạm phát, tỷ lệ quy đổi USD cao, nhưng sang năm 2001 thị trường nước Nga dần trở lại bình ổn lạm phát giảm, giá cả trở lại bình thường. * Khoản mục chi phí nhân công trực tiếp trong giá thành đơn vị sản phẩm : Năm 2001 chi phí nhân công tính cho một tấn sản phẩm dây thép mạ kẽm là 86 ngàn đồng, năm 2000 chi phí nhân công 93 ngàn đồng trên một tấn sản phẩm. Như vậy chi phí nhân công năm 2001 giảm 7 ngàn đồng trên một tấn sản phẩm với tỷ lệ giảm 7,5%. Đối với sản phẩm nhôm thỏi yếu tố chi phí nhân công năm 2001 so với năm 2000 tăng lên 1 ngàn đồng trên một tấn sản phẩm với tỷ lệ tăng 3,1%. Yếu tố chi phí nhân công là một khoản chi phí chiếm tỷ trọng khá lớn trong giá thành sản phẩm của Trung tâm. Qua nghiên cứu thực tế các khoản trích nộp theo lương được Trung tâm thực hiện theo đúng chế độ quy định của nhà nước, xem xét số liệu trên sổ kế toán cho thấy tổng quỹ lương năm 2001 đã tăng lên, thu thập bình quân đầu người tăng lên đời sống cán bộ công nhân viên đã được cải thiện. Như vậy có thể kết luận việc quản lý yếu tố chi phí nhân công trong giá thành sản phẩm của Trung tâm tương đối tốt, tăng năng suất lao động nhằm giảm yếu tố chi phí nhân công trên một đơn vị sản phẩm. * Khoản mục chi phí sản xuất chung trong giá thành đơn vị sản phẩm : Khoản mục chi phí sản xuất chung trong giá thành đơn vị sản phẩm dây thép mạ kẽm giảm còn trong giá thành đơn vị sản phẩm nhôm thỏi lại tăng lên cụ thể: Sản phẩm dây thép mã kẽm chi phí sản xuất chung năm 2001 là 723 ngàn đồng/`1 tấn sản phẩm còn năm 2000 là 745 ngàn đồng/1 tấn sản phẩm. Như vậy năm 2001 đã giảm được 22 ngàn động/1 tấn sản phẩm với tỷ lệ giảm tương đối 2,95%. Còn sản phẩm nhôm thỏi chi phí sản xuất chung năm 2001 là 301 ngàn đồng/1 tấn sản phẩm và năm 2000 là 254 ngàn đồng/1 tấn sản phẩm. Như vậy năm 2001 đã tăng lên 47 ngàn đồng/1 tấn sản phẩm với tỷ lệ tăng tương đối là 18,5%. Khoản chi phí sản xuất chung bao gồm nhiều khoản mục như chi phí khấu hao tài sản cố định, chi phí nguyên liệu vật liệu, tiền lương nhân viên phân xưởng... Đây là khoản chi phí chiếm tỷ trọng khá lớn trong giá thành sản phẩm. Vậy quản lý sao cho chi phí này giảm trong giá thành sản phẩm đòi hỏi Trung tâm phải quan tâm nhiều vấn đề, tức là phải qua tâm tới các khoản mục chi tiết trong chi phí sản xuất chung. Có thể thấy rõ sự biến động cho chi phí sản xuất chung trong giá thành đơn vị sản phẩm qua số liệu ở bảng sau: Bảng 9 : Bảng chi tiết khoản mục chi phí sản xuất chung trong đơn vị sản phẩm dây thép mạ kẽm Đơn vị 1000đ Chi tiết khoản mục chi phí trong chi phí sản xuất chung Năm 2000 Năm 2001 Tăng giảm chi phí - Chi phí tiền lương 183 189 +6 - Chi phí khấu hao tài sản cố định 86 52 -34 - Chi phí nguyên liệu vật liệu 43 48 +5 - Chi phí dịch vụ mua ngoài và bằng tiền khác 433 434 +1 Tổng chi phí sản xuất chung 745 723 -22 Bảng 10 : Bảng chi tiết khoản mục chi phí sản xuất chung trong đơn vị sản phẩm nhôm thỏi Đơn vị 1000đ Chi tiết khoản mục chi phí trong chi phí sản xuất chung Năm 2000 Năm 2001 Tăng giảm chi phí - Chi phí tiền lương 57 72 15 - Chi phí khấu hao tài sản cố định 43 39 -4 - Chi phí nguyên liệu vật liệu 33 42 +9 - Chi phí dịch vụ mua ngoài và bằng tiền khác 121 148 +27 Tổng chi phí sản xuất chung 254 