Đề tài Cơ cấu đầu tư, cơ cấu đầu tư hợp lý. Phân tích khái quát cơ cấu đầu tư ở Việt Nam hiện nay

Để chuyển dịch tốt cơ cấu vùng-lãnh thổ, cần phải có thời gian dài và chúng ta phải thực hiện từng bước. Cơ cấu theo địa phương sẽ quyết định cơ cấu tổng thể của cả nước như thế nào. Đạt mục tiêu chung, trước hết chúng ta phải giải quyết bài toán cơ cấu địa phương hợp lý. Những vùng KTTĐ đã làm tốt vai trò thúc đẩy và ảnh hưởng của mình. Những dự án đầu tư lớn thuộc ngành thường được đầu tư cho những vùng này, nhưng sức lan tỏa của nó tới các vùng khó khăn xung quanh là rất lớn, nó tạo ra những ngành công nghiệp phụ trợ, tạo ra nhu cầu cần nguồn cung nguyên vật liệu, và điều này gián tiếp khắc phục tình trạng vốn đầu tư thường khá thờ ơ với những vùng còn khó khăn. Tiếp tục thu hút các dự án ngành lớn cho các vùng trọng điểm, và nâng cao phát triển tính chất liên ngành, liên vùng trong các lĩnh vực. Thực trạng các vùng chưa phát huy được lợi thế so sánh của mình khiến cho sự phát triển chậm lại và ảnh hưởng tới cơ cấu chung. Điều này xảy ra do các địa phương chưa biết kết hợp các nguồn lực hiện có của mình, chưa đánh giá tốt năng lực địa phương, dẫn tới sự phát triển mang tính tự phát mà thiếu tính định hướng. Hầu hết các địa phương này lại rơi vào những vùng miền khó khăn, trình độ dân trí còn thấp, như vậy việc chưa phát huy được các lợi thế so sánh, lợi dụng đặc tính vùng miền là điều dễ hiều. Hơn nữa công tác tuyên truyền, tiếp cận các thông tin thị trường còn lệch lạc, công việc định hướng của cán bộ cấp bộ ngành chưa thực sự triệt để. Như vậy việc chuyển dịch theo hướng phát triển lợi thế so sánh từng địa phương đã không được làm tốt ở những vùng như vậy. Thiệt thòi hơn nữa là các vùng khó khăn lại không phải điểm dừng chân của các nguồn vốn béo bở như FDI, việc kích thích phát triển không nhiều. Cơ cấu các vùng này muốn thay đổi mạnh mẽ, phải có sự can thiệp của chính phủ. Cụ thể là đưa ra các ưu đãi cao hơn, hấp dẫn hơn cho các dự án vào các vùng miền đặc biệt khó khăn. Chính phủ không muốn sự chênh lệch trong phát triển giữa các vùng miền trong cả nước, chính phủ phải đầu tư nhiều hơn khi không ai muốn tham gia đầu tư cả. Vấn đề khó khăn sẽ giải quyết nhanh nếu có một đội ngũ nhân lực tốt trong các vùng đặc biệt, năng suất lao động được kích thích và đẩy lên cao. Có lẽ chìa khoá trong vấn đề này lại là giáo dục, nâng cao chất lượng giáo dục-đào tạo ở các vùng nông thôn, vùng sâu xa. Điều này rất khó giải quyết trong thời gian một sớm một chiều. Công tác quy hoạch vùng phải diễn ra nhanh, kịp thời và chú ý tới quỹ đất cho nông nghiệp, nếu công tác quy hoạch tốt, hợp lý thì mâu thuẫn giữa các nhóm ngành sẽ dễ dàng khắc phục hơn. Cơ cấu vùng - lãnh thổ sẽ dễ dàng chuyển dịch hơn.

doc64 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1592 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Cơ cấu đầu tư, cơ cấu đầu tư hợp lý. Phân tích khái quát cơ cấu đầu tư ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
