Đề tài Chính sách xóa đói giảm nghèo đối với đồng bào dân tộc miền núi – Thực trạng và giải pháp

Ngưỡng nghèo lương thực thực phẩm mà WB đưa ra theo cuộc điều tra mức sống 1998 là lượng lương thực thực phẩm tiêu thụ phải đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng với năng lượng 2000-2200 kcal mỗi người mỗi ngày. Người dưới ngưỡng đó gọi là nghèo về lương thực. Dựa trên giá cả thị trường để tính chi phí cho rổ lương thực đó. Và theo tính toán của WB chi phí để mua rổ lương thực là 1.286.833 đồng/người/năm.  Theo quan điểm của tổ chức lao động quốc tế ( ILO) Cơ sở để ILO xây dựng rổ hàng hóa cho người nghèo là lương thực thực phẩm. Rổ lương thực thực phẩm phải phù hợp với đồ ăn uống sở tại và cơ cấu bữa ăn thích hợp nhất cho những nhóm người nghèo. Theo ILO thì có thể thu được nhiều kcalo từ bất kỳ một sự kết hợp thực phẩm mà xét về chi phí thì có sự khác nhau rất lớn. Với người nghèo thì phải thỏa mãn nhu cầu thực phẩm từ các nguồn kcal rẻ nhất. ILO cũng thống nhất với ngân hàng thế giới về mức ngưỡng nghèo lương thực thực phẩm 2100 kcal, tuy nhiên ở đây ILO tính toán tỷ số lương thực thực phẩm trong rổ lương thực cho người nghèo với 75% kcal từ gạo và 25% kcal có được từ các hàng hóa khác (gia vị)

doc37 trang | Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 965 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Chính sách xóa đói giảm nghèo đối với đồng bào dân tộc miền núi – Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i vào xác định mức sống hay độ thỏa dụng cá nhân, mà là một hệ thống các hàng hóa cơ bản mà mọi cá nhân có quyền được hưởng. Trường phái này bắt nguồn từ những nghiên cứu đầu tiên của nhà kinh tế người Anh Seebohm Rowntree trong những năm 1900 và trở nên phổ biến từ thập niên 70 của thế kỉ trước. Theo trường phái này, dể xóa đói giảm nghèo cần có chính sách cụ thể đối với từng loại nhu cầu cơ bản, chú không chỉ tập trung vào mỗi việc tăng thu nhập cho cá nhân. Thí dụ, nếu giáo dục và y tế cơ sở có thể được cung cấp tốt nhất qua các cơ sở công cộng thì chính sách này cần tập trung vào việc tăng cường khả năng tiếp cận các dịch vụ công của người nghèo. Quan niệm này về đói nghèo phản ánh rất rõ qua định nghĩa đói nghèo mà Hội nghị quốc tế về đói nghèo do ESCAP tổ chức tại Thái Lan năm 1993 đã đưa ra, theo đó đói nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và thỏa mãn những nhu cầu cơ bản của con người đã được xã hội thừa nhận tùy theo trình độ phát triển kinh tế xã hội và phong tục tập quán của từng địa phương. Một khó khăn lớn nhất đối với quan niệm đói nghèo của trường phái nhu cầu cơ bản là nhu cầu cơ bản cũng thay đổi tùy theo tuổi tác, giới tínhvà các đặc điểm nhân khẩu khác cũng như mức độ tham gia hoạt động của từng thành viên. Vì thế trường phái thứ ba không quan tâm đến những gì thiếu để thỏa mãn độ thỏa dụng cá nhân hay nhu cầu cơ bản của con người, mà chú trọng đến khả năng hay năng lực của con người. Do vậy trường phái thứ ba này - còn được gọi là trường phái năng lực-, mới nổi lên từ những năm 80 của thế kỉ trước, người tiên phong là kinh tế học Mỹ gốc Ấn Anartya Sen. Theo ông giá trị cuộc sống của con người không chỉ phục thuộc duy nhất vào độ thỏa dụng hay thỏa mãn cá nhu cầu cơ bản, mà đó là khả năng mà một con người có được, là quyền tự do đáng kể mà học được hưởng, để vươn tới một cuộc sống như họ mong muốn. Theo cách hiểu này điều mà các chính sách cần làm là phải tạo điều kiện để người nghèo có được năng lực thực hiện các chức năng cần thiết, đi từ những thứ rất cơ bản như đủ dinh dưỡng, có sức khỏe tốt, tránh được nguy cơ tử vong sớm đến những nhu cầu cao hơn như được tôn trọng, có tiếng nói và quyền lực, được tham gia vào đời sống xã hội. Như vậy trường phái này khác cơ bản với các trường phái trên ở chỗ nó chú trọng đến việc tạo ra cơ hội cho người nghèo để họ có thể phát huy năng lực theo cách mà tự chọn. 2.Thước đo nghèo đói: Để tính toán một thước đo đói nghèo, cần có ba yếu tố. Thứ nhất : cần lựa chọn một tiêu chí nghiên cứu và chỉ số phản ánh phúc lợi. Thứ hai: cần lựa chọn một ngưỡng nghèo. Cuối cùng phải lựa chọn ra một thước đo đói nghèo được sử dụng để phản ánh cho tổng thể hoặc một nhóm dân cư. 2.1. Xác định các chỉ số phúc lợi Những khía cạnh cơ bản của đói nghèo được nêu trên có thể tóm lại qua các chỉ số : mức chi tiêu bình quân đầu người, tính toán về giá trị sử dụng hàng năm của những hàng hóa lâu bền và nhà ở, tình trạng thiếu vốn về y tế, giáo dục, các mối quan hệ xã hội, sự bất an, kém tự tin hay thiếu quyền lực 2.2. Lựa chọn và ước tính ngưỡng nghèo: 2.2.1. Lựa chọn ngưỡng nghèo Ngưỡng nghèo (hay còn gọi là chuẩn nghèo) là ranh giới phân biệt giữa người nghèo và người không nghèo. Nó có thể là một ngưỡng tính bằng tiền (thí dụ, một mức tiêu dùng hay thu nhập nào đó), hay phi tiền tệ (ví dụ một trình độ học vấn nhất định). Có hai cách chính để xác định ngưỡng nghèo: 2.2.1.1. Ngưỡng nghèo tuyệt đối: Là chuẩn tuyệt đối về mức sống được coi là tối thiểu cần thiết để cá nhân hoặc hộ gia đình có thể tồn tại khỏe mạnh. Phương pháp chung để xác định ngưỡng nghèo này sử dụng một rổ các loại lương thực được coi là cần thiết để đảm bảo mức độ dinh dưỡng cho con người. rổ lương thực đó sẽ tính đến cả cơ cấu tiêu dùng lương thực của các hộ gia đình đặc thù của một số nước. Theo cơ sơ đó, hai ngưỡng nghèo tuyệt đối sẽ được tính toán. Ngưỡng nghèo lương thực thực phẩm: là số tiền cần thiết để mua một rổ lương thực hàng ngày. Ngưỡng nghèo này thường thấp vì nó không tính đến chi tiêu cho các sản phẩm phi lương thực khác Ngưỡng nghèo chung: Bao gồm cả phần chi tiêu cho các sản phẩm phi lương thực 2.2.1.2. Ngưỡng nghèo tương đối: Được xác định theo phân phối thu nhập hoặc tiêu dùng chung trong cả nước để phản ánh tình trạng của một bộ phận dân cư sống dưới mức trung bình của cộng đồng Do đặc thù của một nước đang phát triển có điểm xuất phát thấp, Việt Nam chúng ta còn đưa ra khái niệm Đói và thiếu đói, để đảm bảo tính chất ưu tiên hóa chính xác hơn trong các chính sách xóa đói giảm nghèo của chính phủ. Đó là tình trạng của một bộ phận dân cư có mức sống dưới mức tối thiểu, chỉ đủ khả năng đảm bảo có được mức lương cần thiết để tồn tại. Trong bộ phận này có những người đói gay gắt, là tình trạng của một bộ phận dân cư có mức sống cách xa dưới mức tối thiểu, phải đói ăn chịu bữa đứt theo những thời gian nhất định. 2.2.2. Ước tính ngưỡng nghèo Theo quan điểm của Ngân hàng thế giới (WB): Trong việc lựa chọn tiêu thức đánh giá WB đã lựa chọn tiêu thức phúc lợi với những