Đề tài Chính sách lãi suất và tác động của chính sách lãi suất đến nền kinh tế thị trường giai đoạn từ năm 2000 đến nay tại Việt Nam

MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU CHƯƠNG I. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ LÃI SUẤT VÀ CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT I. KHÁI NIỆM LÃI SUẤT 04 1. Khái niệm 04 2. Đặc điểm 04 II. CÁC LOẠI HÌNH LÃI SUẤT VÀ CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT 1. Các loại hình lãi suất 05 2. Các loại chính sách lãi suất 05 III. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI LÃI SUẤT 1. Mức lạm phát kỳ vọng 06 2. Đầu tư 07 3. Thuế thu nhập 07 4. Ngân sách của chính phủ 07 5. Các yếu tố khác của đời sống xã hội 08 IV. VAI TRÒ CỦA LÃI SUẤT ĐỐI VỚI NÊN KINH TẾ 1 Vai trò Vĩ mô 08 2 Vai trò Vi mô 10 CHƯƠNG II. SỰ ẢNH HƯỞNG CỦA CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT TỚI NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG VIỆT NAM 1. Thực trạng chính sách lãi suất và diễn biến lãi suất tại Việt Nam thời kỳ từ năm 2000 đến nay 11 2. Sự ảnh hưởng của chính sách lãi suất tới nền kinh tế thị trường Việt Nam giai đoạn từ năm 2000 đến nay 14 3. Dự báo ảnh hưởng và thay đổi của chính sách lãi suất tới nền kinh tế thị trường Việt Nam sau khi gia nhập WTO 17 CHƯƠNG III. GIẢI PHÁP ĐỂ HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT TRONG THỜI GIAN TỚI I. GIẢI PHÁP ĐIỀU HÀNH VÀ KIỂM SOÁT LÃI SUẤT THỊ TRƯỜNG TIỀN TỆ 18 1. Hoàn thiện cơ chế tự do hoá lãi suất bằng VNĐ 19 2. Nâng cao hiệu quả của các công cụ lãi suất 20 II. GIẢI PHÁP TẠO ĐIỀU KIỆN VÀ CƠ SỞ CHO VIỆC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH VÀ CƠ CHẾ ĐIỀU HÀNH LÃI SUẤT III. KINH NGHIỆM THỰC TIỄN CỦA MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI VÀ BÀI HỌC RÚT RA ĐỐI VỚI VIỆT NAM 1. Từ thất bại của Hàn Quốc từ năm 1988 23 2. Bài học đối với Việt Nam 24 KẾT LUẬN

doc25 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1401 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Chính sách lãi suất và tác động của chính sách lãi suất đến nền kinh tế thị trường giai đoạn từ năm 2000 đến nay tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ảnh hưởng của chính sách lãi suất tới nền kinh tế thị trường Việt Nam giai đoạn từ năm 2000 đến nay 14 3. Dự báo ảnh hưởng và thay đổi của chính sách lãi suất tới nền kinh tế thị trường Việt Nam sau khi gia nhập WTO 17 CHƯƠNG III. GIẢI PHÁP ĐỂ HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT TRONG THỜI GIAN TỚI 18 I. GIẢI PHÁP ĐIỀU HÀNH VÀ KIỂM SOÁT LÃI SUẤT THỊ TRƯỜNG TIỀN TỆ 18 1. Hoàn thiện cơ chế tự do hoá lãi suất bằng VNĐ 19 2. Nâng cao hiệu quả của các công cụ lãi suất 20 II. GIẢI PHÁP TẠO ĐIỀU KIỆN VÀ CƠ SỞ CHO VIỆC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH VÀ CƠ CHẾ ĐIỀU HÀNH LÃI SUẤT 22 III. KINH NGHIỆM THỰC TIỄN CỦA MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI VÀ BÀI HỌC RÚT RA ĐỐI VỚI VIỆT NAM 22 1. Từ thất bại của Hàn Quốc từ năm 1988 23 2. Bài học đối với Việt Nam 24 KẾT LUẬN 25 LỜI MỞ ĐẦU Lãi suất là một yếu tố rất nhạy cảm đối với nền kinh tế của các nước. Ở Việt Nam Ngân hàng Nhà nước đã rất linh hoạt trong việc sử dụng công cụ lãi suất nhắm tác động tích cực đến nền kinh tế trong quá trình chuyển đổi. Sau những thất bại kinh tế giai đoạn từ năm 1998 đến trước năm 2004, việc hạ lãi suất để kích thích đầu tư cũng hầu như không có hiệu quả. Cho đến năm 2004, sau những nỗ lực vực dậy nền kinh tế Việt Nam đã bắt đầu có những bước phục hồi tạo cơ sở cho việc tiếp tục phát triển, đổi mới hệ thống tài chính, cải cách chính sách lãi suất. Hiện nay, chúng ta đã nhận thức rõ tầm quan trpjng của công cụ lãi suất trong nền kinh tế, tác động và ảnh hưởng của nó đến sự phát triển kinh tế trong bối cảnh đất nước đang tham gia ngày càng xâu rộng hơn và liên kết khu vực và hội nhập quốc tế. Với đề tài “Chính sách lãi suất và tác động của chính sách lãi suất đến nền kinh tế thị trường giai đoạn từ năm 2000 đến nay tại Việt Nam” nhằm nghiên cứu sâu hơn về lãi suất và chiều hướng diễn biến của nó. Những thực trạng và tác động của nó đến nền kinh tế, để từ đó cố gắng đưa ra những giải pháp và những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam trong công cuộc phát triển hệ thống tài chính nói chung và cải cách chính sách lãi suất nói riêng. Nội dung đề tài gồm ba phần: Chương I: Những vấn đề cơ bản về lãi suất và chính sách lãi suất. Chương II: Sự ảnh hưởng của chính sách lãi suất đến nền kinh tế thị trường tại Việt Nam giai đoạn từ năm 2000 đến nay. Chương III: Giải pháp để hoàn thiện chính sách lãi suất trong thời gian sắp tới. Đề tài cố gắng phác thảo một cách chung nhất về những gì liên quan đến lãi suất và những vấn đề cần thiết đặt ra trong hoàn thiện chính sách lãi suất tại Việt Nam. Em rất mong có được ý kiến của các thầy, cô giáo để đề tài được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cám ơn! CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT VÀ TÁC ĐỘNG CỦA CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT ĐẾN NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG GIAI ĐOẠN TỪ NĂM 2000 ĐẾN NAY TẠI VIỆT NAM CHƯƠNG I. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ LÃI SUẤT VÀ CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT I. KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA LÃI SUẤT 1. Khái niệm: Lãi suất bắt đầu suất hiện từ khi quan hệ mua bán, trao đổi hàng hoá bắt đầu hình thành. Lãi suất là một trong những biến số được theo dõi một cách chặt chẽ nhất trong nền kinh tế. Diễn biến của nó được đưa tin hầu như hàng ngày trên báo chí, vì trực tiếp ảnh hướng đến đới sống hàng ngày của mỗi người chúng ta. Lãi suất (hay lãi suất tín dụng) là một công cụ kinh tế cực kỳ quan trọng và nhạy cảm đối với mọi nền kinh tế, nó đóng vai trò quan trọng đặc biệt khi nền kinh tế ngày càng phát triển, đó là vai trò ổn định và góp phần hoàn thiện chính sách tiền tệ tạo ra sự kích thích cần thiết để phát triển nền kinh tế mỗi quốc gia và toàn thế giới. Đã có rất nhiều quan điểm khác nhau khi đưa ra khái niệm về lãi suất. Lãi suất được hiểu theo một nghĩa chung nhất là giá cả của tín dụng – giá cả của quan hệ vay mượn hoặc cho thuê những dịch vụ về vốn dưới hình thức tiền tệ hoặc các dạng thức tài sản khác nhau. Khi đến hạn, người đi vay sẽ phải trả cho người cho vay một khản tiền dôi ra ngoài số tiền vốn gọi là tiền lãi. Tỷ lệ phần trăm của số tiền lãi trên số tiền vốn gọi là lãi suất. Theo Sammuelson: “Lãi suất là giá của người đi vay phải trả cho người cho vay để sử dụng một khoản tiền trong một khoản thời gian xác định”. 