phẩm nên đã dẫn đến việc đầu tư tập trung vào một số ngành, làm cho một số sản phẩm cung vượt quá cầu có khả năng thanh toán, điển hình là sản xuất sắt thép, xi măng, lắp ráp ô tô, rượu bia, chế biến đường ăn... Chưa chú trọng đầu tư phát triển ngành cơ khí, công nghiệp đóng tàu, công nghiệp chế tạo, đặc biệt là chế tạo máy công cụ, máy nông nghiệp, máy chế biến nông sản. Vì thế mà tỷ trọng ngành công nghiệp chế biến tăng không đáng kể: từ 59.2% năm 2000 lên 59.7% năm 2005. Về dịch vụ: khu vực dịch vụ trong thời gian qua tuy được đầu tư khá, tuy vậy tỷ trọng của khu vực dịch vụ trong cơ cấu GDP dịch chuyển còn rất chậm. Đặc biệt một số ngành dịch vụ quan trọng, có khả năng tạo ra nhiều giá trị gia tăng tăng thêm như tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, vẫn đều có tỷ trọng nhỏ trong GDP, chỉ chiếm khoảng 2-3% GDP. Môi trường đầu tư vào một số lĩnh vực dịch vụ còn gặp nhiều bất cập. Dịch vụ vận tải phát triển còn chậm. Các dịch vụ về tài chính, giao dịch bất động sản, chứng khoán, tư vấn pháp luật và kỹ thuật, dịch vụ khoa học công nghệ tuy có bước phát triển khá nhưng đang còn phải gặp rất nhiều khó khăn, vướng mắc. CHƯƠNG 3: ĐỊNH HƯỚNG CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU ĐẦU TƯ VÀ GIẢI PHÁP THỰC HIỆN 3.1 Định hướng về phát triển cơ cấu đầu tư theo hướng ngày càng hợp lý hơn 3.1.1 Định hướng về cơ cấu đầu tư theo nguồn vốn hợp lý Để phù hợp với tình hinh kinh tế, thể chế chính trị, cũng như con đường phát triển bền vững mà Việt Nam đã lựa chọn thì một cơ cấu đầu tư theo nguồn vốn hợp lý đã được định hướng như sau “Cơ cấu phản ánh khả năng huy động tối đa mọi nguồn lực xã hội cho đầu tư phát triển, phản ánh khả năng sử dụng hiệu quả cao mọi nguồn vốn đầu tư, là cơ cấu thay đổi theo hướng giảm dần tỷ trọng của nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước, tăng tỷ trọng nguồn vốn tín dụng ưu đãi và nguồn vốn của khu vực dân doanh” Một nguyên tắc mà chúng ta thường xuyên nhắc tới là “Vốn trong nước là quyết định, vốn nước ngoài là quan trọng ”. Trong quá trình phát triển kinh tế, nguồn vốn trong nước có một số ưu thế như sự ổn định, bền vững, giảm thiểu được những biến động của thị trường thế giới, đặc biệt là thị trường tài chính và tiền tệ. Tuy nhiên trong giai đoạn hiện nay, cùng với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá thì nguồn vốn nước ngoài có tầm quan trọng tương quan cơ cấu cụ thể. Còn trong dài hạn, vài năm tới thì FDI, FII sẽ giúp chúng ta tận dụng tối đa lợi thế so sánh của mình để tăng trưởng nhanh. Một nghiên cứu dự báo cũng cho rằng: Năm 2010, vốn ngân sách nhà nước sẽ đạt 21-22% trong tổng GDP. Nguồn vốn này sẽ có xu hướng giảm tỷ trọng của nó, nhưng tất nhiên là tăng trong giá trị tuyệt đối. Trong khi vốn đầu tư toàn xã hội đạt 40% GDP. Nguồn vốn FDI và đặc biệt là FII sẽ bùng nổ rất nhanh khi thị trường chứng khoán Việt Nam đi vào ổn định. Cơ cấu đầu tư theo nguồn vốn mà Việt Nam định hướng là hoàn toàn phù hợp với xu thế phát triển của mình, cơ cấu này đang chuyển dịch theo hướng như vậy. Nhưng điều quan trọng là các định hướng cho những việc phải làm để thu hút nhanh và sử dụng vốn có hiệu quả. Điều này thể hiện mặt chất trong cơ cấu đầu tư. 3.1.2 Định hướng về cơ cấu vốn đầu tư hợp lý Một cơ cấu vốn đầu tư hợp lý là cơ cấu mà vốn được ưu tiên cho bộ phận quan trọng nhất, phù hợp với nhu cầu cũng như sự hạn chế của số liệu đầu tư. Cơ cấu hợp