Đề tài Cho thuê tài sản và hoạt động cho thuê tài sản ở Việt Nam

Trong tình hình hiện nay ở Việt Nam, những điều kiện cần thiết để các hoạt động CTTS phát triển bao gồm : - Cần xây dựng một môi trường pháp lý hoàn thiện và an toàn đối với các hoạt động cho thuê tài sản. Do đó cần phải có một đạo luật về CTTS, và cần có sự bổ sung, điều chỉnh các điều khoản trong các đạo luật có liên quan tới hoạt động CTTS . Nhất là cần đảm bảo sự an toàn với quyền sở hữu của người cho thuê và sự đảm bảo cho hợp đồng cùng tài sản được tuân thủ theo pháp luật. - Cần có những chính sách ưu đãi về thuế để khuyến khích, thu hút các nguồn đầu tư trong và ngoài nước, thúc đẩy các giao dịch chuyển giao công nghệ tiên tiến thông qua CTTS. - Cần thiết lập một thị trường mua bán máy móc, thiết bị cũ từ các nguồn có sẵn trong nước để các công ty “Leasing” có thể bán những máy móc thiết bị cũ (hay đã bị lỗi thời so với những công nghệ tiên tiến nhưng còn phù hợp với nhu cầu của một số khách hàng ở các địa phương nào đó) đến đúng người cần chúng. - Cần có những quy chế về kế toán, và hạch toán và khấu hao cụ thể, chi tiết cho hoạt động thuê, áp dụng cho các bên tham gia giao dịch. - Cần có một ngân hàng thông tin và hệ thống thông tin công nghệ, thông tin rủi ro trong hoạt động tài trợ thuê. - Cần tổ chức mạng lưới giám định chất lượng tài sản, công nghệ máy móc thiết bị hỗ trợ cho hoạt động giao dịch thành công. - Cần có đội ngũ các chuyên gia trong lĩnh vực công nghệ thiết bị và tài chính. - Cần áp dụng nhiều hình thức tuyên truyền hướng dẫn cho các doanh nghiệp biết cách sử dụng công cụ tín dụng thuê mua. Nhìn chung, khi các điều kiện vừa nêu trên được thoả mãn, môi trường CTTS sẽ dần có mức độ an toàn cao, các ưu đãi về thuế sẽ đem lại lợi nhuận hợp lý cho các bên. Những điều kiện này sẽ là tiền đế thúc đẩy mạnh mẽ hoạt động CTTS phát triển ở Việt Nam.

doc24 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1560 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Cho thuê tài sản và hoạt động cho thuê tài sản ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Hình thức tài trợ thông qua cho thuê tài sản đã có lịch sử khá lâu đời và diễn ra trong hầu hết mọi lĩnh vực hoạt động kinh doanh, thuộc nhiều khu vực trên thế giới. Tuy nhiên từ kinh xuất hiện phương thức thuê tài chính thì loại hình tài trợ này đã có những bước phát triển vượt bậc cả về quy mô và phạm vi địa lý. Ngày nay, nó đã trở thành một hình thức tài trợ vốn cho kinh doanh khá phổ biến từ Châu Mỹ, qua Châu Au, Châu Á cho đến tận miền cực Nam Châu Phi hay Châu Đại Dương. Cùng với sự phát triển về mặt địa lý, sự phát triển về quy mô tài trợ cũng diễn ra rất nhanh chóng và ngành cho thuê đã chiếm một phần rất quan trọng trong thị trường máy móc, thiết bị và trường vốn của nền kinh tế thế giới. Một trở ngại cho các doanh nghiệp Việt Nam khi muốn trang bị các thiết bị công nghệ thông tin hiện đại để phát triển sản xuất kinh doanh là vấn đề vốn đầu tư. Giải quyết vấn đề này đòi hỏi phải có một phương thức huy động vốn đầu tư mới có hiệu quả. Đó chính là hoạt đông Cho Thuê Tài Chính. Đề tài “ Cho thuê tài sản và hoạt động cho thuê tài sản ở Việt Nam” được nêu ra để góp phần vào việc giải quyết vấn đề nêu trên. Kết cấu của đề tài gồm 2 phần chớnh : Chương I: Những lý luận cơ bản về cho thuê tài sản Chương II: Thực trạng hoạt động cho thuê tài sản của Việt Nam hiện nay CHƯƠNG I : NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CHO THUÊ TÀI SẢN I - Lịch sử hình thành và phát triển của hoạt động cho thuê tài sản : Cho thuê tài sản (CTTS) là một công cụ tài chính đã được sáng tạo ra từ rất sớm trong lịch sử văn minh nhân loại. Theo các thư tịch cổ, các giao dịch thuê tài sản đã xuất hiện từ năm 2.800 trước Công Nguyên. Các thầy tu giữ vai trò người cho thuê, người thuê là những nông dân tự do. Tài sản được đem ra giao dịch bao gồm nhiều loại tài sản rất đa dạng : Công cụ sản xuất nông nghiệp, súc vật kéo, nhà cửa, đất ruộng... Trong các nền văn minh cổ đại như Hy Lạp - La Mã hay Ai Cập cũng đã xuất hiện các hình thức thuê để tài trợ cho việc sử dụng đất đai, gia súc, công cụ sản xuất... Tuy nhiên, các giao dịch thuê tài sản thời cổ thuộc hình thức thuê mua kiểu truyền thống . Phương thức giao dịch của hình thức này tương tự như phương thức thuê vận hành ngày nay và trong suốt lịch