chỉ tiêu về bình quân đầu người bao gồm cả ăn uống, học hành, mặc, thuốc men, dịch vụ y tế, nhà ở, giá trị hàng hóa lâu bền. Tuy nhiên báo cáo về những số liệu này về thu nhập ở Việt Nam sẽ thiếu chính xác bởi phần lớn người lao động tự hành nghề. WB đưa ra hai ngưỡng nghèo: + Ngưỡng nghèo lương thực thực phẩm + Ngưỡng nghèo chung Ngưỡng nghèo lương thực thực phẩm mà WB đưa ra theo cuộc điều tra mức sống 1998 là lượng lương thực thực phẩm tiêu thụ phải đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng với năng lượng 2000-2200 kcal mỗi người mỗi ngày. Người dưới ngưỡng đó gọi là nghèo về lương thực. Dựa trên giá cả thị trường để tính chi phí cho rổ lương thực đó. Và theo tính toán của WB chi phí để mua rổ lương thực là 1.286.833 đồng/người/năm. Theo quan điểm của tổ chức lao động quốc tế ( ILO) Cơ sở để ILO xây dựng rổ hàng hóa cho người nghèo là lương thực thực phẩm. Rổ lương thực thực phẩm phải phù hợp với đồ ăn uống sở tại và cơ cấu bữa ăn thích hợp nhất cho những nhóm người nghèo. Theo ILO thì có thể thu được nhiều kcalo từ bất kỳ một sự kết hợp thực phẩm mà xét về chi phí thì có sự khác nhau rất lớn. Với người nghèo thì phải thỏa mãn nhu cầu thực phẩm từ các nguồn kcal rẻ nhất. ILO cũng thống nhất với ngân hàng thế giới về mức ngưỡng nghèo lương thực thực phẩm 2100 kcal, tuy nhiên ở đây ILO tính toán tỷ số lương thực thực phẩm trong rổ lương thực cho người nghèo với 75% kcal từ gạo và 25% kcal có được từ các hàng hóa khác (gia vị) Theo quan điểm của Tổng cục thống kê Việt Nam (GSO) GSO xác định dựa theo cách tiếp cận của WB đã nêu. Theo hướng này GSO đưa ra hai ngưỡng: + Nghèo đói lương thực thực phẩm là những người có mức thu nhập không bảo đảm cho lượng dinh dưỡng tối thiểu (bù đắp 2100kcal/người/ngày/đêm) + Nghèo đói chung: được xác định trên cơ sở ngưỡng nghèo lương thực thực phẩm và coi đó là tương ứng với 70% nhu cầu cơ bản tối thiểu, 30% còn lại là các nhu cầu cơ bản tối thiểu khác. Nghèo đói chung là những người không đảm bảo thu nhập để đáp ứng cả hai yêu cầu trên Theo cách tiếp cận này, căn cứ vào giá cả chung GSO đã đưa ra ngưỡng nghèo áp dụng từ năm 1998 ở Việt Nam: Nghèo đói lương thực thực phẩm: 107.234 đồng/người/tháng Nghèo đói chung : 149.156 đồng/người/tháng Theo quan điểm của bộ Lao động-thương binh-xã hội ( MOLISA) Cách xác định ngưỡng nghèo của MOLISA mang tính chất tương đối hơn và tiếp cận khía cạnh thu nhập, dựa chủ yếu vào khả năng của những tư liệu sẵn có, cụ thể là khả năng tài chính hỗ trợ cho chương trình XĐGN, trên cơ sở đó xác định ngưỡng nghèo là mức thu nhập và tình trạng giá cả hàng hóa tiêu dùng ở các khu vực khác nhau MOLISA đã nhiều lần điều chỉnh mức chuẩn nghèo áp dụng cho Việt Nam: Khu vực Giai đoạn Nông thôn miền núi và hải đảo (đ/tháng) Nông thôn đồng bằng (đ/tháng) Thành thị (đ/tháng) 1996 – 2000 55.000 70.000 90.000 2001-2005 80.000 100.000 150.000 2006-2010 200.000 250.000 (Nguồn: Bộ lao động thương binh xã hội) Qua bảng trên ta thấy chuẩn nghèo qua các giai đoạn đã được nâng lên một cách rõ rệt, điều này cho thấy chúng ta đã có nhiều tiến bộ trong công cuộc xóa đói giảm nghèo. 2.3. Thước đo tỷ lệ nghèo đói: Sau khi xác định được ngưỡng nghèo, chúng ta có thể tính toán một số thước đo mô tả quy mô, độ sâu và độ nghiêm trọng của đói nghèo. Ba thước đo thông dụng nhất phản ánh các khía cạnh đó lần lượt là :chỉ số đếm đầu ( còn gọi là tỷ lệ đói nghèo), khoảng nghèo và bình phương khoảng nghèo. Chỉ số đếm đầu ( tỷ lệ đói nghèo) Công thức: P = M/N . Trong đó: M: số người nghèo,N:Tổng số dân Thông thường chỉ số này biểu diễn dưới dạng %, nó cho biết quy mô đói nghèo của một quốc gia Hạn chế: + Việc xác định ngưỡng nghèo giữa các quốc gia không thống nhất với nhau. Do đó người nghèo ở các nước phát triển có thu nhập hoặc chi tiêu lớn hơn người nghèo ở các nước đang phát triển rất nhiều + Chỉ số này không chú ý đến mức độ mà các cá nhân ở dưới hay trên ngưỡng nghèo mà chỉ tính đến tỷ lệ dân số nằm bên dưới giới hạn đó. Vì thế nếu chỉ dựa vào yếu tố này thì nhà nước khó có thể xác định mức độ nghèo đói của các nhóm dân cư sống dưới mức tối thiểu, chính phủ có thể sẽ chú trọng đên việc làm thế nào chuyển những người ở dưới ngưỡng nghèo lên trên ngưỡng đó để cải thiện tỷ lệ này chứ không quan tâm đến xóa bỏ nguồn gốc nghèo đói. Khoảng nghèo: M Công thức : P = 1/N .Σ(z-yi)/z, trong đó: i=1 yi: mức thu nhập( chi tiêu) của người thứ I; z: ngưỡng nghèo, N: tổng số dân, M: số người nghèo Chỉ số này cho biết sự thiếu hụt trong chi tiêu của các hộ nghèo so với ngưỡng nghèo, nó biểu hiện như mức trung bình của tất cả mội người trong dân cư. Khoảng nghèo được tính là tổng các mức thiếu hụt của tất cả người nghèo trong nền kinh tế, nó cho biết chi phí tối thiểu để đưa tất cả người nghèo lên mức sống ngang bằng với ngưỡng nghèo, trong điều kiện mọi khoản chuyển giao đều đúng đối tượng. Tuy nhiên trong thực tế việc chuyển giao thu nhập thường đi kèm với những khoản thất thoát và chi phí hành chính nên chi phí thực tế để xóa đói giảm nghèo bao giờ cũng lớn hơn khoảng nghèo Bình phương khoảng nghèo M CThức: P = 1/N .Σ[(z-yi)/z]2, trong đó: i=1 y:mức thu nhập(chi tiêu) của người thứ i z: ngưỡng nghèo, N: tổng số dân, M: số người nghèo Chỉ số này thể hiện mức độ nghiêm trọng ( hay cường độ ) đói nghèo, nó làm tăng trọng số cho những nhóm nghèo nhất trong xã hội. II.Chính sách xóa đói giảm nghèo đối với đồng bào dân tộc miền núi Tổ quốc Việt Nam có 54 dân tộc anh em sinh sống quây quần, trừ người Kinh chiếm số lượng lớn nhất, còn lại là hơn 13 triệu người với quy mô dân tộc khác nhau. Chỉ có 4 dân tộc có trên 1 triệu người còn lại là 13 dân tộc có dân số chục vạn, 19 dân tộc có dân số hàng vạn, 12 dân tộc có dân số hàng nghìn và 5 dân tộc có dân số hàng trăm. Do đặc điểm địa lý, quy mô dân số, trình độ kinh tế, xã hội không đồng đều  nên việc phát triển kinh tế miền núi hiệu quả mà vẫn bảo tồn được bản sắc văn hóa truyền thống ,văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể, của vùng miền, dân tộc  thực sự khó khăn và là một thách thức không nhỏ. 1. Khái niệm – mục tiêu – đối tượng – chủ thể của chính sách: 1.1. Khái niệm: Chính sách xóa đói giảm nghèo là tổng thể các quan điểm, tư tưởng, các giải pháp và công cụ mà Nhà nước sử dụng để tác động lên các chủ thể kinh tế - xã hội nhằm giải quyết vấn đề nghèo đói, thực hiện mục tiêu xóa đói giảm nghèo theo định hướng mục tiêu tổng thể của đất nước. 1.2.Mục tiêu : *Mục tiêu chung: đạt được hiệu quả xã hội, công bằng xã hội, ổn định xã hội, phát triển và tiến bộ xã hội, xây dựng xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh *Mục tiêu chiến lược: *Mục tiêu tổng quát: Chính sách XĐGN cho đồng bào miền núi nhằm tạo điều kiện thuận lợi, phù hợp để hỗ trợ người dân miền núi còn nhiều khó khăn trong cuộc sống phát triển sản xuất, tăng thu nhập, tiếp cận các dịch vụ xã hội, giảm tỷ lệ đói nghèo, nâng cao chất lượng cuộc sống *Mục tiêu riêng: Xây dựng cơ sở hạ tầng thiết yếu phục vụ đời sống và sản xuất (thủy lợi nhỏ, trường học, trạm y tế, đường dân sinh, điện, nước sinh hoạt, chợ) Hỗ trợ các dịch vụ công cộng, trợ giúp đồng bào miền núi về nhà ở, công cụ lao động và sản xuất Nâng cao dân trí cộng đồng, hướng dẫn người dân cách làm ăn khoa học, khuyến nông, khuyến lâm, xây dựng các mô hình XĐGN Cho vay vốn sản xuất kinh doanh Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác XĐGN, cán bộ các xã nghèo có đồng bào dân tộc sinh sống Định canh định cư cho đồng bào Phấn đấu đến năm 2010 cơ bản không còn hộ đói, giảm hộ nghèo xuống còn dưới 30% theo chuẩn nghèo quy định tại quyết định số170/QĐ-TTg ngày 08 tháng 7 năm 2005 của chính phủ 1.3. Chủ thể thực hiện chính sách: Chính Phủ Bộ tài chính Bộ lao động – thương binh – xã hội Bộ NNo&PTNT Bộ kế hoạch đầu tư UBND tỉnh, huyện, xã có liên quan Cán bộ thực hiện Ngân hàng Các cá nhân, tổ chức xã hội - đoàn thể và các tổ chức khác tham gia hỗ trợ, phối hợp thực hiện các dự án 1.4. Đối tượng của chính sách: Đồng bào dân tộc miền núi ở vùng sâu vùng xa, còn gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống và phát triển kinh tế, đời sống còn lạc hậu. 2.Quan điểm và nguyên tắc thực hiện của Đảng và Nhà nước về vấn đề XĐGN 2.1 Quan điểm của Đảng và Nhà nước: Đảng ta xác định XĐGN là nhiệm vụ to lớn của toàn Đảng, Nhà nước Đảng và Nhà nước coi đây là nhiệm vụ trọng yếu trong quá trình xây dựng đất nước. Các cấp các ngành cần coi đây là nhiệm vụ chính trị quan trọng hàng đầu. Phấn đấu đạt và vượt mục tiêu XĐGN đã đề ra Giải pháp không chỉ quan tâm vào việc giảm tỷ lệ đói nghèo mà còn quan tâm đến việc nâng cao khả năng tham gia của người nghèo vào các dịch vụ xã hội Coi tăng trưởng kinh tế là động lực cơ bản nhất mang tính quyết định đến việc thực hiện các mục tiêu XĐGN bền vững Tăng cường xã hội hóa công tác XĐGN: phát huy nội lực của người nghèo, của nội bộ nhân dân và sự hỗ trợ của Nhà nước Xác đinh XĐGN là nhiệm vụ khó khăn, cần có quá trình lâu dài 2.2. Nguyên tắc chỉ đạo: Yêu cầu phát huy tối đa sự sáng tạo, ý chí tự lực tự cường của toàn thể cộng đồng và nỗ lực của chính bản thân những người nghèo Thực hiện nguyên tắc dân chủ, công khai, minh bạch, tăng cường phân cấp cho cơ sở, phát huy mạnh mẽ quyền làm chủ của nhân dân trực tiếp tham gia vào chương trình. 3. Những chính sách của nhà nước ưu tiên phát triển đời sống cho đồng bào miền núi: 3.1. Chương trình định canh định cư: Từ lâu Đảng và Nhà nước ta đã nhìn nhận vấn đề định canh định cư có vai trò quan trọng trong việc xóa bỏ tập tục du canh du cư lạc hậu của dân tộc miền núi. Nó tác động sâu sắc tới tâm tư tình cảm của đồng bào dân tộc thiểu số, giúp họ hình thành nếp sống mới, từng bước ổn định đời sống, hòa nhập vào sự phát triển chung của đất nước. Chương trình này bắt đầu thực hiện từ năm 1998, nó đã trở thành một chương trình rất đắc lực trong việc giảm nghèo đói. Mục tiêu của nó nhằm biến người du canh du cư thành định cư, mang lại cho họ tập tục sống ổn định, có nơi ở ổn định thì mới nghĩ đến việc phát triển kinh tế. Mục tiêu chung Chính sách hỗ trợ di dân thực hiện định canh, định cư cho đồng bào dân tộc thiểu số nhằm tạo điều kiện cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số còn du canh, du cư có nơi ở ổn định, có đủ điều kiện phát triển sản xuất, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần, xoá đói, giảm nghèo; góp phần bảo vệ rừng, bảo vệ môi trường sinh thái và giữ vững an ninh - chính trị, trật tự - an toàn xã hội tại các địa phương Chủ thể liên quan: Ủy ban dân tộc, Bộ kế hoạch và đầu tư, Bộ tài chính, Bộ NNo & PTNT, UBND các tỉnh thành phố, đồng bào dân tộc thiểu số thuộc diện của chính sách quy định. Mục tiêu cụ thể: Căn cứ vào Chính sách định canh định cư cho đồng bào dân tộc thiểu số giai đoạn 2007 – 2010 đã được Chính phủ phê duyệt thì theo đó: Trong thời gian từ năm  2007 -2010: hoàn thành cơ bản việc định canh định cư cho các hộ đồng bào dân tộc thiểu số còn du canh, du cư trên phạm vi cả nước; 70 % số điểm định canh, định cư tập trung có đủ các công trình cơ sở hạ tầng thiết yếu, phù hợp với quy hoạch chung, bao gồm: đường giao thông, điện, thủy lợi nhỏ, lớp học, nhà mẫu giáo, nhà sinh hoạt cộng đồng và một số công trình thiết yếu khác; 100% số hộ đồng bào dân tộc thiểu số du canh, du cư được tổ chức định canh định cư theo quy hoạch, có nhà ở, đất ở, đất sản xuất, nước sinh hoạt... theo quy định; trên 70% số hộ được sử dụng điện, nước sinh hoạt hợp vệ sinh; tại các điểm định canh, định cư không còn hộ đói, mỗi năm giảm 2 - 3 % số hộ nghèo. Mới đây nhất Thủ tướng chính phủ ban hành Quyết định số 33/2007/QĐ-TTg ngày 05/3/2007 chính sách hỗ trợ di dân thực hiện định canh định cư cho đồng bào dân tộc thiểu sổ giai đoạn 2007 – 2010;Quyết định số 190/2003/QĐ-TTg ngày 16/9/2003 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách di dân thực hiện quy hoạch, bố trí dân cư giai đoạn 2003 – 2010; Quyết định số 134/2004/QĐ-TTg ngày 20/7/2004 của Thủ tướng Chính phủ về một số chính sách hỗ trợ đất sản xuất, đất ở, nhà ở và nước sinh hoạt cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo, đời sống khó khăn . . .cùng nhiều văn bản pháp quy khác 3.2. Chương trình phát triển giao thông thủy lợi nông thôn: Giao thông nông thôn (GTNT) là một bộ phận không thể thiếu trong hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật của nền kinh tế quốc dân. Chất lượng mạng lưới đường sá quyết định sự lưu thông hàng hóa và rút ngắn khoảng cách giàu nghèo giữa các khu vực, các vùng sản xuất gắn với tiêu thụ sản phẩm.. GTNT bao gồm các tuyến đường thuộc tỉnh huyện, xã nối liền tới các thị trường, các khu vực kinh tế phi nông nghiệp và các dịch vụ xã hội khác. Đối với vùng núi, vùng sâu, vùng xa GTNT có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Nếu cơ sở hạ tầng giao thông không tốt sẽ là trở ngại chính đối với sự phát triển kinh tế. Mặt khác GTNT còn là giải pháp tích cực thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn (cả nông nghiệp và phi nông nghiệp) sang sản xuất hàng hoá. Mục tiêu của chính sách: khôi phục và phát triển cơ cấu hạ tầng nông thôn: Đường giao thông nông thôn, điện, trường học, hệ thống kênh mương cấp II, III, hệ thống cấp nước nông thôn, hệ thống vệ sinh môi trường nông thôn. Hỗ trợ phát triển nông thôn toàn diện, thúc đẩy sản xuất, gắn hoạt động nông nghiệp với thị trường, xóa đói, giảm nghèo. Việc phát triển giao thông và thủy lợi là chìa khóa cho sự phát triển kinh tế, tạo đà thúc đẩy kinh tế miền núi phát triển. 