lý cần hướng tới trong thời gian tới là: 50-55% vốn đầu tư cho phát triển sản xuất kinh doanh 3-10% cho phát triển nguồn nhân lực 25-36% cho phát triển đường giao thông- vận tải 3.1.3 Định hướng về cơ cấu đầu tư theo ngành, lĩnh vực hợp lý 3.1.3.1 Định hướng chung ( Xét cơ cấu đầu tư theo 3 nhóm ngành) Cơ cấu theo ngành hợp lý phải phù hợp với cơ cấu ngành kinh tế trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Do vậy cơ cấu đầu tư theo ngành được định hướng theo mục tiêu thắng lợi quá trình công nghiệp hoá, chuyển dịch sâu sắc toàn diện cơ cấu nền kinh tế tử nông nghiệp sang công nghiệp, mở rộng thị trường tiêu thụ, đạt tăng trưởng kinh tế cao và nâng cao đời sống của nhân dân. Cơ cấu ngành trong GDP 2010 cần hướng tới: Khu vực nông nghiệp 15-16% Khu vực công nghiệp-xây dựng 43-44% Khu vực dịch vụ 40-41% 3.1.3.2 Định hướng phát triển ngành công nghiệp-xây dựng - Phát triển nhanh các ngành công nghiệp có khả năng phát huy lợi thế cạnh tranh, chiếm lĩnh thị trường trong nước và đẩy mạnh xuất khẩu như điện tử-tin học, sản phẩm cơ khí, may mặc-da giầy và chế biến thuỷ sản. - Xây dựng có chọn lọc một số cơ sở công nghiệp nặng như dầu khí, luyện kim, cơ khí, hoá chất cơ bản, vật liệu xây dựng, những bước đi này cần phù hợp với điều kiện vốn, công nghệ, thị trường. - Đẩy mạnh phát triển ngành công nghệ cao, vật liệu mới. Trong đó IT phải là ngành mũi nhọn, kéo theo những ngành khác phát triển. - Phát triển sản xuất rộng khắp các cơ sở sản xuất vừa và nhỏ trong lĩnh vực công nghiệp, chế tạo. Sử dụng các công nghệ thu hút nhiều lao động, giải quyết vấn đề nhu cầu của thị trường. - Cụ thể đối với một số lĩnh vực công nghiệp-xây dựng sau, cần phải được định hướng đúng đắn. * Công nghiệp điện: Đầu tư hình thành đồng bộ hệ thống lưới truyền tải quốc gia. Cải tạo hệ thống tải điện để giảm tổn thất điện năng. * Công nghiệp xi măng, vật liệu xây dựng: Đầu tư đẩy mạnh tiến độ thi công các công trình, dự án xi măng như ở Hải Phòng và Hạ Long, để đưa vào khai thác trong những năm tớí. Đầu tư phát triển sản xuất các ngành sản xuất vật liệu xây dựng, gạch, chế biến đá, nội thất có thể nhân rộng nhiều cơ sở sản xuất vừa và nhỏ, đáp ứng nhu cầu thị trường * Ngành cơ khí: Đầu tư theo chiều sâu, đổi mới công nghệ, thiết bị, hiện đại hoá một số khâu then chốt trong ngành cơ khí. Chúng ta cần khoảng 40% nhu cầu chế tạo thiết bị cho nền kinh tế, đồng thời chúng ta cũng cần đầu tư cho việc tăng năng lực sản xuất sản phẩm cơ khí phục vụ cho nông lâm, ngư nghiệp. Trong định hướng phát triển nông nghiệp đồng bằng sông Cửu Long, đến 2010 phải cơ giới hoá 70% đồng ruộng, trong khi đó năm 2007, con số này chỉ dừng lại ở 20%. Rõ ràng là rất khó thực hiện mục tiêu khi chưa có sự hỗ trợ tích cực của ngành cơ khí chế tạo * Công nghiệp dệt may: Đầu tư theo chiếu sâu, đổi mới, hiện đại hoá trang thiết bị. Đầu tư mới các cụm công nghiệp dệt may tại các khu công nghiệp như Phố Nối –Hưng Yên, theo hướng đồng bộ hoá từ các khâu kéo sợi, in, nhuộm, hoàn tất. * Công nghiệp chế biến nông sản: Đầu tư cả chiều rộng lẫn chiều sâu, chú trọng vào chất lượng sản phẩm để đáp ứng cạnh tranh tiêu thụ ở thị truờng trong nước và xuất khẩu. Nông sản có lợi thế vô cùng lớn