sử hàng ngàn năm tồn tại của nó, đã không có sự thay đổi lớn về tính chất giao dịch. Đầu thế kỷ 19, hoạt động thuê mua đã có sự gia tăng đáng kể về số lượng và chủng loại thiết bị tài sản cho thuê. Đến đầu thập niên 50 của thế kỷ này, giao dịch thuê mua đã có những bước phát triển nhảy vọt, nhất là tại Hoa Kỳ. Tín dụng thuê mua cũng đã có những bước phát triển mạnh mẽ ở Châu A và nhiều khu vực khác kể từ đầu thập niên 70. Nguyên nhân chính thúc đẩy các hoạt động thuê mua có những bước phát triển mạnh mẽ, nhất là trong những năm gần đây là do nó là một hình thức tài trợ có tính an toàn cao, tiện lợi và hiệu quả đối với các bên tham gia. II - Khi niệm về cho thu ti sản : Cho thuê là gì ? Cho thuê là việc chủ sở hữu một tài sản giao nó cho một người khác sử dụng trong một thời gian các định, còn người sử dụng phải trả một khoản tiền nhất định cho chủ sở hữu. Hết thời hạn, chủ sở hữu thu hồi hoặc bán phần giá trị còn lại của tài sản đó. Chủ tài sản được gọi là người cho thuê Người sử dụng tài sản là người thuê Khoản tiền phải trả được gọi là tiền thuê. Thỏa thuận thuê tài sản : Là thỏa thuận mà theo đó, người cho thuê chuyển quyền sử dụng tài sản sang người thuê trong một thời gian nhất định, được thỏa thuận trước để nhận được những khoản tiền thuê. Thỏa thuận thuê tài chính hoặc thuê mua thuần : Là một thỏa thuận có những đặc điểm như sau : - Thời gian cho thuê : trung hoặc dài hạn, chiếm phần lớn đời sống hữu ích của tài sản và không thể hủy ngang theo ý muốn của một bên. - Phần lớn các chi phí bảo trì, bảo hiểm, rủi ro, thuế và các lợi ích phát sinh trong quá trình sử dụng tài sản được chuyển từ người cho thuê sang người thuê. - Tổng số tiền mà người thuê trả cho người cho thuê trong suốt thời gian thuê thường đủ để bù đắp toàn bộ giá gốc của tài sản cộng với phần lợi nhuận hợp lý. - Đồng thời, thỏa thuận thuê mua còn cho phép người thuê có quyền lựa chọn mua hoặc tiếp tục gia hạn thuê tài sản sau khi hợp đồng thuê mua đáo hạn. Thỏa thuận thuê vận hành : Thuê vận hành là một thỏa thuận thuê : - Có thời hạn ngắn hơn nhiều so với đời sống hữu ích của tài sản. - Tổng số tiền mà người thuê phải trả cho người cho thuê nhỏ hơn nhiều so với giá gốc của tài sản. - Người thuê có quyền hủy ngang sau khi báo trước với người cho thuê trong khoảng thời gian đã thỏa thuận (thường là rất ngắn). - Người cho thuê phải chịu toàn bộ mọi chi phí vận hành, bảo hiểm và mọi rủi ro, thiệt hại không phải do người thuê gây ra. - Khi thỏa thuận đáo hạn, quyền định đoạt tài sản thuộc về người cho thuê. Trong một giao dịch thuê vận hành, người thuê trả tiền thuê tương ứng với phần khấu hao tài sản trong suốt thời gian sử dụng và sau khi kết thúc hợp đồng, người cho thuê tiếp tục tìm người thuê để thu hồi phần giá trị còn lại của thiết bị. Hiếm khi người cho thuê thu hồi đủ vốn đầu tư cho tài sản trong một giao dịch thuê vận hành. III - Các loại hình cho thuê tài sản chủ yếu : 1 - Thuê vận hành : Thuê vận hành có hai đặc trưng chính : - Thời hạn thuê rất ngắn so với toàn bộ đời sống hữu ích của tài sản, điều kiện để chấm dứt hợp đồng chỉ cần báo trước trong 1 thời gian ngắn. - Người cho thuê phải chịu mọi chi phí vận hành của tài sản như chi phí bảo trì, bảo hiểm, thuế tài sản... cùng mọi rủi ro và sự sụt giảm của giá trị tài sản. Mặt khác, người cho thuê được hưởng tiền thuê và sự gia tăng giá trị của tài sản hay những quyền lợi do quyền sở hữu mang lại như : những ưu đãi giảm thuế lợi tức, thuế doanh thu và những khoản khấu trừ do sự sụt giảm giá trị tài sản mang lại... Do thuê vận hành là hình thức cho thuê ngắn hạn nên tổng số tiền mà người thuê phải trả cho người cho thuê có giá trị thấp hơn nhiều so với toàn bộ giá trị của tài sản. Khi kết thúc hợp đồng, người chủ sở hữu có thể bán tài sản đó, hoặc gia hạn hợp đồng cho thuê hay tìm một khách hàng thuê mới. Người thuê có quyền sử dụng tài sản trong thời gian đã thỏa thuận và phải có bổn phận trả tiền thuê. Người thuê không phải chịu các chi phí bảo trì, vận hành hay những rủi ro liên quan đến tài sản nếu không phải do lỗi của họ gây ra. Hình thức thuê vận hành có thể coi là một loại hợp đồng để chấp hành, tài sản không được ghi chép vào sổ sách kế toán của người thuê mà phần tiền trả theo thỏa thuận được ghi như mọi khoản chi phí bình thường khác. Trong hợp đồng này không dự kiến chuyển giao quyền