Đề tài Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Việt Nam

Tuy nhiên, ngày nay các nước thực hiện công nghiệp hóa đi sau không thể sử dụng nguyên mẫu của các mô hình sẵn có bởi dưới tác động của những nhân tố mới, những lợi thế so sánh truyền thống không còn được đánh giá cao như trước đây, nên việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế của các nước đi sau cũng cần phải được nhận thức lại nhằm tạo ra một cơ cấu kinh tế hiện đại, cân đối, năng động và tăng trưởng nhanh một cách bền vững hơn

doc28 trang | Chia sẻ: ndson | Lượt xem: 1377 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tiên tiến, hoàn thiện và bổ xung cơ cấu cũ nhằm biến cơ cấu cũ thành cơ cấu mới hiện đại và phù hợp hơn. Xu hướng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế : Khi thu nhập đầu người tăng lên thì tỉ trọng nông nghiệp trong tổng sản phẩm sẽ giảm xuống, còn tỉ trọng của công nghiệp và dịch vụ sẽ tăng lên. Khi nền kinh tế bước sang những giai đoạn phát triển cao thì tốc độ tăng của ngành dịch vụ sẽ ngày càng cao hơn so với tốc độ tăng của ngành công nghiệp. Trong ngành công nghiệp, tỷ trọng các ngành sản xuất sản phẩm có dung lượng vốn cao ngày càng lớn và gia tăng với tốc độ nhanh, tỷ trọng các ngành sản phẩm có dung lượng lao động cao sẽ giảm dần. Đối với ngành dịch vụ, theo sự phát triển kinh tế, các ngành dịch vụ chất lượng cao như: Tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, luật, giáo dục, y tế, du lịch sẽ có tốc độ tăng nhanh và chiếm tỷ trọng cao.Nền kinh tế chuyển dịch từ cơ cấu đóng sang cơ cấu mở, nghĩa là phát triển các ngành có dấu hiệu lợi thế ( lợi thế tuyệt đối, lợi thế so sánh, lợi thế nguồn lực). Tuy tất cả các nước có xu hướng chuyển dịch cơ cấu như nhau nhưng tốc độ chuyển dịch lại không giống nhau vì bị chi phối bởi nhiều yếu tố khác nhau về tự nhiên, nhân lực, điều kiện kinh tế, kĩ thuật và văn hoá của mỗi nước. Ý nghĩa Quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành là một quá trình diễn ra liên tục và gắn liền với sự phát triển kinh tế. Ngược lại nhịp độ phát triển, tính chất bền vững của quá trình tăng trưởng lại phụ thuộc vào khả năng chuyển dịch cơ cấu ngành linh hoạt, phù hợp với những điều kiện bên trong, bên ngoài và các lợi thế tương đối của nền kinh tế. Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế phản ánh trình độ phát triển của sức sản xuất xã hội.Và trong thời kì công nghiệp hoá, nó phản ánh mức độ đạt được của quá trình công nghiệp hoá. Mối quan hệ giữa chuyển dịch cơ cấu ngành với sự phát triển chung của nền kinh tế có ý nghĩa hết sức quan trọng vì gắn với nó là cả một động thái về phân bố các nguồn lực hạn hẹp của một quốc gia trong những thời điểm nhất định vào những hoạt động sản xuất riêng. Sự chuyển dịch cơ cấu ngành thể hiện tính hiệu quả của việc phân bố nguồn lực. Trong nền kinh tế hội nhập quốc tế và khu vực ngày càng phát triển thì việc lựa chọn và chuyển dịch hợp lí cơ cấu ngành thể hiện được các lợi thế tương đối và khả năng cạnh tranh của một quốc gia trong nền kinh tế toàn cầu, là cơ sở cho sự chủ động tham gia và thực hiện hội nhập thắng lợi. 2. Kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế 2.1. Khái niệm Kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế là một bộ phận trong hệ thống kế hoạch phát triển kinh tế xã hội. Nó xác định các mục tiêu cần đạt tới về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong thời kì kế hoạch và đưa ra các chính sách, giải pháp cần thiết để thực hiện mục tiêu đó một cách có hiệu quả nhất. 2.2. Nhiệm vụ Mặc dù xu hướng chuyển dịch cơ cấu ngành là mang tính quy luật, nhưng trong thực tế không có một mô hình chuyển dịch chung cho tất cả các nước. Trong công tác kế hoạch những vấn đề thường phải đặt ra như cần ưu tiên cho nông nghiệp đến mức độ nào so với công nghiệp trong thời kì đầu phát triển, các mối liên kết kinh tế được phát huy thế nào qua từng thời kì. Do đó, nhiệm vụ đặt ra cho kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế là : Xác định các điều kiện, yếu tố và các quan điểm chi phối sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Đây chính là cơ sở để đưa ra các hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Nó bao hàm các vấn đề về kinh tế - xã hội, khoa học, công nghệ, các mối quan hệ kinh tế quốc tế và các nguồn lực của đất nước. Xác định hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cụ thể hoá bằng các quan hệ tỉ lệ giữa các ngành sao cho đảm bảo phù hợp với xu thế biến đổi chung và phản ánh được đặc điểm của nền kinh tế trong những điều kiện cụ thể. Xác định hướng huy động và sử dụng các yếu tố đầu vào đặc biệt là cơ cấu vốn đầu tư và cơ cấu lao động nhằm đảm bảo được cơ cấu đầu ra theo hướng đã xác định. Đề xuất các chính sách, biện pháp kinh tế - xã hội cần thiết để hướng dẫn hoạt động nền kinh tế sao cho đáp ứng được các yêu cầu của sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. 2.3. Vai trò trong hệ thống kế hoạch hoá Kế hoạch hoá chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế là một bộ phận trong hệ thống kế hoạch hoá phát triển kinh tế. Nó là bộ phận kế hoạch mục tiêu, phản ánh trình độ phát triển của nền kinh tế (ở góc độ kinh tế).Nó gắn liền với kế hoạch tăng trưởng và kế hoạch các yếu tố nguồn lực. 2.4. Nội dung kế hoạch a. Phân tích thực trạng thực hiện kế hoạch thời kì trước và các nhân tố tác động đến kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế thời kì kế hoạch Phân tích thực trạng thực hiện kế hoạch ở thời kì trước về các mặt: tỷ trọng đóng góp của từng ngành trong GDP, cơ cấu lao động làm việc trong các ngành kinh tế, cơ cấu vốn đầu tư vào các ngành… để thấy được cơ cấu ngành kinh tế đang chuyển dịch theo hướng nào, sự chuyển dịch trong nội bộ ngành ra sao, những thành tựu đạt được và những hạn chế còn tồn tại, rút ra nguyên nhân, bài học kinh nghiệm, biết được hiện tại chúng ta đang ở đâu, có những thuận lợi và khó khăn gì khi bước vào thời kì kế hoạch. Từ đó để có thể đề ra được một kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành hợp lý cho thời kì tiếp theo và thực hiện thắng lợi kế hoạch đó. Nhìn chung kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của một nước thường chịu tác động của các nhân tố sau: * Ở trong nước đó là: - Các lợi thế về tự nhiên của đất nước cho phép có thể phát triển ngành sản xuất nào một cách thuận lợi; quy mô dân số của quốc gia; trình độ nguồn nhân lực; những điều kiện kinh tế, văn hóa của đất nước. - Ngoài ra, nhu cầu của từng xã hội, thị trường ở mỗi giai đoạn