Đề tài Chiến lược và giải pháp phát triển nguồn nhân lực của nước ta

Thực hiện tín dụng ưu đãi để người nghèo có tiền học nghề, tham gia và xuất khẩu lao động, cải cách thủ tục hành chính rườm rà ảnh hưởng đến xuất khẩu lao động, tiến tới xuất khẩu lao động có chuyên môn kỹ thuật, xuất khẩu chuyên gia. Tăng cường công tác thông tin dịch vụ lao động, phát triển thị trường sức lao động. Các trung tâm dịch vụ việc làm không chỉ có chức năng môi giới tạo việc làm, cung cấp nhân lực cho cơ sở sử dụng lao động, mà phải trở thành trung tâm nghiên cứu,điều tra tình hình cầu lao động, làm cầu nối giữa đào tạo với sử dụng lao động, giữa cung - cầu lao động ở các thành phần kinh tế, tạo ra sự phối hợp nhịp nhàng, ăn khớp về cung - cầu lao động.

doc35 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1538 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Chiến lược và giải pháp phát triển nguồn nhân lực của nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nh như sau: - Dưới 5000 dân: 12 cán bộ. - Từ 5000 dân đến dưới 10000 dân : 14 cán bộ. - Từ 10000 dân đến 15000 dân :16 cán bộ. - Từ 15000 dân đến 20000 dân :18 cán bộ. - Từ 20000 dân trở lên tối đa không quá 20 cán bộ. Từ số cán bộ làm công tác đoàn thể, số cán bộ chính quyền cơ sở gồm chủ tịch uỷ ban nhân dân, phó chủ tịch uỷ ban nhân dân và các thành viên của uỷ ban dao động từ khoảng 7 đến 13 người tuỳ theo từng loại xã. Đến Nghị định 09/1998/NĐ-CP ban hành ngày 23-1-1998 số lượng cán bộ chính quyền cơ sở loại xã sau đây được ấn định như sau : - Dưới 10000 dân :17-19 cán bộ. - Từ 10000 đến 20000 dân: 19-21 cán bộ. - Trên 20000 dân cứ thêm 3000 dân thêm 1 cán bộ, tối đa không quá 25 cán bộ. Như vậy, nếu trừ số cán bộ làm công tác đoàn thể, số lượng cán bộ làm công tác chính quyền cơ sở đã tăng lên ở từng loại xã từ 3 đến 5 người và nếu lấy bình quân mỗi xã có khoảng 20 cán bộ, thì tổng số cán bộ chính quyền cơ sở trong cả nước sẽ vào khoảng trên dưới 150.000 người. So với đội ngũ công chức hành chính trong cả nước từ cấp huyện lên trung ương hiện có khoảng trên dưới 200.000 người, thì đội ngũ cán bộ làm công tác chính quyền cơ sở không phải là nhỏ. Ngoài số đó ra còn có khoảng 200.000 là đại biểu hội đồng dân cư, những người đang được chính quyền cơ sở trao những quyền hạn nhất định về mặt chính quyền, hợp thành một đội ngũ cán bộ đông đảo ở cơ sở và trong toàn quốc. So với các nước trong khu vực, quy mô dân số Việt Nam cùng với Philippin và Thái Lan ở vào khoảng trung bình. Nhưng nếu so sánh với thế giới thì về quy mô dân số, Việt Nam đứng thứ 13, còn trong ASEAN, Việt Nam xếp thứ hai, chỉ sau Inđônêxia. điều đó được thể hiện qua bảng sau: Một số chỉ tiêu về dân số và lao động của các nước ASEAN Nước Dânsố 1994 (Triệu người) Tỷ lệ tăng dân số(%) Lực lượng lao động 1960-1992 1992-2000 1994 (triệu người) % tăng giai đoạn 90-94 % trong dân số Brunây 0,284 3,8 2,1 0,112 --- Inđônêxia 192,2 2,2 1,7 81,2 1,1 43 Malaixia 19,5 2,6 2,1 7,85 2,8 38 Philippin 68,6 2,7 2,0 27,48 3,0 56 Thái Lan 59,4 2,4 1,1 32,84 1,1 56 Việt Nam 72,5 2,2 2,1 33,7 2,8 49 Xingapo 2,93 1,7 1,7 1,69 2,9 56 Nguồn: - Chỉ tiêu và chỉ số phát triển con người,Nxb Thống kê, Hà Nội, 1995. Xem bảng trên ta thấy dân số trong toàn khối giai đoạn 1960-1992 còn khá cao, trừ Xingapo có tỷ lệ là 1,7% và trải qua thời kỳ chuyển tiếp dân số. Trong giai đoạn 1992-2000, có thêm Inđônêxia và Thái Lan giảm được tỷ lệ tăng dân số. Riêng Việt Nam luôn nằm ở nhóm có tỷ lệ gia tăng dân số cao trong khu vực: 2,2% trong giai đoạn 1992-2000. điều này dẫn đến sự gia tăng lực lượng lao động trong những năm 90 còn cao ở phần lớn các nước trong khối: Malaixia là 2,8%; Philippin là 3%; Việt Nam là 2,8%; Xingapo là 2,9%. Với tốc độ tăng dân số nhanh và còn được duy trì như vậy, tỷ lệ gia tăng lực lượng lao động của Việt Nam trong cả giai đoạn 1960-1992 và tiếp theo cho đến nay là điều khó tránh khỏi. Năm 1986, Việt Nam mới có 30,3 triệu người trong độ tuổi lao động thì đến năm 1995 đã tăng đến 40,2 triệu người, bình quân mỗi năm tăng khoảng một triệu người, tức là khoảng 3,22%. Ngoài ra còn phải kể đến số người ngoài độ tuỏi lao động nhưng thực tế có làm việc cũng tăng lên, tạo thành một nguần cung cấp về lao động khá dồi dào: cuối năm 1995 có 3,7 triệu người, trong đó có 1,3-1,4 triệu trẻ em (nguần: kim Ngọc Cương, ''phân tích và dự báo thị trường lao động ở nước ta'', Bộ kế hoạch và đầu tư, tạp chí kinh tế và dự báo, số 5/1997, tr.19). Đối với Việt Nam, ngoài hai yếu tố về số người trong và ngoài độ tuổi lao động kể trên, còn có thể tính đến một số yếu tố mang tính chất biến động cơ học làm tăng nguần lao động của Việt Nam hiện nay như: số bộ đội giải ngũ; số lao động đi làm ở các nước Đông Âu, Trung Đông trở về; số người tỵ nạn ở Thái Lan, Hồng Kông, Malaixia, Việt kiều ở Campuchia hồi hương… Như vậy, Việt Nam có nguồn nhân lực dồi dào và thường xuyên được bổ sung bằng đội ngũ lao động trẻ, hùng hâụ, tạo nên một trong những ưu thế cho Việt Nam trong việc tham gia và hoà nhập vào nền kinh tế khu vực va thế giới. Quy mô nguồn nhân lực qua đào tạo cuả Việt Nam và việc sử dụng nguồn nhân lực này. Việt Nam tuy có lực lượng lao động dồi dào nhưng lực lượng lao động đã qua đào tạo thực tế lại thiếu. đó là mâu thuẫn về quy mô của nguồn nhân lực nước ta, chúng ta vừa thừa vừa thiếu nguồn nhân lực. Hiện nay đội ngũ cán bộ, công chức trong các cơ quan quản lý nhà nước thuộc các bộ, các ngành ở các cơ quan trung ương có 129763 người, trong đó có 74% công chức có trình độ từ đại học trở lên. Khi nói đến nguồn nhân lực của một quốc gia thường người ta hay quan tâm đến số lượng học sinh, sinh viên được đào tạo hàng năm ở các trường trung học chuyên nghiệp, trường công nhân kỹ thuật, các trường đại học, cao đẳng trong quốc gia đó. Bởi đó là con số nói lên số lao động được đào tạo hàng năm và chất lượng nguồn nhân lực của quốc gia. ở Việt Nam, số học sinh và sinh viên thuộc các trường trung học chuyên nghiệp, kỹ thuật, cao đẳng và đại học trong cả nước từ năm 1992 đến năm 1997 (chỉ tính học sinh, sinh viên hệ chính quy) như sau: Đơn vị tính: 1.000 người Năm 1992 1993 1994 1995 1996 1997 Trung học chuyên nghiệp 107,8 119,0 155,6 170,5 172,4 164,1 Số tốt nghiệp 43,5 44,9 49,0 56,3 59,3 68,3 Công nhân kỹ thuật 57,6 68,7 74,7 58,7 69,9 102,5 Số tốt nghiệp 35,2 38,0 64,9 66,4 75,1 70,6 Cao đẳng, đại học 136,8 157,1 203,3 297,9 509,3 662,8 Số tốt nghiệp 24,8 29,1 36,9 58,5 78,5 74,1 Nguồn: niên giám thống kê 1998-Nxb Thống kê, 1999, tr342, 345 &349 Theo bảng trên ta thấy, cơ cấu đào tạo ở các cấp bậc rất khác nhau, số sinh viên cao đẳng,đại học tăng nhanh trong những năm gần đây, trong khi đó số học sinh trung học chuyên nghiệp và công nhân kỹ thuật tăng rất chậm và biến đổi bất thường khi lên khi xuống nhất là số công nhân kỹ thuật. Nếu năm 1994 các trường công nhân kỹ thuật có 74.700 học sinh, thì năm 1995 còn 58.700 học sinh , song đến năm 1997 lại tăng lên 102.500 học sinh. Chính điều đó tạo nên sự thiếu hụt lớn số công nhân kỹ thuật và cán bộ có trình độ trung cấp, và ngược lại dẫn tới sự lãng phí chất xám, bởi sẽ có những sinh viên có trình độ cao đẳng hoặc đại học đảm nhận những công việc của công nhân kỹ thuật hoặc trung cấp. Hiện nay số sinh viên đại học, cao đẳng vẫn tiếp tục tăng nhanh, năm 2000 số sinh viên cao đẳng, đại học là gần 1 triệu bằng 1,8 lần năm 1995, vượt dự kiến kế hoạch 5 năm (1996-2000) là 13% (Lê Quang Trung: biện pháp cho vấn đề lao động thất nghiệp ở thành thị-Vụ chính sách lao động và việc làm) và năm học 2001-2002 tổng chỉ tiêu cho các trường cao đẳng, đại học tăng 5% tức khoảng 160.000 sinh viên, tăng 10.000 sinh viên so với năm trước. Số học sinh, sinh viên tốt nghiệp các trường trung học chuyên nghiệp, kỹ thuật, cao đẳng và đại học năm 1992 là 103.500 người, thì đến năm 1996 là 212.900 người và năm 1997 là 213.000 người bổ sung cho nguồn nhân lực của đất nước. Tỷ lệ lao động được đào tạo trong tổng lực lượng lao động xã hội tăng lên hằng năm được thể hiện qua bảng sau: Năm Tỷ lệ lao động được đào tạo/tổng lực lượng lao động xã hội(%) 1988 9,45 1992 11 1995 13,8 1997 16 Nguồn: dự thảo Nghị quyết Trung ương 4 khoá 8-Bộ chính trị. Tính đến năm 1998, số cán bộ có trình độ cao đẳng, đại học, trên đại học là trên 930.000 người, trong đó khoảng trên 10.000 người là cán bộ có trình độ trên đại học. đội ngũ này chiếm 2,3% lực lượng lao động xã hội. Số sinh viên tốt nghiệp đại học hàng năm khoảng 25.000 người có học vị trên đại học bổ xung vào nguồn nhân lực chất lượng câo. Hàng năm ở Việt Nam tỷ lệ cán bộ có trình độ cao đẳng, đại học trên 1000 dân đang tăng lên: Năm Tỷ lệ cán bộ có trình độ cao đẳng, đại học/1000 dân 1994 9 1996 11 1997 12 Trong khi đó ở các nước khác là: Nước Tỷ lệ cán bộ có trình độ cao đẳng, đại học/1000 dân Hàn quốc 52 Singapo 16 Italia 21 Nhật bản 70 Nguồn:Võ Đại Lược-CNH, HĐH ở Việt Nam đến năm 2000. Nxb KHXH,Hà Nội. So sánh các số liệu trên ta thấy giữa số lượng nguồn nhân lực được đào tạo ở Việt Nam so với các nước khác vẫn đang còn khoảng cách khá xa, chứ chưa nói đến nguồn nhân lực có chất lượng cao. Mặt khác cơ cấu đào tạo nguồn nhân lực cũng chưa phù hợp, thể hiện ở cỗ một số ngành được đào tạo ồ ạt như ngành kinh tế, luật trong khi đó các ngành kỹ thuật, công nghệ tin học, khoa học cơ bản chưa được coi trọng đúng mức. Do đó, xét cả những điều kiện kinh tế-xã hội lẫn những điều kiện về nguồn nhân lực cho thấy chúng ta chưa đủ điều kiện để xây dựng nền kinh tế tri thức, mà chỉ tiếp cận nó trên một số lĩnh vực chúng ta có khả năng. Về giá nhân công. Hiện nay, giá nhân công ở Việt Nam vẫn còn rất thấp không chỉ so với các nước trên thế giới mà ngay cả với các nước trong khu vực. Bảng:Lương tháng trung bình trong công nghiệp của một số nước ASEAN Nước 1985 1987 1992 1992 (tính theo ftăng) Inđônêxia 83000 98600 180000 468 Malaixia (riggits) 639 637 800 1800 Xingapo ($ Sin) 730 770 1200 4200 Philippin (peso) 1951 2537 3800 800 Thai Lan (bạt) 5240 5360 7200 1700 Việt Nam (đồng)(*) - - 220340 110 * Là số thu nhập bình quân/người/tháng năm 1993. Nguồn: Thái Lan, ISEAS, Việt Nam, Điều tra giầu nghèo 1993. Nhìn chung, ở Việt Nam hiện nay, trừ một số doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, còn phần lớn các doanh nghiệp hoặc cơ quan nhà nước, mức lương chỉ phổ biến là 250000-350000 đồng/tháng ( tức là gần 24-34 đô la/ tháng hay xấp xỉ trên dưới 1 đô la/ngày). trong khi đó, ngày công ở Băng Cốc (Thái Lan) năm 1992 đã là 115 bạt, tức là 30 frăng hay hơn 5 đô la; ở Jakarta (Inđônêxia) là 3000 rubi, tức là 8 frăng hay 11,5 đô la. Còn theo số liệu cả một cuộc điều tra năm 1996 của côg ty Werner International tại 51 quốc gia và lãnh thổ trên thế giới thì lương trung bình trong ngành dệt Việt Nam, là 0,39 đô la/giờ. Mức lương này là thấp nhất so với các quốc gia và lãnh thổ khác. Chỉ số này chỉ bằng 11/1,18 của InđônêXia; 1/1,23 của Trung Quốc; 1/1,49 của Ân Độ; 1/1,64 của Ai Cập; 11/34 của Pháp; 1/40 của Italia; 1/65,7 của Nhật Bản… Mặc dù các số liệu về chi phí nhân công thường tản mạn và không đồng nhất, nhưng nó cũng phần nào cho thấy Xingapo Malaixia cũng như Thái Lan đã không còn lợi thế tương đối quyết định về chi phí nhân công trong khu vực các nước ASEAN nữa. Và Nếu trước khi Việt Nam gia nhập ASEAN, ưu thế này thuộc về Inđônêxia và Philippin, thì hiện nay, với chi phí nhân lực cuả mình, Việt Nam đã chiếm ưu thế. Về chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam. Nếu như trong các thập niên trước đây, nhân công nhiều và rẻ được coi như thế mạnh hàng đầu khi xem xét các lợi thế về nguồn nhân lực thì trong những năm gần đây, yếu tố chất lượng nguồn nhân lực ngày càng được nhấn mạnh. Các yếu tố được xem xét trước hết là thể chất, thể lực, năng lực của nguồn nhân lực. Về trí lực và thể lực. Người Việt Nam có truyền thống cần cù, thông minh, ham học hỏi, cầu tiến bộ, có ý chí và tinh thần tự lực tự cường dân tộc phát triển khá về thể lực, trí lực, có tính cơ động cao có thể tiếp thu nhanh kiến thức khoa học công nghệ tiên tiến, hiện đại. Có thể nói đây là một trong số các lợi thế so sánh cuẩ ta trong quá trình hội nhập. Bảng: một số chỉ tiêu về sức khoẻ, y tế của các nước ASEAN. Chỉ tiêu Thời gian Việt Nam Brunây Inđônêxia Malaixia Philippin Thái Lan Xingapo Tuổi thọ bình quân 1992 63,4 74 62 70,4 64,4 68,7 74,2 Cung cấp calo bình quân/người 1988-1990 2220 2860 2610 2670 2340 2280 3210 Tỷ lệ cung cấp calo /người so với nhu cầu tối thiểu(%) 1988-1990 102 - 112 124 108 100 144 Tỷ lệ được dịch vụ y tế (%) 1985-1991 90 96 80 90 75 70 100 Tỷ lê được dùng nước sạch (%) 1988-1991 27 95 51 72 82 76 100 Nguồn: chỉ số và chỉ tiêu phát triển con người. Nxb Thống Kê, Hà Nội, 1995. Bảng: Qua bảng trên ta thấy: các chỉ số của Việt Nam luôn luôn ở mức thấp, có những chỉ số ở mức thấp nhất trong khu vực. Những chỉ tiêu liên quan và ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển thể