sở hữu thiết bị khi hết hạn thuê, cho nên thuê vận hành không phải là một giải pháp tài trợ cho hành động mua tài sản trong tương lai. 2 - Thuê tài chính (thuê mua) : Cho thuê tài chính là một phương thức tài trợ tín dụng trung hạn hay dài hạn không thể hủy ngang. Theo phương thức này, người cho thuê thường mua tài sản, thiết bị mà người thuê cần và đã thương lượng từ trước các điều kiện mua tài sản đó với nhà cung cấp hoặc người cho thuê cung cấp tài sản của họ cho người thuê. Tùy theo quy định của từng quốc gia, được coi là thuê mua thuần khi thời hạn thuê mua thường chiếm phần lớn đời sống hữu ích của tài sản và hiện giá thuần của toàn bộ các khoản tiền thuê phải đủ để bù đắp những chi phí mua tài sản tại thời điểm bắt đầu hợp đồng. Thông thường, một giao dịch thuê mua thường được chia thành ba phần như sau : a - Thời hạn thuê cơ bản : Là thời hạn mà người thuê trả những khoản tiền thuê cho người cho thuê để được quyền sử dụng tài sản. Trong suốt giai đoạn này, người cho thuê thường kỳ vọng thu hồi đủ số tiền đã bỏ ra ban đầu cộng với tiền lãi trên số vốn đã tài trợ. Đây là thời hạn mà tất cả các bên không được quyền hủy ngang hợp đồng nếu không có sự chấp thuận của bên kia. b - Thời hạn gia hạn tùy chọn : Trong giai đoạn thứ hai này, người thuê có thể tiếp tục thuê thiết bị tùy theo ý muốn của họ. Tiền thuê trong suốt giai đoạn này thường rất thấp so với tiền thuê trong thời hạn cơ bản, thường chiếm tỷ lệ 1 - 2% tổng số vốn đầu tư ban đầu và thường phải trả trước vào đầu mỗi kỳ thanh toán. c - Phần giá trị còn lại : Theo thông lệ, tại thời điểm kết thúc giao dịch thuê mua, người cho thuê thường ủy quyền cho người thuê làm đại lý bán tài sản. Người thuê được phép hưởng phần tiền bán tài sản lớn hơn so với giá mà người cho thuê đưa ra, hoặc được khấu trừ vào tiền thuê hay được coi như một khoản hoa hồng bán hàng. Các loại chi phí bảo trì, vận hành, phí bảo hiểm, thuế tài sản và mọi rủi ro thường do người thuê chịu và tổng số tiền mà người thuê trả cho người cho thuê trong suốt thời gian thuê thường đủ để bù đắp lại toàn bộ giá gốc của tài sản. Trong suốt thời gian diễn ra hoạt động thuê tài sản, quyền sở hữu pháp lý đối với tài sản thuộc về người cho thuê và quyền sử dụng tài sản thuộc về người thuê. Do giữ quyền sở hữu pháp lý đối với tài sản nên mọi ưu đãi về thuế khóa và các khoản tiền bồi thường do cơ quan bảo hiểm trả cho tài sản đều do người cho thuê hưởng. Nhưng người cho thuê thường chiết khấu phần tiền khuyến khích về thuế vào khoản tiền thuê mà người thuê phải trả theo định kỳ, còn khoản tiền bồi thường của công ty bảo hiểm thường được người cho thuê chuyển cho người thuê sau khi người thuê hoàn thành trọn vẹn mọi nghĩa vụ theo quy định của hợp đồng. Trong khoản tiền thuê mà người thuê trả người cho thuê theo định kỳ bao gồm tiền vốn gốc, tiền lãi tín dụng, phần lợi nhuận hợp lý, chi phí quản lý đã được khấu trừ phần khuyến khích về các loại thuế mà tài sản được hưởng. Do đó, về thực chất, thuê mua thuần là một hình thức của sự vay mượn nếu xét theo phương diện người thuê và loại hình giao dịch này cũng chính là một hình thức tài trợ tín dụng nếu xem xét từ phía người cho thuê. Sự khác biệt so với một khoản vay nợ và cũng chính là một trong những nguyên nhân tạo ra sự phát triển mạnh mẽ của hình thức giao dịch này là người cho thuê nắm giữ quyền sở hữu pháp lý và có quyền thu hồi ngay lập tức nếu có những đe dọa sự an toàn đối với tài sản. Đồng thời người cho thuê có thể được hưởng phần lợi nhuận do khoản tiền tiết kiệm thuế lợi tức do khấu hao tài sản cho thuê mang lại sau khi đã chiết khấu cho người thuê theo thuế suất thuế lợi tức của họ. Đối với người thuê, ngoài các lợi ích như gia tăng năng lực sản xuất trong điều kiện hạn chế về nguồn vốn đầu tư, họ còn được hưởng các lợi thế như tỷ số vốn/nợ không thay đổi, được hưởng dịch vụ chuyên môn cao của Công ty cho thuê và giải quyết được những vấn đề công nghệ. Đồng thời, ngoài những khoản tiền chiết khấu do người cho thuê chuyển cho, người thuê còn được hưởng khoản tiền hoãn thuế do tiền thuế làm giảm thuế lợi tức. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động CTTC : * Môi trường, chính sách, luật pháp : Như bất kỳ hoạt động kinh doanh nào khác, CTTC cũng chịu sự tác động của môi trường pháp lý và các chính sách của Nhà nước. Ở Việt Nam CTTC là mt hình thức rất mới nên môi trường pháp lý vẫn còn đang trong giai đoạn thử nghiệm và hoàn thiện. Đến nay mới chỉ chính thức có các văn bản pháp lý sau dùng cho hoạt động CTTC: Quy chế tạm thời và tổ chức và hoạt động của Công ty CTTC tại Việt Nam ban hành kèm theo nghị định số 64/ CP ngày 9/1/1995 của chính phủ. Thông tư số 03/TT –NH5 ngày 9/2/1996 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn thực hiện “ Quy chế tạm thời về tổ chức và hoạt động của Công ty CTTC tại Việt Nam: Thông tư số 49/ 1999/TT/BTC ngày 6/5/1999 của Bộ tài chính về “ Hướng dẫn thực hiện luật thuế giá trị gia tăng đối với hoạt động cho thuê tài chính”. * Môi trường kinh tế : Vì là hoạt động tín dụng trung hạn và dài hạn với mục đích hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp đầu tư máy móc thiết bị cho sản xuất nên CTTC chịu tác động rất rõ ràng cuả môi trường kinh tế. Nếu nền kinh tế đang trong giai đoạn phát triển, nhu cầu đầu tư cho sản xuất lớn thì CTTC sẽ phát triển mạnh. Ngược lại, nếu nền kinh tế phát triển hoặc suy thoái thì nhu cầu đầu tư không lớn sẽ hạn chế sự phát triển của CTTC. * Lãi suất và chính sách tín dụng của Ngân hàng : CTTC là một kênh dẫn vốn mới so với hình thức cho vay cổ điển của Ngân hàng. Nếu lãi suất cho vay của ngân hàng thấp thì sẽ gây khó khăn cho hoạt động CTTC vì khách hàng sẽ chọn hình thức vay cổ điển. Ngược lại, lãi suất của ngận hàng cao sẽ làm CTTC có cơ hội phát triển. Bên cạnh đó, ưu thế của CTTC là việc không đòi hỏi thế chấp hay bảo lãnh phức tạp như ngân hàng. Nhưng nếu ngân hàng đơn giản hóa các thủ tục và điều kiện cho vay vốn thì CTTC sẽ gặp khó khăn. Hơn nữa, việc điều chỉnh lãi xuất ngân hàng cũng gây rủi ro cho hoạt động CTTC bởi lẽ việc xác định giá tiền thuê ban đuầ là dựa trên cơ sở lãi suất. Nếu trong quá trình cho thuê mà ngân hàng điều chỉnh lãi suất trong khi công ty CTTC không thể điều chỉnh đựợc giá thuê thì Công ty CTTC sẽ là người chịu rủi ro do việc điều chỉnh lãi suất này. * Tỷ giá hối đoái : Ở các nước đang phát triển như Việt Nam, các máy móc thiết bị cho thuê thường là các thiết bị nhập của nước ngoài nhằm mục đích trang bị công nghệ mới phát triển sản xuất do trong nước chứ đủ trình độ sản xuất được. Do phải nhập máy móc thiết bị bằng ngoại tệ mà lại thu tiền thuê và hoạch toán bằng nội tệ nên khi có biến động về tủ giá hối đoái sẽ ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động CTTC. ( Đến nay ở Việt Nam vẫn quy định tiền thuê phải thu bằng đồng Việt Nam, gây khó khăn cho các công ty CTTC khi phải nhập máy móc thiết bị từ nước ngoài). * Yếu tố tâm lý : CTTC là một hình thức mới, rất phổ biến ở các nước phát triển nhưng lại rất mới ở các nước đang phát triển, nhất là ở Việt Nam. Để chấp nhận hành thức CTTC đòi hỏi phải có một trình độ nhận thức cao về kinh tế, một tâm lý fám tiếp nhận cái mới mà không phải ai cũng có ngay được. Người Việt Nam, cũng như những nước Châu Á khác, ảnh hưởng bởi những quan niệm “ ăn chắc, mặc bền “ từ ngày trước để lại nên không dễ dàng chấp nhận thuê mướn như người Châu Au. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển kinh tế xã hội, chắc chắn trong tương lai CTTC sẽ được nhận thức đúng đắn hơn, rộng rãi hơn và se có điệu kiện phát triển mạnh hơn. Các yếu tố cơ bản cấu thành nghiệp vụ CTTC : * Tài sản cho thuê : Đây là điểm khác biệt lớn của CTTC so với các hình thức tài trợ khác. Nếu các hình thức tài trợ khác được thực hiện dưới hình thức tiền tệ thì tài trợ cho thuê được thực hiện dưới hình thức tài sản. Thông thường các tái sản này có giá trị lớn và là các máy móc thiết bị dùng trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh. * Quan hệ và ràng buộc trách nhiệm của các bên tham gia vào hợp đồng cho thuê : Trong hoạt động CTTC thường có 3 bên: Người cho thuê, người đi thuê và nhà cung cấp. Trách nhiệm của bên đi thuê: Đàm phán mua thiết bị trực tiếp với nhà cung cấp, thông báo đầy đủ các thông tin về dự án đầu tư cho người cho thuê, tiếp nhận thiết bị, bảo dưỡng để duy trì tính năng sử dụng của thiết bị đến hết thời hạn thuê, thanh toán tiền thuê định kỳ cho người cho thuê. Trách nhiệm của bên cho thuê: Đánh giá dự án tài trợ đảm bảo mức rủi ro ít nhất và khả năng sinh lợi, tư vấn cho bên đi thuê vào điều kiện chủ yếu của hợp đồng CTTC, trả tiền mua thiết bị cho nhà cung cấp, tiếp nhận , đăng ký thiết