3.3. Chương trình giáo dục, y tế: *Chương trình giáo dục: Có thể gói gọn chương trình giáo dục trong khuôn khổ đóng góp hoặc tác động vào việc xóa đói giảm nghèo, gồm: -Chương trình nâng cao chất lượng phổ thông các cấp. -Chương trình củng cố và mở rộng cơ sở vật chất kỹ thuật cho giáo dục tiểu học. -Chương trình tăng cường đẩy mạnh giáo dục phi chính thức. -Chương trình cải tiến hệ thống dạy nghề. -Chương trình của bộ giáo dục và đào tạo về hệ thống trường phổ thông dân tộc nội trú. *Chương trình y tế: Chương trình y tế chăm sóc sức khỏe nhân dân nói chung vốn có thâm niên từ trước so với chương trình xóa đói giảm nghèo. Trong đó có chương trình bảo vệ bà mẹ và trẻ em, đây là hai đối tượng dễ bị rủi ro trong cuộc sống xã hội và gia đình.Những chương trình hoạt động chính trong khuôn khổ XĐGN bao gồm: chương trình phòng chống bướu cổ, phòng chống bệnh sốt rét, nước sạch cho sinh hoạt nông thôn, tiêm chủng mở rộng, xóa xã trắng về y tế. Những chương trình này nhằm cải thiện hệ thống y tế cộng đồng ở miền núi, phục vụ công tác phòng ngừa và chữa trị bệnh tật cho nhân dân vùng đồng bào các dân tộc thiểu số. 3.4. Chương trình tín dụng, cho nhân dân vay vốn làm ăn Chủ trương chính sách lớn của Nhà nước về tín dụng đối với nông nghiệp, nông thôn được hoàn thiện tại Quyết định số 67/1999/QĐ-TTg ngày 30/03/1999 của Thủ tướng Chính phủ. Đối với NHCSXH nhiệm vụ này đã được Chính phủ quy định tại điểm 5 điều 2 Nghị định số 78/2002/NĐ-CP ngày 04/10/2002 “Về tín dụng đối với người nghèo và các đối tượng chính sách khác”. Để triển khai thực hiện  nhiệm vụ tín dụng đối với vùng khó khăn. Sau bẩy năm hoạt động, ngày 4-10-2002, Chính phủ đã ban hành nghị định 78/2002/NĐ-CP về tín dụng đối với người nghèo và đối tượng chính sách khác, trong đó ghi rõ thành lập ngân hàng chính sách xã hội để thực hiện tín dụng ưu dãi đối với người nghèo và các đối tượng chính sách khác trên cơ sở tổ chức lại ngân hàng người nghèo, đưa ngân hàng người nghèo trở thành một ngân hàng hoàn chỉnh, thực hiện hiệu quả chức năng của mình. NHCSXH đã ban hành văn bản số 317/NHCS-KH ngày 02/05/2003 về “Hướng dẫn nghiệp vụ cho vay đối với các tổ chức kinh tế và hộ sản xuất, kinh doanh thuộc hải đảo, thuộc khu vực II, III miền núi và thuộc Chương trình 135” Ngày 05/3/2007 Thủ tướng Chính phủ ban hành quyết định số 32/2007/QĐ-TTg về việc cho vay vốn phát triển sản xuất đối với đồng bào dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn. 3.5. Chương trình tư vấn chuyển giao khoa học công nghệ Đây là một chương trình đặc biệt có ý nghĩa trong việc phát triển kinh tế miền núi theo hướng chuyển dịch cơ cấu cây trồng mới và sản xuất hàng hóa tập trung. Nó gồm nhiều công việc, dự án triển khai trên diện rộng, chủ yếu tập trung vào các khâu khuyến nông, khuyến lâm, khoa học kỹ thuật, vật tư cho sản xuất. 3.6.Chương trình hỗ trợ XĐGN cho các dân tộc đặc biệt khó khăn Chương trình này bắt đầu từ năm 1992, mục tiêu hỗ trợ các dân tộc thiểu số khó khăn và có dân số ít. Đa số những dân tộc này nằm ở vùng sâu vùng xa khó khăn về mọi mặt: kinh tế, giáo dục, giao thông, y tế, văn hóa Chính phủ có chương trình 135 (hỗ trợ các xã đặc biệt khó khăn) theo quyết đinh 135/QĐ-TTg gày 31/7/1998, chương trình này kéo dài đến năm 2010, giai đoạn 1 đã kết thúc năm 2005 Ngoài ra Chính phủ còn có chương trình 143 : XĐGN cho các tỉnh miền núi phía Bắc dành cho 6 tỉnh miền núi phía Bắc đặc biệt khó khăn. 3.7. Chương trình phủ xanh đất trống đồi trọc (Chương trình 327) Thực hiện theo quyết định 327/QĐ ngày 15/9/1992 của HĐBT về một số chủ trương sử dụng đất trống đồi trọc III.Thực trạng nghèo đói của đồng bào dân tộc thiểu số và chính sách XĐGN của Nhà nước với đối tượng này: 1.Thực trạng và nguyên nhân tình trạng đói nghèo của các dân tộc miền núi 1.1 Thực trạng đói nghèo đang diễn ra: Theo số liệu của Tổng cục thống kê qua các cuộc khảo sát về mức sống của dân cư Việt Nam thì tỷ lệ nghèo của cả nước từ 58% năm 1993 giảm xuống còn 14,87% năm 2007 ( khoảng 13 triệu người). Cùng với kết quả đó vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số cũng có tỷ lệ nghèo như sau: Vùng Tây Bắc: 49% Vùng Bắc Trung Bộ 29,1% Vùng Tây Nguyên 28,6% Vùng Đông Bắc 25% Vùng Nam Trung Bộ 12.6% Cả nước hiện còn 58 huyện có tỷ lệ nghèo trên 50% và 3006 xã tỷ lệ nghèo trên 25% , nơi đây tập trung đông đồng bào dân tộc thiểu số ít người. Đồng bào dân tộc thiếu số nước ta chỉ chiếm khoảng 14% dân số cả nước nhưng lại chiếm gần 44% tổng số người nghèo, nghĩa là cứ 100 người nghèo thì có gần 44 người là đồng bào dân tộc thiểu số. Tốc độ giảm nghèo của đồng bào dân tộc thiểu số chậm hơn người Kinh và người Hoa, tỷ lệ nghèo của đồng bào dân tộc thiểu số giảm từ 86,4% ( năm 1993) xuống còn 52,3% ( năm 2006), trong khi đó tỷ lệ nghèo của người Kinh và Hoa là 53,9% vào năm 1993 xuống còn 10,36% vào năm 2006. Tỷ lệ nghèo của đồng bào dân tộc thiểu số giữa các vùng khó khăn nhất cũng có sự khác nhau: tỷ lệ của đồng bào dân tộc thiểu số vùng Tây Bắc từ gần 90% năm 1993 giảm xuống còn dưới 60% năm 2006, trong khi đó tỷ lệ nghèo của đồng bào dân tộc thiểu số vùng Tây Nguyên giảm ừ trên 90% xuống còn 70% trong cùng thời gian trên. Tỷ lệ nghèo giữa các nhóm dân tộc thiểu số cũng khác nhau.Nhóm dân tộc Tày, Thái, Mường, Nùng tỷ lệ nghèo năm 1993 là 82% xuống còn khoảng 42% năm 2006. Các nhóm dân tộc thiểu số khác từ 84% ( năm 1995) xuống còn 50% ( năm 1993). Trong khi đó người Kinh từ 52% ( 1993) xuống còn 10% (2006) và người Hoa từ 15% (1995) xuống còn 7% ( năm 2006) Nhìn chung nhóm dân tộc thiểu số có tỷ lệ nghèo cao gấp nhiều lần tỷ lệ nghèo chung của cả nước, nhất là nhóm dân tộc thiểu số ít người tập trung ở vùng Tây Nguyên, Tây Bắc, Đông Bắc, miền Tây Bắc Trung Bộ, Nam Trung Bộ. Về giáo dục: năm 2006: tỷ lệ người chưa hoàn thành bậc học nào của người Kinh và người Hoa là 20%, trong khi các dân tộc thiểu số là trên 45% Tiếp cận với dịch vụ y tế (tính theo tỷ lệ % dân số) thì nhóm dân tộc thiểu số tỏ ra tốt hơn người Kinh và người Hoa. Năm 1993 chỉ có 8% đồng bào dân tộc thiểu số có thẻ bảo hiểm y tế (BHYT), đến năm 2006 là 78% có thẻ BHYT và thẻ khám chữa