301 +47 Từ số liệu ở bảng 9 và 10 ở trên ta thấy : chi phí sản xuất chung tính cho một đơn vị sản phẩm dây thép mạ kẽm giảm đi so với năm 2000 là do sự giảm đi của chi phí khấu hao tài sản cố định. Chi phí sản xuất chung tính cho một đơn vị sản phẩm nhôm thỏi tăng so với năm 2000 là do tăng chi phí tiền lương. Chi phí khấu hao tài sản cố định tính cho một đơn vị sản phẩm dây thép mạ kẽm là giảm đi 34 ngàn đồng/1 tấn sản phẩm, còn sản phẩm nhôm thỏi chi phí này giảm đi 4 ngàn đồng/1 tấn sản phẩm. Con số này chứng tỏ ở Trung tâm, việc trang bị tài sản cố định mới và việc sử dụng tài sản cố định được chú trọng. Năm 2001, Trung tâm trang bị thêm tài sản cố định và thanh lý một số tài sản cố định sử dụng kém hiệu qủa và cũng đã đánh giá lại toàn bộ tài sản cố định của Trung tâm cùng với ý thức gìn giữ của cán bộ công nhân viên tốt đã làm cho khấu hao tài sản cố định của Trung tâm giảm đi. Tuy nhiên chi phí sản xuất chung vẫn còn tăng lên ở các khoản mục chi phí so với năm 2000 như : Chi phí tiền lương cho nhân viên phân xưởng của sản phẩm dây thép mạ kẽm tăng 6 ngàn đồng, sản phẩm nhôm thỏi tăng 15 ngàn đồng. Chi phí nguyên liệu vật liệu của sản phẩm dây thép mạ kẽm tăng 5 ngàn đồng, còn sản phẩm nhôm thỏi tăng 9 ngàn đồng. Do vậy Trung tâm cần phải tìm hiểu rõ nguyên nhân làm tăng các khoản chi phí này, để có biện pháp quản lý thích hợp hơn. Đóng góp lớn vào việc tăng chi phí sản xuất chung là khoản tăng về chi phí dịch vụ mua ngoài và chi phí bằng tiền khác. Sản phẩm dây thép mạ kẽm chi phí dịch vụ mua ngoài và chi phí bằng tiền khác năm 2001 tăng lên 1 ngàn đồng và sản phẩm nhôm thỏi tăng 27 ngàn đồng. Trung tâm cần xem xét lại khoản mục chi phí này trong giá thành sản phẩm, nếu như chi phí dịch vụ mua ngoài tăng ở các khoản như chi phí tiếp khách, chi phí điện, nước, chi phí thử nghiệm sản phẩm thì Trung tâm cần có biện pháp khắc phục nhằm góp phần tăng lợi nhuận cho Trung tâm. chương III Một số ý kiến về tăng cường quản lý chi phí sản xuất kinh doanh và giá thành sản phẩm ở Trung tâm thiết bị lưới điện phân phối - công ty sản xuất thiết bị điện Những ưu điểm và nhược điểm trong công tác quản lý chi phí và giá thành sản phẩm * Ưu điểm : Nhìn chung công tác quản lý chi phí và giá thành sản phẩm ở Trung tâm là tương đối và hợp lý. Trong công tác tập hợp chi phí Trung tâm đã xác định đối tượng tập hợp chi phí theo toàn doanh nghiệp. Theo cách tập hợp này công tác tập hợp chi phí đơn giản, dễ làm, phục vụ kịp thời cho công việc tính giá thành. Từ đó dùng phương pháp hợp lý để tính toán giá thành sản phẩm, thực hiện tốt chiến lược hạ giá thành mà vẫn đảm bảo có lợi nhuận. Trung tâm đã từng bước mở rộng mạng lưới tiêu thụ sản phẩm, cũng như việc tìm kiếm những đối tác mới trong việc nhập khẩu hàng hoá sao cho hàng có chất lượng cao hơn mà giá thành lại hạ. Trung tâm đã xây dựng nhiều chính sách ưu đãi với khách hàng, góp phần tăng doanh thu và lợi nhuận cho Trung tâm. Với sự nỗ lực cố gắng của tất cả tập thể cán bộ công nhân viên trong Trung tâm, nên đã đạt được một số thành tích cụ thể nhưng xét trên góc độ thực tế thì giá thành sản phẩm của Trung tâm vẫn chưa giảm. Do đó trong công tác quản lý chi phí hoạt động kinh doanh vẫn còn những tồn