2. Đặc điểm: Tính cạnh tranh: Lãi suất huy động vốn hình thành trên cơ sở cạnh tranh giữa các Ngân hàng thương mại(NHTM), Tổ chức tín dụng(TCTD)… Tính cạnh tranh của lãi suất càng được thể hiện rõ khi hệ thống các tổ chức tham gia và cung cấp tín dụng ngày càng nhiều. Mức lãi suất phải hấp dẫn thì mới thu hút được khách hàng tham gia. Do vậy, mỗi NHTM, TCTD muốn phát triển được hệ thống của mình đều phải đưa ra được một mức lãi suất có khả năng cạnh tranh đối với các NHTM, TCTD khác nhằm lôi kéo khách hàng về phía mình. Tính linh hoạt: Lãi suất tín dụng hình thành một cách linh hoạt, nhạy bén, thích ứng với mọi hoàn cảnh, đối tượng. Sự thay đổi thường xuyên của chính sách tín dụng phù hợp với sự biến đổi của cung, cầu về vốn vay, tỷ lệ lạm phát, thu chi Ngân sách Nhà nước, yếu tố tâm lý của người đi vay và người cho vay trên thị trường tài chính. II. CÁC LOẠI HÌNH LÃI SUẤT VÀ CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT Các loại hình lãi suất: Lãi suất có thể có nhiều cách phân chia khác nhau như phân loại theo nội tệ và ngoại tệ, phân theo nghiệp vụ kinh doanh của các TCTD, phân loại theo thời gian hay phân loại theo nội dung kinh tế...Ở đây, ta chia lãi suất trên thị trường theo các nhân tố tác động thành 2 nhóm: Lãi suất thị trường tự do, thay đổi do ảnh hưởng của quan hệ cung - cầu trên thị trường: Bao gồm lãi suất các loại tín phiếu kho bạc, tiền gửi, chứng chỉ tiển gửi (L/C), lãi suất trên thị trường liên Ngân hàng, lãi suất của các khoản tín dụng ngắn hạn của các NHTM cho các doanh nghiệp vay, là mức lãi suất cao nhất trên thị trường tiền tệ, lãi suất của các NHTM lớn áp dụng cho các doanh nghiệp có uy tín là mức lãi suất thấp nhất trên thị trường này và thường gọi là lãi suất cho vay cơ bản(Prime Rate Bank Loans). Lãi suất do Ngân hàng Nhà nước công bố: Được xác định dựa trên quan hệ cung cầu vốn trên thị trường tiền tệ do Ngân hàng Nhà nước xác định tuỳ thuộc vào mục tiêu chính sách tiền tệ, chính sách kinh tế vĩ mô… Bao gồm: lãi suất chiết khấu, lãi suất tái cấp vốn, lãi suất cho vay qua đêm, lãi suất định hướng trên thị trường liên Ngân hàng, lãi suất nghiệp vụ thị trường mở… Các loại chính sách lãi suất: Chính sách lãi suất trần: Chính sách lãi suất trần là chính sách chỉ ấn định lãi suất cho vay tối đa. Chính sách này khuyến khích việc huy động vốn và tăng khả năng kiểm soát của chính phủ. Chính phủ đưa ra một mức lãi suất nhất định và áp đặt chung cho toàn bộ hệ thống Ngân hàng và cho toàn bộ nền kinh tế. Chính sách lãi suất cố định: Lãi suất cố định là lãi suất mà Ngân hàng Nhà nước khống chế NHTM cả về lãi suất huy động và lãi suất cho vay. Theo chính sách này thì sẽ không có sự cạnh tranh về lãi suất trên thị trường tài chính tín dụng và do đó không thúc đẩy sự phát triển kinh tế. Chính sách lãi suất tự do: Chính sách tự do hóa lãi suất là chính sách mà chính phủ sẽ can thiệp khi mức lãi suất vượt quá mức lãi suất chung.Lãi suất tăng giảm hoàn toàn do những biến đổi trong cung và cầu về vốn vay trên thị trường.Tuy nhiên, nó chỉ thực hiện được trong môi trường cạnh tranh hoàn hảo. Như Việt Nam thì hiện tại chúng ta đang sử dụng chính sách lãi suất thoả thuận. Các TCTD được sử dụng cơ chế lãi suất thoả thuận trong hoạt động thương mại, thay thế cơ chế điều hành lãi suất cơ bản bằng VNĐ. Về dài hạn thì việc xoá bỏ “trần” lãi suất cho vay khiến các TCTD có thể mở rộng phương thức huy động vốn, cho vay và huy động với mức lãi suất phù hợp với cung cầu trên thị trường tín dụng. Điều này đặc biệt có lợi đối với các tổ chức kinh tế và người sản xuất ở khu vực nông thôn, nhất là trong bối cảnh tăng trưởng tín dụng đang nhanh hơn nhiều so với tăng trưởng huy động vốn. Theo như NHNN, cơ chế lãi suất này sẽ tạo ra điều kiện thuận lợi cho công cuộc cải cách hệ thống Ngân hàng theo định hướng thị trường. Theo đó sẽ xoá bỏ những “dị biệt” trong hệ thống Ngân hàng Việt Nam để dần tiến tới hội nhập thị trường tín dụng Quốc tế. Chính sách lãi suất ưu đãi: Chính sách lãi suất ưu đãi là chính sách dành cho một số đối tượng đặc biệt như người nghèo, gia đình chính sách...với lãi suất thấp. Việc thực hiện chính sách này làm người đi vay không hoặc ít chú ý đến hiệu quả dẫn đến việc dùng vốn đổ vào những dự án không mấy hiệu quả.Điều đó không giúp tăng trưởng vốn và phần lớn chính sách này lấy từ Ngân sách nhà nước.Các đối tượng được vay vốn với lãi suất ưu đãi thường là những hộ nghèo,các khu vực ở vùng sâu vùng xa, hải đảo, miền núi... Việc vay vốn với lãi suất ưu đãi tuy tạo điều kiện cho người vay, nhưng lại hạn chế phát triển thị trường vốn vay. III. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI LÃI SUẤT Trong các nền kinh tế thị trường, nhà nhà nước chỉ đóng vai trò là người điều tiết vĩ mô, thị trường tài chính và các tổ chức tài chính trung gian. Các nước có nền kinh tế thị trường chủ yếu theo đuổi chính sách tự do hoá tài chính, do vậy cơ chế hình thành lãi suất chủ yếu dựa trên cơ chế thị trường. Đó là sự thay đổi về cung-cầu của vốn vay ảnh hưởng tới sự hình thành và biến đổi lãi suất trên thị trường. Cung về vốn vay bắt nguồn từ những người có thu nhập dôi ra mà họ muốn tiết kiệm và cho vay kiếm lời, qua đó cho thấy rằng tiết kiệm là nguồn cung về vốn vay. Còn cầu về vốn vay bắt nguồn từ các hộ gia đình và các doanh nghiệp muốn vay tiền để đầu tư, mua nhà đất hay xây dựng nhà máy...Như vậy, đầu tư là nguồn gốc làm phát sinh nhu cầu về vốn vay. Trên thị trường có rất nhiều tác nhân ảnh hưởng đến sự thay đổi về cung và cầu vốn vay, dưới dây ta chỉ phân tích những tác nhân có ảnh hưởng quan trọng đến đường cung và đường cầu về vốn vay, qua đó tác động đến lãi suất. 1. Mức lạm phát kỳ vọng Khi mức lạm phát được dự đoán sẽ tăng lên trong một thời kỳ nào đó, lãi suất sẽ có xu hướng tăng. Ta thấy rằng : Lãi suất danh nghĩa = Lãi suất thực tế + Tỷ lệ lạm phát Do đó, để duy trì lãi suất thực tế không giảm, khi tỷ lệ lạm phát tăng thì lãi suất danh nghĩa cũng phải tăng lên tương ứng. Bên cạnh đó, khi lạm phát tăng, công chúng sẽ chuyển phần tiết kiệm của mình sang dự trữ hàng hóa hoặc các dạnh thức tài sản phi tài chính khác như vàng, ngoại tệ mạnh hơn là cho vay. Điều đó làm giảm cung về vốn vay, qua đó làm dịch chuyển đường cung sang trái và làm lãi suất tăng lên. Ngược lại, ta thấy rằng, nếu lạm phát dự tính có xu hướng giảm thì sẽ làm cho lãi suất giảm xuống. 