bị, chuyển giao thiết bị cho người đi thuê, kiểm tra giám sát định kỳ tình hình sử dụng thiết bị, làm các thủ tục thanh lý hợp đồng và chuyển giao quyền sở hữu tài sản cho bên đi thuê khi hợp đồng kết thúc nếu bên đi thuê có nhu cầu. Trách nhiệm của nhà cung cấp Tư vấn cho người đi thuê về thiết bị, ký và thực hiện hợp đồng cung cấp thiết bị với người cho thuê, cùng với bên cho thuê bàn giao thiết bị đúng thời hạn và địa điểm quy định, thực hiện việc bảo hành và hợp đồng về bảo trì, bảo trì, bảo dưỡng, nâng cấp thiết bị. * Các nội dung chính của hợp đồng CTTC : Hợp đồng CTTC là một trong những yếu tố quan trọng nhất trong số các thành phần của một nghiệp vụ CTTC. Nó chi phối tất cả các hoat động khác. Nội dung của nó phải bao hàm các điều kiện ràng buộc về mặt pháp lý, tài chính cũng như xác định rõ quyền và nghĩa vụ của các đối tác tham gia. Hợp đồng CTTC là một văn bản phức tạp, được soạn thảo hết sức tỷ mỷ đòi hỏi hai bên phải có trình độ để nắm được nội dung hợp đồng tránh những sai sót phát sinh. Văn bản hợp đồng CTTC phức tạp hơn nhiều so với văn bản hợp đồng thông thường vả về số lượng điều khoản và nội dung ràng buộc trong từng điều khoản. Nguyên tắc khi soạn thảo hợp đồng là tránh rủi ro cho người cho thuê( nhà cung cấp tài chính )đồng thời đảm bảo quyền sở hữu tài sản của bên cho thuê cũng như đảm bảo bên đi thuê nhận được thiết bị đúng thời hạn và đúng quy cách. Một hợp đồng CTTC sẽ có các nội dung cơ bản sau: + Các bên tham gia hợp đồng + Mô tả về tài sản cho thuê: Các đặc điểm nhận dạng, tính năng kỹ thuật, các chi tiết bộ phận + Tên, địa chỉ của nhà cung cấp + Nơi lắp đặt, cất giữ, vận hành tài sản cho thuê + Giá mua tài sản thuê. + Thời điểm giao hàng và thời hạn thuê, thời gian thuê bổ sung. + Các quy định về đặt cọc và bảo lãnh + Quy định tiền thuê, tiền thuê bổ sung, lãi suất, giá trị còn lại của tài sản + Quy định về phương thức thanh toán + Quy định về quyền lựa chọn mua của người đi thuê + Vấn đề bảo hiểm và tổn thất + Bên cạnh đó còn có các nội dung sau: Các định nghĩa và thuật ngữ Thỏa thuận thuê Vấn đề kiểm tra và giao nhận tài sản Các chi phí phải trả cho bên cho thuê Cấn đề sử dụng khai thác và bảo dưỡng tài sản Các quy định đảm bảo quyền sở hữu của bên cho thuê Quy định về sửa đổi, bổ xung tài sản Quy định về vấn đề hủy bỏ hợp đồng trước thời hạn Quy định về hòan trả tài sản Quy định về các trường hợp vi phạm của các bên Quy định về thông báo, thông tin liên lạc giữa hai bên trong qúa trình thực hiện hợp đồng Các điều khoản chung * Hạch toán kế toán trong CTTC: Hiện nay trên thế giới đang tồn tại hai quy tắc hạch toán dựa trên cơ sở là quyền sở hữu kinh tế hoặc quyền sở hữu pháp lý Nếu hoạch toán theo quyền sở hữu pháp lý thì người cho thuê được xem làchủ sở hữu để hoạch toán và tính thuế. Tiền thuê được trả tính là thu nhập và người cho thuê được quyền khấu hao tài sản. Như vậy, bên cho thuê chịu sức ép thu hồi vốn nhanhvà do chủ ý của bên đi thuê nên thời hạn thuê nên thời hạn thuê thường ngắn hơn tuổi thọ kinh tế của thiết bị cho thuê. Khi mãn hạn hợp đồng người thuê sẽ mua lại thiết bị với giá tượng trưng. Nếu hạch toán theo quyền sở hữu kinh tế thì bên thuê là người khấu hao tài sản. Cách giải quyết này dựa trên cơ sở là các giao dịch nên được hạch toán và tính thuế theo thực chất của giao dịch. Đây là một cách hạch toán tiến bộ hơn. Kết quả của phương pháp hạch toán này là cho phép người thuê khấu hao thiết bị trong thời gian thuê chứ không phải bằng thời gian hữu dụng của tài sản dẫn đến lợi được do việc trả chậm thuế. CHƯƠNG II : THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CHO THUÊ TÀI s¶n TẠI VIỆT NAM HIỆN NAY Kể từ khi Việt Nam chuyển sang cơ chế thị trường thì nhu cầu đổi mới máy móc, thiết bị và công nghệ của các doanh nghiệp Việt Nam rất cấp bách và có dung lượng rất to lớn. Trong khi đó các nguồn cung ứng vốn để thoả mãn nhu cầu này rất khó khăn, bởi tính chất và điều kiện của các hình thức tài trợ này rất khắt khe nên nhiều doanh nghiệp Việt Nam sẽ không thể được thoả mãn các nhu cầu đổi mới công nghệ. Với những đặc điểm đặc thù, sự đa dạng về phương thức giao dịch và tính đơn giản về thủ tục, điều kiện so với các phương thức tài trợ khác v.v..tín dụng thuê mua có thể đáp ứng được nhu cầu của nhiều khách hàng - Doanh nghiệp Việt Nam. Tuy nhiên, sự thành công của một