chất, thể lực của người lao động Việt Nam tất thấp: cung cấp calo bình quân đầu người chỉ có 2220 calo, thấp nhất trong khu vực. Về tỷ lệ cung cấp calo bình quân đầu người so với nhu cầu tối thiểu, Việt Nam, chỉ cao hơn Thái Lan 100%, kém Inđônêxia 122%, Xingapo 144%, Philippin 108%, Malaixia 124%. Một loạt các chỉ tiêu khác liên quan đến y tế, chăm sóc sức khoẻ của Việt Nam cũng còn ở mức thấp. điều đó lý giải phần nào sự hạn chế về mặt thể lực của nguồn nhân lực của Việt Nam. Cho đến nay, thể lực của người lao động Việt Nam còn chưa đáp ứng được những yêu cầu của nền sản xuất công nghiệp lớn và ở đây đã bộc lộ một trong những yếu điểm cơ bản của nguồn nhân lực Việt Nam. Những mặt mạnh từ trước đến nay của người lao động Việt Nam vẫn được nhắc đến là : có truyền thống là động cần cù, có tinh thần vượt khó và đoàn kết cao, thông minh sáng tạo, có khả năng nắm bắt và ứng dụng khoa học kỹ thuật hiện đại, có khả năng thích ứng với những tình huống phức tạp. Nhưng thực tế cũng cho thấy những điểm yếu không thể không thừa nhân là trình độ kỹ thuật, tay nghề, kỹ năng, trình độ và kinh nghiệm quản lý của người lao động Việt Nam còn rất thấp, chưa kể những tác hại của thói quen và tâm lý của người sản xuất nhỏ. Tương quan so sánh về trình độ giáo dục của lực lượng lao động cuả Việt Nam với các nước ASEAN có thể hình dung được qua các số liệu trong bảng sau: Một số chỉ tiêu về giáo dục của các nước ASEAN. Chỉ tiêu Thời gian Việt Nam Brunây Inđônêxia Malaixia Philippin Thái Lan Xingapo Đại học và sau trung học(*) 5,1 - - 5 - - 22 Trung học(*) 8,8 - - 48 - - 30 Tiểu học và thấp hơn(*) 85,1 - - 47 - - 47 Tỷ lệ người biét chữ từ 15 tuổi trở lên(%) 1992 89 - 84 80 90 94 - Số năm đi học tính cho người từ 25 tuổi trở lên(năm) 1992 4,9 5,0 4,1 5,6 7,6 3,9 4,0 Số cán bộ khoa học kỹ thuật trên 1000 người 1986-1991 - 21,7 12,1 - - 1,2 22,9 Tỷ lệ chi cho giáo dục trong GNP(%) 1991 1,6 - 2,5 6,9 2,9 3,8 3,4 GNP bình quân đầu người cho giáo dục($ Mỹ) 1991 4 - 21,9 510,6 21,46 62,7 480,8 (*) Trình độ giáo dục cuả dân số trong độ tuổi lao động (%). Nguồn: chỉ số và chỉ tiêu phát triển con người, Nxb Thống kê, Hà Nội, 1995. Như vậy, bên cạnh một vài chỉ tiêu đáng mừng như tỷ lệ người biết chữ từ 15 tuổi trở lên đạt được 89% năm 1992, tăng 6% so với năm 11989, thực trạng trình độ nguồn nhân lực Việt Nam còn nhiều vấn đề đáng lo ngại: số người mù chữ từ 15 tuổi trở lên còn 4,7 triệu năm 1992; trong toàn bộ dân số ở độ tuổi lao động, chỉ có 5,1% là có trình độ đại học và sau trung học, 8,8% có trình độ trung học; trong tổng số lực lượng lao động, số lao động kỹ thuật chỉ chiếm có 12%: năm 1995, trong số 40,2 tiệu người chỉ có 4,7 triệu người là lao động có kỹ thuật. Một mặt, Việt Nam đã có những cố gắng không thể không ghi nhân trong việc nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo nói chung, chất lượng nguồn nhân lực nói riêng như: số học sinh cao đẳng và đại học đã tăng từ 129.600 người năm 1990 lên 279900 người năm 1995, tức là tăng gần 2,3 lần trong 5 năm; số tốt nghiệp đại học từ 20.500 năm1990 tăng lên 58.500 năm 1995; số học sinh trung học chuyên nghiệp từ 135.400 năm 1990 lên 197.500 năm 1995, số tốt nghiệp trung học chuyên nghiệp từ 39.900 năm 1990 lên 56.300 năm 1995. Chưa kể đến tỷ lệ chi cho giáo dục trong GDP đã tăng nhanh từ 1,6% năm 1991 lên 2,75% năm 1993, gần 6% năm 1994. Nhưng để đạt được mức độ chung như các nước khác ngay trong khối ASEAN, rõ ràng chúng ta còn phải đầu tư nhiều thời gian và công sức, tiền của cho công tác giáo dục đào tạo để biến những tiềm năng của nguồn nhân lực Việt Nam thành hiện thực. Khả năng tư duy của lao động nước ta. Nguồn nhân lực Việt Nam với xuất phát điểm thấp, trước yêu cầu lớn của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế tỏ ra bất cập. Từ nền kinh tế nông nghiệp, phong cách, tư duy con người Việt Nam còn mang nặng tính chất sản xuất nhỏ, thủ công, lạc hậu. Sản xuất và quản lý bằng kinh nghiệm theo kiểu trực giác, lấy thâm niên công tác, cụ thế nghề nghiệp và lòng trung thành để đánh giá kết quả lao động và phân chia thu nhập. Lao động chưa được đào tạo và rèn luyện trong môi trường sản xuất công nghiệp nên hiệu suất lao động chưa được đề cao và đánh giá đúng mức. Khi tiến bộ khoa học-kỹ thuật và công nghệ hiện đại được thâm nhập và chuyển giao vào Việt Nam thì mâu thuẫn giữa trình độ hiện đại của trang thiết bị kỹ thuật-công nghệ với trình độ lạc hậu của người sử dụng xuất hiện. Người quản lý, người sử dụng công nghệ thì không thể tiếp thu, càng không thể khai thác có hiệu quả công nghệ, nên làm giảm hiệu suất của vốn đầu tư. Hiện nay, công nghệ Việt Nam ở mức trung bình kém. Trong các ngành công nghiệp, hệ thống máy móc thiết bị lạc hậu từ 2 đến 4 thế hệ so với thế giới. Các chỉ tiêu chủ yếu về tiêu hao nguyên, nhiên, vật liệu gấp 1,5 đến 2 lần mức chung của thế giới, giá thành sản phẩm cao, năng suất lao động công nghiệp chỉ đạt 30% mứ trung bình của thế giới( theo số liệu báo cáo của GS Đặng Hữu tại Hội nghị cán bộ khoa học-công nghệ toàn quốc ngày 12-2-1995). Số nhân công có trình độ bậc 4 trở lên chỉ bằng 1/3 tổng số công nhân kỹ thuật, công nhân có trình độ bậc 7 chỉ có 4000 người mà đa phần tuổi đã cao. Thiếu công nhân kỹ thuật, đặc biệt là công nhân bậc cao là nhân tố trưc tiếp ảnh hưởng đến quá trình thực hiện chuyển giao công nghệ, làm giảm hiệu suất sử dụng của thiết bị công nghệ. Hiện nay các nhà công nghệ, công trình sư, kỹ sư thực hành nước ta rất thiếu, nhất là cán bộ ở các gành công nghệ thông tin, vi điện tử, sinh học tự động hoá sản xuất... Số cán bộ khoa học thuộc các ngành kỹ thuật liên quan đến công nghệ chỉ chiếm 11% tổng cán bộ trong cơ chế kinh tế cũ nên kinh nghiệm, năng lực sáng tạo thực tiễn, khả năng sáng tạo công nghệ yếu. Sự lạc, non yếu về trình độ của nguồn nhân lực Việt Nam so với nguồn nhân lực trong khu vực và tế giới. Trình độ của lao động kỹ thuật nước ta vừa yếu, vừa thiếu, vừa bất hợp lý về cơ cấu đào tạo, vừa phân bố không đồng đều giữa các ngành, các vùng, các thành phần kinh tế. Trình độ non kém, lạc hậu về khoa học công nghệ, tác phong lao động, kỷ luật, sự thiếu hiểu biết về kinh tế thị trường, tính từ chịu trách nhiệm cá nhân thấp ảnh hưởng đến sức cành tranh của nguồn nhân lực Việt Nam khi hoà nhập vào thị trường nhân lực tiên tiến của thế giới. Hiện nay, nguồn nhân lực dồi dào, giá nhân công rẻ, về lâu dài không thể là lợi thế phát triển của Việt Nam, vì lợi thế