2. Đầu tư Đầu tư là nhân tố tác động trực tiếp đến lượng cầu về vốn vay. Khi Nhà nước có các chính sách khuyến khích về đầu tư, ví dụ như nhà nước giảm thuế lợi tức công ty, nó có khuyến khích doanh nghiệp vay tiền và đầu tư nhiều hơn vào tư bản mới. Qua đó làm thay đổi đầu tư tại mọi mức lãi suất và làm thay đổi đến cầu về vốn vay. Nhu cầu vay vốn tăng lên, đường cầu về vốn vay dịch chuyển sang bên phải và làm cho lãi suất tăng lên. Ngược lại, các chính sách của chính phủ làm kìm hãm đầu tư sẽ là nhân tố làm giảm lãi suất. 3. Thuế thu nhập Thuế thu nhập luôn tác động đến lãi suất giống như khi thuế tác động đến giá cả hàng hóa. Thông thường người ta quan tâm nhiều đến lợi nhuận sau thuế hơn là thu nhập danh nghĩa. Nên khi thuế thu nhập tăng lên, nó làm giảm đi một phần thu nhập của những cá nhân và tổ chức cung cấp dịch vụ tín dụng hay những người tham gia chứng khoán. Nghĩa là khi thuế thu nhập tăng, phần tiết kiệm của các cá nhân và tổ chức sẽ giảm đi, do đó lượng tiền cho vay trên thị trường sẽ giảm đi. Qua đó làm giảm cung về vốn vay, đường cung vốn vay dịch chuyển sang trái, lãi suất tăng lên. Ngược lại, khi thuế thu nhập giảm đi sẽ là nhân tố làm giảm lãi suất. 4. Ngân sách của chính phủ Ta biết rằng : Tiết kiệm quốc dân = Tiết kiệm tư nhân + Tiết kiệm Chính phủ. Khi Chính phủ chi tiêu nhiều hơn thu nhập từ thuế, tình trạng thâm hụt ngân sách làm giảm tiết kiệm quốc dân, cung về vốn vay giảm, đường cung vốn vay dịch chuyển sang trái và làm tăng lãi suất cân bằng. Bên cạnh đó, Chính phủ bội chi ngân sách như vậy sẽ tác động đến tâm lý dân chúng về sự gia tăng của lạm phát và nó sẽ gây sức ép làm tăng lãi suất. 5. Các yếu tó khác của đời sống xã hội Ngoài những yếu tố trên, sự thay đổi của lãi suất trên thị trường còn chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố về đời sống xã hội khác như: sự đa dạng của các công cụ tài chính, sự thay đổi trong cơ cấu chứng khoán, sự phát triển của các thể chế tài chính trung gian, hiệu suất sử dụng vốn trong các thời kỳ khác nhau do những thay đổi trong công nghệ và sự phát triển mang tính chu kỳ của nền kinh tế, và cả các biến động về kinh tế, chính trị,... cũng ít nhiều ảnh hưởng đến lãi suất. IV. VAI TRÒ CỦA LÃI SUẤT ĐỐI VỚI NÊN KINH TẾ Lãi suất là một trong những biến số được quan tâm chặt chẽ nhất trong nền kinh tế,bởi lãi suất không chỉ ảnh hưởng trực tiếp tới đời sống của mỗi chúng ta mà còn là một chỉ số đo lường sức khỏe của nền kinh tế. Có thể khái quát vai trò của lãi suất qua 2 nội dung là vai trò vĩ mô và vai trò vi mô: 1. Vai trò Vĩ mô: Đối với Ngân hàng Nhà nước thì lãi suất là công cụ điều tiết kinh tế vĩ mô. Sự biến động của lãi suất trong quá trình điều chỉnh của Ngân hàng Nhà nước tác động đến nhiều mặt của nền kinh tế như đầu tư,tiêu dùng ,tiết kiệm,tỷ giá…qua đó ảnh hưởng trực tiếp đến các mục tiêu kinh tế vĩ mô của đất nước. Trong nền kinh tế thị trường, người tiêu dùng và các doanh nghiệp có thể tiến hành bất cứ việc gì nếu họ muốn trong khuôn khổ pháp luật,miễn là họ có phương tiện thanh toán.Vì vậy bằng cách kiểm soát giá bán và mua quyền sử dụng tiền tức lãi suất, Ngân hàng Nhà nước ở bất kì quốc gia nào cũng có thể chi phối dược sự tăng trưởng nền kinh tế. Bằng cách tăng lãi suất, Ngân hàng Nhà nước có thể làm yếu đi khả năng cho vay của các Ngân hàng thương mại và do đó thực hiện chính sách tiền tệ, giảm bớt khối lượng tiền cần thiết cho việc mở rộng sản xuất kinh doanh và chi tiêu của người tiêu dùng. Cũng như vậy, bằng cách sử dụng lãi suất, Ngân hàng Nhà nước có thể tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển. Hoặc muốn kìm hãm tốc độ phát triển hay đẩy mạnh phát triển một ngành nào đó,Ngân hàng Nhà nước có thể tăng hoặc giảm lãi suất cho vay để thu hẹp hay mở rộng đầu tư ở ngành này. Bên cạnh vai trò hướng dẫn điều hành nền kinh tế, lãi suất tín dụng còn đóng vai trò tích cực trong kìm chế lạm phát. Tháng 3 năm 1989, Việt Nam chủ trương áp dụng chế độ siêu lãi suất tiền gửi đã nhanh chóng đem lại kết quả là chặn đứng lạm phát: từ 7% trong tháng 1; 9,2% trong tháng 2 đã giảm xuống 4,5% trong tháng 3; 3,5% trong tháng 4 và tiếp tục giảm trong những tháng sau. Điều này khẳng định sức mạnh của công cụ lãi suất trong điều tiết nền kinh tế ở tầm vĩ mô dù có gây nên hiệu ứng tiêu cực đến hoạt động kinh tế. Từ năm 1989 đến nay, chính sách lãi suất luôn được sử dụng để điều chỉnh nền kinh tế ở Việt Nam. Sau khi đã kiềm chế và giữ được lạm phát ở mức độ ổn định, Ngân hàng Nhà nước đang thực hiện hạ thấp dần khung lãi suất để khuyến khích hoạt động đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh,khôi phục kinh tế. Có thể nói chính sách lãi suất là một bộ phận của chính sách tiền tệ của nhà nước nhằm điều hòa lưu thông tiền tệ, kích thích, điều tiết và hướng dẫn sản suất kinh doanh của các đơn vị kinh tế. Lãi suất cho vay được sử dụng để mở rộng cung ứng tiền tệ, thu hẹp đầu tư và kiềm chế lạm phát. Thực hiện vai trò đòn bẩy kinh tế, lãi suất sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với mục tiêu kinh tế ở những giai đoạn khác nhau. Những ưu đãi về lãi suất, về điều kiện cung ứng tín dụng và thanh toán là công cụ của nhà nước nhằm khuyến khích các doanh nghiệp vào các loại sản phẩm cần ưu tiên trong chiến lược phát triển kinh tế. Điều này có ý nghĩa quan trọng đối với các nước chậm phát triển muốn có những bước nhảy vọt để đi ngay vào công nghệ hiện đại trong thời đại hiện nay. Như vậy, có thể coi lãi suất là công cụ trực tiếp của chính sác tiền tệ. Nó ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến khối lượng tiền cung ứng trong lưu thông, từ đó đạt được các mục tiêu của chính sách tiền tệ. Một sự điều chỉnh trong cơ chế điều hành lãi suất sẽ tác động đến lượng tiền trong lưu thông, đặc biệt là lượng tiền cung ứng của các ngân hàng vào lưu thông vì lãi suất ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận kinh doanh của các ngân hàng.Việc mở rộng khung lãi suất, hoặc tăng trần lãi suất đối với cơ chế điều hành lãi suất cũ hoặc tăng lãi suất cơ bản trong cơ chế điều hành lãi suất mới đều có tác dụng làm tăng lượng tiền trong lưu thông và ngược lại. Một tác động khác của lãi suất đó là ảnh hưởng của nó tới đầu tư,tiết kiệm. Có nhiều ý kiến khác nhau về tác động của lãi suất đến sự hình thành tiết kiệm, nhưng hầu hết các nhà kinh tế đều cho rằng mức lãi suất có tác động đến quy mô tiết kiệm của nhân dân. Nếu lãi suất thực tế càng cao thì số tiền gửi vào ngân hàng càng lớn.Việc này sẽ tác động đến quy mô mua sắm tài sản của nhân dân. Khi lãi suất dương,nó sẽ kích thích người dân gửi tiết kiệm tại ngân hàng vì nó có khả năng sinh lời cao và an toàn hơn việc tích trữ tài sản, nhờ đó nguồn vốn nói chung của ngân hàng tăng lên và khối lượng tiền tệ phục vụ cho nền kinh tế quốc dân cũng tăng lên, ảnh hưởng của lãi suất thực tế dương đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiết kiệm tài chính. Tóm lại, lãi suất tác có tác động đến nhiều mặt đến nền kinh tế, đến sự phát triển và tăng trưởng kinh tế. Một chính sách lãi suất hợp lý sẽ vừa là điều kiện thu hút các khoản vốn