giao dịch thuê tài sản phụ thuộc rất nhiều vào thành tích tín dụng của người nhận tài trợ, giá cả cho thuê, chủng loại thiết bị, trình độ công nghệ và tình hình thị trường. Do đó việc tiến hành nghiên cứu thị trường cho thuê tài sản có ý nghĩa rất quan trọng. I - NGHIÊN CỨU THỊ TRƯỜNG CTTS TẠI VIỆT NAM : 1 - Nghiên cứu về khách hàng : “Khách hàng – Doanh nghiệp Việt Nam” đa số là những doanh nghiệp vừa và nhỏ có nhu cầu rất đa dạng đối với các loại máy móc thiết bị và tài sản. Song, trong giai đoạn hiện nay, việc thoả mãn các nhu cầu này cần được xem xét trên nhiều phương diện. - Về mặt nhu cầu : Các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay đang rất cần đầu tư từ một nhà máy với dây chuyền đồng bộ cho đến đầu tư đổi mới riêng lẻ, từng phần các loại máy công tác, các loại phương tiện vận chuyển, các loại phương tiện phục vụ sản xuất, thiết bị điện tử, thông tin liên lạc v.v..có trình độ trung bình khá trở lên so với trình độ của thế giới. Trong một số ngành không nhất thiết phải trang bị những công nghệ hiện đại nhất, bởi như vậy sẽ không tận dụng được “ưu thế” của Việt Nam là lao động dồi dào, giá rẻ so với thế giới, có trình độ tay nghề khá.. chẳng hạn như ngành may, da, giày... Mặt khác, các thiết bị, công nghệ đưa vào Việt Nam để cho thuê cần tập trung vào những ngành đang có khuynh hướng phát triển mạnh và những ngành công nghiệp, dịch vụ hướng về xuất khẩu. Bởi trong nền kinh tế hướng về xuất khẩu của Việt Nam hiện nay, các ngành này sẽ phát triển rất nhanh chóng. Cụ thể là các ngành: Xây dựng cơ bản, ngành du lịch – khách sạn, ngành dệt-da-giày, ngành gốm sứ, ngành vận tải và các loại máy móc, thiết bị, tài sản thuộc các lĩnh vực như : Các loại thiết bị văn phòng Các loại máy móc thiết bị động lực Các loại máy công cụ Các loại bất động sản Đây là những ngành có nhu cầu phát triển rất to lớn và đa số có khả năng tạo ra thu nhập bằng ngoại tệ nên có khả năng thanh toán tốt. - Nghiên cứu về phương thức đáp ứng nhu cầu : Trong những điều kiện cho phép, phương thức CCTS cần đa dạng hoá phương pháp thanh toán tiền thuê, bởi đối với doanh nghiệp do ngành nghề kinh doanh mang tính thời vụ nên khó có thể đáp ứng các phương pháp thanh toán thông thường. Do đó, có thể thiết lập lịch thanh toán tiền thuê phù hợp với đặc điểm kinh doanh của họ. Mặt khác, cần tổ chức tốt việc cung cấp các dịch vụ kèm theo thiết bị, máy móc cho thuê: tư vấn lựa chọn kỹ thuật công nghệ, chuyển giao công nghệ, đào tạo huấn luyện, kỹ thuật bảo trì, bảo dưỡng, cách thức vận hành, sử dụng, cung cách quản trị những vấn đề phát sinh do thiết bị mang lại. 2 - Các nguồn cung tín dụng thuê mua ở Việt Nam : 2.1 Các nguồn cung trong nước - Ở phía Bắc, Công ty Lin co, được thành lập cuối năm 1994, là chi nhánh của Nhân hàng ngoại thương, hiện nay đang kinh doanh phục vụ các đối tượng khách háng chủ yếu là các DNNN phía Bắc. Phương thức kinh doanh của Linco chủ yếu áp dụng phương thức bán và tái thuê và thuê mua bắc cầu. - Tại TP Hồ Chí Minh. Tháng 7-1995 công ty thuê mua đầu tiên ở phía nam đã được chính thức thành lập là công ty VINALEASING ( vốn là Công ty Trường Thành ). - Ngoài hai công ty thuê mua đầu tiên đã nêu trên, các ngân hàng trong và ngoài quốc doanh cũng đang xúc tiến nghiên cứu, chuẩn bị cơ sở về mọi mặt để chính thức tham gia thị trường thuê mua: Như Ngân hàng Công thương Việt Nam, Ngân hàng Eximbank, Ngân hàng đầu tư phát triển, Ngân hàng Á Châu…. Và một số công ty tài chính khác. 2.2 Các nguồn cung quốc tế Các tổ chức này bao gồm: Công ty thuê mua Phương Đông ( Nhật Bản ). Các công ty thuê mua thuộc khối ASEAN. 3 - Các loại hàng hóa có thể thuê mua tại Việt Nam : Do mức độ rủi ro trong kinh doanh nói chung và hoạt động tín dụng thuê mua nói riêng ở Việt Nam hiện nay còn rất cao. Các hoạt động CTTC bước đầu có lẽ chỉ nên tập trung vào một số tài sản, thiết bị dễ di chuyển, có nhu cầu mang tính phổ biến ổn định hoặc dễ chuyển nhượng, mua bán như : Ngành xây dựng cơ bản: Máy móc, thiết bị thi công, xây dựng, đào lắp, máy ủi v.v. Ngành du lịch, khách sạn: Các loại xe du lịch, các loại thiết bị phòng phục vụ cho các khách sạn vừa và nhỏ. Ngành dệt, may, da, giầy v.v… Các loại máy dệt hiện đại, máy may, các loại máy nhuộm, cán láng, in hoa hiện đại v.v… Các loại thiết bị văn phòng: Máy vi tính, máy sao chụp, máy điện thoại. Các loại máy