nhân công rẻ trên thế giới đang dần mất đi và thay vào đó là trình độ trí tuệ cao đồng đều của nhân công. Trong quan hệ kinh tế quốc tế, trình độ, năng lực của các bộ đối tác, sự sắc sảo mềm dẻo, nhạy bén, linh hoạt trong ngoại giao của cán bộ ảnh hưởng rất lớn đến lợi ích của những quốc gia. Để giảm được những bất lợi, tạo ra sự tương đồng trong hoà nhập, cạnh tranh với thị trường nhân lực khu vực và thế giới, người lao động Việt Nam phải được trang bị các kiến thức chuyên môn nghề nghiệp, ngoại ngữ, lao động, kỷ luật, tác phong lao động và nhận thức đúng đắn mối quan hệ chủ-thợ trong nền kinh tế thị trường, phải hiểu biết được phong tục tập quán, đặc điểm của các nước bạn trong cùng thị trường lao động. Trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài lao động Việt Nam cũng bộc lộ những nhược điểm lạc hậu về trình độ kỹ thuật-công nghệ, kỷ luật và thói quen lao động. Năng lực quản lý kinh tế yếu kém, tính tùy tiện của người sản xuất nhỏ, ý thức dân tộc, ý thức cộng đồng chưa cac tạo nên bất lợi và thua thiệt về kinh tế cho phía Việt Nam. Cơ cấu đào tạo nguồn nhân lực nước ta. Cấu trúc đào tạo nguồn nhân lực nước ta không hợp lý cả về cơ cấu các loại lao động và cơ cấu đầu tư ngân sách giữa các bậc học. Trong thời gian vừa qua, mặc dù Nhà nước đã rất nỗ lực điều chỉnh thực trạng trên nhưng hiệu quả mang lại chưa cao. Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh hiện có 86% lao động đang làm việc nhưng chỉ có 2% được qua đào tạo dưới các hình thức. Hơn nữa, ngân sách chi cho giáo dục của chúng ta còn quá thấp. Mặc dù có tăng hơn thời kỳ trước nhưng trong các năm từ 1990 đến1992 ngân sách dành cho giáo dục chỉ chiếm 10-11% trong tổng ngân sách nhà nước. So với các nước trong khu vực thì sự đầu tư này của chúng ta còn kém xa. Chẳng hạn ngân sách dành cho giáo dục của Singapo là 23%, của MalaiXia là 20%... số học sinh trung học ( kể cả trung học chuyên nghiệp) chiếm 1/4 tổng số học sinh, sinh viên cả nước nhưng chỉ được đầu tư 8-9% ngân sách giáo dục, trong khi đó số sinh viên đại học chiếm gần 7% tổng số học sinh nhưng lại được đầu tư 15% ngân sách. Điều này là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự bất cập trong hệ thống giáo dục và đào tạo hiện nay ( số liệu từ ‘’Thông tin tài chính’’-số 3 tháng2/1998). Cấu trúc đào tạo của lực lượng lao động đã qua đào tạo vốn đã rất bất hợp lý lại càng bất hợp lý hơn. Năm 1996, cấu trúc đào tạo là 1-1,7-2,4 (tức là ứng 1 lao độngcó trình độ cao đẳng, đại học trở lên thì có 1,7 lao động có trình độ trung học chuyên nghiệp và 2,4 lao động có trình độ sơ cấp/học nghề/công nhân kỹ thuật); năm 2000 cấu trúc này là 1-1,2-1,7 trong khi mục tiêu của Nghị quyết Trung ương đề ra là 1-4-10( ‘’thông tin thị trường lao động’’,tr8), Phân bố nguồn nhân lực của nước ta. Nguồn nhân lực nước ta phân bố không đồng đều giữa các lĩnh vực sản xuất, giữa các vùng trong cả nước và các ngành kinh tế quốc dân. Thực tế này ngày càng được điều chỉnh cho phù hợp với thực trạng kinh tế-xã hội nước ta. Theo ngành. Về cơ bản, nước ta là một nước nông nghiệp lạc hậu. Chính vì vậy, lực lượng lao động chủ yếu tập trung trong các lĩnh vực sản xuất truyền thống là nông-lâm-ngư nghiệp. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của nền kinh tế đất nước, sự phân bố trên sẽ có sự chuyển dịch theo hướng giảm dần lực lượng lao động trong lĩnh vực nông-lâm-ngư nghiệp và tăng dần trong các ngành công nghiệp dịch vụ. Năm 2000 có sự chuyển dịch rõ rệt so với năm 1996 theo hướng: giảm cỏ về số lượng và tỷ lệ lao động làm việc trong nhóm ngành nông nghiệp, tăng cả về số lượng và tỷ lệ lao động làm việc trong ngành công nghiệp, xây dựng và dịch vụ. Năm 1996 có 32.601.918 người làm việc trong các ngành nông, lâm, ngư nghiệp, chiếm 69,80% so với tổng số lao động đang làm việc trong các ngành kinh tế quốc dân nói chung, đến năm 2000 giảm xuống còn 22.669.907 người, chiếm62,56%; trong khi đó, lao động làm việc trong các ngành công nghiệp và xây dựng tăng từ 3.566.513 người( năm1996) tăng lên 4.743.705 người( năm 2000) và tỷ lệ so tổng số đã tăng từ 10,55% lên 13,15%; lao động làm việc trong các ngành dịch vụ cũng tăng nhanh cả về số lượng và tỷ lệ : từ 6.643.564 người lên 8.791.950 người và từ 19,65% lên 24,29%(TS.Trương Văn Phúc- thực trạng lực lượng lao động ở Việt Nam giai đoạn 1996-2000 và khả năng giải quyết việc làm giai đoạn 2001-2005). Theo khu vực. Cũng giống như các nước đang phát triển khác trên thế giới, lực lượng lao động nước ta hiện nay chủ yếu tập trung ở khu vực nông thôn và rất ít ở khu vực thành thị và ngày càng có xu hướng tăng dần ở khu vực thành thị, giảm dần ở khu vực nông thôn. Năm 1996, lực lượng lao động khu vực thành thị chỉ chiếm 19,06% tổng lực lượng lao động cả nước, năm 2000 đã tăng lên 22,56%; trong khi tỷ lệ lực lượng lao động ở khu vực nông thôn giảm được từ 80,94% xuống còn 77,44%. Dự báo trong những năm tới, tỷ lệ lao động ở khu vực thành thị còn tiếp tục tăng nhanh hơn cùng với sự phát triển của quá trình đô thị hoá. Sự phân bố lực lượng đã qua đào tạo từ sơ cấp/học nghề trở lên cũng như từ công nhân kỹ thuật có bằng trở lên chủ yếu tậph trung ở khu vực thành thị, đặc biệt là các khu đô thị trọng điểm. Lực lượng lao động ở nông thôn chiếm 77,44% nhưng lao động đã qua đào tạo từ sơ cấp/học nghề trở lên chỉ chiếm 46,26% trong tổng số lao động đã qua đào tạo của cả nước; với lao động có trình độ từ công nhân kỹ thuật có bằng trở lên tỷ lệ này chỉ có 40,96%. Trong tương lai, với sự tác động của nhiều hoạt động của nhà nước cùng với quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá nông thôn thì lực lượng lao động đã qua đào tạo ở khu vực nông thôn sẽ ngày càng tăng cả về quy mô và tỷ trọng so với khu vực thành thị. 6. Lợi thế và thách thức nguồn nhân lực nước ta. Lợi thế nguồn nhân lực nước ta. Nước ta có quy mô dân số lớn, xếp thứ 12 trên thế giới; có nguồn lao động rất dồi dào, đặc biệt là lực lượng lao động trẻ ở nhóm tuổi từ 16-35 ( chiếm 65,2% trong dân số), nhóm có ưu thế về sức khoẻ, sức vươn lên, năng động và sáng tạo. Tỷ lệ dân số biết chữ chiếm khoảng 90%, riêng lực lượng lao động biết chữ chiếm khoảng 97% tổng lực lượng lao động. Ngân sách nhà nước chi cho giáo dục và đào tào năm 1998 gần đạt 15% và bảo đảm tỷ lệ chi ngân sách nhà nước cho giáo dục, đào tạo là 15% trong giai đoạn 1998- 2000. Đây là lợi thế rất cơ bản để tiếp thu nhanh khoa học kỹ thuật và công nghệ mới cho tăng trưởng