nhàn rỗi, vừa để thúc đẩy đầu tư trong nền kinh tế, giúp cho nền kinh tế tăng trưởng ổn định. 2. Vai trò vi mô Lãi suất là yếu tố thúc đẩy kinh doanh có hiệu quả của các doanh nghiệp, bù đắp chi phí và đem lại lợi nhuận cho Ngân hàng: Doanh nghiệp vay vốn của ngân hàng phải hoàn trả đúng kì hạn cả vốn lẫn lãi.Vì vậy, muốn đảm bảo có nguồn vốn trả nợ, doanh nghiệp phải quan tâm thực sự đến kết quả sản xuất kinh doanh của mình. Nếu hoàn trả nợ không đúng kì hạn, lãi suất quá hạn cao hơn lãi suất đúng hạn (bằng 1,5 lần lãi suất đúng hạn) điều này thúc đẩy các doanh nghiệp phải cố gắng kinh doanh tốt, đảm bảo khả năng trả nợ đúng hạn. Hoạt động tài chính của ngân hàng kinh doanh và TCTD là huy động vốn để cho vay. Khi huy động vốn, ngân hàng phải trả lãi cho người gửi, khi cho vay sẽ thu lãi của người vay. Ngân hàng phải tính toán mức lãi suất cho vay và đi vay hợp lý để bù đắp các khoản chi phí nghiệp vụ và có lợi nhuận cho mình. Mặt khác, lãi suất chính là công cụ để cạnh tranh giữa các TCTD.Thời gian gần đây, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chỉ khống chế “trần” tối đa về lãi suất cho vay và mức độ chênh lệch giữa lãi suất tiền gửi và lãi suất tiền vay nhằm đảm bảo các lợi ích cho người gửi, người vay và ngân hàng kinh doanh có khả năng bù đắp chi phí và một phần rủi ro nếu có. Trong kinh tế thị trường, do yêu cầu của quy luật cạnh tranh, mọi thành phần kinh tế đều có sự cạnh tranh quyết liệt vì sản phẩm tiêu thụ, giá bán, phương thức phục vụ, dịch vụ bán hàng…. Đứng vững được trong quá trình cạnh tranh đó là điều khồng đơn giản. Với phương châm “đi vay để cho vay”, hoạt động huy động và sử dụng vốn của ngân hàng có liên quan chặt chẽ với nhau. Vì vậy, các ngân hàng thương mại đều phải đổi mới phương thức phục vụ và huy động vốn để huy động được vốn tối đa đồng thời cũng phải đẩy mạnh cho vay. Ngoài ra, các TCTD khác cũng cần phấn đấu hạ thấp chi phí, tạo cơ sở hạ thấp lãi suất”đầu ra” để thu hut được nhiều khách hàng đến mở tài khoản và vay vốn. CHƯƠNG II. SỰ ẢNH HƯỞNG CỦA CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT TỚI NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG VIỆT NAM 1. THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT VÀ DIỄN BIẾN LÃI SUẤT TẠI VIỆT NAM THỜI KỲ TỪ NĂM 2000 ĐẾN NAY Trước đây NHNN ấn định một trần lãi suất cho vay, ví dụ như trần 0.85%/tháng vào thời điểm trước tháng 8/2000. Thực tế là trong năm 1999, các NHTM đã không theo kịp đợt hạ trần lãi suất của NHNN , và kết quả là lãi suất cho vay ngắn hạn bình quân vượt trên trần. Tháng 8/2000, NHNN thay thế cơ chế lãi suất trần bằng một cơ chế lãi suất mới, đó là áp dụng cơ chế lãi suất cơ bản, nhìn chung cũng gần giống với cơ chế lãi suất trần trước đây. Tuy nhiên thì lãi suất cơ bản cộng biên độ cao hơn lãi suất trần trước đây rất nhiều, đây là cơ sở để các Ngân hàng thoả thuận lãi suất với khách hàng. Có nghĩa là các Ngân hàng bắt đầu xây dựng lãi suất dựa trên sự thoả thuận với khách hàng. Theo cơ chế lãi suất này, lãi suất cho vay của đồng nội tệ của Ngân hàng được điều chỉnh theo lãi suất cơ bản do NHNN công bố. Các Ngân hàng không được tính lãi suất cho vay vượt quá lãi suất cơ bản cộng biên độ 0.3%/tháng đối với vốn ngắn hạn và 0.5%/tháng đối với vốn trung, dài hạn. Lãi suất cho vay của các Ngân hàng luôn cao hơn mức lãi suất cơ bản nhưng biến động theo lãi suất cơ bản. Trong năm 2000 và 2001, cả hai mức lãi suất này đều giảm song lãi suất tiền gửi lại tăng lên trong thời gian này. Cạnh tranh giữa các Ngân hàng làm giảm đi rõ rệt chệnh lệch giữa lãi suất huy động và lãi suất cho vay. Đến tháng 11/2001, lãi suất cho vay ngoại tệ được tự do hoá, cho phép người đi vay có thể thương lượng lãi suất với Ngân hàng cho vay. Từ ngày 1/6/2002, NHNN thay cơ chế điều hành lãi suất đồng Việt Nam thông qua lãi suất cơ bản và biên độ bằng việc áp dụng cơ chế lãi suất thỏa thuận trong hoạt động tín dụng thương mại bằng đồng Việt Nam của TCTD đối với khách hàng. Theo đó, các TCTD xác định lãi suất cho vay bằng đồng Việt Nam trên cơ sở cung cầu vốn thị trường và mức độ tín nhiệm của khách hàng. NHNN không quy định biên độ lãi suất cho vay so với lãi suất cơ bản nhưng vẫn tiếp tục công bố lãi suất cơ bản để làm tham khảo và định hướng lãi suất thị trường. Có thể nói, đó là bước tiến quan trọng trong quá trình tự do hóa lãi suất ở Việt Nam. Để định hướng lãi suất thị trường, từ tháng 3/2003, NHNN đã bước đầu hình thành khung lãi suất với lãi suất tái cấp vốn được điều chỉnh dần theo hướng làm lãi suất trần, lãi suất chiết khấu được quy định theo hướng làm lãi suất sàn của thị trường liên ngân hàng; đồng thời áp dụng phân bổ hạn mức chiết khấu. Lãi suất nghiệp vụ thị trường mở được điều hành linh hoạt trong khung lãi suất tái cấp vốn và lãi suất chiết khấu. Quá trình đổi mới kiểm soát lãi suất nền kinh tế từ cơ chế lãi suất trần sang cơ chế lãi suất thỏa thuận (thực chất là tự do hóa lãi suất) là những bước đi rất thận trọng và đến nay đã đạt được một số thành công nhất định. Tuy nhiên, trong thực tế, các lãi suất do NHNN công bố chưa có tác động hiệu quả đến lãi suất thị trường bởi các nguyên nhân chủ yếu sau: Thị trường tiền tệ liên ngân hàng còn thấp kém, chưa phát triển, diễn biến lãi suất chưa phản ánh xác thực tương quan cung – cầu trên thị trường, chưa có lãi suất chuẩn trên thị trường tiền tệ; NHNN chưa có cơ chế nắm bắt đầy đủ và kịp thời diễn biến lãi suất liên ngân hàng; việc tiếp cận các nghiệp vụ hỗ trợ vốn từ NHNN, nhất là nghiệp vụ tái cấp vốn và nghiệp vụ chiết khấu còn hạn chế; NHNN còn chưa xác định rõ cơ chế chuyển tải chính sách tiền tệ bao gồm cả việc xác định mục tiêu hoạt động và mục tiêu trung gian của chính sách tiền tệ (NHNN cùng một lúc theo đuổi nhiều mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ như tăng trưởng kinh tế, kiểm soát lạm phát, tăng dự trữ ngoại tệ, an toàn hệ thống). Đồng thời để hỗ trợ cho việc tự do hóa lãi suất, NHNN đã ban hành Quy chế thực hiện giao dịch hoán đổi lãi suất, cũng như cho phép thực hiện thí điểm giao dịch quyền chọn ngoại tệ có hạn chế, mở rộng thực hiện thí điểm các giao dịch hoán đổi giá cả hàng hóa. Ngoài ra, khi có yêu cầu, NHNN vẫn xem xét, cho phép các NHTM thực hiện thí điểm từng trường hợp cụ thể đối với các giao dịch phát sinh khác. Các biện pháp hỗ trợ này đã góp phần tạo điều kiện để các NHTM đa dạng hóa các sản phẩm, hạn chế và phòng chống rủi ro phục vụ khách hàng. Kể từ năm 2004, do sự biến động theo chiều hướng tăng mạnh của giá nguyên vật liệu trên thế giới khiến chi phí sản xuất tăng lên làm cho giá cả tăng nhanh chóng, mức tăng lãi suất không theo kịp để bù đắp cho lạm phát. Cho đến hết năm 2005 thì lãi suất