đối với việc xuất khẩu của Việt Nam, chúng ta tận dụng được nhân công rẻ, ưu đãi của thiên nhiên, do vậy ngành này cần được quan tâm một cách đúng đắn. - Tăng cường hợp tác liên ngành, đưa công nghiệp- xây dựng hội nhập với khu vực và quốc tế, trước hết là thu hút vốn, thu hút đầu tư. Mục tiêu được đưa ra là đưa nhịp độ tăng trưởng giá trị gia tăng của công nghiệp-xây dựng đạt 10-10,5%/năm trong 10 năm tới. 3.1.3.3 Định hướng phát triển khu vực dịch vụ - Phấn đấu để tốc độ tăng trưởng khu vực dịch vụ có tốc độ tăng trưởng cao hơn mức tăng GDP, đạt trung bình 8%/ năm. Đến 2010 chiếm 42-43% GDP, chiếm 26-27% tổng số lao động xã hội - Có 5 vấn đề chính trong mục này, đó là : Thương mại, vận tải, bưu chính-viễn thông, du lịch và dịch vụ tài chính-tiền tệ. * Thương mại: Đầu tư hình thành các trung tâm thương mại lớn, các chợ nông thôn đặc biệt là khu vực miền núi, bảo đảm cung cấp một số sản phẩm thiết yếu cho vùng sâu-xa, hải đảo. Phát triển thương mại điện tử, các hiệp hội, mở rộng thị trường cho chỗ đứng của sản phẩm made in Việt Nam. * Vận tải: Đầu tư phát triển nâng cao chất lượng dịch vụ vận tải hàng hóa, hành khách ngày càng hiện đại, an toàn. Dành thị phần lớn cho doanh nghiệp vận tải trong nước đặc biệt là hàng không và hàng thuỷ. Một chủ trương mới của Hà Nội gần đây là 2010 sẽ miễn phí toàn bộ vé xe bus trong thành phố. Động thái này chứng tỏ chính phủ rất chú trọng đầu tư vào giao thông vận tải, một vấn đề muôn thủa nhức nhối. * Bưu chính-viễn thông: Đầu tư theo chiều rộng, chiều sâu, hiện đại hoá dịch vụ viễn thông, phổ cập điện thoại, internet. * Du lịch: Đầu tư phát triển để du lịch trở thành ngành mũi nhọn, khai thác tối đa lợi thế về điều kiện tự nhiên, truyền thống văn hoá, lịch sử. * Dịch vụ tài chính-tiền tệ : Đây có thể nói là trái tim của ngành kinh tế. Việc đầu tư cho ngành dịch vụ cao cấp này cẩn phải thật nhanh. Định hướng phát triển là đi thẳng vào công nghệ hiện đại, áp dụng quy chế quốc tế. Từng bước hình thành trung tâm tài chính lớn, ngang tầm khu vực. 3.1.3.4 Định hướng phát triển ngành nông lâm, thuỷ sản - Phấn đầu giá trị gia tăng nông nghiệp bình quân đạt 4-4,5%. Đến 2010 phấn đấu tổng sản lượng lương thực có hạt đạt 40 triệu tấn. Tỷ trọng nông nghiệp trong GDP đạt 16-17%. Thuỷ sản đạt 3-3,5 triệu tấn. Tỷ trọng ngành chăn nuôi trong tổng giá trị sản xuất nông nghiệp lên 25%. Kim ngạch xuất khẩu nông lâm thuỷ sản đạt 9-10 tỷ $. Trong đó thuỷ sản đạt 3,5 tỷ $. - Đầu tư phát triển theo hướng hinh thành nền nông nghiệp hàng hoá lớn, phù hợp với nhu cầu thị trường và điều kiện sinh thái cho từng vùng, chuyển dịch cơ cấu ngành nghề, lao động. - Tăng đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội nông nghiệp, nông thôn. - Quy hoạch sản xuất lương thực phù hợp với khả năng và nhu cầu tiêu thụ. Năng suất đi đôi với chất lượng. - Đầu tư để xây dựng cơ chế bảo hiểm nông sản, chủ động bù đắp thiệt hại khi bị thiên tai, hay giá cả biến động. - Đẩy mạnh đầu tư nghiên cứu khoa học, giống, khoa học, khuyến nông, khuyến ngư. - Đầu tư phát triển rừng nguyên liệu, hướng vào khai thác có hiệu quả vùng đồi, ven biển. DANH MỤC LĨNH VỰC ĐẶC BIỆT ƯU ĐÃI ĐẦU TƯ I. Sản xuất vật liệu mới, năng lượng mới; sản xuất sản phẩm công nghệ cao, công nghệ sinh học, công nghệ thông tin; cơ khí chế tạo 1. Sản xuất vật liệu composit, các loại vật liệu xây dựng nhẹ, vật liệu quý hiếm. 2. Sản xuất thép cao cấp, hợp kim, kim loại đặc biệt, sắt xốp, phôi thép. 3. Đầu tư xây dựng cơ sở sử dụng năng lượng mặt trời, năng lượng gió, khí sinh vật, địa nhiệt, thủy triều. 