kinh tế và phát triểu kinh tế-xã hội đất nước; đồng thời tăng sức cạnh tranh cuả lao động trên thị trường sức lao đông trong nước và quốc tế. Đường lối đổi mới và mở cửa của Đảng đã mở ra khả năng phát triển nền kinh tế đa thành phần, đa dạng hoá việc làm, thu hút được nhiều lao động, sử dụng tốt hơn năng lực nguồn nhân lực ( đặc biệt là sử dụng lao động trình độ cao ở các khu công nghiệp, khu chế xuất); đường lối đổi mới đã giải quyết việc làm cho lao động xã hội thông qua phát triển kinh tế hộ gia đình, trang trại, doanh nghiệp nhỏ và vừa, khôi phục và phát triển làng nghề, phổ nghề, khu vực phi kết cấu…lần đầu tiên trong những năm 1996-1998 bình quân mỗi năm tạo thêm chỗ làm việc mới cho khoảng 1,2 đến 1,3 triệu lao động, tương đương với số lao động trẻ mới bớpc vào tuổi lao động trẻ mới bứơc vào tuổi lao động mỗi năm. Quản lý nhà nước về nguồn nhân lực ngày càng được quan tâm, chính sách phát triển nguồn nhân lực ngày càng được hoàn thiện. đặc biệt là từ năm 1995 đến nay, Bộ Luật lao động đầu tiên ở nước ta được ban hành có hiệu lực và đang phát huy trong cuộc sống. Bộ Luật lao động điều chỉnh các quan hệ lao động theo một cơ chế mới, dựa trên cơ sở tự do hoá lao động, giải phóng mọi tiềm năng lao động và nâng cao tính năng động xã hội của lao động. Thị trường sức lao động đã hình thành và ngày càng phát triển trở thành một thị trường thống nhất, xoá bỏ hàng rào hành chính, người lao động được tự do di chuyển và hành nghề theo pháp luật và sự hướng dẫn của nhà nước. Tiền công lao động ngày càng phản ánh đúng giá trị và giá cả lao động, có tính đến quan hệ cung cầu lao động trên thị trường sức lao động. Lao động được tự do, được giải phóng tạo ra động lực mới để mọi người lao động sáng tạo, có năng suất cao. Nếu ta tiếp tục có chính sách khuyến khích lao động chất xám và tay nghề tốt hơn, sẽ là yếu tố năng lực nội sinh to lớn phát triển nguồn nhân lực đất nước trong hiện tại cũng như trong tương lai. Những khó khăn và thách thức trong tương lai. Nền kinh tế thế giới đang chuyển dần sang nền kinh tế tri thức và nước ta cũng đang tiến hành một số mặt có thể của của nó. Nền kinh tế tri thức có một số đặc trưng nổi bật sẽ đòi hỏi ở nguồn nhân lực tương ứng phải được đào tạo đặc biệt về nội dung và phương pháp mới. Những nét khái quát về nền kinh tế tri thức với các đặc trưng của nó đã đủ nhận thấy sẽ xuất hiện một thị trường lao động hết sức đặc biệt với thách thức mới đối với nguồn nhân lực. đó là cơ cấu ngành nghề mới do công nghệ thông tin công nghệ sinh học, năng lượng và vi điện tử đòi hỏi. Rõ ràng đội ngũ lập trình viên kỹ thuật giỏi; các chuyên gia công nghệ phần mềm ở mọi lĩnh vực và các lao động kỹ thuật sử dụng Internet giỏi là yêu cầu mới của nhân lực trong thị trường lao động mới của nền khinh tế thị trường. Nguồn nhân lực trong tương lai sẽ phải được coi trọng giáo dục về tư duy sáng tạo, về năng lực tự chủ, tự học hỏi và cần được đào tạo kỹ năng thành thạo, linh hoat về công nghệ mới; về quản lý mạng và đặc biệt là năng lực về kinh doanh; về tính nhạy cảm với cái mới và sự bền vững trong phát huy bản sắc dân tộc với nền văn hoá vững chắc. Cũng cần nhấn mạnh đến một vài phương tiện quan trọng của nguồn nhân lực mới trong vền kinh tế thị trường, đó là năng lực sử dụng máy vi tính, năng lực sử dụng ngoại ngữ và năng lực giao tiếp. đó là những phương tiện giúp cho lao động kỹ thuật phát huy với hiệu quả cao không chỉ ở thị trường lao động trọng nước mà cả ở thị trường lao động quốc tế. Dân số trẻ về lâu dài là một thế mạnh, song trước mắt xét về mặt kinh tế Nếu không có chính sách phù hợp sẽ vất lợi, do bình quân số người phải nuôi dưỡng (trẻ em ăn theo) trên một lao động cao hơn các nước khác, kèm theo đố là những khó khăn về việc làm, giáo dục, y tế và dịch vụ xã hôị khác. Tốc độ tăng nguần lao động còn ở mức cao, đến năm 2000 bình quân mỗi năm tăng nguồn lao động khoảng 2,95%. Thời kỳ 2001 đến 2010, số lao động cần giải quyết việc làm mới vào khoảng 11-12 triệu người, hầu hết là lao động trẻ, trong khi nguồn lực đầu tư cả trong nước và quốc tế cho phát triển sản xuất tất hạn chế. Theo tính toán, sau năm 2000 trên tổng thể nước ta vẫn dư thừa lao động. Mặt khác, tỷ lệ thất nghiệp thành thị hiện nay còn rất lớn và đang có xu hướng tăng lên. năm 1999 tỷ lệ đó là 6,85%, tăng thêm 0,84% so với năm 1997; đặc biệt là Hà Nội, tỷ lệ đó là 9,09% so tổng lực lượng lao động. Trong nông thôn, tình trạng thiếu việc làm rất nghiêm trọng và cũng đong có xu hướng tăng lên. tỷ lệ sử dụng thời gian lao động trong nộng thôn của lưc lượng lao động trong độ tuổi, năm 1998 là 71,13%, so với 1997 giảm 2,01% ( 1997 là 73,14%). Trong khi đó lại thiếu nghiêm trọng lao động kỹ thuật cao. Nhiều lĩnh vực như : lắp ráp ô tô, đóng tàu, dầu khí.v.v phải thuê lao động nước ngoài. đó là một mâu thuẫn gay gắt hiện nay. Chính sách của Nhà nước còn thiếu đồng bộ, nhất là chính sách thuế, đất đai, tín dụng v.v. chưa khuyến khích và tạo ra động lực đảy mạnh đầy tư trong nước để phát triển sản xuất, tạo mở việc làm, trong khi nguồn vốn trong dân còn rấ lớn, nhưng dân chưa đầu tư vào các ngành chính sản xuất, mà chủ yếu là đầu tư vào dịch vụ, buôn bán, phi sản xuất. Trong hoạt động mở rộng thị trường,kể cả thị trường nội địa và ngoài nước thì năng lực tổ chức thị trường,còn yếu kém; chưa có chính sách khuyến khích tiêu dùng đúng hướng, nhất là khuến khích tiêu dùng hàng nội, để kích thích sản xuất trong nước phát triển, từ đó tạo thêm nhiều chỗ làm vuệc mới. Tất nhiên hàng trong nước cũng phải nâng chất lượng, mẫu mã và giá cả hợp lý. Với chủ trương tiếp tục công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, nhất là công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn, tập trung phát triển các ngành, các lĩnh vực, các sản phẩm có lợ thế. Nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế, nước ta phải đối mặt với một thách tức lớn về chất lượng nguồn nhân lực. Tỷ lệ lao động qua đào tạo rất thấp ( nảm 1998 tỷ lệ này là 17,8%). Chưa có chính sách phân luồng trong giáo dục và đào tạo, cơ cấu đào tạo bất hợp lý , tỷ lệ giữa đại học, cao đẳng, trung học và công nhân kỹ là 1-1,6-3,6. Trong khi các nước khác là 1-4-10; giáo dục, đào tạo nặng về bằng cấp, thi cử, xu hướng thương mại hoá trong đào tạo khá phổ biến; đào tạo không gắn với sản xuất và thị trường sức lao động (không gắn với sử dụng); lao động trong nông nghiệp nông thôn hầu như không được đào tạo. Có thể nói, điểm