tại mà Trung tâm cần phải được khắc phục. * Nhược điểm : - Công tác lập kế hoạch chi phí hoạt động kinh doanh và giá thành sản phẩm chưa được coi trọng nên việc đánh giá, cũng như định giá sản phẩm còn nhiều hạn chế. Từ đó dẫn đến việc kiểm soát sự tăng giảm của chi phí rất khó khăn. - Trung tâm là một doanh nghiệp hoạt động trong ngành thương mại dịch vụ, nên chi phí bán hàng chiếm tỷ trọng rất lớn trong tổng chi phí của Trung tâm. Nhưng Trung tâm lại tính chung vào chi phí quản lý doanh nghiệp nên không biết được chi phí bán hàng là bao nhiêu, từ đó làm cho giá thành sản phẩm tăng lên. - Trong yếu tố chi phí quản lý doanh nghiệp chi phí tiền lương trả cho nhân viên quản lý bao gồm cả tiền ăn trưa (theo quy định tiền ăn trưa là khoản phụ cấp trích theo lương) hoặc được trích từ quỹ phúc lợi của Trung tâm. Do vậy không được tính vào chi phí quản lý doanh nghiệp làm tăng giá thành sản phẩm. - Kế hoạch giá thành của Trung tâm còn sơ sài, do đó việc đánh giá, phân tích và xác định trọng tâm của công tác quản lý để tiết kiệm chi phí và hạ giá thành còn nhiều khó khăn. Kế hoạch giá thành là trọng tâm của công tác quản lý, vì thế phát huy tốt vai trò của kế hoạch giá thành sẽ làm cho công tác quản lý đem lại hiệu quả tốt hơn Trong điều kiện nền kỹ thuật thị trường hiện nay, mục tiêu tồn tại của mỗi doanh nghiệp là các hoạt động sản xuất kinh doanh phải tạo ra thu nhập từ tiêu thụ sản phẩm hàng hoá, dịch vụ đủ bù đắp chi phí đã bỏ ra có tích luỹ để tiếp tục quá trình tái sản xuất và tái sản xuất mở rộng. Sự phát triển tất yếu này đòi hỏi các doanh nghiệp phải phấn đấu nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp mình tức là phải chú ý tới việc ngày càng nâng cao kết quả hoạt động kinh doanh và giảm chi phí bỏ ra. Là sinh viên thực tập tại Trung tâm thiết bị lưới điện phân phối Hà Nội, em xin mạnh dạn đưa ra một vài ý kiến nhỏ hy vòng góp phần hoàn thiện hơn công tác quản lý chi phí hoạt động kinh doanh và giá thành sản phẩm ở Trung tâm. Thứ nhất : Chú trọng hơn tới công tác kế hoạch hoá chi phí hoạt động kinh doanh và hạ giá thành sản phẩm Lập kế hoạch chi phí hoạt động kinh doanh chính là việc tính toán trước mọi chi phí mà Trung tâm dự chi trong kế hoạch để phục vụ cho hoạt động kinh doanh và tiêu thụ sản phẩm. Còn việc lập kế hoạch giá thành là việc xác định toàn bộ các khoản chi phí mà Trung tâm sẽ chi ra để có sản phẩm đó và tiêu thụ một đơn vị sản phẩm hoặc một loại sản phẩm của Trung tâm trong năm kế hoạch. Lập chi phí hoạt động kinh doanh và giá thành sản phẩm sẽ giúp Trung tâm có mục tiêu để phấn đấu, có cơ sở để tìm tòi và khai thác mọi khả năng tiềm tàng trong hoạt động kinh doanh nhằm tiết kiệm chi phí và tăng lợi nhuận cho mình. ở Trung tâm, công tác lập kế hoạch chi phí hoạt động kinh doanh và giá thành sản phẩm chưa được coi trọng. Vì thế nó chưa thực sự phát huy được chức năng quản lý chi phí. Theo em Trung tâm cần quan tâm hơn tới công tác này để ngày càng hoàn thiện hơn công việc quản lý chi phí và giá bán sản phẩm của Trung tâm. Căn cứ để lập kế hoạch giá thành : - Căn cứ vào giá thành thực tế năm trước : căn cứ vào chi phí thực tế phát sinh tính vào giá thành sản phẩm năm trước để phân tích, đánh giá sự tăng, giảm