móc, thiết bị động lực ( Do nguồn điện Việt Nam không ổn định): Máy phát điện vừa và nhỏ, máy biến áp điện….. Các loại phương tiện vận tải đường bộ: Các loại xe chở khách, các loại xe tải, xe ôtô con, xe cẩu, xe nâng các cỡ v.v… Các loại máy công cụ: Các loại máy cắt, gọn kim loại, các loại máy rèn, dập, các loại máy hàn và các loại máy gia công đồ gỗ. Các loại máy Ngành gốm sứ : Các loại lò nung gas, lò nung điện, các loại máy khai thác, nhào trộn nguyên liệu, các loại khuôn mẫu. Các loại bất động sản: Nhà xưởng, văn phòng làm việc. II - NGHIÊN CỨU VỀ PHƯƠNG THỨC CTTS TẠI VIỆT NAM : 1 - Những phương thức CTTS có thể áp dụng ở Việt Nam : Mặc dù nhu cầu về đổi mới máy móc thiết bị và gia tăng các nguồn vốn để phát triển sản xuất của các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay hết sức to lớn và cấp thiết. Mặt khác, do tín dụng thuê mua là loại hình kinh doanh còn mới mẻ đối với ngành ngân hàng Việt Nam và các định chế tài chính quốc tế chưa thực sự tham gia nên sự cạnh tranh trên thị trường thuê mua hầu như chưa xảy ra. Song do hệ thống pháp lý có liên quan còn thiếu, cùng với đặc điểm môi trường kinh doanh Việt Nam rất phức tạp tạo ra mức độ rủi ro rất cao cho các hoạt động thuê mua. Do đó cần có sự chọn lựa những phương thức CTTS có độ an toàn cao và phù hợp với các loại hàng hoá đã nêu ở điểm 4, mục III, chương này. Vì thế, tại Việt Nam, hoạt động cho thuê tài sản khởi đầu có lẽ chỉ nên triển khai các phương thức tài trợ trong phạm vi các loại giao dịch tương xứng với tong loại hàng hoá như sau: 1.1 - AÙp dụng phương thức thuê vận hành đối với các loại nhà ở, văn phòng làm việc và các loại phương tiện vận tải. 1.2 - AÙp dụng phương thức bán và tái cho thuê đối với các loại máy móc thiết bị (còn đời sống hữu ích thực tế) và nhà xưởng, văn phòng của các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ sản xuất gia công hàng xuất khẩu. 1.3 - AÙp dụng phương thức thuê mua bắc cầu đối với các loại máy móc thiết bị mới, hiên đại phải nhập khẩu từ nước ngoài. Chủ yếu sử dụng nguồn vốn cho vay của các ngân hàng nước ngoài, các tổ chức tài chính quốc tế trong khi nguồn vốn của các ngân hàng Việt Nam còn hạn chế. Đây cũng chính là hình thức góp phần thu hút nguồn vốn nước ngoài đầu tư cho nền kinh tế đất nước. 2 - Các dạng hợp đồng CTTS tại Việt Nam : Do Việt Nam chưa có thị trường mua bán các loại máy móc thiết bị cũ và nhất là các thủ tục xuất nhập khẩu khá phức tạp, do đó đối với các loại máy móc, thiết bị nên áp dụng loại hợp đồng hoàn trả toàn bộ. Trên cơ sở đó, hình thành cả những hợp đồng theo phương thức bán và tái thuê, có sự tài trợ vốn của một định chế tài chính và được khách hàng hoàn trả toàn bộ giá trị hợp đồng trong thời gian cơ bản hoặc những hợp đồng đan xen giữa thuê mua bắc cầu với hoàn trả toàn bộ v.v... III - ĐÁNH GIÁ VỀ CHO THUÊ TÀI SẢN TẠI VIÊT NAM : 1 - Thuận lợi khi Việt Nam áp dụng CTTS : a - Đối với nền kinh tế: CTTS làm gia tăng sự cạnh tranh của các nguồn tài chính thúc đẩy thị trường tài chính quốc gia phát triển. CTTS có độ rủi ro thấp lại không yêu cầu thế chấp nhiều nên có vai trò quan trọng trong việc tài trợ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các doanh nghiệp tư nhân không được sự ưu đãi nhiều như các doanh nghiệp nhà nước. CTTS giúp cho việc hiện đại hóa năng lực công nghệ quốc gia, bắt kịp với các công nghệ tiên tiến hiện đại trên thế giới đồng thời thúc đẩy việc sử dụng với đa công suất thiết bị để trả tiền thuê. CTTS giúp gia tăng đầu tư chung của xã hội, làm tăng thu nhập quốc dân, tăng thu nhân sách quốc gia và thúc đẩy quá trình tái đầu tư cho nền kinh te. Trên phương diện quốc tế, CTTS là một kênh góp phần thu hút vốn đầu tư và công nghệ hiện đại của nước ngoài. b - Đối với bên cho thuê : Thuận lợi về tài chính : + Họ không cần có ngay một số vốn lớn để mua tài sản, cũng như họ cón có thể thay thế nguòn vốn vay từ các tổ chức tín dụng với những điều kiện khắt khe hơn như thế chấp hay phải có năng lực tài chính. Lợi thế này càng có tác dụng hơn khi ở Việt Nam đang diễn ra tình trạng nhân hàng ứ đọng vốn còn các doanh nghiệp lại đang thiếu vốn. + Các công ty tăng thêm lợi nhuận, mở rộng sản xuất trong khi khả năng tín dụng từ phía ngân hàng không thay đổi ngay cả khi không có nghiệp vụ này. + Các doanh nghiệp thuận tiện trong công tác hạch toán. Chỉ cần