bệnh miễn phí.Tỷ lệ này ở người Kinh và người Hoa là 30% và 49% vào các năm tương ứng. 1.2 Nguyên nhân của tình trạng đói nghèo 1.2.1.Nhóm nguyên nhân mang tính khách quan thuộc về điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội 1.2.1.1. Vị trí địa lý Đây là nguyên nhân bao trùm dẫn đến tình trạng nghèo đói đối với các hộ dân tộc thiểu số. Đồng bào miền núi sống chủ yếu ở những khu vực đồi núi, địa hình hiểm trở, xa trung tâm, nhiều nơi không có đường giao thông, có nơi muốn đến chỉ có cách đi bộ mới vào được. Họ thường sống cách xa khu dân cư, sống riêng lẻ nhà nào biết nhà đó, một bản chỉ khoảng vài chục nóc nhà. Do địa hình phức tạp, đi lại khó khăn nên việc xây dựng các công trình phục vụ cho đời sống và sản xuất như giao thông, thủy lợi rất khó khăn.Giao thông không phát triển là cản trở lớn trong quá trình xóa đói giảm nghèo, nó làm mất đi cơ hội giao thương, chi phí vận chuyển tăng, nông sản hàng hóa làm ra khó tiêu thụ. Tình trạng thủy lợi kém là một yếu tố góp phần hạn chế sự phát triển kinh tế, thiếu nước canh tác là khá phổ biến. Đồng thời với nó là tình trạng hệ thống thủy lợi xây dựng không đồng bộ. 1.2.1.2.Điều kiện tự nhiên Dân tộc thiểu số chủ yếu sống ở những vùng đồi núi, vùng sâu vùng xa, phải chiu đựng sự khắc nghiệt của thời tiết. Ví dụ vùng miền núi phía Bắc, mùa đông lạnh, nhiệt độ trung bình 18 -22 0C, thường gặp mưa phùn gió bấc, thời tiết lạnh, nhiều nơi xuất hiện sương muối, băng giá, gây ảnh hưởng lớn đến trồng trọt chăn nuôi. Thiên tai thường xuyên xảy ra, năm nào cũng xảy ra lũ lụt, hạn hán, sâu bệnh. Đồng bào dân tộc lại chịu thiệt thòi vì không có phương tiện phòng chống, đối phó khắc phục. Mặt khác, xảy ra thiên tai thì công tác cứu trợ cũng gặp nhiều khó khăn trong khâu vận chuyển, đi lại. Môi trường kinh tế không thuận lợi: Sản phẩm làm ra phải có nơi tiêu thụ, cần có thị trường giao thương mới phát triển.. Ở địa bàn các dân tộc ít người sinh sống gặp phải vấn đề là không có hoặc có ở mức độ thấp thị trường mua bán hàng hóa. Thị trường nhỏ hẹp, sức luân chuyển hàng hóa thấp, sức mua kém, cơ cấu hàng hóa đơn điệu, chưa có các trung tâm thương mại. Đường giao thông đi lại rất khó khăn. Hàng hóa phần nhiều do người Kinh mang từ dưới xuôi lên bán, đồng bào dân tộc ít người đi chợ rất ít. Cả tháng đi xuống chợ vài lần,mỗi lần đi chợ sẽ mất nhiều giờ đi bộ, có khi là cả ngày đường. Hàng hóa họ mang trao đổi chủ yếu là những sản phẩm nông nghiêp tự sản xuất ra được, hàng hóa đổi về chủ yếu là lương thực thiết yếu như muối, dầu, Môi trường xã hội không thuận lợi: Đó là các vấn đề về y tế, giáo dục, văn hóa , chưa bảo đảm Về giáo dục: Với điều kiện địa lý, khí hậu khắc nghiệt, giao thông đi lại khó khăn, lại thêm nhiều dân tộc thiểu số sinh sống rải rác ở vùng cao nên tỷ lệ nguời dân tộc thiểu số mù chữ khá cao. Sự thiếu thốn về giáo dục mang lại hậu quả là khoảng cách khá lớn về trình độ dân trí. Số người có học hành, bằng cấp là rất ít nên khả năng tham gia vào các hoạt động xã hội rất hạn chế. Thu nhập hàng tháng của họ kết hợp với việc tự trồng trọt, chăn nuôi chỉ đủ để có cuộc sống chật vật với nhu cầu dinh dưỡng tối thiểu, khi đó họ không có tiền để lo cho con cái học hành. Do vậy cái vòng luẩn quẩn cứ quấn lấy chân họ, người nghèo lại càng nghèo hơn. Về y tế:Bệnh tật và sức khỏe yếu kém đẩy con người vào cảnh nghèo đói, nó ảnh hưởng trực tiếp đến thu nhập và chi tiêu của người nghèo. Họ phải gánh chịu hai gánh nặng, một là mất đi thu nhập từ lao động, hai là gánh chịu chi phí cho việc khám chữa bệnh. Chi phí này họ lại không có đủ, phải đi vay mượn. Trong khi đó khả năng tiếp cận các dịch vụ phòng bệnh như nước sạch, các chương trình y tế .. của người nghèo lại bị hạn chế, điều này làm tăng khả năng dễ mắc bệnh của họ. Việc cải thiện điều kiện sức khỏe cho người nghèo là một trong những yếu tố rất cơ bản để họ tự thoát nghèo. Ít được tiếp cận thông tin: điều kiện địa hình xa xôi hẻo lánh đi lại khó khăn, trình độ văn hóa thấp nên đa số đồng bào dân tộc thiểu số ít được tiếp cận với các nguồn thông tin từ bên ngoài 1.2.2.Nhóm nguyên nhân thuộc về chủ quan của người lao động: Không biết cách sản xuất kinh doanh, không có kinh nghiệm làm ăn: Do hạn chế về trình độ học vấn, đa số người nghèo không có năng lực nhận biết thị trường, đây sẽ là nguyên nhân quyết định khả năng có thể vượt qua nghèo đói ở cá nhân, cộng đồng và xã hội. Đồng bào dân tộc thiểu số quanh năm lo làm ăn nương rẫy, họ chỉ xuống chợ khi nào có đồ để trao đổi, đồng thời mua sắm những vật thiết yếu. Việc không có khả năng tiếp cận các nguồn thông tin làm cho họ chỉ biết sản xuất theo thói quen, tập quán đã có từ trước, không có cơ hội cải thiện những cái đã lạc hậu: kinh nghiệm sản xuất, giống lúa, phân bón, Bên cạnh đó còn một bộ phận người nghèo chưa quyết tâm vươn lên thoát khỏi nghèo đói, trông chờ vào giải pháp của Nhà nước. Sức khỏe kém, gặp rủi ro ốm đau: các hộ gia đình nghèo do thu nhập thấp, bấp bênh, khả năng tích lũy kém nên họ khó có khả năng chống chọi với những biến cố xảy ra trong cuộc sống (mất việc làm, mất nguồn lao động, mất sức khỏe, tai nạn,mất mùa). Với khả năng kinh tế hạn hẹp, các hộ nghèo nông thôn miền núi găp những vấn đề này sẽ dẫn đến những bất ổn trong cuộc sống hằng ngày. Bị rủi ro có thể xảy ra trong kinh tế, trong đời sống xã hội, rủi ro trong kinh tế thị trường thường gặp do họ không có trình độ, tay nghề , thiếu kinh nghiệm làm ăn, thua lỗ Đây là nguyên nhân dẫn đến đói nghèo nhưng nó chỉ tác động đến một nhóm nhỏ trong xã hội. Những rủi ro trong đời sống xã hội đối với người lao động thường gặp là tai nạn, thất nghiệp, ốm đau Khả năng đối phó và khắc phục các rủi ro của người nghèo rất kém do thu nhập thấp, điều này dẫn đến nguy cơ họ dễ gặp rủi ro hơn nữa. Thiếu vốn hoặc không có vốn: Thiếu vốn là vấn đề quan trọng, chủ yếu nhất trong công tác xóa đói giảm nghèo. Nông dân nghèo có nhu cầu cần tiền để mua giống, phân bón, thuốc trừ sâu, mua trâu bò cày kéo, mua công cụ sản xuất Không có vốn sẽ không có khả năng đổi mới trong sản xuất, trong việc áp dụng những thành tựu kĩ thuật mới. Mặc dù đã có các chương trình tín dụng ưu đãi cho người nghèo nhưng khả năng tiếp cận các nguồn này là thấp, bởi lẽ họ không có tài sản thế chấp, khoản vay được khá nhỏ so với nhu cầu thực tế, làm cho khó có thể phát triển sản xuất. Mặt khác, đa số người nghèo không có kế hoạch sản xuất kinh doanh cụ thể hoặc do sử dụng vốn vay sai mục đích nên việc đi vay sẽ khó hơn, hoặc là họ sẽ không muốn vay, vì nghĩ tới khoản tiền phải trả