lại là cơ sở để sản xuất phát triển đáp ứng nhu cầu không chỉ về số lượng mà cả chất lượng hàng hóa, từ đó dẫn đến những thay đổi về vị trí, tỷ trọng của các ngành nghề trong nền kinh tế. - Mục tiêu, chiến lược, quy hoạch phát triển kinh tế của từng quốc gia có tác động quan trọng đến sự chuyển dịch của cơ cấu kinh tế vì mặc dù cơ cấu kinh tế mang tính khách quan, tính lịch sử xã hội nhưng lại chịu tác động, chi phối rất lớn bởi mục tiêu của Nhà nước. Nhà nước có thể tác động gián tiếp lên tỷ lệ của cơ cấu ngành kinh tế bằng các định hướng phát triển, đầu tư, những chính sách khuyến khích hay hạn chế phát triển các ngành nghề nhằm bảo đảm sự cân đối của nền kinh tế theo mục đích đề ra trong từng giai đoạn nhất định. - Cuối cùng, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong nước cho phép sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhanh hay chậm, hiệu quả đến mức nào... * Bên cạnh những nhân tố tác động từ bên trong, những nhân tố tác động từ bên ngoài gồm có: - Xu hướng chính trị, kinh tế, xã hội của khu vực và thế giới. Sự biến động của chính trị, kinh tế, xã hội của một nước, hay một số nước, nhất là các nước lớn sẽ tác động mạnh mẽ đến dòng hàng hóa trao đổi, từ đó ảnh hưởng đến nguồn thu hút vốn đầu tư, chuyển giao công nghệ... buộc các quốc gia phải điều chỉnh chiến lược phát triển kinh tế, cơ cấu kinh tế của mình nhằm bảo đảm lợi ích quốc gia và sự phát triển trong động thái chung của thị trường thế giới. - Xu thế toàn cầu hóa kinh tế quốc tế hiện nay có tác động rất mạnh mẽ đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của từng nước, vì chính sự phân công lao động diễn ra trên phạm vi quốc tế ngày càng sâu sắc và cơ hội thị trường rộng lớn được mở ra trong quá trình toàn cầu hóa kinh tế quốc tế, cho phép các nước có khả năng khai thác những thế mạnh của nhau để trao đổi các nguồn lực, vốn, kỹ thuật, hàng hóa và dịch vụ một cách hiệu quả... Quá trình đó vừa bắt buộc, vừa tạo điều kiện thuận lợi cho các nước thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp với sự phân công lao động trên quy mô toàn thế giới. - Những thành tựu của cách mạng khoa học, kỹ thuật, đặc biệt sự bùng nổ của công nghệ thông tin tạo nên những bước nhảy vọt trong mọi lĩnh vực sản xuất góp phần đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của các nước vì thông tin nhanh chóng làm cho sản xuất, kinh doanh được điều chỉnh nhanh nhạy, hợp lý hơn, dẫn đến cơ cấu sản xuất được thay đổi phù hợp hơn với thị trường và lợi ích của từng nước. Dưới tác động tổng hợp của các nhân tố trên, các ngành kinh tế (thông thường bao gồm 3 ngành chính: nông, lâm nghiệp, thủy sản - còn gọi là nông nghiệp; công nghiệp, xây dựng - còn gọi là công nghiệp; và dịch vụ) phát triển một cách không đồng đều, tạo nên những tỷ lệ khác nhau trong cơ cấu ngành kinh tế của các nước. Song điểm đáng lưu ý là trong thời đại ngày nay, bất cứ nhà nước nào cũng đều quan tâm xác định cho nền kinh tế của nước mình phát triển theo hướng có lợi nhất và phấn đấu đạt được cơ cấu kinh tế đem lại hiệu quả cao. Vì vậy, và qua những thực tiễn, hầu hết các nước hiện nay đều lựa chọn mô hình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của nước mình theo hướng đẩy mạnh xuất khẩu nhằm phát huy mọi lợi thế của đất nước, tham gia được vào sự phân công lao động trên quy mô toàn thế giới, tận dụng mọi cơ hội đem lại của xu hướng toàn cầu hóa kinh tế đang diễn ra ngày càng sâu rộng. b. Định hướng và mục tiêu chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế thời kì kế hoạch. Mục tiêu: chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ trong GDP, giảm tỷ trọng nông nghiệp. Định hướng: phát triển các ngành kinh tế theo hướng phát huy lợi thế so sánh của từng ngành, chú trọng đối với các lĩnh vực quan trọng nhằm tạo ra sự chuyển dịch trong nội bộ ngành. Tuỳ từng giai đoạn phát triển cụ thể, mục tiêu và định hướng được điều chỉnh cụ thể hơn cho phù hợp với giai đoạn đó. Các mục tiêu và định hướng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế có vai trò làm cơ sở để định hướng sự phát triển, xác định các chỉ tiêu cụ thể cần đạt được trong thời kì kế hoạch. Từ đó đề ra các giải pháp, phương án thực hiện. c. Xác định các chỉ tiêu kế hoạch Các chỉ tiêu Vì cơ cấu kinh tế phản ánh cả về lượng lẫn về chất mối tương quan tỉ lệ giữa các bộ phận hợp thành của nền kinh tế nên khi đánh giá quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cần chú ý cả những quan hệ tỉ lệ về mặt lượng cũng như phân tích sự thay đổi về chất (theo quan điểm lượng đổi chất đổi) của các mối tương quan ấy. Hơn nữa, trong quá trình phân tích, đánh giá, không thể không chú ý tới những đặc điểm riêng cuả mỗi loại cơ cấu kinh tế. Đối với quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế những tiêu chí cơ bản phản ánh sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế vĩ mô bao gồm: cơ cấu GDP, cơ cấu lao động, cơ cấu vốn Các phương pháp tiếp cận. Phương pháp tiếp cận theo mô hình I/O Mô hình này nghiên cứu những mối quan hệ tỷ lệ cân đối đặc trưng cho việc phân phối sản phẩm giữa các ngành và mối quan hệ giữa khối lượng sản phẩm và chi phí để sản xuất ra những sản phẩm này. Nguyên lí của mô hình: đứng trên góc độ phân tích sự giao lưu của sản phẩm hàng hoá từ khi ra đời, chuyển từ ngành này sang ngành khác và đi vào tiêu dùng cuối cùng. Ngành sử dụng Ngành sản xuất Sử dụng cuối cùng TSP sử dụng 1 2 3 … N Tổng cộng 1 x11 x12 x13 … x1n Y1 X1 2 x21 x22 x23 … x2n Y2 X2 3 x31 x32 x33 … x3n Y3 X3 … … … … … … … … … n xn1 xn2 xn3 … xnn Yn Yn Tổng cộng ∑xj1 ∑xj2 ∑xj3 … ∑xjn = Giá trị gia tăng VA1 VA2 VA3 … VAn = Tổng chi phí X1 X2 X3 … Xn Việc phân phối sản phẩm trong nền kinh tế được đặc trưng bằng quan hệ tỷ lệ: Xi = xi1+ xi2+xi3+…+xin+yi (i = 1,2,…, n) (1) Trong đó: Xi : Tổng sản phẩm của ngành i xij : Khối lượng sản phẩm ngành i tiêu dùng cho sản phẩm ngành j với tư cách là chi phí trung gian. Yi : Khối lượng sản phẩm cuối cùng của ngành i Tổng số xij phản ánh khối lượng sản phẩm ngành i sẽ tiếp tục chế biến trong các ngành sản xuất, lượng sản phẩm này được gọi là sản phẩm trung gian. Sản phẩm cuối cùng (Yi) là những sản phẩm được đưa ra khỏi sản xuất hàng năm được dùng để bù đắp hào mòn, sử dụng cho tiêu dùng, tích luỹ và khối lượng chênh lệch xuất-nhập khẩu. Khi xây dựng mô hình I/O người ta thường giả thiết rằng khối lượng sản phẩm của ngành i tiêu dùng cho ngành j tỷ lệ thuận với khối lượng sản phẩm của ngành j: xij = aij Xj ( i,j = 1,2,…,n) (2) Trong đó: aij là hao phí trực tiếp sản phẩm ngành i để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm ngành j – được gọi là hệ số hao phí trực tiếp. Hợp nhất phương trình (1) và (2) sẽ có: Xi = aij Xj + Yi (i = 1,2,…,n) Dưới dạng ma trận có thể viết: X = AX + Y Và lời giải sẽ là: X = (E – A)-1. Y Trong đó: E: ma trận đơn vị A: ma trận hệ số chi phí trực tiếp Y: véc tơ sản phẩm cuối cùng Như vậy, để xác định cơ cấu ngành của nền kinh tế người ta thường dựa vào kế hoạch về sản phẩm cuối cùng của các ngành với hệ số hao phí trực tiếp phù hợp với trình độ kĩ thuật của từng ngành. Phương pháp ngoại suy (thống kê thực nghiệm) Xác định xu thế chuyển dịch cơ cấu ngành qua các năm : dựa vào sự thay đổi tỉ trọng từng ngành (TLi) Xác đinh xu thế tăng trưởng kinh tế của từng ngành qua các năm : dựa vào sự thay đổi trong tăng trưởng kinh tế của từng ngành (g) Phương pháp được sử dụng: OLS. Trên cơ sở tính toán cho 2 nhóm ngành ta xác định được nhóm ngành thứ 3 dựa vào kết quả của 2 nhóm ngành trên. d.Các giải pháp chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế Thứ nhất, đối với nhóm ngành có năng lực cạnh tranh. Đây là các ngành có lợi thế so sánh dựa trên nguồn tài nguyên thiên nhiên là nguồn lao đông, chủ yếu là ngành nông nghiệp-thuỷ sản như gạo, cà phê, điều, chè , cao su tự nhiên, thuỷ sản và các ngành công nghiệp dệt may, da dầy. Tuy nhiên lợi thế cuả những ngành này về giá rẻ đang bị thu hẹp dần sau khủng hoảng tài chính khu vực với sự mất giá các đồng bản tệ ở nhiều nước. Cũng có nguy cơ những lợi thế so sánh này tiếp tục bị giảm sút trong những năm tới khi các nước trong khu vực phục hồi được nền kinh tế. Đây là nhóm ngành ít bị ảnh hưởng của việc hội nhập quốc tế, mà ngược lại còn có cơ hội tốt để mở rộng thị trường quốc tế với nhu cầu tiêu dùng tương đối ổn định (đa số các mặt hàng là tiêu dùng hàng ngay). Tuy nhiên, giá trị gia tăng được tạo ra trong nhóm ngành hàng này không cao, do đó cần chú ý giảm giá thành sản phẩm. Để nâng cao khả năng cạnh tranh, mở rộng thị trường đối với những mặt hàng có thế mạnh xuất khẩu, việc chuyển dịch cơ cấu của từng ngành hàng trong nhóm này cần tập trung vào những công việc sau: Xây dựng chiến lược thị trường xuất khẩu, đa dạng hoá thị trường, đảm bảo thị trường lâu dài có quy mô thích hợp. Xây dựng hệ thống thông tin, dự báo sự biến động của thị trường. Thành lập trung tâm xúc tiến thương mại đối với từng mặt hàng. Hoàn thiện hệ thống chính sách thương mại và cơ chế điều hành xuất nhập khẩu theo hướng hạn chế sử dụng các biện pháp hành chính đơn thuần; đơn giản hoá và rút ngắn thời gian làm các thủ tục liên quan đến hoạt động xuất nhập khẩu nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp. Nâng cấp hạ tầng cơ sở, bao gồm cả hệ thống dịch vụ chuyên môn có liên quan như ngân hàng, tư vấn quản lí và tư vấn pháp luật. Nâng cao công nghệ đối với toàn bộ quá trình sản xuất, chế biến, vận chuyển, dịch vụ. Chú trọng tính chất đồng bộ trong đầu tư giữa các khâu sản xuất, chế biến, cung cấp nguyên liệu. Việc cắt giảm thuế quan có thể tiến hành với tốc độ nhanh, trong thời gian ngắn với nguyên tắc hàng sơ chế chịu thuế quan thấp hơn hàng chế biến; Nguyên liệu chịu thuế thấp hơn thành phẩm; nhưng mức chênh lệch thuế này là thấp. Thứ hai, đối với nhóm ngành hàng có khả năng cạnh tranh trong tương lai với điều kiện được hỗ trợ có thời gian và tích cực nâng cao năng lực cạnh tranh. Đây là nhóm ngành hàng trước mắt còn gặp nhiều khó khăn trong việc cạnh tranh với hàng nhập khẩu, nhưng có khả năng nâng cao được cạnh tranh nếu hiện tại được hưởng những hỗ trợ nhất định. Đa số trong nhóm này là các ngành công nghiệp chế biến như rau quả-thực phẩm chế biến, điện-điện tử, cơ khí, hoá chất, xi măng. Để nâng cao khả năng cạnh tranh của nhóm mặt hàng này, giữ vững và mở rộng thị phần trong nước so với mặt hàng nhập khẩu, cần xác định đúng hướng phát triển và áp dụng các biện pháp hỗ trợ thích hợp, kịp thời cùng với mức độ bảo hộ hợp lí, các giải pháp cần thực hiện là: Xây dựng chiến lược phát triển dựa trên cơ sở phân tích các thế mạnh cũng như điểm yếu hiện có so với sản phẩm nhập khẩu. Hỗ trợ đổi mới công nghệ, chú trọng đầu tư chiều sâu. Thành lập trung tâm công nghệ ở các thành phố lớn, các khu công nghiệp. Hỗ trợ hoạt động nghiên cứu và phát triển đối với sản phẩm mới thông qua các trung tâm công nghệ, các tổng công ty và doanh nghiệp. Thực hiện chế độ bảo hộ ở mức trung bình đối với các ngành như hoá chất, xi măng…và bảo hộ cao với điện-điện tử, cơ khí. Cải thiện môi trường đầu tư để mở rộng khả năng thu hút vốn từ nhiều nguồn, cả nguồn trong nước và nước ngoài như miễn thuế đối với máy móc, thiết bị xây dựng cơ bản hình thành dự án, miễn thuế nhập khẩu nguyên liệu thô cho các dự án thuộc khu vực khuyến khích. Thực hiện yêu cầu nội địa hoá thông qua biện pháp thuế quan, đơn giản hoá thủ tục hải quan, rút ngắn thời hạn cấp giấy phép đầu tư, cải tiến thủ tục cấp giấy phép lao động đối với lao động nước ngoài. Khu vực dịch vụ nói chung cũng có thể xếp vào nhóm ngành có khả năng cạnh tranh có điều kiện. Mặc dù có những điểm chung như chú trọng công tác đào tạo, nâng cao kĩ năng quản lí và lao động, áp dụng những tiêu chuẩn vào thông lệ quốc tế…Nhưng việc chuyển dịch cơ cấu có những đặc thù riêng. Một số lĩnh vực dịch vụ đòi hỏi nhiều vốn, công nghệ hiện đại; một số mang tính độc quyền cao; một số lại nhạy cảm với các vấn đề chủ quyền quốc gia và bản sắc dân tộc…Do vậy. cần có những nghiên cứu cụ thể, trước hết là những lĩnh vực dịch vụ đã cam kết hợp tác trong ASEAN : hàng không, kinh doanh dịch vụ, tài chính, vận tải biển, viễn thông và du lịch. Thứ ba, đối với những nhóm ngành hàng hiện đại, khả năng cạnh tranh thấp, đây chủ yếu là những ngành hàng đòi hỏi vốn đầu tư lớn, công nghệ hiện đại là ít phụ thuộc vào lao động và điều kiện tự nhiên. Hiện tại với nguốn vốn hạn chế, công nghệ lạc hậu là những khó khăn trong việc nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm như công nghiệp giấy, đường, luyện kim, hoá chất. Do đó, những ngành thuộc nhóm này cần có những biện pháp thúc đẩy nhanh việc chuyển dịch cơ cấu. Trước mắt tập trung vào: Đầu tư đồng bộ các ngành sản xuất cụ thể để có thể sản xuất được các thiết bị chính xác. Đào tạo đội ngũ cán bộ kĩ thuật có trình độ cao và công nhân lành nghề. Khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao công nghệ tiên tiến. Duy trì bảo hộ ở mức thấp. Phần II : Kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế thời kì 2006-2010 I.Kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế thời kì 2006-2010 1. Phân tích thực trạng thực hiện kế hoạch thời kì 2000-2005 Trong 5 năm qua đã có sự chuyển dịch quan trọng về cơ cấu ngành kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát huy lợi thế so sánh trong từng ngành. Cụ thể : Đơn vị tính: % Chỉ tiêu 1995 2000 2005 Cơ cấu ngành kinh tế (GDP) 100 100 100 Trong đó: Nông, lâm, thuỷ sản 27.2 24.5 20.89 Công nghiệp, xây dựng 28.8 36.7 41.04 Dịch vụ 44.0 38.8 38.07 Đến năm 2005, tỷ trọng trong GDP của khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản giảm xuống còn 20.89%; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng lên 41.04%; khu vực dịch vụ 38.07%. Sự tăng trưởng nhanh của các ngành công nghiệp và một số ngành dịch vụ đã tạo nên sự thay đổi đáng kể cơ cấu kinh tế. Bước đầu đã hình thành được một số ngành, sản phẩm quan trọng tạo động lực cho phát triển như: công nghiệp dầu khí, sản xuất thép, xi măng, cơ khí đóng tàu, lắp ráp ôtô xe máy… Trong từng ngành đã có chuyển dịch cơ cấu, gắn sản xuất với thị trường, nâng cao hiệu quả; chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn đạt được nhiều kết quả. Tỷ trọng lao động trong các ngành công nghiệp, xây dựng và dịch vụ đã tăng lên trong cơ cấu lao động xã hội. Cơ cấu nội bộ ngành công nghiệp đã có chuyển dịch đáng kể theo hướng công nghiệp hoá, từng bước hiện đại hoá, phát huy lợi thế của từng ngành, từng sản phẩm, gắn sản xuất với thị trường trong nước và quốc tế. Cơ cấu sản xuất và cơ cấu sản phẩm công nghiệp đã được chuyển dịch theo hướng tăng dần tỉ trọng công nghiệp chế biến trong giá trị tăng thêm. Ngành công nghiệp chế biến đã bước đầu khai thác được các lợi thế về nguồn nguyên liệu sản xuất trong nước để nâng cao giá trị sản phẩm xuất khẩu. Cụ thể, tỷ trọng công nghiệp chế biến trong giá trị gia tăng của công nghiệp và xây dựng đã tăng từ 50.5% năm 2000 lên 51% năm 2005; tỷ trọng các ngành công nghiệp khai thác giảm từ 26.3% xuống còn 25%; tỷ trọng các ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt và nước giảm từ 8.6% xuống 8.4%; tỷ trọng ngành xây dựng tăng từ 14.6% lên 15.8%. Cơ cấu khu vực dịch vụ có những chuyển hướng tích cực. Các ngành dịch vụ tryền thống như thương nghiệp, vận tải,bưu chính-viễn thông, khách sạn, nhà hàng phát triển khá. Đặc biệt, một số ngành dịch vụ có tỷ lệ chi phí trung gian thấp như ngân hàng, bảo hiểm… đã phát triển khá nhanh, góp phần làm cho giá trị tăng thêm của ngành dịch vụ tăng cao nhất là 2005. Tuy nhiên, quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế còn một số tồn tại. Quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành chưa thật gắn kết chặt chẽ với các quy hoạch, chiến lược tổng thể có tầm nhìn xa, với lộ trình hợp lí, chưa phát huy tốt thế mạnh trong từng ngành. Nhìn chung, chuyển dịch cơ cấu trong 5 năm qua còn chậm, một phần vẫn được định hướng bởi các quy hoạch mang tính cục bộ của riêng các ngành và địa phương. Vì thế, quy hoạch tổng thể thường bị phá vỡ, cơ cấu chuyển dịch chưa đáp ứng được các yêu cầu phát triển bền vững. Trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế chỉ chú trọng nhiều đến việc tăng tỉ trọng công nghiệp và dịch vụ trong GDP, chưa quan tâm đúng mức tới yêu cầu chuyển dịch cơ cấu theo hướng hiện đại hoá, phát triển mạnh công nghiệp và kĩ thuật tiên tiến trong tất cả các ngành, lĩnh vực. Nhiều cơ sở công nghiệp có công nghệ lạc hậu, chi phí lớn, hiệu quả kinh tế thấp và đòi hỏi bảo hộ cao. Trong một số lĩnh vực vẫn tồn tại xu hướng phát triển hướng nội, nhằm vào một số ngành được bảo hộ. Điều này có nguy cơ làm hạn chế khả năng cạnh tranh trong tương lai của nền kinh tế trong quá trình hội nhập quốc tế. Số ngành, lĩnh vực sử dụng công nghệ tiên tiến, hiện đại còn ít. Trong công nghiệp chế biến, các ngành công nghiệp gia công, lắp ráp chiếm tỉ trọng khá lớn; tốc độ đổi mới công nghệ trong hầu hết các ngành công nghiệp còn chậm và đang ở mức trung bình là phổ biến. Cơ cấu trong sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn chưa có chuyển biến rõ rệt. Chưa tạo được nhiều việc làm cho lao đông ở nông thôn. Hệ thống dịch vụ hỗ trợ phát triển sản xuất vừa yếu, vừa thiếu và kém hiệu quả, nhất là thiếu các ngành công nghiệp bổ trợ. Tỷ trọng dịch vụ trong tổng sản phẩm trong nước vẫn còn thấp và chậm được cải thiện. Cơ cấu nội bộ các ngành trong lĩnh vực dịch vụ ít thay đổi, đặc biệt là các ngành dịch vụ có tỉ lệ chi phí trung gian thấp phát triển vẫn chậm, chưa tương xứng với tiềm năng và yêu cầu. Dịch vụ chất lượng cao phát triển chậm. 2. Các nhân tố tác động đến kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế thời kì 2006-2010 Bước vào kế hoạch 5 năm 2006-2010 trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu và toàn diện hơn, tình hình quốc tế và trong nước sẽ có những tác động rất mạnh đến sự phát triển kinh tế, xã hội nước ta. Theo dự báo những yếu tố thuận lợi mới sẽ xuất hiện, tạo ra nhiều cơ hội lớn để phát triển; đồng thời cũng đan xen nhiều khó khăn, thử thách lớn cần phải vượt qua. a. Những thuận lợi và cơ hội Ở trong nước, thành tựu của 5 năm qua (2000-2005) và 20 năm đổi mới (1986-2005) làm cho thế và lực của nước ta lớn mạnh lên rất nhiều; sự ổn định chính trị, kinh tế và xã hội tiếp tục được giữ vững, tạo niềm tin cho toàn dân, các doanh nghiệp và các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa gắn với hội nhập kinh tế quốc tế đã bước đầu hình thành và vận động có hiệu quả. Những thể chế, cơ chế chính sách đã ban hành từng bước đi vào cuộc sống, phát huy tính tích cực, thu hút mạnh hơn các nguồn vốn đầu tư toàn xã hội; nguồn nội lực đã được khai thác cao; do đó đã có điều kiện chủ động đầu tư hướng vào các mục tiêu then chốt, nhất là đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Tư duy kinh tế tiếp tục được đổi mới, thể hiện ở nhiều Nghị quyết Hội nghị Trung ương Đảng khoá IX và ở các văn kiện đại hội X của Đảng, tạo điều kiện thuận lợi để hoạch định các cơ chế, chính sách thông thoáng hơn trong việc thu hút các nguồn lực và cải thiện môi trường đầu tư, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Cơ cấu kinh tế đã có sự chuyển dịch tích cực theo hướng CNH-HĐH; phát huy thế mạnh của từng ngành bước đầu đã được phát huy; chất lượng tăng trưởng trong nhiều ngành đã có những cải thiện; các doanh nghiệp và toàn nền kinh tế đang thích nghi ngày càng tốt hơn với thị trường quốc tế. Đặc biệt, lĩnh vực dịch vụ còn dư địa rất lớn để phát triển vượt trội, tạo điều kiện tăng nhanh hiệu quả và sức cạnh tranh của các sản phẩm và toàn nền kinh tế. Quan