4. Sản xuất thiết bị y tế trong công nghệ phân tích và công nghệ chiết xuất trong y học; dụng cụ chỉnh hình, xe, dụng cụ chuyên dùng cho người tàn tật. 5. Dự án ứng dụng công nghệ tiên tiến, công nghệ sinh học để sản xuất thuốc chữa bệnh cho người đạt tiêu chuẩn GMP quốc tế; sản xuất nguyên liệu thuốc kháng sinh. 6. Sản xuất máy tính, thiết bị thông tin, viễn thông, Internet, sản phẩm công nghệ thông tin trọng điểm. 7. Sản xuất chất bán dẫn và các linh kiện điện tử kỹ thuật cao; sản xuất sản phẩm phần mềm, nội dung thông tin số; cung cấp các dịch vụ phần mềm, nghiên cứu công nghệ thông tin, đào tạo nguồn nhân lực công nghệ thông tin. 8. Đầu tư sản xuất, chế tạo thiết bị cơ khí chính xác; thiết bị, máy móc kiểm tra, kiểm soát an toàn quá trình sản xuất công nghiệp; rô bốt công nghiệp. II. Nuôi trồng, chế biến nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản, làm muối; sản xuất giống nhân tạo, giống cây trồng và giống vật nuôi mới 9. Trồng, chăm sóc rừng. 10. Nuôi trồng nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản trên đất hoang hoá, vùng nước chưa được khai thác. 11. Đánh bắt hải sản ở vùng biển xa bờ. 12. Sản xuất giống mới, nhân và lai tạo giống cây trồng và vật nuôi có hiệu quả kinh tế cao. 13. Sản xuất, khai thác, tinh chế muối. III. Sử dụng công nghệ cao, kỹ thuật hiện đại; bảo vệ môi trường sinh thái; nghiên cứu, phát triển và ươm tạo công nghệ cao 14. ứng dụng công nghệ cao; ứng dụng công nghệ mới chưa được áp dụng tại Việt Nam; ứng dụng công nghệ sinh học. 15. Xử lý ô nhiễm và bảo vệ môi trường; sản xuất thiết bị xử lý ô nhiễm môi trường, thiết bị quan trắc và phân tích môi trường. 16. Thu gom, xử lý nước thải, khí thải, chất thải rắn; tái chế, tái sử dụng chất thải. 17. Nghiên cứu, phát triển và ươm tạo công nghệ cao. IV. Sử dụng nhiều lao động 18. Dự án sử dụng thường xuyên từ 5.000 lao động trở lên. V. Xây dựng và phát triển kết cấu hạ tầng và các dự án quan trọng 19. Đầu tư xây dựng, kinh doanh kết cấu hạ tầng khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế và các dự án quan trọng do Thủ tướng Chính phủ quyết định. VI. Phát triển sự nghiệp giáo dục, đào tạo, y tế, thể dục và thể thao 20. Đầu tư xây dựng cơ sở cai nghiện ma túy, cai nghiện thuốc lá. 21. Thành lập cơ sở thực hiện vệ sinh phòng chống dịch bệnh. 22. Thành lập trung tâm lão khoa, hoạt động cứu trợ tập trung, chăm sóc người tàn tật, trẻ mồ côi. 23. Xây dựng trung tâm đào tạo, huấn luyện thể thao thành tích cao, thể thao cho người tàn tật, cơ sở thể thao có thiết bị, phương tiện luyện tập và thi đấu đáp ứng yêu cầu tổ chức các giải thi đấu quốc tế. VII. Những lĩnh vực sản xuất, dịch vụ khác 24. Đầu tư vào nghiên cứu và phát triển (R&D) chiếm 25% doanh thu trở lên. 25. Dịch vụ cứu hộ trên biển. 26. Đầu tư xây dựng chung cư cho công nhân làm việc tại các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế; đầu