sau này. 1.2.3. Nguyên nhân thuộc về cơ chế chính sách: Khả năng kinh tế và nguồn lực cho xóa đói giảm nghèo còn khó khăn,Nhà nước cùng lúc phải đầu tư cho nhiều vấn đề xã hội bức xúc khác. Việc sử dụng chuẩn nghèo mới làm cho tỷ lệ hộ nghèo đói cũng tăng lên, chính sách giảm nghèo phải mở rộng, do đó việc cân đối, huy động nguồn lực để đáp ứng yêu cầu sẽ gặp khó khăn hơn. Tỷ lệ nghèo đói những năm qua tuy còn giảm mạnh nhưng vẫn ở mức cao và chưa bền vững. Vùng đồng bào dân tộc vùng sâu vùng xa thường xuyên bị thiên tai bão lụt,mất mùa. Giảm nghèo chưa gắn chặt với phát triển nông thôn. Đầu tư cho xóa đói giảm nghèo chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế (cả vốn tín dụng và đầu tư từ ngân sách Nhà nước). nguồn lực dành cho chương trình còn rất hạn chế, chưa cân đối với mục tiêu đề ra và đảm bảo tiến độ thực hiện Cơ chế hỗ trợ người nghèo chưa hướng vào nâng cao nhận thức,năng lực và tính làm chủ, người nghèo chưa thực sự tham gia được vao thị trường để phát triển kinh tế với vai trò là người chủ động. Chưa phát huy tính chủ động, tự lực của địa phương, cơ sở và của chính người nghèo để tự vươn lên. Nhận thức về trách nhiệm đối với công tác xóa đói giảm nghèo ở một số địa phương, cơ sở chậm và chưa rõ, gây nên tình trạng không có cán bộ am hiểu, tâm huyết làm công tác. Đầu tư cho việc đào tạo cán bộ thực thi còn hạn chế, dẫn đến tình trạng đội ngũ cán bộ thực thi ở cơ sở vừa thiếu vừa yếu. 2. Các chính sách đã được thực hiện và kết quả đạt được: 2.1 Chương trình định canh định cư: Những năm qua Đảng và Nhà nước đã tiến hành song song việc đầu tư nhiều mặt cho đồng bào các dân tộc thiểu số phía Bắc nói riêng và đồng bào dân tộc thiểu số vùng cao, vùng sâu, vùng xa nói chung bằng các chương trình cụ thể như Chương trình 134, 135... nhằm phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội giúp đồng bào xóa đói, giảm nghèo. Chính quyền các tỉnh vùng cao đã phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành liên quan đẩy nhanh tốc độ điều tra tài nguyên đất, nước, rừng, khoáng sản..., trong đó tập trung vào việc quy hoạch, phân bố lại đất canh tác, đất ở thuận tiện cho việc sinh sống, sản xuất của bà con. Các cụm dân cư tập trung được hình thành với điều kiện có đủ đất, gần nguồn nước,thuận tiện cho việc mở đường giao thông, đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng. Năm 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 Số dự án triển khai 250 259 234 300 300 250 250 Số hộ di cư di dân tự do được ổn định 6769 11655 13829 15000 10000 18000 18000 Diện tích đất khai hoang (ha) 8000 7000 9206 6000 8000 15000 15000 ( Nguồn : Bộ Kế hoạch và đầu tư ) Từ năm 2001 – 2005 đã thực hiện 1343 dự án, di dân được 93253 hộ, đạt 110,4% kế hoạch, ổn định 57253 hộ, tổng vốn thực hiện 1829 tỷ đồng. 2.2 Chương trình phát triển giao thông thủy lợi nông thôn: Những năm gần đây, Nhà nước hết sức quan tâm, đầu tư cho giao thông nông thôn nhất là vùng núi, bằng nhiều nguồn vốn: Ngân sách nhà nước (thông qua các chương trình quốc gia) vốn vay nước ngoài, của các tổ chức phi chính phủ, huy động trong dân ...Các dự án định canh, định cư và kinh tế mới, chủ yếu là xây dựng hạ tầng, đặc biệt giao thông xã, làng bản. Các dự án có cơ sở hạ tầng nông thôn (Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn), vốn vay Ngân hàng phát triển châu Á (ADB) hiện nay có 31 tiểu dự án, có 27 tiểu dự án giao thông đã hoàn thành đưa vào sử dụng 1.173 km. Dự án giao thông nông thôn (Bộ Giao thông vận tải) vốn vay chủ yếu Ngân hàng thế giới, hiện nay bắt đầu chuyển sang giai đoạn 2. Nếu tính khối lượng hàng hoá các loại vận chuyển qua đường bộ của cả nước hiện nay chiếm trên 53%, có đến 75% khối lượng để trở thành hàng hoá tiêu thụ phải thực hiện qua giao thông nông thôn. Theo tin từ website Chính phủ, năm 2007 KTXH vùng dân tộc miền núi có nhiều chuyển biến tích cực, chính sách dân tộc được triển khai đồng bộ và hiệu quả, đời sống vật chất tinh thần của đồng bào ngày càng được cải thiện rõ rệt; cơ sở hạ tầng nông thôn miền núi, vùng sâu, vùng xa được xây dựng và nâng cấp đáng kể, 96% số xã đồng bào khó khăn đã có đường ôtô đến trung tâm xã, 90% số xã có điện lưới quốc gia và 81% số xã có công trình thuỷ lợi nhỏ 2.3 Chương trình giáo dục, y tế: 2.3.1.Về giáo dục: Trong những năm qua, các địa phương trong cả nước đã tích cực mở các lớp xóa mù chữ nhằm giữ vững tỉ lệ người biết chữ trong độ tuổi từ 15 đến 35 đối với vùng thuận lợi và từ 15 đến 25 đối với vùng khó khăn. Tuy nhiên, theo báo cáo của Bộ GD-ĐT (tính đến tháng 6/2008), tỷ lệ mù chữ tại một số địa phương trong cả nước còn khá cao đặc biệt lại tập trung chủ yếu ở các ở các tỉnh miền núi Tây Bắc, Tây Nguyên, Đồng bằng sông Cửu Long và một số tỉnh thuộc miền núi Nam Trung bộ và các tỉnh Bắc Trung bộ Báo cáo tổng hợp từ các Sở GD-ĐT cho biết, từ năm 2005 đến nay, cả nước đã huy động được 163.011 người theo học các lớp xóa mù chữ (XMC);129.360 người tham gia các lớp học giáo dục tiếp tục sau khi biết chữ;gần 26 triệu lượt người tham gia các lớp chuyên đề trong các Trung tâm giáo dục thường xuyên,Trung tâm học tập cộng đồng nhằm duy trì,củng cố kết quả XMC. Các số liệu cũng cho thấy, số người được huy động đến các lớp học XMC, giáo dục tiếp tục sau khi biết chữ có xu hướng giảm dần vì tỷ lệ người biết chữ ngày càng tăng.Tuy nhiên, cũng theo đánh giá của ngành giáo dục thì các tỉnh miền núi phía Bắc và các tỉnh Tây Nguyên như Kon Tum, Gia Lai, Đắc Lắcsố người tái mù chữ có xu hướng tăng dần trong các năm gần đây. Như ở các tỉnh miền núi phía Bắc năm 2005-2006 có 30.204 người tái mù, đến năm 2007-2008 có 32.793 người. ( 2.3.2 Về y tế: Đến cuối nǎm 1999, trong 38 tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng xa (dự hội nghị tại Hòa Bình) với hơn 40 triệu dân, chiếm 52,5% dân số cả nước, có 1523 xã nghèo đặc biệt khó khǎn, chiếm 81% trong tổng số 1880 xã nghèo của cả nước Bộ máy y tế các tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng xa đã và đang kiện toàn tổ chức từ tỉnh đến xã theo Nghị định 01/CP và Thông tư 02/TTLT: Trung tâm y tế (TTYT) huyện trực thuộc Sở Y tế và Trạm y tế xã thuộc TTYT huyện. Tuy nhiên, do chưa được bổ sung biên chế nên một số tỉnh chưa thành lập Trung tâm Truyền thông - Giáo dục sức khỏe, Trung tâm Phòng chống bệnh xã hội...Tổng số cán bộ y tế của các tỉnh miền núi, vùng sâu vùng xa có gần 90 nghìn người, tỷ lệ 22,4 cán bộ y tế/10.000 dân, xấp xỉ tỷ lệ chung của cả nước là 22,3. Trong khi đó chỉ có 3,6 bác sỹ/10.000 dân, thấp hơn tỷ lệ chung của