hệ kinh tế quốc tế được củng cố và phát triển, một số mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam đã đứng vững trên nhiều thị trường và có triển vọng sẽ được mở rộng. Việc tích cực và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, thực hiện các hiệp định thương mại song phương và đa phương, trở thành thành viên của tổ chức thương mại thế giới WTO…sẽ tạo điều kiện phát huy tốt hơn những thế mạnh, tạo ra thế phát triển mới cho đất nước. Bên cạnh đó, những kết quả đạt được trong tiến trình cải cách hành chính thời gian qua nhất là cải cách thể chế kinh tế, đổi mới bộ máy, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ… sẽ có những tác động tích cực trong việc chỉ đạo điều hành điều hành thực hiện kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế và nâng cao chất lượng chuyển dịch. Ở ngoài nước, tình hình thế giới và khu vực có thể có những diễn biến phức tạp nhưng dự báo chiều hướng chung về cơ bản sẽ có tác động tích cực đến nền kinh tế nước ta Hoà bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế chủ đạo của thế giới và khu vực. Kinh tế thế giới có khả năng duy trì được tốc độ phát triển như thời gian qua, trong đó Châu Á- Thái Bình Dương vẫn là khu vực phát triển năng động nhất. Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, nhất là công nghệ thông tin và công nghệ sinh học, tiếp tục phát triển mạnh theo chiều sâu, tác động rộng lớn đến việc cơ cấu lại nền kinh tế thế giới theo khă năng tiếp thu trình độ công nghệ cuả mỗi nền kinh tế và theo đó là sự phân công lao động toàn cầu. Phát triển nền kinh tế tri thức sẽ tiếp tục là ưu tiên trong chính sách của nhiều nước, nhất là các nước công nghiệp phát triển, tạo cơ hội cho nước ta tiếp nhận và làm chủ công nghệ mới. Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế gắn với tự do thương mại sẽ được đẩy nhanh; đầu tư, lưu chuyển hàng hoá và dịch vụ, lao động và vốn ngày được mở rộng. Điều đó sẽ tạo cơ hội cho nước ta mở rộng hợp tác kinh tế quốc tế toàn diện, khai thác lợi thế so sánh, tranh thủ nguồn lực bên ngoài để phát huy tốt hơn nội lực, tạo thành sức mạnh tổng hợp phát triển đất nước. b. Những khó khăn, thử thách Ở trong nước, khó khăn lớn nhất hiện nay là sức cạnh tranh và khả năng hội nhập kinh tế quốc tế của các doanh nghiệp và toàn nền kinh tế còn yếu so với yêu cầu và so với thế giới, trong khi đó lộ trình thực hiện đầy đủ các cam kết APTA, WTO và các hiệp định quốc tế khác đang và sẽ tạo ra sức ép cạnh tranh rất lớn. Quy mô của nền kinh tế nhỏ bé, thu nhập thấp hạn chế sức bật đối với sản xuất và phát triển thị trường. Nguy cơ tụt hậu so với các nước trong khu vực và thế giới còn rất lớn. Cơ cấu sản xuất trong từng ngành chưa chuyển dịch kịp thời theo sự biến động nhanh của nhu cầu thị trường trong nước và quốc tế. Kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội còn yếu kém, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển. Trình độ công nghệ lạc hậu, năng lực tiếp nhận chuyển giao công nghệ còn hạn chế. Hệ thống tài chính, tiền tệ chưa hoàn thiện và còn nhiều rủi ro. Chất lượng nguồn nhân lực chưa đáp ứng yêu cầu phát triển trong giai đoạn mới. Đời sống nhân dân ở vùng sâu, vùng xa, vùng thường bị thiên tai còn nhiều khó khăn; công tác cải cách hành chính được tiến hành chậm; tình trạnh quan liêu, tham nhũng, lãng phí vẫn chưa được ngăn chặn; hiệu lực quản lí cuả nhà nước còn hạn chế; những yếu kém này nếu chậm được giải quyết sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến việc thực hiện kế hoạch 5 năm tới. Ở ngoài nước, tình hình thế giới còn chứa đựng nhiều yếu tố phức tạp, khó lường. Xung đột cục bộ, khủng bố và những bất ổn vẫn có thể xảy ra đối với một số khu vực, ảnh hưởng đến an ninh toàn cầu. Các nước phát triển cạnh tranh quyết liệt về lợi ích kinh tế và tìm cách áp đặt các rào cản thương mại với các nước nghèo và các nước đang phát triển. Đây là một thách thức lớn cho các nước chậm phát triển và đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Toàn cầu hoá sẽ làm tăng sức ép cạnh tranh, nhất là sức ép đối với những nước có trình độ phát triển còn thấp như nước ta. Sự cạnh tranh kinh tế, thương mại, thu hút vốn đầu tư và công nghệ càng trở nên gay gắt. Các thị trường tài chính, tiền tệ sẽ có nhiều diễn biến phức tạp. Giá cả của một số mặt hàng chủ yếu trên thị trường thế giới như năng lượng, nguyên liệu…có tác động mạnh đến kinh tế toàn cầu sẽ có những đột biến và phản ánh dây chuyền bất lợi đối với các nước có nền kinh tế nhỏ, kém phát triển. Chính sách tỉ giá, lãi xuất của các nước lớn đều có những tác động rất mạnh đến kinh tế nước ta. Ngoài ra, các vấn đề mang tính toàn cầu như dịch bệnh, ô nhiễm môi trường, khan hiếm các nguồn nguyên vật liệu, khoảng cách giàu nghèo…sẽ trở nên gay gắt hơn, tác động không thuận đến sự phát triển kinh tế, xã hội nước ta. 3. Định hướng và mục tiêu chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế thời kì 2006-2010 Mục tiêu: Tạo bước đột phá về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. Chuyển dịch theo hướng CNH-HĐH, tạo nền tảng để đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020. Định hướng: 1- Tạo chuyển biến mạnh mẽ trong sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn Phải luôn luôn coi trọng đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn hướng tới xây dựng một nền nông nghiệp hàng hoá lớn, đa dạng, phát triển nhanh và bền vững, có năng suất, chất lượng và khả năng cạnh tranh cao; phấn đấu giá trị tăng thêm trong ngành nông, lâm, ngư nghiệp tăng 3 - 3,2%/năm. Thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn, chuyển mạnh sang sản xuất các loại sản phẩm có thị trường và hiệu quả kinh tế cao. Thực hiện các giải pháp đồng bộ để chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn, nhất là: đưa nhanh khoa học và công nghệ vào sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp. Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu lao động ở nông thôn theo hướng giảm nhanh tỷ trọng lao động làm nông nghiệp, tăng tỷ trọng lao động làm công nghiệp và dịch vụ. Tạo điều kiện cho lao động nông thôn có việc làm cả trong công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ, tại chỗ và ngoài khu vực nông thôn, kể cả ở nước ngoài. 