tư xây dựng ký túc xá sinh viên và xây dựng nhà ở cho các đối tượng chính sách xã hội. 3.1.4 Định hướng đầu tư theo vùng, lãnh thổ. - Các vùng, khu vực đều phát huy lợi thế để phát triển, tạo nên thế mạnh của mình theo cơ cấu kinh tế mở, gắn với nhu cầu thị trường trong và ngoài nước. Ở nước ta, các vùng kinh tế gắn với quy hoạch phát triển kinh tế xã hội của các địa phương, các đô thị, các địa bàn, lãnh thổ, đặc biệt là các vùng KTTĐ ở 3 miền đang được xây dựng và hình thành từng bước. Các vùng KTTĐ đóng góp khoảng 50% giá trị GDP cả nước, 75-80% giá trị gia tăng công nghiệp và 60-65% giá trị gia tăng khu vực dịch vụ. Do vậy sẽ cấp thiết hình thành mạnh mẽ các vùng KTTĐ, đóng vai trò đầu tàu cho sự tăng trưởng nhanh, đồng thời tạo điều kiện, và đầu tư thích đáng cho vùng nông thôn, vùng nhiều khó khăn, và vùng biên giới hải đảo. - Thu hút vốn đầu tư FDI vào những khu vực khác, ngoài vùng phát triển, đặc biệt là vùng núi, vùng nông thôn. Tăng vốn đầu tư ngân sách nhà nước cho các vùng khó khăn, Cụ thể cơ cấu đầu tư theo một số vùng chính như sau: Khu vực đô thị: Phát triển kinh tế trí thức, đầu tư mạnh cho công nghiệp, dịch vụ, hiện đại hóa cơ sở hạ tầng, tạo vành đai nông nghiệp xung quanh các thành phố lớn. Cần ưu tiên đầu tư các trung tâm tài chính, ngân hàng lớn. Khu vực nông thôn: Phát triển mạnh nông nghiệp, đặc biệt là cây lúa, cây rau, quả, chăn nuôi, thủy sản và ứng dụng phổ biến các tiến bộ khoa học, công nghệ trong sản xuất, chế biến, bảo quản, tiêu thụ sản phẩm. Hoàn thành điện khí hóa và thực hiện cơ giới hóa ở những khâu cần thiết. Nâng cao nhanh thu nhập trên một đơn vị diện tích nông nghiệp. Chuyển nhiều lao động sang khu vực công nghiệp và dịch vụ. Phát triển mạnh tiểu, thủ công nghiệp, các làng nghề, mạng lưới công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản và các dịch vụ Khu vực trung du và miền núi: Từ trước đến nay, khu vực này ít đựợc đầu tư thích đáng, nếu không có chính sách hỗ trợ phát triển đúng đắn, thì khu vực này sẽ tụt hậu khá xa so với cả nước. Nhà nước khuyến khích, tiếp tục ưu đãi và đặc biệt ưu đãi cho những dự án đầu tư vào các vùng trên. Định hướng vĩ mô cho các vùng núi và trung du là những ngành có sẵn ưu thế địa hình, như trồng cây công nghiệp, kinh tế trang trại, du lịch sinh thái và phát triển rừng. Khu vực biển và hải đảo: Đầu tư tổng hợp kinh tế biển, du lịch, đóng tàu, dầu khí. Với hơn 1 triệu km2 thềm lục địa, chúng ta hoàn toàn có khả năng lấy lợi thế của vùng biển thành vùng phát triển cao và từ đó sẽ thúc đẩy các vùng khác. Trong 10 năm tới, phát triển từng vùng lớn tập trung vào những định hướng quan trọng như sau: (1) Đồng bằng sông Hồng và vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ Chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động, đưa nhiều lao động nông nghiệp sang các ngành công nghiệp, dịch vụ và đi lập nghiệp nơi khác. Phát triển nông nghiệp hàng hóa đa dạng. Cùng với lương thực, đưa vụ đông thành một thế mạnh, hình thành các vùng chuyên canh rau, cây ăn quả, thịt, hoa; mở rộng nuôi, trồng thủy sản. Phát triển mạnh công nghiệp chế biến và cơ khí phục vụ nông nghiệp, các cụm, điểm công nghiệp, dịch vụ và làng nghề