hạch toán tiền thuê trên báo c¸o có tài chính, chủ động hoạch định dòng ngân quỹ theo thỏa thuận thanh toán , tránh được thuế vốn do việc tách rời quyền sở hữu và quyền sử dụng . + Việc áp dụng phương thức CTTC giúp cho bên đi thuê tránh được hao mòn vô hình bằng việc dùng thời hạn thuê để chuyển tài sản sang cho bên cho thuê. Điều này càng có ý nghĩa khi khoa học công nghệ ngày nay phát triển với tốc độ rất nhanh đặc biệt trong lĩnh vực công nghệ thông tin, - Bên cạnh đó, người đi thuê còn có được nhiều thuận lơi khác như : Dễ dàng lĩnh hội được tư vấn về công nghệ, được sử dụng những công nghệ mới, hiện đại và tiên tiến nhất trên thế giới. c - Đối với bên cho thuê : Lợi nhuận của bên cho thuê có thể cao hơn được tạo ra một phần trong tiền thuê. CTTS giúp cho việc đa dạng hóa các khoản mục đầu tư từ đó dẫn đến việc phân tán rủi ro. Việc thu tiền thuê hàng kỳ giúp công ty CTTS rút ngắn kỳ hạn khỏan tín dụng để tránh được những rủi ro về biến động lãi suất. Bên cho thuê có thể kết hợp việc kinh doanh và chuyển giao công nghệ với việc đầu cơ giá trị còn lại. d - Đối với nhà cung cấp : Tăng thêm khả năng bán hàng do khai thác lượng cầu tiềm tàng từ phía người tiêu dùng. Tăng thêm số lượng khách hàng mà trong đó có các tổ chức tín dụng, các công ty CTTS. Đối tượng này vừa là khách hàng vừa là người môi giới và tư vấn có tác động lan truyền có lợi cho việc tiêu thụ sản phẩm. 2 - Khó khăn khi Việt nam áp dụng CTTS : Bên cạnh những thuận lợi trên thì khi Việt Nam vẫn gặp những khó khăn khi áp dụng CTTS sau : Các mặt hàng CTTS còn quá ít để đáp ứng được nhu cầu của đông đảo các khách hàng muốn thuê. Thị hiếu tiêu dùng của người Việt Nam vẫn còn chưa yên tâm khi sử dụng phương pháp tín dụng mới này. Hành lang pháp lý nhằm hỗ trợ cho nghiệp vụ CTTS còn chưa được hoàn thiện và giải quyết được mọi các thiếu sót trong quá trình thuê mua. Và chưa khuyến khích được các nhiều công ty đầu tư vào hình thức mới này. Tóm lại, hình thức CTTS còn là mới mẻ đối với thị trường Việt Nam trong những năm gần đây. Tuy nhiên những khó khăn khi áp dụng được phương pháp tín dụng này còn quá ít so với lợi thế khi Việt Nam đưa CTTS hoạt động như bất kỳ một hoạt động kinh doanh nào. CTTS sẽ giúp cho nền kinh tế Việt Nam phát triển hơn, mở rộng phạm vi sản xuất, tăng cao thu nhập và đóng góp một phần không nhỏ vào qúa trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới. IV- BIỆN PHÁP MỞ RỘNG VÀ PHÁT TRIỂN CTTS Ở VIỆT NAM : Trong tình hình hiện nay ở Việt Nam, những điều kiện cần thiết để các hoạt động CTTS phát triển bao gồm : Cần xây dựng một môi trường pháp lý hoàn thiện và an toàn đối với các hoạt động cho thuê tài sản. Do đó cần phải có một đạo luật về CTTS, và cần có sự bổ sung, điều chỉnh các điều khoản trong các đạo luật có liên quan tới hoạt động CTTS ... Nhất là cần đảm bảo sự an toàn với quyền sở hữu của người cho thuê và sự đảm bảo cho hợp đồng cùng tài sản được tuân thủ theo pháp luật. Cần có những chính sách ưu đãi về thuế để khuyến khích, thu hút các nguồn đầu tư trong và ngoài nước, thúc đẩy các giao dịch chuyển giao công nghệ tiên tiến thông qua CTTS. Cần thiết lập một thị trường mua bán máy móc, thiết bị cũ từ các nguồn có sẵn trong nước để các công ty “Leasing” có thể bán những máy móc thiết bị cũ (hay đã bị lỗi thời so với những công nghệ tiên tiến nhưng còn phù hợp với nhu cầu của một số khách hàng ở các địa phương nào đó) đến đúng người cần chúng. Cần có những quy chế về kế toán, và hạch toán và khấu hao cụ thể, chi tiết cho hoạt động thuê, áp dụng cho các bên tham gia giao dịch. Cần có một ngân hàng thông tin và hệ thống thông tin công nghệ, thông tin rủi ro trong hoạt động tài trợ thuê. Cần tổ chức mạng lưới giám định chất lượng tài sản, công nghệ máy móc thiết bị hỗ trợ cho hoạt động giao dịch thành công. Cần có đội ngũ các chuyên gia trong lĩnh vực công nghệ thiết bị và tài chính. Cần áp dụng nhiều hình thức tuyên truyền hướng dẫn cho các doanh nghiệp biết cách sử dụng công cụ tín dụng thuê mua. Nhìn chung, khi các điều kiện vừa nêu trên được thoả mãn, môi trường CTTS sẽ dần có mức độ an toàn cao, các ưu đãi về thuế sẽ đem lại lợi nhuận hợp lý cho các bên. Những điều kiện này sẽ là tiền đế thúc đẩy mạnh mẽ hoạt động CTTS phát triển ở Việt Nam.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35393.doc
Tài liệu liên quan