của từng nhân tố, xác định những nguyên nhân và đưa ra những giải pháp nhằm tính toán các yếu tố chi phí cho giá thành kế hoạch kỳ tới được chính xác. - Căn cứ vào sự biến động của giá cả thị trường : hàng kỳ căn cứ vào chi phí bỏ ra và giá cả của các loại hàng hoá để tính toán chi phí trực tiếp trong giá bán của sản phẩm kỳ kế hoạch. - Căn cứ vào khối lượng sản phẩm tiêu thụ : đây là căn cứ rất quan trọng để lập kế hoạch giá thành. Giá bán của sản phẩm cũng như tổng chi phí phụ thuộc nhiều vào số lượng sản phẩm tiêu thụ trong năm. Nếu số lượng sản phẩm tiêu thụ trong năm tăng thì doanh thu sẽ tăng và ngược lại. - Căn cứ vào hình thức tổ chức quản lý : tình hình tổ chức, xắp xếp bố trí cán bộ quản lý và sự tăng hay giảm cán bộ quản lý cũng là căn cứ để Trung tâm tính chi phí gián tiếp vào giá bán đơn vị sản phẩm : ra quyết định về hưu, mất sức với CBCNV già, yếu hoặc chưa đủ tuổi nhưng là việc kém hiệu quả, giảm biên chế cán bộ phòng ban, cuối năm khen thưởng cho CBCNV trẻ, làm việc nhiệt tình từ 01 tháng lương /Năm. Thứ hai : Tiết kiệm tối đa các chi phí dịch vụ mua ngoài và chi phí bằng tiền khác. Chi phí dịch vụ mua ngoài của Trung tâm bao gồm nhiều khoản trong đó chủ yếu là chi phí vận chuyển, thử nghiệm sản phẩm, thông tin liên lạc, thuế, phí lệ phí và các khoản phải nộp cho ngân sách nhà nước... Các khoản chi phí này rất dễ bị lãng phí và bị sử dụng thiếu ý thức tiết kiệm. - Giảm chi phí vận chuyển từ cảng về kho Trung tâm bằng cách liên kết với DNo khác có nhu cầu vận chuyển đến Cảng, Trung tâm vận chuyển hàng về kho còn DNo bạn chở hàng ra Cảng, như vậy, giảm được chi phí thuê phương tiện vận tải. - Bảng 5 – Năm 2002, có thể giảm Chi phí Dây thép mạ kẽm tăng hơn so với doanh thu bằng cách giảm chi phí dịch vụ mua ngoài, chi phí khác bằng tiền : nên ký Hợp đồng vận chuyển nguyên tắc cả năm với một đơn vị dịch vụ cố định nhằm tiết kiệm chi phí Xăng dầu, sửa chữa, chi phí bốc xếp, vận chuyển chuyến lẻ... - Xử lý nhanh lượng hàng tồn kho : tận dụng lượng vật tư hàng hoá tồn thuộc Ctr35KV có thể dùng để sản xuất, thúc đẩy quá trình thanh lý lượng hàng này có thông báo rộng rãi trên nhiều phương tiện thông tin đại chúng để các DNo, cá nhân được biết, từ đó giảm được chi phí bảo quản, tránh ứ đọng vốn, giảm sút chất lượng hàng hoá gây ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh, tránh thất thu cho NSNN. Thứ ba : Xây dựng định mức chi tiêu, đề ra các biện pháp tiết kiệm chi phí hành chính. Như đã trình bày ở trên chi phí quản lý doanh nghiệp ở Trung tâm tăng khá cao trong đó chủ yếu là chi phí hành chính. Đó là các khoản chi tiếp khách, giao dịch, đối ngoại, chi phí về mua sắm đồ dùng văn phòng, báo chí... Trong điều kiện Trung tâm ngày càng mở rộng hoạt động kinh doanh và quan hệ với các đối tác kinh doanh, các khoản chi này tăng lên là một tất yếu khách quan. Song cũng như chi phí dịch vụ mua ngoài, chi phí này rất dễ bị rơi vào tình trạng tuỳ tiện và lãng phí bất hợp lý . - Căn cứ vào kế hoạch kinh doanh năm nay và năm tới để tự đề ra định mức từng khoản mục chi phí trên doanh thu bán hàng đạt được : chẳng hạn, nên phân loại rõ khoản mục chi tiếp khách ra làm các khoản nhỏ như : Chi tiếp khách nước ngoài, DNo liên