cả nước là 3,9. Riêng về nhân lực y tế cơ sở, số xã có bác sỹ sản nhi thấp hơn tỷ lệ chung của cả nước. Riêng tỷ lệ số thôn, bản có nhân viên y tế cao hơn tỷ lệ chung của cả nước, bởi vì trong mấy nǎm qua các chương trình, dự án trong nước và quốc tế ưu tiên đầu tư đào tạo. Theo tin từ website Chính phủ, năm 2007 KTXH vùng dân tộc miền núi có nhiều chuyển biến tích cực, chính sách dân tộc được triển khai đồng bộ và hiệu quả, đời sống vật chất tinh thần của đồng bào ngày càng được cải thiện rõ rệt; 97% số xã có trạm y tế. 2.4 Chương trình tín dụng cho nông dân vay vốn Từ năm 2001 -2005, tổng nguồn vốn tín dụng (bao gồm vốn ngân hàng phục vụ người nghèo, vốn các tổ chức, đoàn thể, hợp tác quốc tế) khoảng 10 nghìn tỷ đồng, trong đó nhà nước cấp bù chênh lệch lãi suất huy động và cho vay hộ nghèo 750 tỷ động . Trong 5 năm cho khoảng 5 triệu hộ nghèo vay với bình quân 2.5 – 3.5 triệu đồng/hộ Năm 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 Tổng vốn đầu tư hộ 165.8 132.7 105 98 110 110 110 Vốn đầu tư phát triển 145.8 110.7 80 70 80 80 80 Kinh phí sự nghiệp hành chính 20 22 25 28 30 30 30 Số dự án 479 460 250 250 250 479 400 Số hộ định canh định cư 27024 22644 15000 15000 15000 10000 10000 ( Nguồn :Bộ kế hoạc và đầu tư) Tính đến 2006 chính sách tín dụng của Chính phủ đã giúp cho hơn 900.000 hộ gia đình thoát nghèo; tạo công ăn việc làm cho hơn 1,2 triệu lao động trong xã hội; xây dựng hơn 230.000 công trình nước sạch vệ sinh môi trường nông thôn; hơn 80.000 học sinh sinh viên có hoàn cảnh khó khăn được vay vốn để học tập đây là những kết quả hết sức to lớn của chính sách tín dụng đối với hộ nghèo và các đối tượng chính sách của Chính phủ trong thời gian qua 2.5 Chương trình tư vấn chuyển giao khoa học công nghệ Sau gần 8 năm, Chương trình nông thôn miền núi đã triển khai được 291 dự án trên 64 tỉnh, thành phố với tổng kinh phí 369 tỷ đồng. Chương trình đã huy động trên 12.000 cán bộ khoa học từ 50 tổ chức KH&CN trong cả nước về phục vụ tại địa bàn nông thôn và vùng sâu vùng xa; xây dựng trên 400 mô hình sản xuất chế biến, đào tạo khoảng 1.400 kỹ thuật viên cơ sở và tập huấn công nghệ cho 52.757 lượt người, giải quyết bước đầu các vấn đề như: tăng khả năng tự túc lương thực thông qua tăng năng suất và cơ cấu cây trồng hợp lý; phát triển cây công nghiệp, cây ăn quả; trồng và bảo vệ rừng; khôi phục và phát triển một số ngành nghề truyền thống và nghề phụ... Các dự án trên không chỉ giúp cho các địa phương tiếp nhận và làm chủ được các công nghệ và kỹ thuật tiến bộ, cho ra đời một loạt các dự án có hiệu quả kinh tế cao như sản xuất nấm tại Ninh Bình, Hoà Bình, Hà Tĩnh, Sơn La,... dự án chế biến chè đắng tại Cao Bằng, chè Thượng Sơn tại Hà Giang, hạt dẻ và mác mật tại Cao Bằng, ngô bao tử, dưa chuột hộp tại Sóc Sơn - Hà Nội.... mà còn mang lại việc làm và tăng thu nhập cho hàng trăm nghìn lao động nông thôn. Đến nay, nhiều sản phẩm thuộc dự án đã đứng vững trên thị trường, góp phần hình thành các công ty chuyên sản xuất các mặt hàng nói trên. 2.6. Chương trình hỗ trợ dân tộc đặc biệt khó khăn ( 135) Sau 7 năm thực hiện (1999-2005), chương trình 135 (gọi là chương trình 135 giai đoạn I) đã đạt được các mục tiêu quan trọng về phát triển kinh tế - xã hội. Cả nước có 736 xã thoát khỏi diện đặc biệt khó khăn (ĐBKK). Để tiếp tục thực hiện mục tiêu xóa đói giảm nghèo, phát triển kinh tế - xã hội ở các xã ĐBKK miền núi, biên giới và vùng sâu, vùng xa, gần 2000 xã ĐBKK còn lại và hơn 3000 thôn, bản ĐBKK ở xã khu vực II đã đươc đưa vào diện đầu tư của Chương trình 135 giai đoạn II (2006 - 2010). Qua 2 năm thực hiện Chương trình 135 giai đoạn 2, hơn 8000 dự án các loại đã được triển khai. Trong đó, trên 6000 công trình hạ tầng xây dựng được đưa vào sử dụng. Các dự án hỗ trợ sản xuất bước đầu đã hỗ trợ rất hiệu qủa. Các hộ nghèo ở các xã đặc biệt khó khăn được cấp cây, con giống, vật tư công cụ để sản xuất và được tiếp cận với các mô hình sản xuất mới; hàng trăm nghìn lượt cán bộ xã, thôn bản, người dân đã được bồi dưỡng kiến thức về quản lý đầu tư, xóa đói giảm nghèo. 2.7. Chương trình phủ xanh đất trống đồi trọc (chương trình 327) Chương trình 327 giai đoạn 1 mang lại kết quả :Cả nước đã tăng độ che phủ từ 33,2% năm 1998 lên 37,1% năm 2005. Riêng ở địa phương chúng tôi đã đạt được đến 55% vào năm 2005. Tuy nhiên chương trình này còn có nhiều tồn tại: lĩnh vực đầu tư còn phân tán, dàn trải, thiếu tập trung những địa bàn, lĩnh vực có lợi thế, suất đầu tư thấp, dẫn đến chất lượng rừng chưa cao, đời sống của người dân nghề rừng còn khó khăn chất lượng rừng, khả năng cung cấp gỗ của rừng vừa thấp kém, tình trạng chặt phá rừng trái phép và cháy rừng còn xảy ra nhiều nơi, nhất là công tác bảo vệ rừng vẫn còn khó khăn, phức tạp, công tác giao đất, giao rừng thực hiện chưa tốt, nhiều nơi chưa xác định chủ rừng là ai. Người dân sống làm nghề rừng thu nhập quá thấp, đời sống còn nhiều khó khăn, do nhận khoán, bảo vệ khoanh nuôi tái sinh trồng rừng phòng hộ khi đó chính sách Nhà nước khoán còn quá thấp, còn hưởng lợi từ trồng rừng thì chưa thoả đáng. Từ những vấn đề trên, nên dân chưa gắn bó với nghề rừng Hiện nay chúng ta đang trong quá trình tiến hành thực hiện chương trình 135 giai đoạn II. IV. Một số giải pháp giảm nghèo bền vững 1. Một số vấn đề còn tồn tại trong thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo cho đồng bào dân tộc thiểu số ở nước ta trong giai đoạn hiện nay - Cơ chế chính sách: + Cơ chế chính sách chưa đồng bộ,chưa thích ứng hoàn toàn với điều kiện cụ thể của từng vùng, do vậy hiệu quả thực hiện chưa cao, chưa có tác động mạnh mẽ tới tất cả các hộ, nhất là ở vùng sau vùng xã, đặc biệt khó khăn + Cơ chế giao kế hoạch,mục tiêu thực hiện các chương trình dự án xóa đói giảm nghèo cho địa phương còn bất cập: mục tiêu không đầy đủ, không giao kế hoạch dẫn đến cơ quan trung ương không nắm chắc việc thực hiện các mục tiêu đặt ra của các chương trình xóa đói giảm nghèo + Chính sách kiểm tra giám sát đối với dự án xóa đói giảm nghèo chưa hiệu quả, dẫn đến các biểu hiện tiêu cực trong quá trình thực thi, chính sách chưa đến tay nguời nghèo + Chính sách phối hợp, điều hành dự án xóa đói giảm nghèo là các chính sách an sinh xã hội khác chưa rõ ràng, dẫn đến lúng túng trong triển khai - Nguồn lực tài chính hạn chế - Sự phối hợp giữa các bộ ngành chưa hợp lý, phân tán, dàn trải, kém hiệu quả. Một chương trình xóa đói giảm nghèo do các bộ ngành khác nhau chủ trì , do vậy khó khăn trong triển khai đạt hiệu quả cao. - Việc hoạt động của bộ ngành cho các địa