ở nông thôn. Trong vùng KTTĐ, phát triển các khu công nghiệp, khu công nghệ cao, công nghiệp xuất khẩu, công nghiệp điện tử, thông tin và một số cơ sở cơ khí đóng tàu, luyện kim, phân bón; các dịch vụ có hàm lượng tri thức cao; các trung tâm mạnh của vùng và cả nước về đào tạo, khoa học và công nghệ, thương mại, y tế, văn hóa, du lịch. Hoàn thiện và nâng cấp kết cấu hạ tầng, trước hết là các tuyến trục quốc lộ, các cảng khu vực Hải Phòng, Cái Lân, các sân bay. (2) Miền Đông Nam Bộ và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Hình thành và phát huy vai trò các trung tâm thương mại, xuất khẩu, viễn thông, du lịch, tài chính, ngân hàng, khoa học và công nghệ, văn hóa, đào tạo đối với khu vực phía Nam và cả nước. Đẩy mạnh công nghiệp khai thác dầu khí; sản xuất điện, phân bón và hóa chất từ dầu khí. Hoàn chỉnh và nâng cấp các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao. Mở mang công nghiệp ở các tỉnh, không tập trung quá mức vào các đô thị lớn. Phát triển mạnh cây công nghiệp (cao su, cà phê, điều, mía đường, bông...), cây ăn quả, chăn nuôi công nghiệp, chăn nuôi đại gia súc, hình thành các vùng chuyên canh tập trung gắn với công nghiệp chế biến, tạo điều kiện thu hút thêm lao động từ đồng bằng sông Cửu Long. Nâng cấp các tuyến quốc lộ nối với các vùng và quốc tế; nâng cấp và xây dựng mới một số cảng biển, sân bay. Xây dựng đô thị trên các trục phát triển gắn với khu công nghiệp. Giải quyết tốt hệ thống giao thông đô thị, cấp và thoát nước, khắc phục ô nhiễm môi trường. (3) Bắc Trung Bộ, Duyên hải Trung Bộ và vùng kinh tế trọng điểm miền Trung Phát huy thế mạnh kinh tế biển, khai thác có hiệu quả các tuyến đường trục Bắc - Nam, các tuyến đường ngang, các tuyến đường xuyên á, các cảng biển. Hình thành các khu công nghiệp ven biển, các khu công nghiệp - thương mại tổng hợp và phát triển kinh tế trên các cửa khẩu và hành lang dọc các tuyến đường. Phát triển các ngành công nghiệp lọc, hóa dầu, vật liệu xây dựng, công nghiệp chế biến và chế tạo khác, các loại hình dịch vụ. Xây dựng theo quy hoạch một số cảng nước sâu, với tiến độ hợp lý. Đẩy nhanh việc xây dựng khu kinh tế Dung Quất - Chu Lai. Phát triển thế mạnh du lịch biển và ven biển, gắn liền với các khu di tích, danh lam thắng cảnh của cả vùng, đặc biệt là trên tuyến Huế - Đà Nẵng - Hội An - Nha Trang. Phát triển nông nghiệp phù hợp với điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, tăng nhanh sản xuất cây công nghiệp, cây ăn quả, chăn nuôi đại gia súc, kết hợp với công nghiệp chế biến, đẩy mạnh trồng rừng. Có giải pháp hạn chế tác hại của thiên tai lũ lụt, hạn hán nặng, kết hợp với bố trí lại sản xuất và dân cư. Phát triển kinh tế - xã hội gắn với bảo vệ và cải thiện môi trường toàn dải ven biển. Khai thác có hiệu quả vùng đất phía Tây, chú ý xây dựng các hồ chứa nước chống lũ và làm thủy điện. Từng bước tạo điều kiện để vùng Bắc Trung Bộ, Duyên hải Trung Bộ liên kết với Tây Nguyên tham gia có hiệu quả việc hợp tác kinh tế với Lào, Campuchia, nhất là các tỉnh biên giới. (4) Trung du và miền núi Bắc Bộ (Tây Bắc và Đông Bắc) Phát triển mạnh cây công nghiệp, cây ăn quả, cây dược liệu, cây đặc sản, chăn nuôi đại gia súc gắn với chế biến. Tạo các