thức tế đều bị âm. Lạm phát gia tăng ở nhiều nước. Việc Cục dữ trữ Liên bang Mỹ (FED) đẩy lãi suất lên cao cũng ảnh hướng trực tiếp tới tình hình lãi suất tại Việt Nam. Năm Lãi suất cho vay (%/năm) Lạm phát (%/năm) Lãi suất cho vay thực tế (%/năm) Tỷ lệ LSCVTT/TP (%) 2001 9.0 0.8 8.2 1052.0 2002 9.2 4.0 5.2 130.0 2003 9.6 3.0 6.6 220.0 2004 10.0 9.5 0.5 5.2 2005 - - - - Bảng 1: Tình hình lãi suất cho vay qua các năm(2001-2005). Năm Lãi suất huy động (%/năm) Lạm phát (%/năm) Lãi suất huy động thực tế (%/năm) Tỷ lệ LSHĐTT/TP (%) 2001 5.4 0.8 4.6 575.0 2002 6.0 4.0 3.0 50.0 2003 6.2 3.0 3.2 106.6 2004 6.2 9.5 -3.3 -34.74 2005 - - - - Bảng 2: Tình hình lãi suất huy động qua các năm(2001-2005). Trước tình hình năm 2004-2005 có nhiều diễn biến, giá cả tăng, nhu cầu tín dụng cho nền kinh tế cũng tăng, NHNN chủ trương ổn định lãi suất cơ bản, lãi suất chiết khấu, lãi suất tái cấp vốn, sử dụng chính sách dữ trữ bắt buộc để kiềm chế lạm phát. Loại lãi suất Giá trị Văn bản quyết định Ngày áp dụng Lãi suất cơ bản 0,65%/tháng (7,8%/năm) 1426/QĐ-NHNN ngày 30/9/2005 01/10/2005 Lãi suất tái cấp vốn 6,00%/năm 316/QĐ-NHNN ngày 25/3/2005 01/04/2005 Lãi suất chiết khấu 4,00%/năm 316/QĐ-NHNN ngày 25/3/2005 01/04/2005 Bảng 3: Mức lãi suất của Ngân hàng Nhà nước áp dụng với các NHTM. Tám tháng đầu năm 2006, lãi suất cơ bản tiền đồng vừa được Ngân hàng nhà nước (NHNN) công bố là 8,25%/năm, cũng là mức đã được duy trì từ tháng 12-2005. Trong khi đó, trên thị trường, lãi suất huy động bình quân hiện đã lên khoảng 9,2%/năm. Như vậy, với mức lãi suất cơ bản đã được tăng lên 8,25%/năm, tức 0,6875%/tháng thì lãi suất cho vay không được vượt quá 1,1%/tháng theo quy định của Bộ luật Dân sự. Nếu đối chiếu với lãi suất cho vay để sản xuất kinh doanh hay các hợp đồng dân sự hiện nay, con số này quá xa rời thực tế. Ở hầu hết các nước, lãi suất cơ bản được hình thành trên cơ sở thị trường và được coi như mức lãi suất tối thiểu để bù đắp chi phí và có một mức lợi nhuận bình quân cho phép. Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam cũng có quy định: “Lãi suất cơ bản do Ngân hàng Trung ương công bố sẽ làm cơ sở cho TCTD ấn định lãi suất cho vay bằng đồng Việt Nam đối với khách hàng”. Nhưng hiện lãi suất cơ bản mới chỉ dừng ở vai trò định hướng của Ngân hàng nhà nước với thị trường chứ chưa đủ sức để giúp Ngân hàng nhà nước điều tiết cung cầu trên thị trường. Lãi suất cơ bản của Việt Nam tiêu biểu cho đặc điểm của một thị trường tiền tệ chưa hoàn hảo. Lãi suất cơ bản vẫn chênh lệch lớn với lãi suất thương mại - nơi gặp gỡ giữa cung và cầu thực của thị trường. Lãi suất cơ bản cũng chưa tương thích với các công cụ tài chính khác trên thị trường như lãi suất trái phiếu chính phủ, lãi suất trái phiếu kho bạc... Điều đó cũng cho thấy sự gắn kết giữa các loại thị trường tiền tệ với nhau cũng kém chặt chẽ, thậm chí còn mâu thuẫn. 2. SỰ ẢNH HƯỞNG CỦA CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT TỚI NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG VIỆT NAM GIAI ĐOẠN TỪ NĂM 2000 ĐẾN NAY Sau khi thực hiện tự do hoá lãi suất, do sự cạnh tranh giữa các Ngân hàng đã đẩy lãi suất huy động và lãi suất cho vay lên cao. Dẫn tớ việc lãi suất thực tế trong 3 năm từ năm 2001 đến năm 2003 là khá cao. Trên thực tế cho thấy lãi suất giờ đây đã phản ánh đúng hơn cung cầu trên thị trường vốn vay, các ngân hàng hoạt động theo cơ chế thị trường và sẽ đẩy mạnh cải cách để tăng cường khả năng cạnh tranh. Nói chung, có ba ý kiến khác nhau về cơ chế lãi suất cơ bản. Ý kiến thứ nhất cho cơ chế mới không có gì khác với trần lãi suất trước đây. Đặc biệt, chính sách này cũng như trần lãi suất, hoàn toàn loại bỏ những người vay vốn nhỏ (như tiểu thương, hộ sản xuất nhỏ và cá nhân) ra khỏi thị trường tài chính chính thức. Lý do là chi phí cho vay đối với các đối tượng này thường lớn nên không thể cho họ vay nếu không áp dụng lãi suất cao. Ý kiến thứ hai nhấn mạnh tính tích cực của cơ chế lãi suất cơ bản. Trong phạm vi biên độ cho phép (0,3%/tháng đối với vay ngắn hạn và 0,5%/tháng đối với vay dài hạn) các ngân hàng có thể định mức lãi suất cho mỗi hợp đồng tùy theo mức độ rủi ro, chứ không còn áp dụng một mức chung cho tất cả các khách hàng như trước đây. Cạnh tranh trong hệ thống các TCTD sẽ gia tăng và hiệu quả phân bổ vốn cũng sẽ được cải thiện. Hơn thế nữa, Ngân hàng Nhà nước trong nhiều trường hợp đã thay đổi lãi suất cơ bản theo tình hình lãi suất trên thị trường. Đây là tín hiệu để có thế tiến tới tự do hóa hoàn toàn lãi suất. Ý kiến thứ ba lại mang tính bi quan trước cơ chế mới. Theo ý kiến này, việc các ngân hàng được tự do định đoạt lãi suất trong khi các doanh nghiệp nhà nước chậm đổi mới sẽ chỉ làm trầm trọng thêm quan hệ tài chính vốn không được lành mạnh giữa hai thực thể này. Đối với các doanh nghiệp nhà nước ngầm hiểu là được chính phủ bảo lãnh, ngân hàng sẽ sẵn sàng cho vay với lãi suất trong khoảng 0,6-0,65%/tháng, trong khi khu vực tư nhân có thể phải trả lãi suất tới 0,75-0,8%/tháng vì các ngân hàng coi việc cho khu vực này vay là rủi ro hơn. Sự cạnh tranh mở rộng quy mô Ngân hàng đẩy lãi suất lên cao, làm cho lãi suất không ổn định. Lãi suất cơ bản hiện nay được sử dụng chỉ mang tính chất tham khảo, các công cụ chính của Ngân hàng Nhà nước sử dụng là: lãi suất chiết khấu, lãi suất tái cấp vốn… kết hợp với lãi suất thị trường và các công cụ tài chính khác. Hơn thế nữa, khi lãi suất cơ bản chỉ còn tính chất tham khảo thì các ngân hàng hoàn toàn có thể cho với các lãi suất khác nhau tùy theo mức độ rủi ro của khách hàng và chi phí cho vay. Các đối tượng vay như hộ kinh doanh nhỏ hay nông dân không còn bị loại ra ngoài cuộc chơi như trước đây. Do diễn biến lạm phát năm 2004 - 2005, các Ngân hàng trên thế giới đồng loạt tăng lãi suất do sức ép của việc Cục dự trữ Liên bang Mỹ(FED) tăng lãi suất đồng ngoại tệ. Nửa đầu năm 2006, xu thế cạnh tranh lãi suất giữa các Ngân hàng tăng mạnh dẫn tới lãi suất huy động t ăng lên nhanh chóng, hầu hết các Ngân hàng tăng lãi suất khiến thoả thuận về lãi suất trước đó giữa các Ngân hàng, các TCTD bị xoá bỏ. Trước việc tăng lãi suất huy động khá nhanh như vậy, nhiều ý kiến tỏ ra quan ngại về sự tác động của nó tới lãi suất cho vay, gây ảnh hưởng không tốt tới đầu tư sản xuất kinh doanh của nền kinh tế. Với mức lãi suất cơ bản đã được tăng lên 8,25%/năm, tức 0,6875%/tháng thì lãi suất cho vay không được vượt quá 1,1%/tháng theo quy định của Bộ luật Dân sự. Nếu đối chiếu với lãi suất cho vay để sản xuất kinh doanh hay các hợp đồng dân sự hiện nay, con số này quá xa rời thực tế. Trong khi, ở hầu hết các nước, lãi suất cơ bản được hình thành trên cơ sở thị trường và được coi như mức lãi suất tối thiểu để bù đắp chi phí và có một mức lợi nhuận bình quân cho phép. Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam cũng có quy định: “Lãi suất cơ bản do Ngân hàng Trung ương công bố sẽ làm cơ sở cho TCTD ấn định lãi suất cho vay bằng đồng Việt Nam đối với khách hàng”. Nhưng hiện lãi suất cơ bản mới chỉ dừng ở vai trò định hướng của Ngân hàng nhà nước với thị trường chứ chưa đủ sức để giúp Ngân hàng nhà nước điều tiết cung cầu trên thị trường. Lãi suất cơ bản của Việt Nam tiêu biểu cho đặc điểm của một thị trường tiền tệ chưa hoàn hảo. Lãi suất cơ bản vẫn chênh lệch lớn với lãi suất thương mại - nơi gặp gỡ giữa cung và cầu thực của thị trường. Lãi suất cơ bản cũng chưa tương thích với các công cụ tài chính khác trên thị trường như lãi suất trái phiếu chính phủ, lãi suất trái phiếu kho bạc... Điều đó cũng cho thấy sự gắn kết giữa các loại thị trường tiền tệ với nhau cũng kém chặt chẽ, thậm chí còn mâu thuẫn. Theo một quan chức NHNN, để hạ lãi suất xuống là không dễ. Một vài nước trước kia, chẳng hạn như Hàn Quốc sau khi áp dụng cơ chế tự do hoá lãi suất cũng gặp tình trạng lãi suất tăng khó điều chỉnh. Việt Nam cũng chỉ mới áp dụng cơ chế lãi suất thoả thuận mà bản chất là cho các ngân hàng tự quyết định lãi suất huy động và cho vay từ năm 2002, là một thời gian chưa dài. Cũng theo quan chức này, nếu ở Mỹ, khi FED tăng giảm lãi suất cơ bản thì các ngân hàng phải thay đổi theo. Đơn giản là vì các công cụ chính sách tiền tệ, cơ chế truyền tải đã quá phát triển và hoàn thiện. Còn tại Việt Nam, công cụ chính sách tiền tệ còn yếu, phạm vi lẫn quy mô tác động kém, cái yếu này không hoàn toàn do NHNN mà còn do thị trường mới phát triển. Chính vì vậy mới có chuyện NHNN đưa ra động thái thu tiền vào hay bơm tiền ra, có khi mất vài tháng tới cả năm hoặc thậm chí dài hơn, thị trường mới có phản ứng với động thái đó. Theo ông Lê Xuân Nghĩa, Vụ trưởng Vụ Chiến lược phát triển ngân hàng (NHNN) thì rủi ro lãi suất là rủi ro cơ bản dễ mắc phải của các ngân hàng hiện nay. Nó là một loạt các phản ứng dây chuyền, khi lãi suất tăng khiến chi phí huy động tăng, người đi vay cũng phải chịu chi phí cao hơn, rủi ro thất bại của dự án đầu tư cũng tăng theo và nếu quá ngưỡng sẽ dẫn đến nguy cơ vỡ nợ. Còn nếu ngân hàng tăng lãi suất huy động mà không tăng lãi suất cho vay thì khoảng cách lãi suất sẽ co hẹp lại, lợi nhuận giảm và không trích đủ dự phòng rủi ro cũng dẫn ngân hàng đến hậu quả tương tự khi người vay vốn gặp rủi ro. Điều mà ông Nghĩa nêu ra đã được nhắc nhiều lần trên các diễn đàn. Nó được tô đậm thêm bởi các chuyên gia quốc tế khi họ đưa ra so sánh khoảng cách lãi suất huy động và cho vay của các ngân hàng Việt Nam rất thấp, chỉ khoảng trên dưới 2,5% so với các nước khác từ 3,5 đến 4%/năm. Mức chênh lệch như vậy mới có thể đảm bảo bù đắp được rủi ro. 3. DỰ BÁO ẢNH HƯỞNG VÀ THAY ĐỔI CỦA CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT TỚI NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG VIỆT NAM SAU KHI GIA NHẬP WTO Kể từ 1/4/2007, các Ngân hàng Mỹ và Ngân hàng nước ngoài khác sẽ được phép thành lập các chi nhánh 100% vốn nước ngoài. Các chi nhánh và văn phòng đại diện này sẽ được hưởng chế độ đãi ngộ quốc gia ngay sau khi Việt Nam gia nhập WTO. Các chi nhánh ngân hàng của Mỹ sẽ được nhận tiền gửi bằng VND không giới hạn từ các pháp nhân, được thời phát hành thẻ tín dụng. Kể từ ngày Việt Nam gia nhập WTO, các công ty chứng khoán nước ngoài có thể tham gia thành lập liên doanh với số cổ phần tối đa là 49%. 5 năm sau người nước ngoài được thành lập công ty chứng khoán 100% vốn nước ngoài và mở chi nhánh tại Việt Nam với các hoạt động như quản lý tài sản, tư vấn, dịch vụ thanh toán... Các công ty đầu tư nước ngoài thành lập ở Việt Nam được hưởng chế độ đãi ngộ quốc gia (không phân biệt đối xử) trong tất cả các lĩnh vực con (sub-sector) dịch vụ tài chính. Do vậy, xu hướng tăng lãi suất và cạnh tranh lãi suất giữa các Ngân hàng hiện nay chắc chắn sẽ tiếp tục gia tăng. Mức lãi suất cơ bản từ đó có thể cũng sẽ thay đổi đáng kể so với hiện tại… Xu hướng này có thể kích thích đầu tư tương đối song cũng có thể tạo ra các hiệu ứng không tốt cho thị trường tài chính Việt Nam, các Ngân hàng trong nước có thể sẽ không cạnh tranh được với một số các Ngân hàng nước ngoài khác dẫn tới giảm lợi nhuận. CHƯƠNG III. GIẢI PHÁP ĐỂ HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT TRONG THỜI GIAN TỚI Trong nền kinh tế hiện đại, tự do hoá tài chính và hội nhập quốc tế là vấn đề mang tính chiến lược và là xu thế phát triển tất yếu, trong đó tự do hoá lãi suất đóng vai trò là hạt nhân và làm cho các nguồn tài chính lưu thông trong suốt, từ đó góp phần làm thúc đẩy kinh tế - tài chính Việt Nam hội nhập vào nền kinh tế thế giới phù hợp với xu hướng toàn cầu hoá như hiện nay. Tuy nhiên quá trình tự do hoá lãi suất tự do hoá lãi suất ở nước ta phải được xem xét kĩ lưỡng và tiến hành một cách thận trọng trong khi vẫn tiếp tục kết hợp với những giải pháp nhằm hoàn thiện dần môi trường tự do hoá lãi suất. Thứ nhất, việc tự do hoá lãi suất tiền gửi và cho vay ngoại tệ đã được tiến hành tuy nhiên vẫn chưa thực sự đem lại hiệu quả cao. Hiện nay, các quy định khống chế lãi suất tiền gửi tối đa bằng USD của khách hàng tại các TCTD - một rào cản đối với quá trình tự do hoá lãi suất - đã được bãi bỏ, tuy nhiên môi trường pháp lí cho việc tự do hoá lãi suất ngoại tệ vẫn còn chồng chéo, chưa được nới lỏng, chưa thật sự thu hút người gửi tiền và người đi vay. Thứ hai, trên thị trường nội tệ lãi suất cho vay bằng đồng Việt Nam không còn bị khống chế song vẫn chưa được tự do hoá. Do vậy cần hình thành và hoàn thiện cơ chế điều hành lãi suất trên thị trường tiền tệ song song với việc thực hiện nhiều giải pháp nhằm phát triển thị trường tiền tệ, đồng thời tiếp tục nâng cao hiệu quả của các công cụ lãi suất thông qua lựa chọn lãi suất định hướng phù hợp với mức độ phát triển của thị trưòng tiền tệ. Việc hoàn thiện cơ chế lãi suất trên thị trường tiền tệ và nâng cao hiệu quả của các công cụ lãi suất phải được tiến hành theo hướng tác động nhanh, mạnh đến thị trường tiền tệ trong những thời điểm cần thiết hay những giai đoạn diễn biến bất lợi cho hoạt động tiền tệ đảm bảo điều tiết được thị trường tiền tệ. I. GIẢI PHÁP ĐIỀU HÀNH VÀ KIỂM SOÁT LÃI SUẤT THỊ TRƯỜNG TIỀN TỆ 1. Hoàn thiện cơ chế tự do hoá lãi suất bằng VNĐ Hoàn thiện cơ chế điều hành lãi suất trên thị trường tiền tệ: Nhà nước cần nghiên cứu sửa đổi quy định về cơ chế tài chính đối với các tổ chức tín dụng đồng thời tiến hành đồng bộ các biện pháp đồng bộ. Ở tầm vĩ mô: - Chính sách lương, thưởng cần tiến hành theo phương thức phân cấp thu thập thay vì bảo đảm tính bình quân như hiện