phương còn chậm, thiếu định mức nên địa phương khó thực hiện hoặc thực hiện tùy tiện 2. Một số giải pháp giảm nghèo bền vững 2.1.Giải pháp thúc đẩy thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo: - Tiếp tục tuyên truyền nâng cao nhận thức về xóa đói giảm nghèo từ trung ương tới địa phương, tạo sức mạnh tổng hợp - Thường xuyên nâng cao nhận thức về trách nhiệm của các cấp ủy Đảng, chính quyền, Mặt trận, các đoàn thể và nhân dân về mục đích, ý nghĩa, tầm quan trọng của chủ trương xóa đói giảm nghèo. - Tăng cường các hoạt động truyền thông trên các phương tiện thông tin đại chứng, tuyên truyền người tốt việc tốt, làm ăn giỏi, vượt nghèo. - Huy động nguồn lực tại chỗ, các tổ chức đoàn thể, doanh nghiệp, cộng đồng và sự trợ giúp quốc tế để thực hiện chính sách -Tiếp tục thực hiện hiệu quả các chính sách: Đa dạng hóa tín dụng cho xóa đói giảm nghèo, hỗ trợ y tế, giáo dục, hỗ trợ đồng bào khó khăn 2.2 Thực hiện hiệu quả chương trình quốc gia giảm nghèo giai đoạn 2006 – 2010 tạo đà cho các năm tiếp sau. Cần đạt được: - Xây dựng đủ cơ sở hạ tầng thiết yếu cho các xã đặc biệt khó khăn - Đạt 6 triệu lượt hộ nghèo vay vốn ưu đãi trong 5 năm:từ 2006 – 2010 - 100% người nghèo được cấp thẻ bảo hiểm y tế - Tập huấn nâng cao năng lực cho 170 nghìn cán bộ tham gia công tác giảm nghèo ở các cấp - Đảm bảo kinh phí thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo từ 2006 – 2010: tổng nguồn vốn cho người nghèo: 43.488 tỷ đồng 2.3 Giải pháp về quản lý tổ chức: - Hoàn thiện cơ chế phối hợp thực hiện chính sách giảm nghèo giữa các bộ ngành liên quan: kế hoạch đầu tư, lao động thương binh xã hội, tài chính, ngân hàng và các ban ngành địa phương nhằm nâng cao tính nhanh nhạy của chính sách giảm nghèo - Xây dựng các định mức, chế độ cụ thể, áp dụng thuận lợi và hiệu quả trong triển khai các chương trình dự án - Tăng cường công tác thanh tra kiểm tra đối với việc thực hiện chính sách giảm nghèo trong thực tiễn để điều chỉnh chính sách, giảm thiểu vi phạm Nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành và nhân dân về chủ trương giảm nghèo. - Kiện toàn Ban chỉ đạo và bộ máy nhân sự cho chương trình giảm nghèo ở Thị xã và các phường, xã. Hàng năm, tập huấn để nâng cao trình độ cho cán bộ làm công tác xóa đói giảm nghèo của Thị xã, các phường, xã và các trưởng khu phố, ấp. Hỗ trợ chế độ trợ cấp cho cán bộ làm công tác giảm nghèo của phường, xã. 2.4.Có chế độ khen thưởng Đối với những địa phương thực hiện tốt công tác xóa đói giảm nghèo và xử lý nghiêm đối với những địa phương thiếu tích cực, kịp thời khen thưởng động viên những hộ nghèo tự chủ vươn lên thoát nghèo. 2.5.Thực hiện hiệu quả công tác xây dựng và đưa vào cuộc sống các chiến lược, quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội Bao gồm: Xây dựng các mục tiêu, giải pháp chiến lược Phân tích đánh giá, dự báo các yếu tố phát triển huyện nghèo Lựa chọn cơ cấu kinh tế, phương hướng phát triển ngành, các sản phẩm chủ lực và lựa chọn cơ chế, cơ cấu đầu tư Lựa chọn phương án đô thị hóa, xây dựng điểm dân cư Quy hoạch sử dụng đất Phương án phát triển nguồn nhân lực, giải quyết việc làm Xây dựng chiến lược quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội huyện nghèo phải gắn với chiến lược, quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội của vùng, tình, nhằm tạo ra hệ thống, cơ chế thống nhất cho sự phát triển kinh tế xã hội của huyện nghèo 2.6.Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động Theo hướng phát triển các ngành công nghiệp chế biến cho tiêu dùng trong nước và xuất khẩu gắn với các tiềm năng nguyên liệu, vật liệu tại chỗ của các huyện nghèo 2.7.Phát triển nguồn nhân lực Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ đào tạo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng công cuộc giảm nghèo bền vững Hỗ trợ xây dựng các trung tâm dạy nghề Phổ cập thông tin khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư cho nông dân Thực hiện kế hoạch hóa dân số Có chính sách đãi ngộ người có trình độ về làm quê việc 2.8.Tạo việc làm cho lao động Thực hiện các chương trình xuất khẩu lao động đối với các huyện nghèo, tạo điều kiện đào tạo nguồn nhân lực và tạo nguồn vốn đầu tư Tăng cường năng lực quản lý của cán bộ Nhà nước cấp cơ sở làm công tác xóa đói giảm nghèo : Đào tạo, chuẩn hóa đội ngũ cán bộ thực thi chính sách Nâng cao năng lực chuyên môn Có chính sách tạo động lực cho người lao động 2.9. Về y tế Mở rộng y tế tại các huyện nghèo, thực hiện đầy đủ chế độ trợ cấp với các đối tượng thuộc diện chính sách, tích cực xóa nhà tạm, đảm bảo chỗ ở ổn định, có thể định cư lâu dài KẾT LUẬN Xóa đói giảm nghèo là công việc mang tính lâu dài, những kết quả bước đầu đạt được trong việc giảm ngèo, giảm đói của đồng bào các dân tộc thiểu số mang lại niềm tin về sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước. Đời sống các dân tộc thiểu số đã được cải thiện rõ rệt: bộ mặt kinh tế vùng sâu, vùng xa có những chuyển biến tích cực; kết cấu hạ tầng phát triển mạnh, chăn nuôi gia cầm theo dấu hiệu hàng hóa đã khởi sắc; đất trống, đồi trọc đã từng bước được phủ xanh, các ngành công nghiệp năng lượng, đặc biệt là thủy điện và công nghiệp khai thác, có những phát triển; giáo dục được đầu tư; y tế, văn hóa được chú ý; an ninh, quốc phòng có nhiều đổi mới Bên cạnh những mặt đã làm được, chúng ta cần nhìn nhận một cách thẳng thắn những vướng mắc, vấn đề chưa làm được. Công tác xóa đói giảm nghèo cần được sự ủng hộ quan tâm của mọi thành phần, đối tượng trong xã hội chứ không của riêng những người có tâm huyết. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Giáo trình Chính sách kinh tế xã hội, PGS.TS Đoàn Thị Thu Hà và PGS.TS Nguyễn Thị Ngọc Huyền đồng chủ biên, NXB Khoa học và kĩ thuật, 2006 Giáo trình Kinh tế phát triển, GS.TS Vũ Thị Ngọc Phùng chủ biên, NXB Lao động – xã hội, Hà Nội 2006 Giáo trình Kinh tế công cộng, PGS.TS Phạm Văn Vận và Th.S Vũ Cương đồng chủ biên, NXB Thống kê, Hà Nội 2006 Vấn đề xóa đói giảm nghèo ở nông thôn nước ta hiện nay, Nguyễn Thị Hằng, NXB Chính trị quốc gia, 1997 Xóa đói giảm nghèo ở vùng dân tộc thiểu số nước ta hiện nay- thực trạng và giải pháp, Hà Quế Lâm, NXB Chính trị quốc gia 2002 Tạp chí nghiên cứu kinh tế : số 357 tháng 2 năm 2008 Tạp chí lao động và xã hội: - Số 327 + 328 tháng 2 năm 2008 Số 329 tháng2 năm 2008 - Số 331 tháng 3 năm 2008 Số 332 tháng 4 năm 2008 Cùng các nguồn thông tin trên internet và các tài liệu liên quan khác MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc6226.doc
Tài liệu liên quan