2- Phát triển nhanh hơn công nghiệp và xây dựng theo hướng nâng cao chất lượng, sức cạnh tranh và hiện đại hoá Phát huy sức mạnh của tất cả các thành phần kinh tế, đa dạng hoá hình thức sở hữu và quy mô để phát triển công nghiệp và xây dựng với cơ cấu ngành nghề phù hợp với nguồn lực, lợi thế và thị trường ở các vùng, các địa phương. Nâng cao sức cạnh tranh, hàm lượng khoa học công nghệ và tỉ trọng giá trị tăng thêm, giá trị nội địa trong sản phẩm công nghiệp và xây dựng. Phát triển công nghiệp và xây dựng gắn với phát triển dịch vụ, phát triển đô thị và bảo vệ môi trường. Phấn đấu đạt tốc độ tăng giá trị tăng thêm trong công nghiệp và xây dựng 10 - 10,2%/năm. Xây dựng và thực hiện tốt chương trình phát triển công nghiệp phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Tập trung nguồn lực phát triển mạnh và nâng cao chất lượng các ngành công nghiệp có lợi thế cạnh tranh, tạo ra sản phẩm xuất khẩu và thu hút nhiều lao động. Chú trọng phát triển công nghiệp năng lượng đi đôi với áp dụng công nghệ tiết kiệm năng lượng; công nghiệp vật liệu và công nghệ tiết kiệm nguyên vật liệu; công nghiệp dược và các chế phẩm sinh học; công nghiệp bảo vệ môi trường. 3- Tạo bước phát triển vượt bậc của khu vực dịch vụ Phát triển nhanh khu vực dịch vụ đáp ứng được yêu cầu và phù hợp với tiềm năng còn rất lớn của nước ta và xu hướng phát triển chung của thế giới; tận dụng tốt thời cơ hội nhập kinh tế quốc tế để tạo bước phát triển vượt bậc của khu vực dịch vụ, đưa tốc độ tăng trưởng khu vực dịch vụ cao hơn tốc độ tăng GDP, phấn đấu đạt 7,7 - 8,2%/năm. Ưu tiên phát triển các ngành dịch vụ có tiềm năng lớn và sức cạnh tranh cao. Tiếp tục mở rộng và nâng cao chất lượng các ngành dịch vụ truyền thống, như vận tải, thương mại, du lịch, ngân hàng, bưu chính - viễn thông. Phát triển mạnh các dịch vụ phục vụ sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp, phục vụ đời sống ở nông thôn. Mở rộng các dịch vụ mới, nhất là những dịch vụ cao cấp, dịch vụ có hàm lượng trí tuệ cao, dịch vụ hỗ trợ kinh doanh. 4. Hệ thống các chỉ tiêu Cơ cấu các ngành kinh tế trong GDP đến năm 2010 dự kiến: Nông-lâm nghiệp và thuỷ sản khoảng 15-16%, công nghiệp và xây dựng khoảng 43-44%, các ngành dịch vụ khoảng 40-41%. 5. Giải pháp cơ bản Khai thác mọi nguồn lực trong nước để đầu tư, huy động mạnh mẽ các nguồn lực từ bên ngoài.Tập trung nguồn lực để đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng theo hướng hiệu quả. Phát huy, khai thác lợi thế tự nhiên, kinh tế của từng ngành, nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm trong nước. Thực hiện các biện pháp nâng cao năng suất lao động, giảm chi phí sản xuất, chú trọng đào tạo nguồn nhân lực, nâng cao năng lực quản lý. Đẩy mạnh chuyển giao công nghệ và ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ vào trong sản xuất. Ưu tiên phát triển kết cấu hạ tầng phục vụ chuyển dịch cơ cấu sản xuất. Tạo môi trường kinh tế, xã hội, môi trường pháp lí bình đẳng và thông thoáng cho phát triển doanh nghiệp. Mở của đầu tư cho các nhà đầu tư nước ngoài theo lộ trình cam kết với WTO. Phát triển ngành nghề phi nông nghiệp ở nông thôn để tạo việc làm, tăng thu nhập và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng phát triển các ngành công nghiệp và dịch vụ trên địa bàn nông thôn. Phát triển thị trường tiêu thụ nông, lâm nghiệp và thuỷ sản, làm cơ sơ cho việc chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp, kinh tế nông thôn có hiệu quả. Xây dựng chương trình phát triển công nghiệp phục vụ cho quá trình chuyển dịch này. Nhà nước hỗ trợ đầu tư phát triển những sản phẩm quan trọng mà các thành phần kinh tế khác không có khả năng đầu tư hoặc không muốn đầu tư, đồng thời lựa chọn đầu tư hoặc có chính sách thu hút nước ngoài đầu tư một số dự án công nghiệp quan trọng như khai thác quặng sắt và luyện thép, khai thác bôxit và sản xuất alumin, lọc hoá dầu, cơ khí chế tạo, hoá chất cơ bản…,các lĩnh vực công nghệ có tiềm năng như điện tử, viễn thông, tin học, để từng bước chuyển dịch cơ cấu công nghiệp sang các sản phẩm có công nghệ và hàm lượng tri thức cao, giá trị gia tăng cao. Thiết lập mạng lưới vận tải đa phương thức, chuyển dịch cơ cấu vận tải theo hướng tăng khối lượng luân chuyển bằng đường biển, đường sông, đường sắt, giảm tỷ lệ vận tải đường bộ, tăng khối lượng vận tải bằng container. II. Đánh giá sơ bộ tình hình thực hiện kế hoạch qua 2 năm 2006,2007 1. Phân tích tình hình thực hiện các chỉ tiêu kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế năm 2006,2007 1.1. Năm 2006 a. Kế hoạch Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu theo hướng tăng nhanh tỉ trọng dịch vụ và công nghiệp, giảm tỉ trong nông nghiệp trong GDP. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng 8% so với năm 2005. GDP theo giá thực tế khoảng 970 nghìn tỷ đồng. Giá trị tăng thêm của ngành nông, lâm, ngư nghiệp tăng khoảng 3,8%; giá trị tăng thêm của ngành công nghiệp và xây dựng tăng trên 10,2%; giá trị tăng thêm của các ngành dịch vụ tăng trên 8%. b. Đánh giá tình hình thực hiện Cơ cấu GDP: Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng khu vực công nghiệp, xây dựng và dịch vụ, giảm tỷ trọng khu vực nông lâm nghiệp và thuỷ sản. Tỷ trọng khu vực công nghiệp và xây dựng từ 40.97% năm 2005 lên 41.52% trong năm 2006; khu vực dịch vụ tăng từ 38.01% lên 38.08%; khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản giảm từ 21.02% xuống còn 20.40%. Trong khu vực nông-lâm-thuỷ sản, tỷ trọng giá trị tăng cuả hai nhóm ngành lâm nghiệp và thuỷ sản trong GDP, xét theo cả giá so sánh và giá hiện hành giữ ở mức tương đối ổn định và tương ứng 1.1-1.2% và 3.7-3.9%. Việc giảm tỷ trọng của khu vực nông-lâm-thuỷ sản trong GDP chủ yếu là do mức độ đóng góp của ngành nông nghiệp giảm; giá trị tăng thêm của ngành nông nghiệp trong GDP giảm từ 18.26% năm 2001 xuống 15.37% năm 2006. Nhìn chung, chuyển dịch cơ cấu trong khu vực nông-lâm-thuỷ sản diễn ra chậm. Bản thân chuyển dịch cơ cấu nội bộ ngành nông nghiệp cũng chậm: tỷ trọng ngành trồng trọt vẫn chiếm tới 78.04% tổng giá trị sản xuất nông nghiệp năm 2006 so với 80.08% năm 2001 (theo giá 94). Kết quả lớn nhất trong chuyển dịch cơ cấu ngành nông nghiệp là chuyển dịch trong nội bộ ngành trồng trọt theo hướng giảm diện tích các loại cây cho năng xuất thấp, sang trồng các loại cây khác có năng suất và giá trị kinh tế cao hơn. Ở một số địa phương đã xuất hiện phong trào trồng cỏ để chăn nuôi. Trong khu vực công nghiệp, xét theo giá hiện hành, tỷ trọng giá trị tăng thêm của ngành công nghiệp chế biến trong GDP tăng không đáng kể, từ 19.78% năm 2001 lên 21.29% năm 2006, tương ứng 1.5 điểm phần trăm. Tuy nhiên, xét theo giá năm 1994, tỷ trọng này tăng tới 4.06 điểm phần trăm, từ 19.60% năm 2001 lên đến 23.66% năm 2006. Điều này cho thấy trong những năm