nay nhằm thúc đẩy sự sáng tạo, nhiệt tình của các nhân viên cũng như lãnh đạo các Ngân hàng thương mại Quốc doanh. - Thay đổi quy định về cơ chế tài chính tạo điều kiện cho các ngân hàng được chủ động trong tài chính là động lực để các ngân hàng hoạt động lành mạnh, phát triển, tránh được tình trạng chảy máu các cán bộ giỏi về chuyên môn vững vàng trong điều hành hoạt động kinh doanh tiền tệ. - Sớm ban hành các văn bản đánh giá lại giá trị tài sản cố định hiện có tại các ngân hàng, từ đó xác định được chính xác số vốn nhà nước tham gia vào các Ngân hàng thương mại Quốc doanh. - Các Ngân hàng thương mại Quốc doanh cần nhanh chóng cơ cấu lại nợ, vay ngân hàng: xử lý dứt điểm các khoản nợ khó đòi; tiến hành tách hẳn hoạt động cho vay chính sách sang cho Ngân hàng chính sách nhằm thực hiện xóa bỏ các hình thức cho vay ưu đãi trong hệ thống NHTM. - Hoàn chỉnh đề án và tiến hành cổ phần hoá từng bước các NHTM cho phép các ngân hàng này phát hành cổ phiếu mới nhưng nhà nước vẫn là cổ đông lớn của ngân hàng. Những giải pháp trên sẽ tạo điều kiện cho các NHTM phát huy hết năng lực, chủ động điều hành mọi mặt, nâng cao khả năng cạnh tranh, tạo điều kiện tốt cho tiến trình tự do hoá lãi suất và hội nhập vào nền kinh tế quốc tế. ở tầm vi mô, các NHTM phải tìm cách tăng cường khả năng cạnh tranh thông qua việc nâng cao chất lượng phục vụ và phát triển dịch vụ ngân hàng kết hợp với những biện pháp tiếp thị. Bên cạnh đó, các Ngân hàng này cần thực hiện tốt công tác cân đối tín dụng vừa huy động vốn hiệu quả và sử dụng vốn hợp lý nhằm đạt được mục tiêu tăng trưởng tín dụng tốt. Cụ thể có thể tiến hành như sau: - Điều hành lãi suất phải đảm bảo tính thống nhất trong toàn hệ thống từng ngân hàng. - TCTD cần thành lập bộ phận chuyên theo dõi, nghiên cứu về lãi suất. - TCTD cần xác định lãi suất điều hoà vốn nội bộ và tự chủ trong việc đưa ra biên độ dao động hợp lý so với lãi suất trên thị trường liên Ngân hàng. Giải pháp phát triển thị trường tiền tệ - NHNN cần thực hiện các giải pháp hoàn thiện cơ chế điều hành lãi suất thoả thuận. - Cần phát triển hệ thống hạ tầng cơ sở của thị trường tiền tệ và NHNN phải làm tốt vai trò là người mua bán cuối cùng khi tiến hành can thiệp vào thị trường này. - Để tăng cường phạm vi, hiệu quả điều tiết thị trường tiền tệ của NHNN, đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của thực tiễn và phù hợp với thông lệ quốc tế cần đẩy mạnh quá trình chuyển đổi, điều hành các công cụ của chính sách tiền tệ và của thị trường tiền tệ từ trực tiếp sang gián tiếp. 2. Nâng cao hiệu quả của các công cụ lãi suất Hiện nay trên thế giới có rất nhiều cách xác định mức lãi suất điều hành của thị trường tiền tệ: ở Mĩ, FED sử dụng lãi suất định hướng liên ngân hàng và lãi suất chiết khấu; ECB sử dụng lãi suất tái cấp vốn, lãi suất cho vay qua đêm và lãi suất tiền gửi qua đêm; BOJ ( Nhật Bản) sử dụng lãi suất chiết khấu và lãi suất qua đêm; trong khi đó xu thế sử dụng lãi suất liên ngân hàng đang dần trở nên phổ biến ở các quốc gia đang phát triển.Thị trường liên ngân hàng có thể hiểu là thị trường vốn “bán buôn” giữa các ngân hàng. Chính vì vậy lãi suất trên thị trường liên Ngân hàng luôn là một biến số nhay cảm và phản ánh đầy đủ nhất sự biến động của thị trường, nó được coi là lãi suất tham chiếu và đo lường sự biến động của thị trường liên Ngân hàng nói riêng và thị trường tiền tệ nói chung. Do đó, chúng tôi cũng tán thành với ý kiến đưa lãi suất trên thị trường liên Ngân hàng trở thành loại lãi suất điều hành trên thị trường tiền tệ Việt Nam. Hiện nay, thị trường liên ngân hàng hình thành lãi suất dựa trên cơ sở lãi suất thoả thuận (lãi suất cho vay dựa trên cơ sở tự thẩm định và thương lượng đối với khách hàng). Giải pháp chung: cần nâng cao hiệu quả hoạt động thị trường liên Ngân hàng đảm bảo lãi suất thị trường này là cơ sở để ngân hàng trung ương xác định lãi suất điều hành VNĐ (lãi suất VNBOR) Cụ thể: - Nên chọn ra một số ngân hàng có uy tín và dựa trên lãi suất chào của các ngân hàng trên thị trường làm cơ sở để xác định mức lãi suất giao dịch bình quân trên thị trường liên ngân hàng. lãi suất bình quân này sẽ được công bố hàng ngày để các TCTD tham khảo. - NHNN cần xây dựng một đề án lãi suất trên cơ sở lãi suất liên ngân hàng và các tỷ lệ lãi suất khác. Bên cạnh đó, các loại lãi suất khác cũng cần phải được sửa đổi và bổ sung cho phù hợp với xu thế phát triển trong thời gian tới nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả của các công cụ lãi suất này. Lãi suất tín phiếu kho bạc NHNN cần kết hợp với Bộ Tài Chính tổ chức đấu thầu tín phiếu kho bạc, mỗi lần đấu thầu giá trị của tín phiếu phải phù hợp với nhu cầu thực tế của ngân sách. lãi suất tín phiếu kho bạc phải nhỏ hơn lãi suất tái chiết khấu của NHNN thì chính sách tiền tệ mới có thể phát huy tác dụng. Lãi suất tái chiết khấu Lãi suất tái chiết khấu phụ thuộc vào chính sách tiền tệ thắt chặt hay nới lỏng tín dụng trong từng thời kì. Việc xác định và điều chỉnh lãi suất tái chiết khấu phải vừa tạo điều kiện cho các ngân hàng hoạt động kinh doanh nhưng đồng thời không ảnh hưởng đến việc điều hoà và quản lý khối lượng tiền tệ trong lưu thông. Do đó để đảm bảo công cụ tái chiết khấu phát huy tác dụng trong việc điều hành lãi suất trên thị trường cần tạo lập môi trường pháp lý cho sự lưu thông các chứng từ có giá. NHNN cần ban hành các văn bản pháp lý, từng bước nghiên cứu và hoàn thiện luật thương phiếu để tạo điều kiện cho loại hình dịch vụ mới này phát triển. Luật hối phiếu sắp ra đời sẽ giúp cho các Ngân hàng hạn chế rủi ro thông qua nghiệp vụ cho vay chiết khấu hối phiếu. Từ đó, NHNN thực hiện được vai trò của mình thông qua công cụ tái chiết khấu và thị trường có cơ sở vững chắc để giao dịch. Lãi suất trên thị trường mở Nếu công cụ lãi suất tái chiết khấu là công cụ thụ động của NHNN-nó phụ thuộc vào nhu cầu xin “ tái cấp vốn” của các NHTM thì nghiệp vụ thị trường mở là công cụ chủ động của NHNN. Để lãi suất trên thị trường mở trở thành một trong những công cụ chủ yếu của việc điều hành chính sách tiền tệ và trở thành lãi suất mang tính chất định hướng cần: - Bổ sung và đa dạng hoá các công cụ tài chính giao dịch trên thị trường, đa dạng hoá thời gian giao dịch, tập trung phát triển các loại hàng hoá và giấy tờ có giá ngắn hạn cho thị trường mở. - Phát triển hoạt động thông tin thị trường, đồng thời đẩy mạnh các hoạt động ứng dụng các công nghệ thông tin hiện đại trong quá trình thu thập, phân tích và xử lý thông tin,; nâng cao khả năng phân tích và dự báo tình hình thị trường để có biện pháp tác động điều tiết tốt, phù hợp với xu hướng phát triển của thị trường tiền tệ. - Tổ chức tốt hệ thống thông tin giữa các tổ chức tín dụng trên thị trường liên ngân hàng; từng bước nâng cao chất lượng của việc thu thập và dự báo thông tin về vốn khả dụng của các tổ chức tín dụng, đảm bảo cung cấp kịp thời về NHNN để làm cơ sở đưa ra các biện pháp xử lý kịp thời, chính xác và đem lại hiệu quả tốt nhất. Ngoài ra việc nghiên cứu để mở rộng thanh toán không dùng tiền mặt cũng rất cần thiết, điều này tác động đến vốn dự trữ của ngân hàng, từ đó tác động đến khối lượng tín dụng trong nền kinh tế, đến lãi suất thị trường. Cụ thể: - Tiếp tục đẩy nhanh việc hoàn thiện luật thương phiếu để luật này hoạt động đạt hiệu quả cao. - Luật thanh toán séc cần được ban hành cụ thể, chặt chẽ tạo cơ sở pháp lý cho việc mở rộng thanh toán không dùng tiền mặt, từ đó đảm bảo nguồn cung ứng tín dụng dồi dào cho xã hội. II. GIẢI PHÁP TẠO ĐIỀU KIỆN VÀ CƠ SỞ CHO VIỆC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH VÀ CƠ CHẾ ĐIỀU HÀNH LÃI SUẤT Nâng cao tính độc lập, khả năng hoạt động của NHNN; từng bước phân định rõ ràng quyền hạn và trách nhiệm của Quốc hội, Chính phủ và NHNN trong quá trình hoạch định và thực thi chính sách tiền tệ; cấu trúc lại NHNN theo mô hình quản lý tập trung, hiệu quả, phù hợp với chức năng của NHTW; củng cố các thiết chế thị trường tiền tệ có quy mô đủ lớn; ban hành các quy định mới về an toàn hệ thống TCTD, kế toán và kiểm toán ngân hàng; xây dựng hệ thống các biện pháp kiểm soát luồng vốn quốc tế và nợ nước ngoài. Theo đó cần đổi mới hoạch định và điều hành chính sách tiền tệ; nâng cao khả năng dự báo kinh tế vĩ mô và tiền tệ của NHNN; hoàn thiện hệ thống thu thập thông tin tiền tệ nội ngành và kết nối với các tổ chức, bộ, ngành khác để mở rộng bảng cân đối tiền tệ của NHNN; nâng cao năng lực dự báo và điều hành các công cụ chính sách tiền tệ theo hướng đồng bộ, vận hành trôi chảy cơ chế truyền tải tiền tệ. Phát triển thị trường tiền tệ, hiện đại hoá hệ thống thanh toán; đa dạng và chuẩn hoá các công cụ nợ; Phát triển thị trường liên ngân hàng; Phát triển thị trường ngoại hối. Huy động các nguồn vốn, kể cả tài trợ ODA để tiếp tục đầu tư hiện đại hoá hệ thống thanh toán theo phương châm “đi tắt đón đầu”; tiếp tục hoàn thiện hành lang pháp lý trong lĩnh vực thanh toán; cải tiến cơ cấu tổ chức hệ thống thanh toán theo hướng thanh toán tập trung khu vực và xây dựng trung tâm thanh toán bù trừ toàn quốc; khuyến khích các NHTM mở rộng và kết nối mạng lưới giao dịch thanh toán thẻ và các hình thức hiện đại khác. III. KINH NGHIỆM THỰC TIỄN CỦA MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI VÀ BÀI HỌC RÚT RA ĐỐI VỚI VIỆT NAM 1. Từ thất bại của Hàn Quốc từ năm 1988 Hàn Quốc: Nền kinh tế Hàn Quốc được đánh giá như là một con hổ của Châu Á, tuy nhiên quá trình tự do hoá lãi suất ở Hàn Quốc cũng diễn ra hết sức phức tạp và đã để lại những bài học kinh nghiệm sâu sắc đối với các nước khác khi tiến hành tự do hoá lãi suất. Chính phủ Hàn Quốc có ý định tự do hoá tài chính năm 1965 nhưng đến năm 1972 phải quay lại chính sách dồn nén tài chính. Đến năm 1988 trong bối cảnh nền kinh tế có nhiều thuận lợi, tốc độ tăng trưởng đạt mức cao, lạm phát thấp, thặng dư cán cân thanh toán ở mức 24,3 tỷ USD Hàn Quốc đã tiến hành tự do hoá lãi suất cho vay và lãi suất huy động dài hạn. Tuy nhiên chính sách tự do hoá lãi suất đã bị thất bại. Kết quả là sau đó chính phủ Hàn Quốc phải quay trở lại với việc kiểm soát lãi suất. Bài học kinh nghiệm rút ra từ thất bại ở Hàn Quốc là: Tiến hành tự do hoá lãi suất cần phải được tiến hành một cách thận trọng theo nhiều giai đoạn cụ thể. Cần giảm nhẹ xu hướng tăng lãi suất sau khi tiến hành tự do hoá lãi suất. Chính sách tự do hoá lãi suất cần phải được xem xét một cách cẩn trọng thay đổi trong các yếu tố kinh tế vĩ mô như biến động giá và chu kì kinh tế. Rút kinh nghiệm từ những thất bại năm 1988, từ năm 1991 đến năm 1997 chính phủ Hàn Quốc đã tiếp tục thực hiện tự do hoá lãi suất với những bước đi thận trọng hơn. Giai đoạn 1:(thực hiện từ 10/1991) với việc tự do hoá lãi suất cho vay ngắn hạn, chiết khấu thương phiếu, tự do hoá các khoản tiền gửi, tiền gửi ngắn hạn có mệnh giá cao, chứng chỉ tiền gửi, tiền gửi tiết kiệm có kì hạn trên 3 năm. Giai đoạn 2:(từ 12/1993) tự do hoá lãi suất cho vay (trừ các khoản vay được tài trợ bởi chính phủ và Ngân hàng Trung ương), tự do hoá lãi suất huy động tiền gửi có kì hạn trên 2 năm, tự do hoá lãi suất trái phiếu chính phủ. Giai đoạn 3:(từ 6/1994 đến 12/1995) tự do hoá hoàn toàn lãi suất cho vay, tự do hoá hoàn toàn lãi suất huy động, thời gian đáo hạn tối thiểu của các giấy tờ có giá trên thị trường như chứng chỉ tiền gửi, thương phiếu được rút từ 90 ngày xuống còn 30 ngày đồng thời mệnh gia tối thiểu cũng được giảm bớt. Giai đoạn 4:(từ 7/1995-giai đoạn cuối cùng của tự do hoá lãi suất) dỡ bỏ hoàn toàn thời gian đáo hạn và mệnh giá tối thiểu của các giấy tờ có giá trên thị trường như chứng chỉ tiền gửi và thương phiếu. Bên cạnh đó, một số nước tiến hành tự do hoá lãi suất trong một thời gian rất ngắn như Chilê, Achentina, Uruguay, Philippines, trong khi một số nước khác lại tiến hành một cách thận trọng như Inđônêxia... 2. Bài học đối với Việt Nam Một là, thực hiện chính sách tự do hoá lãi suất một cách thận trọng. Thực tế ở mỗi quốc gia cho thấy mỗi nước tự xây dựng cho mình một lộ trình riêng sao cho phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội cụ thể. Hai là, ổn định kinh tế vĩ mô là yếu tố quyết định đến thành công của quá trình tự do hoá lãi suất. Lí thuyết và thực tế ở nhiều quốc gia cho thấy chính sách tự do hoá lãi suất sẽ là rất mạo hiểm và khó thành công trong điều kiện nền kinh tế bất ổn vì khi đó tỷ lệ lãi thực cao hơn trong điều kiện tự do hoá lãi suất có thể dẫn đến lại sự phân phối thu nhập giữa người cho vay và người đi vay. Ba là, xây dựng một cơ chế quản lí và giám sát ngân hàng, hoạt động tín dụng có hiệu quả. Điều này sẽ góp phần hạn chế được những rủi ro cho hệ thống ngân hàng nói riêng và toàn bộ nền kinh tế nói chung. Bốn là, xây dựng môi trường cạnh tranh giữa các ngân hàng. Việc quản lí tập trung trong ngành ngân hàng có thể là nguyên nhân dẫn đến thất bại trong quá trình tự do hoá lãi suất. Kinh nghiệm ở Việt Nam và nhiều nước trên thế giới trong những năm đã qua đã cho thấy hầu hết những khoản nợ khó đòi đều xuất phát từ việc không minh bạch trong hoạt động cung cấp tín dụng của các ngân hàng, can thiệp của chính phủ vào các khoản vay, tính không hiệu quả của hoạt động ngân hàng.. Để khắc phục vấn đề này chính phủ cần nhanh chóng thực thi việc cổ phần hóa các ngân hàng quốc doanh, mở rộng hơn nữa thị trường bảo hiểm, dỡ bỏ các rào cản bảo hộ.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc72346.DOC
Tài liệu liên quan