yếu cơ bản nhất của giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực của nước ta thời gian qua là chưa tạo ra được một đội ngũ lao động có năng lực và có tính năng động xã hội cao, đáp ứng yêu cầu của sản xuất, của thị trường sức lao động. Với những lợi thế trên,Việt Nam có thiều cơ hội để tiến tới nền kinh tế tri thức vào những thập kỷ tới của thế kỷ XXI. Tuy nhiên, bước đột phá sẽ phải từ việc đổi mới tư duy và thể chế quốc gia trong điều kiện mới của đất nước và thế giới. đồng thời tập trung cao và việc giáo dục đào tạo nguồn nhân lực mới chất lượng cao, phù hợp và đón đầu chiến lược phát triển kinh tế- xã hội của Việt Nam tới những năm 2020. Nguồn nhân lực Việt Nam hơn bao giờ hết cần được đào tạo để phát triển nội lực với giá trị mới và vượt qua được những thách thức mới của thị trường lao động trong nền kinh tế tri thưc tương lai. IV. Chiến lược và giải pháp phát triển nguồn nhân lực của nước ta. 1. Chiến lược phát triển nguồn nhân lực của nước ta. Chiến lược phát triển nguồn nhân lực được hiểu như là quyết sách có tính định hướng của Nhà nước cho một thời kỳ dài (5-10) năm, trong đó thể hiện rõ quan điểm, chủ trương, cơ chế, chính sách, phạm vi, đối tượng; những cân đối và giải pháp lớn nhằm đạt được mục tiêu đề ta. Mục tiêu tổng quát phát triển nguồn nhân lực trong điều kiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá và phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa là phát triên và sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực với tiêu chuẩn về phẩm chất, năng lực như : có lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội; có trình độ văn hoá, kỹ thuật, công nghệ và tay nghề cao; có tác phong công nghiệp và đạo đức, lối sống lành mạnh. Thực chất là phát triển và sử dụng một đội ngũ liên tục kế tiếp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta ''vừa hồng, vừa chuyên''. a. Chiến lược ngắn hạn (từ nay đến năm 2005). Chiến lược phát triển nguồn nhân lực trong giai đoạn từ nay đến năm 2005, song song với việc thực hiện các mục tiêu phát triển dân số phù hợp với nền kinh tế, cần nâng cao chất lượng dân số và nguồn lao động; cải cách hệ thống giáo dục và đào tạo trong điều kiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá và cơ chế thị trường. Thực hiện chính sách xã hội trên nguyên tắc công bằng và tiến bộ xã hội, nhất là chính sách an sinh xã hội và hoà nhập cộng đồng. Phải tâp trung mọi nguồn lực giải quyết sức ép về việc làm, mỗi năm tạo thêm chỗ làm việc mới cho 1,3-1,4 triệu lao động; có giải pháp phù hợp để giải quyết tình trạng dôi dư lao động trong các doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Bởi vì, việc làm là vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội rất nhạy cảm, là một trong những yếu tố cơ bản nhất bảo đảm cho sự phát triển bền vững của đất nước. Phương hướng và giải pháp cơ bản giải quyết việc làm trong những năm tới là: - Thực hiện tốt chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội, đặc biệt là đẩy mạnh phát triển kinh tế và tạo việc làm ở nông thôn trên cơ sở phát triển mạnh kinh tế hộ gia đình, kinh tế trang trại, kinh tế hợp tác xã; đến năm 2000 đã khai thác thêm và sử dụng có hiệu quả 3 triệu ha đất hoang hoá, phủ xanh 5 triệu ha đất hoang hoá, cơ cấu kinh tế và lao động nông thôn, thâm canh, thêm vụ, phát triển mạnh mẽ việc làm phi nông nghiệp (dịch vụ và phi kết cấu), doanh nghiệp nhỏ và vừa ở nông thôn (chủ yếu là công nghiệp chế biến nông sản phẩm, tiểu thủ công nghiệp), khôi phục và phát triển các làng nghề truyền thống,đi đôi với đô thị hoá nông thôn để thu hút lao động tại chỗ, giảm dòng di dân và lao động tự phát ra các thành phố lớn, khu công nghiệp tập trung. - Trong khi chú ý phát triển các doanh nghiệp lớn, khu công nghiệp tập trung với kỹ thuật và công nghệ cao, có sức cạnh tranh, có thị trường tiêu thụ để tạo ra mũi nhọn tăng trưởng, cần khuyến khích phát triển các ngành, nghề đầu tư ít vốn, sử dụng nhiều lao động, nhất là các doanh nghiệp nhỏ và vừa; chuyển một phần lao động cơ giới sang sử dụng lao động thủ công ở những khâu, những công đoạn cần thiết, trong các công trình xây dựng cơ sở hà tầng. - Thực hiện tốt việc kết hợp giữa sắp xếp lại, cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước nhằm nâng cao vai trò và hiệu quả kinh tế quốc doanh với duy trì bảo đảm việc làm cho người lao động; có biện pháp khắc phục ảnh hưởng của khủng hoảng của khu vực, nhằm giải quyết tình trạng dôi dư lao động bằng các chính sách và giải pháp có tính chất tình thế, trợ giúp các doanh nghiệp này ổn định và phát triển sản xuất. - Thực hiện chủ trương xuất khẩu lao động trê cơ sở mở rộng thị trường, bảo đảm mỗi năm đưa được từ 20-25 vạn lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài. Để làm tốt vấn đề này phải thống nhất tư tưởng, nhân thức và phải đầu tư cho đào tạo lao động, với cơ chế chính sách rõ ràng và công khai. - Tổ chức đào tạo nghề gắn với sản xuất và thị trường sức lao động. Khẩn trương đào tạo lao động có trìn độ cao đáp ứng yêu cầu các khu công nghiệp, khu chế xuất và xuất khẩu lao động; đồng thời mở rộng đào tạo nghề xã hội ngắn hạn với phương châm ''cần gì học nấy'', tăng cường đào tạo cho nông thôn, đặc biệt là nông dân các vùng ven đô thị lớn vị mất đất canh tác do quá trình đô thị háo nhanh để chuyển sang làm ngành nghề và dịch vụ. b. Chiến lược dài hạn (từ nay đến năm 2010). Năm 2010 có vị trí đặc biệt quan trọng tạo ra những tiền đề vật chất cho bước phát triển tiếp theo, với cơ cấu công nghiệp và dịch vụ ít nhất phải đạt 55-60%, nông nghiệp chỉ còn 35-40%. Ngay từ bây giờ, chiến lược phát triển nguồn nhân lực phải trung vào các vấn đề sau: -Thực hiện mạnh việc phân luồng học sinh sau khi tốt nghiệp trung học cơ sở , để đến năm 2010 đạt 100% học sinh trong độ tuổi đi họ phổ cập trung học cơ sở (THCS). Cơ cấu đào tạo giữa đại học, cao đẳng trở lên và đào tạo nghề so với THCS đạt tỷ lệ khoảng 1-3-9, dần tương đương với tỷ lệ đào tạo lên khoảng 32%và năm 2005, và khoảng 40%và năm 2010. Việc phân luồng này phải bằng cơ chế và chính sách vĩ mô của Nhà nước để điều khiển trên cơ sở nhận thức rất tõ về thang giá trị xã hội của từng loaị lao động, có chính sách khuyến khích vật chất học sinh và học các trường dạy nghề và mở ra khả năng cho họ phát triển trong tương lai. -Quy hoạch lại mạng lưới hệ thống đào tạo nghề theo hướng xã hội hoá, đa dạng hoá hình thức đào tạo, linh hoạt, năng động và thiết thực. Kết