qua đã có sự biến đổi lớn về gía giữa các nhóm hàng khác nhau trong nội bộ ngành công nghiệp. Giá của nhóm hàng công nghiệp chế biến có xu hướng giảm nhiều, trong khi đó giá của ngành công nghiệp khai thác, ngành công nghiệp sản xuất và phân phối điện ga và nước tăng lên đáng kể. Trong tổng giá trị tăng thêm của nhòm ngành công nghiệp, tỷ trọng của công nghiệp khai thác mỏ đã giảm từ 30,8% năm 2000 xuống 30,3% năm 2005 và 29,2% năm 2006 phù hợp với chủ trương tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên của đất nước. Trong công nghiệp chế biến, một số ngành chủ yếu giữ được tốc độ tăng cao ổn định quyết định tốc độ tăng cao của toàn ngành công nghiệp so với năm 2005 như: sản xuất thực phẩm và đồ uống tăng trên 17%, sản xuất các sản phẩm từ da, giả da tăng 18,5%; sản xuất các sản phẩm từ gỗ tăng trên 23%..Tuy nhiên, một số sản phẩm quan trọng khác của công nghiệp chế biến tăng thấp hơn ở mức trên, dưới 10% như quấn áo may sẵn, xi măng.Tỷ trọng ngành xây dựng trong GDP đã tăng từ 5,35% năm 2000 lên 6,35% năm 2005 và 6,62% năm 2006. Xây dựng là ngành tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền kinh tế, nên việc tăng của ngành này sẽ tạo ra nhiều công trình làm thay đổi bộ mặt đất nước, làm tiền đề cho tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội. Chuyển dịch cơ cấu trong khu vực dịch vụ vẫn diễn ra rất chậm. Hầu hết các ngành dịch vụ quan trọng, có khả năng tạo nhiều giá trị tăng thêm, đều có tỷ trọng nhỏ trong GDP ( ví dụ, ngành tài chính, ngân hàng và bảo hiểm chiếm chưa tới 2.0% GDP năm 2006). Xu hướng này đang hạn chế nhiều việc nâng cao năng lực cạnh tranh của Việt Nam và gây bất lợi cho tăng trưởng trong dài hạn, nhất là trong bối cảnh Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới và khu vực. Cơ cấu lao động Bảng số lượng và cơ cấu lao động theo nhóm ngành kinh tế 2005 2006 1.Tổng số lao động (nghìn người) 42542.7 43436.1 Nông,lâm,thuỷ sản 24351.5 24172.3 Công nghiệp-xây dựng 7785.3 8296.9 Dịch vàụ 10405.9 10966.9 2. Cơ cácấu (%) 100.00 100.00 Nông, lâm, thuỷ sản 57.2 55.7 Công nghiệp-xây dựng 18.3 19.1 Dịch vàụ 24.5 25.2 Cơ cấu lao động có việc làm của cả nước tiếp tục chuyển dịch theo hướng CNH tuy tốc độ còn chậm. Tỉ trọng lao động trong ngành nông nghiệp còn cao, lao động có kĩ thuật được đào tạo còn thấp. Cơ cấu vốn Sự dịch chuyển cơ cấu vốn không thể hiện rõ, ít biến động, gần như các ngành vẫn giữ một tỉ lệ nhất định trong cơ cấu vốn. Vốn đầu tư vào khu vực Công nghiệp-xây dựng vẫn chiếm tỉ lệ cao nhất. Như vậy, có thể thấy mặc dù đã có những bước đi tích cực, song xét cho cả nền kinh tế cũng như trong nội bộ từng ngành, sự chuyển dịch vẫn chưa thật sự mạnh mẽ. 1.2. Năm 2007 a. Kế hoạch Cơ cấu ngành trong GDP : Khu vực nông nghiệp khoảng 19.5%, công nghiệp và xây dựng khoảng 42% và khu vực dịch vụ khoảng 38.5% b. Đánh giá tình hình thực hiện Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng CNH-HĐH. Theo dự kiến, tỷ trọng khu vực nông nghiệp trong GDP giảm từ 20,4% năm 2006 xuống 20% năm 2007, công nghiệp và xây dựng tăng từ 41,52% lên 41,8%, dịch vụ tăng từ 38.08% lên 38.2%. Như vậy, mặc dù đã có sự chuyển dịch theo hướng tích cực, nhưng theo dự kiến năm 2007 sẽ không hoàn thành kế hoạch đề ra. Tuy nhiên , sự phát triển và chuyển dịch trong nội bộ từng ngành cũng mang lại nhiều kết quả đáng khích lệ. Nông nghiệp phát triển ổn định. Giá trị sản xuất toàn ngành trong 9 tháng năm 2007 tăng 4,2% so với cùng kỳ (trong đó nông nghiệp tăng 2,6%; lâm nghiệp tăng 1,1%; thuỷ sản tăng 9,6%). Giá trị gia tăng toàn ngành nông lâm ngư nghiệp 9 tháng tăng khoảng 3,02% so với cùng kỳ ( cùng kỳ tăng 3,41%) tuy chưa đạt mức kế hoạch và thấp hơn cùng kỳ nhưng với những thiệt hại do dịch bệnh trên gia súc, gia cầm và cây trồng trong những tháng đầu năm, thì đạt được tốc độ tăng trưởng như trên là một cố gắng của ngành nông nghiệp. Ngành nông nghiệp tuy gặp nhiều khó khăn do thiên tai, dịch bệnh nhưng dự kiến năm 2007 vẫn vươn lên đạt được kế hoạch. Trong năm 2007, công nghiệp đạt tốc độ tăng trưởng khá cao và tăng thêm tỷ trọng công nghiệp chế biến, khu vực ngoài nhà nước tăng cao nhất, nên tỷ trọng toàn ngành đã cao hơn năm trước và cao hơn nhiều tỷ trọng của khu vực nhà nước. Giá trị sản xuất toàn ngành công nghiệp tuy vượt mức kế hoạch, nhưng giá trị sản xuất của nhiều ngành công nghiệp chủ yếu, có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế lại đạt tốc độ tăng trưởng thấp. Giá trị gia tăng của ngành công nghiệp xây dựng mới đạt thấp hơn mức kế hoạch. Lần đầu tiên trong nhiều năm qua, tốc độ tăng trưởng của khu vực dịch vụ cao hơn tốc độ tăng trưởng chung của GDP. Ở khâu sản xuất, nhóm ngành công nghiệp - xây dựng và nhóm ngành dịch vụ tăng trưởng cao hơn cùng kỳ và cao hơn tốc độ chung để bù cho sự sút giảm tốc độ tăng trưởng của nhóm ngành nông, lâm nghiệp - thuỷ sản. GDP do nhóm ngành công nghiệp-xây dựng tạo ra tiếp tục tăng hai chữ số và đóng góp lớn nhất vào tốc độ tăng trưởng chung. Giá trị gia tăng của ngành dịch vụ tăng cao hơn mức tăng GDP đã góp phần nâng mức tăng trưởng chung của nền kinh tế.Các ngành dịch vụ có giá trị cao (ngân hàng, hàng không, bưu chính viễn thông, du lịch...) được khai thác và đáp ứng tốt hơn nhu cầu của sản xuất và đời sống nhân dân.Cơ cấu kinh tế chuyển dịch còn chậm. Công nghiệp gia công vẫn chiếm tỷ trọng lớn, công nghiệp phụ trợ chưa có tiến bộ rõ nét. 2. Phân tích nguyên nhân Qua 2 năm đầu thực hiện kế hoạch, ta thấy rằng: Ưu điểm : Quá trình chuyển dịch của nền kinh tế cũng như trong nội bộ từng ngành đã đi theo hướng tích cực. Tỷ trọng các ngành có năng suất lao động cao, chứa đựng hàm lượng công nghệ cao, chất xám cao ngày càng lớn và tỷ trọng các ngành có năng suất thấp giảm đi trong toàn bộ lao động xã hội, đánh dấu sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế bắt đầu đi vào chiều sâu. Tỷ trọng ngành sản xuất vật chất tăng lên, năm sau cao hơn năm trước. Tỷ trọng sản xuất hàng hoá tăng lên làm cho độ mở của nền kinh tế lớn hơn, hội nhập sâu hơn với nền kinh tế nước ngoài. Đây là một xu hướng tích cực khi nước ta đã trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới(WTO). Cơ cấu kinh tế đã chuyển dịch từ đơn giản đến phức tạp đáp ứng ngày càng tốt yêu cầu phát triển.. Số lượng công ăn việc làm đã được tạo ta nhiều hơn; thu nhập trung bình của người dân tăng lên; mức độ đô thị hoá nhanh hơn đã góp phần giải quyết tôt hơn tình trạng nghèo đói và các vấn đề xã hội khác. Hạn chế: tính bền vững về mặt môi trường của quá trình chuyển dịch vẫn chưa được bảo đảm. Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế chưa thực sự thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững; tốc độ tăng trưởng kinh tế tuy đạt mức khá cao nhưng vẫn chưa tương xứng với tiềm năng của từng ngành. Mối tương quan giữa sản xuất vật chất và khu vực dịch vụ chưa hợp lý; mức độ gia tăng của ngành dịch vụ còn thấp hơn so với yêu cầu. Tốc độc chuyển dịch còn chậm, chất lượng chuyển dịch còn thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển bền vững. Nguyên nhân của những tồn tại đó là do: Việc chuyển dịch chưa phát huy được lợi thế so sánh cuả từng ngành, chưa tương xứng với tiềm năng. Chậm đổi mới công nghệ, chưa mạnh dạn đi vào phát triển các công nghệ cao. Hành lang pháp lý chưa thông thoáng, thủ tục còn rườm rà, gây nhiều trở ngai cho các nhà đầu tư. Chất lượng nguồn nhân lực còn thấp. Việc thực hiện các chính sách phát triển ngành còn nhiều hạn chế, một số chính sách chưa được tổ chức thực hiện có hiệu quả. Còn nhiều tiêu cực trong quá trình thực hiện. 3. Dự kiến khả năng thực hiện kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế thời kì 2006-2010 Căn cứ vào những kết quả đạt được của hai năm đầu thực hiện kế hoạch có thể thấy, mặc dù có sự chuyển dịch theo hướng tích cực song tốc độ chuyển dịch còn chậm. Để có thể hoàn thành kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế thời kì 2006-2010 đòi hỏi chúng ta phải nỗ lực rất nhiều. Khả năng hoàn thành kế hoạch không phải là không có, vì trước mắt chúng ta cũng có nhiều thuận lợi trong những năm tới, vì hiện tại chúng ta đã là thành viên của WTO. Quá trình mở của hội nhập tạo cho chúng ta nhiều cơ hội phát triển và thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. Do vậy, cần có sự lãnh đạo đúng đắn của nhà nước, để có được những giải pháp, chính sách phát triển hợp lí cho các năm còn lại của thời kì kế hoạch. Phần III : Các giải pháp và đề xuất chính sách để thực hiện mục tiêu kế hoạch thời kì 2006-2010 I.Kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành cho 3 năm còn lại thời kì 2006-2010 Trong 3 năm còn lại của thời kì kế hoạch 2006-2010, tiếp tục chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo hướng Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, nhằm phấn đấu thực hiện thắng lợi mục tiêu chuyển dịch của cả thời kì. Kế hoạch năm 2008: Tỷ trọng nông lâm ngư nghiệp trong GDP giảm từ 20% năm 2007 xuống còn 19,3% năm 2008; công nghiệp và xây dựng tăng từ 41,8% lên 42,2%; dịch vụ tăng từ 38,2% lên 38,5%. Giá trị tăng thêm của ngành nông lâm ngư nghiệp tăng khoảng 3,5 - 4%; ngành công nghiệp và xây dựng tăng 10,6 - 11%; ngành dịch vụ tăng khoảng 8,7 - 9,2%. II.Các giải pháp và đề xuất chính sách Tập trung đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế một cách tích cực. Phải xác định rõ ngành, lĩnh vực quan trọng, có thế mạnh cần được đầu tư mở rộng, nhất là những ngành, lĩnh vực có lợi thế về tăng năng suất lao động, ít rủi ro, tạo ra nhanh và nhiều giá trị mới, tạo ra nhiều tích luỹ cho xã hội. Cần phân tích, lựa chọn cơ cấu công nghệ và sản phẩm, cơ cấu lao động, cơ cấu đầu tư phù hợp để tập trung cao các giải pháp kinh tế, huy động mọi nguồn lực trong xã hội cùng tham gia. Muốn chuyển dịch cơ cấu kinh tế một cách hiệu quả, chúng ta phải tôn trọng quy luật của kinh tế thị trường, phải trao quyền định đoạt cho các chủ thể đầu tư, kinh doanh trực tiếp, Nhà nước không can thiệp bằng biện pháp hành chính vào hoạt động kinh tế của các chủ thể kinh tế, mà phải điều tiết và quản lý nền kinh tế bằng luật pháp, bằng các công cụ kinh tế vĩ mô, bằng các chính sách và giải pháp đồng bộ. Cụ thể, Nhà nước cần tập trung làm nhiệm vụ quản lý và định hướng, tạo môi trường pháp lý đầy đủ, thông thoáng, đồng bộ cho các chủ thể yên tâm đầu tư, sản xuất - kinh doanh, giải toả tâm lý mặc cảm, e ngại của các chủ thể đầu tư, kích thích mạnh mẽ các thành phần kinh tế phát triển, tạo tiền đề cho việc hình thành các tập đoàn kinh tế có đủ sức cạnh tranh trong hội nhập kinh tế quốc tế. Trong xu hướng Việt Nam ngày càng hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới, phải xác định rõ ngành, lĩnh vực, sản phẩm cần và có khả năng phát triển mạnh, không phát triển tràn lan. Vì vậy, Nhà nước cần xác định hướng đi phù hợp, dựa trên lợi thế cạnh tranh, nguồn lực nội tại của nền kinh tế, thị trường, tài nguyên. Cần phân tích và lựa chọn phát triển mạnh một số ngành dịch vụ như bưu chính -viễn thông, du lịch, tài chính, y tế... Nâng cao chất lượng và hiệu quả của đào tạo nhân lực, làm cho nguồn nhân lực trở thành một yếu tố quan trọng để thu hút đầu tư và là một lợi thế cạnh tranh của nền kinh tế nước ta. Đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học kĩ thuật vào trong sản xuất, nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm, sức cạnh tranh của hàng hoá. Đẩy mạnh cải cách hành chính, tăng cường các biện pháp chống quan liêu, tham nhũng…làm trong sạch bộ máy nhà nước, tạo nền tảng cho phát triển kinh tế. KẾT LUẬN Để đi theo chiến lược mở cửa kinh tế, hội nhập quốc tế có hiệu quả, vấn đề chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở trong nước có ý nghĩa rất lớn. Bởi, sản xuất trong nước cần phải được dịch chuyển sao cho vừa khai thác được những tiềm năng, lợi thế của đất nước, vừa sản xuất được những sản phẩm phù hợp với nhu cầu thị trường thế giới. Trong bối cảnh chung là phân công lao động quốc tế ngày một sâu sắc, sự cạnh tranh giữa các nước xuất khẩu cũng vô cùng gay gắt, lại muốn phát triển được sản xuất của đất nước theo một chiến lược chung, việc lựa chọn cơ cấu kinh tế hợp lý, đem lại hiệu quả cao là điều rất cần thiết. Tuy nhiên, ngày nay các nước thực hiện công nghiệp hóa đi sau không thể sử dụng nguyên mẫu của các mô hình sẵn có bởi dưới tác động của những nhân tố mới, những lợi thế so sánh truyền thống không còn được đánh giá cao như trước đây, nên việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế của các nước đi sau cũng cần phải được nhận thức lại nhằm tạo ra một cơ cấu kinh tế hiện đại, cân đối, năng động và tăng trưởng nhanh một cách bền vững hơn DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Kinh tế VN 2006 (CIEM) Kinh tế 2006-2007 VN và thế giới (thời báo KTVN) Giáo trình KTPT (khoa KHPT-ĐHKTQD) Giáo trình KHH PTKTXH (khoa KHPT-ĐH KTQD) KH PTKTXH 5 năm 2006-2010 Tạp chí cộng sản Trang web: www.chinhphu.vn, www.vietnamgateway.org, www.mofa.gov , www.moi.gov

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docG0088.doc
Tài liệu liên quan