doanh, liên kết, cấp trên, tổng công ty, các cơ quan Bộ...từ đó, so sánh được với năm trước mà có quyết định chi hợp lý. - Ban hành nội quy sử dụng thiết bị văn phòng, nâng cao hơn ý thức tiết kiệm cho cán bộ công nhân viên trong quá trình sử dụng hệ thống chiếu sáng để tránh hao tổn điện năng, báo cho bưu điện cắt toàn bộ liên lạc điện thoại đường dài chỉ để lại 01 máy thật cần thiết vì khách hàng của đơn vị chủ yếu trong ngành điện mà doanh nghiệp đã có Sổ điện thoại liên lạc ngành điện riêng rất thuận tiện..... Thứ tư : Trung tâm nên tách chi phí bán hàng ra khỏi chi phí quản lý doanh nghiệp Trung tâm là một doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực thương mại dịch vụ nên khoản chi phí bán hàng tương đối lớn, muốn quản lý tốt khoản chi phí này em đề nghị Trung tâm nên tập hợp chi phí bán hàng riêng, không nên tập hợp chung vào cùng với chi phí quản lý. Theo em làm như vậy Trung tâm không biết rõ được chi phí bán hàng tăng bao nhiêu và tăng ở những khoản mục nào, nên khó khăn trong việc quản lý chi phí được chính xác. Khi tách chi phí bán hàng ra khỏi chi phí quản lý doanh nghiệp thì Trung tâm quản lý tốt được cả hai khoản chi phí này, có như vậy thì Trung tâm mới biết được cả hai khoản chi phí này tăng bao nhiêu và tăng ở những khoản mục nào để kịp thời có biện pháp xử lý thích hợp nhằm giảm chi phí tăng lợi nhuận cho Trung tâm. Thứ năm : Thường xuyên bồi dưỡng, nâng cao tay nghề cho đội ngũ CBCNV nhằm tiết kiệm thời gian, chi phí, sử dụng MMTB có hiệu quả hơn. Yếu tố con người tại một DNo vô cùng quan trọng, hàng năm, Trung tâm nên tổ chức cho CBCNV học tập tại chỗ về PCCC, mời giảng viên bổ sung kiến thức tin học cho mọi người, cử cán bộ theo học các lớp nâng cao về quản trị kinh doanh, sản xuất, bán hàng...cả ở trong nước và nước ngoài. Đặc biệt, Trung tâm nên cử cán bộ nghiên cứu, tìm hiểu về Hệ thống quản lý chất lượng ISO 9000, dần dần áp dụng, thực hiện rồi xin cấp chứng chỉ nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, theo kịp với xu thế của thị trường trên thế giới. Kết luận Thời gian thực tập tại Trung tâm thiết bị lưới điện phân phối đã thực sự giúp Em rất nhiều trong công việc củng cố kiến thức đã được học và việc vận dụng lý thuyết vào thực tế. Qua đó Em càng nhận thức rõ về tầm quan trọng của chi phí sản xuất kinh doanh và việc quản lý chi phí sản xuất kinh doanh ở các doanh nghiệp hiện nay. Nhờ sự hướng dẫn tận tình của TS. Trần Công Bảy, sự chỉ bảo giúp đỡ của lãnh đạo Trung tâm đặc biệt là Phòng Tài chính kế toán, trên cơ sở những số liệu thu thập được kết hợp với kiến thức đã học, Em đã hoàn thành luận văn này. Tuy đã cố gắng rất nhiều nhưng vì điều kiện còn hạn chế nên luận văn chắc chắn không tránh khỏi sai sót trong nhận thức về chi phí và giá thành vốn là vấn đề rất phức tạp và sinh động. Vì vậy, Em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của cán bộ công nhân viên Trung tâm, các thầy cô giáo và bạn bè. Một lần nữa Em xin chân thành cảm ơn sự quan tâm của TS Trần Công Bảy, Ban lãnh đạo cùng toàn bộ cán bộ công nhân viên tại Trung tâm thiết bị lưới điện phân phối đã giúp Em hoàn thành luận văn này.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc4498.doc
Tài liệu liên quan