hợp giữa đào tạo nghề chính quy và không chính quy, giữa cơ sở đào tạo nghề của Nhà nước, các doanh nghiệp và tư nhân. đặc biệt coi trọng quy hoạch các cơ sở đào tạo nghề công nghề, kỹ thuật cao, đáp ứng cho các ngành kinh tế mũi nhọn, khu công nghiệp tập trung, khu chế xuất và xuất khẩu lao động. Phấn đấu đến năm 2005 tỷ lệ lao động trình độ cao chiếm khoảng 15% tổng lực lương lao động và đến năm 2010 tỷ lệ đó là khoảng 20%. -Xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách phát triển nguồn nhân lực. Trên cơ sở Luật Giáo dục, khẩn trương cụ thể hoá thành hệ thống chính sách nhằm khuyến khích và huy động mọi nguồn lực vào sự nghiệp phát triển nguồn nhân lực; trong đó, đặc biệt coi trọng các chính sách sau đây: +Chính cách đầu tư tập trung và thoả đáng và đào tạo lao động cho khu vực công nghệ cao. Ngân sách nhà nước, của các doanh nghiệp phải được ưu tiên trước, vốn vay từ quỹ ODA; đồng thời khuyến khích mọi thàn phần đầu tư và lĩnh vừc này kể cả người học. +Khuyến khích các doanh nghiệp, giáo viên và người học trong lĩnh vực đào tạo nghề. Nhà nước nên có hình thức tôn vinh danh hiệu của họ. Đầu tư thoả đáng cho đào tạo nghề, chú trọng đầu tư và trang thiết bị, bảo dảm cho họ thực hành, tiếp cận ngay với công nghệ hiện đại đang áp dụng phổ biến trong sản xuất. +áp dụng chính sách khuyến khích người học nghề phát triển tài năng nghề nghiệp. Phải coi công nhân bậc cao thực chất là nhân tài của đất nước. Họ có thể tiếp tục được bồi dưỡng, đào tạo ngắn hạn để trở thành kỹ sư thực hành và giành học hàm, học vị cao. +Khuyến khích vật chất và đãi ngộ thoả đáng các nghệ nhân dạy nghề, truyền nghề và tôn vinh họ như phong tặng danh hiệu nhà giáo ưu tú, nhà giáo nhân dân, chiến sĩ thi đua, anh hùng... +Bảo đảm sử dụng lao động qua đào tạo đúng ngành nghề được đào tạo. chính sách tiền lương, phụ cấp, bồi dưỡng vật chất phải phản ánh đúng giá trị và tính đến quan hệ cung cầu lao động. đặc biệt một số ngành nghề công nghệ cao, độc hại, nặng nhọc ngoài tiền lương, phải có chế độ đãi ngộ khác hoặc có chính sách tuyển dụng ngay từ khi tuyển sinh (đào tạo theo địa chỉ). -Tăng cường quản lý nhà nước về lĩnh vực phát triển nguồn nhân lực. Nhà nước phải có chính sách và chương trình quốc gia phát triển nguồn nhân lực, được kế hoạch hoá và cân đối nguồn vật chất trong kế hoạch hằng năm và dài hạn. Đặc biệt là đưa chỉ tiêu về số lượng và chất lượng đào tạo nghề vào kế hoạch hằng năm, hình thành tiêu chuẩn và quy phạm thống nhất về nguồn nhân lực phù hợp với tiêu chuẩn lao động quốc tế. Trước mắt cần có chính sách phát triển và kiểm soát thị trường sức lao động, hoàn thiện hệ thống cơ quan quản lý quản lý nhà nước về nguồn nhân lực, về lao động, nhất là lập lại Vụ quản lý nguồn lực và lao động ở các bộ, ngành kinh tế-kỹ thuật; nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác này ở trung ương và địa phương; đồng thời hiện đại hoá trang bị kỹ thuật quản lý nguồn nhân lực ở nước ta. 2. Một số giải pháp phát triển nguồn nhân lực ở nước ta. Để đạt được mục tiêu trên cần phải có rất nhiều biện pháp được thực hiện. Tuy nhiên trong giới hạn nghiên cứu, ở đây chỉ đề cập một số giải pháp cơ bản sau: Các giải pháp về đào tạo. Phải khẳng định đào tạo là giải pháp quyết định nhằm nâng cao chất lượng nhân lực. Hiện nay, đào tạo nhân lực nước ta chưa ăn khớp với nhu cầu sử dụng nên lao động có chuyên môn nghiệp vụ tỷ lệ rất thấp (xấp xỉ 16% tổng lực lượng lao động), có nghĩa lao động đã được đào tạo còn rất thiếu, nhưng trên thực tế lại đang thừa. Vậy, cần phải xem lại cơ cấu lao động được đào tạo và chất lượng sản phẩm đào tạo. Trong cơ chế thị trường, chất lượng và hiệu quả đào tạo phải đáp ứng yêu cầu và được xác định bằng hiệu quả sử dụng nhân lực, bằng chính uy tín của sản phẩm đào tạo. -Cần mở rộng hình thức đào tạo thích hợp như: mở các trường đào tạo của ngành nhằm đào tạo nghề mới, đào tạo lại côsng nhân kỹ thuật bằng các khoá huấn luyện bồi dưỡng dài ngày hoặc ngắn ngày; đào tạo bằng kèm cặp tại chỗ ở xí nghiệp, công xưởng. ưu điểm của hình thức đào tạo này không chỉ tạo thị trường tiêu thụ sản phẩm đào tạo một cách hợp lý, nối liền đào tạo với sử dụng mà còn xây dựng quan hệ ràng buộc về trách nhiệm, nghĩa vụ của đơn vị sử dụng lao động với các trường về vốn, năng lực kỹ năng thực hành. Hình thức đào tạo này được thực hiện thông qua hợp đồng giữa cơ sở sử dụng với trường. -Duy trì quy mô đào tạo nhân lực có trình độ đại học, cao đẳng , trên đại học hiện có. Tăng cường kiểm tra, đánh giá, nhanh tra chất lượng đào tạo và xác minh dư luận xã hội ở các trường đại học, đặc biệt là đại học dân lập, đại học mở, các hệ đào tạo đại học không chính quy, để lập lại kỷ cương của Nhà nước trong giáo dục, đào tạo, nâng cao chất lượng cuả sản phẩm đào tạo. Trong điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị và đội ngũ các bộ giảng dạy đại học chưa có sự thay đổi đáng kể, việc tăng quy mô quá lớn sẽ ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo. Sản phẩm của hệ thống giáo dục đào tạo là đội ngũ lao động chất xám-đội ngũ tri thức trẻ nên chất lượng phải được đặt lên hàng đầu. Hiệu quả giáo dục phải được đo bằng năng lực trí tuệ, bằng trình độ chuyên môn vững vàng, bằng khả năng tư duy sáng tạo của sản phẩm được đào tạo chứ không chỉ đo bằng số lượng người được đào tạo. -Nhanh chóng mở rộng các hình thức đào tạo cán bộ có trình độ trung học chuyên nghiệp, công nhân kỹ thuật. Các trường Trung ương không thể có khả năng đáp ứng đủ nhu cầu cám bộ trung học và công nhân của các thành phần kinh tế mà phải tăng cường đào tạo ở cấp địa phương. Các tỉnh, thành phố cần tăng số lượng các trường trung học chuyên nghiệp, các trường và trung tâm đào tạo công nhân kỹ thuật, nhằm đáp ứng nhu cầu cán bộ của địa phương mình. Các công ty, doanh nghiệp lớn có thể hoặc ký hợp đồng đào tạo trực tiếp với các trương theo yêu cầu riêng của doanh nghiệp. Hiện nay, các trường dạy nghề, các trung tâm dạy nghề đang được phát triển. Đó là nơi đào tạo ra đội ngũ thợ giúp cho người lao động có thể thuận lợi trong việc tìm kiếm việc làm. Để các trung tâm dạy nghề phát triển có hiệu quả, cầm thiết lập mối liên hệ giữa trung tâm dạy nghề với trung tâm xúc tiến việc làm. sự liên kết giữa dạy nghề-việc làm được tiến hành trên địa bàn quận, huyện nhằm giúp nhân dân địa phương có nghề để tạo việc làm, ổn định tình hình kinh tế xã hội ngay trên địa bàn. -Đào tạo nghề phải xuất phát từ nhu cầu về nhân lực. Nhà nước cần có biện pháp hỗ trợ vốn, cán bộ trong việc đào tạo nghề ở nông thôn nhằm bổ sung lực lượng lao động chuyên môn kỹ thuật, đồng thời giải quyết việc làm tại nông thôn. Hiện nay Nhà nước đã có chính sách ưu đãi đối với học sinh nông thôn như cộng thêm điểm thi vào các trường cao đẳng, đại học. Để khuyến khích học sinh khi tốt nghiệp trở về nông thôn, địa phương cần có chính sách quan tâm đến người đi học như: hỗ trợ tài chính cho học sinh đăng ký sau này trở về quê hương; sắp xếp công việc phù hợp cho người đã tốt nghiệp, đồng thới quan tâm đến cuộc sống cá nhân, để họ yên tâm công tác. -Cần mở các trường, các trung tâm đào tạo nghề cho lao động xuát khẩu. Hiện nay xuất khẩu lao động Việt Nam phần lớn là lao động phổ thông nên khả năng cạnh tranh trên thị trường lao động ở nước ngoài rất kém. Việc đào tạo lao động cho xuất khẩu cần căn cứ vào thị trường cầu lao động mà Nhà nước, tổ chức kinh tế đã ký kết. đào tạo lao động cho xuất khẩu phải thích ứng với nhu cầu nghề mà nước nhập khẩu lao động cần; phải dự đoán được nhu cầu ở mỗi thị trường để làm căn cứ đào tạo. lao động cho xuất khẩu phải nắm được phong tục, tập quán, đặc điểm dân tộc của nước mình sẽ đến, phải chuẩn bị hành trang nghề nghiệp mà mình sẽ làm, phải hiểu biết luật pháp, ngôn ngữ…của quốc gia mình lao động. Quá trính đào tạo phải giáo dục cho người lao động về truyền thống dân tộc, lòng yêu nước, lợi ích và trách nhiệm của người lao động xa Tổ quốc, giáo dục tinh thần dân tộc để xây dựng ý thức đùm bọc lẫn nhau của người Việt Nam trong cộng đồng lao động ở nước ngoài. Các giải pháp về tổ chức, quản lý, sử dụng nhân lực. Hiện nay, ở nước ta cầu nhân lực thấp hơn cung rất nhiều nên theo quy luật giá trị thì giá nhân công thấp, sự cạnh tranh trên thị trường cung lao đông diễn ra gay gắt, quyết liệt tạo nên sự biến động khác biệt về tiền lương. Trong nền kinh tế thị trường quy mô cầu quyết định quy mô cung. Cầu nhân lực chính là việc làm trong mọi thành phần kinh tế, việc làm ở nước ngoài thông qua xuất khẩu lao động. Hiệu quả sử dụng nhân lực là thước đo hiệu quả của đào tạo nhân lực. Cơ chế phân bổ, tuyển dụng lao động của thời ‘’bao cấp’’ đã không còn. Lao động đã được tạo phải được thị trường chấp nhận. Hiệu quả lao động, việc làm là tiêu chuẩn căn bản đánh giá chất lượng và uy tín của sản phẩm đào tạo. quản lý sử dụng nhân lực nhân lực ở nước ta không chỉ tính đến hiệu quả kinh tế mà còn hiệu quả chính trị-xã hội. Chính sách kinh tế phải kết hợp hài hoà với các chính sách xã hội. Vậy, cần hướng vào một số giải pháp cụ thể như sau: - Phát triển sản xuất để tăng cầu lao động việc làm. việc làm và hiệu quả vuệc làm chỉ có thể được giải quyết dựa và tăng trưởng, phát triển bền vững của nền kinh tế. Cầu lao động nhỏ hơn cung, người lao động ở thế bất lợi so với người sử dụng lao động, đó là quy luật của nền kinh tế thị trường. Nhà nước bảo vệ lợi ích, quyền lợi của người lao động và người sử dụng lao động bằng cách thiết lập quan hệ lao động lành mạnh, bình đẳng giữa người lao động và người sử dụng lao động. Khả năng giải quyết việc làm phụ thuộc sự phát triển kinh tế. Vậy, Nhà nước cần tạo môi trương, điều kiện kinh tế và pháp lý để lở rộng phát triển ngành nghề, tạo nhiều chỗ làm mới cho người lao động cụ thể. Nhà nước tăng cường chống buôn lậu để vảo vệ sản xuất trpmg nước. Chủ trương quản lý bằng dán tem đối với một số mặt hàng tiêu dùng nhập khẩu là hợp lý. Các mặt hàng tiêu dùng khác như bánh kẹo cũng cần được bảo hộ sản xuất để tránh được sự cạn tranh khốc liệt của hàng nhập khẩu, đồng thời tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước. - Bằng chính sách kinh tế vĩ mô hợp lý để khuyến khíchsản suất trong nước, như: chính sách tín dụng, chính sách thuế; tăng cương vốn đầu tư tạo thêm việc làm; chương trình phủ xanh đất trống đồi núi trọc, tận dụng mặt nước nuôi trồng thuỷ sản, chương trình xây dựng vùng kinh tế mới, khu vực kinh tế thanh niên... tạo môi trường thuận lợi để thu hút vốn đầu tư nước ngoài nhằm phát triển kinh tế trong nước... - Cần có cơ chế quản lý lao động thống nhất trên phạm vi toàn nền kinh tế quốc dân. Người lao động trong mọi thành phần kinh tế đều dược pháp luật Nhà nước bảo vệ. Mọi quan hệ lao động được xác lập, thực hiện trên cơ sở Luật lao động. Do việc làm gắn liền với sự tồn tại của cá nhân, gia đình khiến người lao động trong nhiều trường hợp phải chấp nhận những đòi hỏi gắt gao của bên cầu lao động, không có đủ khả năng để tự bảo vệ mình khỏi những quan hệ lao động không lành mạnh giữa chủ-thợ. Do đó Nhà nước thực hiện giám sát, kiểm tra việc chấp hành các văn bản pháp luật của người lao động ở mọi thành phần kinh tế. Trên thực tế sự giám sát kiểm tra này phải thật cụ thể đến cả quy định về giờ làm việc trong ngày, định mức, đơn giá tiền lương... chứ không chỉ dừng lại ở việc quản lý mức lương tối thiểu như hiện nay. -Đẩy mạnh xuất khẩu lao động để giải quết việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, tạo nguồn thu ngoại tệ cho Nhà nước. Muốn vậy, phải tăng cường tìm kiếm, mở rộng thị trường lao động ở nớpc ngoài, coi đây là giải pháp quan trọng để giải quyết việc làm. nhà nước đẩy mạnh nghiên cứu thị trường lao động quốc tế để đào tạo chuẩn bị nhân lực cho xuất khẩu lao động. Thực hiện tín dụng ưu đãi để người nghèo có tiền học nghề, tham gia và xuất khẩu lao động, cải cách thủ tục hành chính rườm rà ảnh hưởng đến xuất khẩu lao động, tiến tới xuất khẩu lao động có chuyên môn kỹ thuật, xuất khẩu chuyên gia... Tăng cường công tác thông tin dịch vụ lao động, phát triển thị trường sức lao động. Các trung tâm dịch vụ việc làm không chỉ có chức năng môi giới tạo việc làm, cung cấp nhân lực cho cơ sở sử dụng lao động, mà phải trở thành trung tâm nghiên cứu,điều tra tình hình cầu lao động, làm cầu nối giữa đào tạo với sử dụng lao động, giữa cung - cầu lao động ở các thành phần kinh tế, tạo ra sự phối hợp nhịp nhàng, ăn khớp về cung - cầu lao động. Như vậy, có thể nói nguồn nhân lực nước ta trong những năm gần đây đã có nhiều thay đổi tích cực so với những năm trước kia nhưng thực tế vẫn còn nhiều vướng mắc so với yêu cầu thực tế của nền kinh tế- xã hội của đất nước. Thực trạng này đã đặt nguồn nhân lực nước ta trước những khó khăn thách thức trong hiện tại cũng như trong tương lai và cần phải có những giải pháp hữu hiệu nhằm bảo tồn và phát triển nguồn nhân lực nước ta.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc33711.doc