vùng rừng phòng hộ đầu nguồn sông Đà, rừng nguyên liệu công nghiệp, gỗ trụ mỏ. Xúc tiến nghiên cứu và xây dựng thủy điện Sơn La. Phát triển công nghiệp khai thác, chế biến khoáng sản, nông sản, lâm sản, chú trọng chế biến xuất khẩu. Hình thành một số cơ sở công nghiệp lớn theo tuyến đường 18 gắn với vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ. Phát triển nhanh các loại dịch vụ, chú trọng thương mại. Nâng cấp các tuyến đường trục từ Hà Nội đi các tỉnh biên giới, hoàn thành các tuyến đường vành đai biên giới và các đường nhánh. Phát triển thủy lợi nhỏ gắn với thủy điện nhỏ, giải quyết việc cấp nước sinh hoạt và điện cho đồng bào vùng cao. Phát triển các đô thị trung tâm, các đô thị gắn với khu công nghiệp. Nâng cấp các cửa khẩu biên giới và phát triển kinh tế cửa khẩu. Thực hiện tốt chính sách dân tộc, định canh, định cư vững chắc, ổn định và cải thiện đời sống cho đồng bào dân tộc. (5)Tây Nguyên Tây Nguyên là địa bàn chiến lược quan trọng của cả nước cả về kinh tế - xã hội và quốc phòng- an ninh, có lợi thế để phát triển nông nghiệp, lâm nghiệp sản xuất hàng hóa lớn kết hợp với công nghiệp chế biến, phát triển công nghiệp năng lượng và công nghiệp khai thác khoáng sản. Có chiến lược và quy hoạch xây dựng Tây Nguyên giàu về kinh tế, vững mạnh về quốc phòng, an ninh, tiến tới thành vùng kinh tế động lực. Phát triển nhanh theo hướng thâm canh là chính đối với các cây công nghiệp gắn với thị trường xuất khẩu (cà phê, cao su, chè, bông...), chăn nuôi đại gia súc, trồng và bảo vệ rừng, cây dược liệu, cây đặc sản và công nghiệp chế biến nông, lâm sản. Phát triển thủy điện lớn và vừa, các hồ chứa nước cho thủy lợi. Khai thác và chế biến quặng bôxít. Phát triển công nghiệp giấy. Nâng cấp, khai thác tốt các tuyến đường trục và đường ngang nối xuống vùng Duyên hải. Phát triển sự hợp tác liên kết kinh tế - thương mại - dịch vụ với các nước láng giềng Lào, Campuchia. Có chính sách thu hút vốn đầu tư, bố trí dân cư và lao động theo quy hoạch, nâng cao dân trí và trình độ công nghệ. Thực hiện tốt chính sách dân tộc, thật sự cải thiện đời sống vật chất và văn hóa của đồng bào dân tộc. (6) Đồng bằng sông Cửu Long Tiếp tục phát huy vai trò của vùng lúa và nông sản, thủy sản xuất khẩu lớn nhất cả nước; đẩy mạnh sản xuất và nâng cao chất lượng lương thực, rau quả, chăn nuôi, thủy sản hàng hóa. Phát triển công nghiệp chế biến, cơ khí phục vụ nông nghiệp, các ngành, nghề tiểu, thủ công nghiệp và các dịch vụ. Triển khai xây dựng các cụm công nghiệp sử dụng khí Tây Nam. Chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế, tăng tỷ trọng lao động công nghiệp, dịch vụ. Hoàn chỉnh mạng lưới đường bộ và mạng giao thông thủy. Nâng cấp và mở rộng quốc lộ 1A, mở thêm một số tuyến trục để phát triển giao thông phía Tây Nam. Nâng cấp các quốc lộ đến các tỉnh lỵ. Xây dựng cầu qua sông Hậu và có đủ cầu trên các tuyến này. Phát triển mạng đường liên huyện và giao thông nông thôn, xây cầu kiên cố thay cầu khỉ. Hoàn chỉnh các cảng sông, nâng cấp các sân bay. Quy hoạch và xây dựng khu dân cư, kết cấu hạ tầng phù hợp với điều kiện chống lũ hàng năm và ngăn mặn. 3.2 Giải pháp điều chỉnh cơ cấu đầu tư ngày càng hợp lý hơn 3.2.1 Nhóm giải pháp về chính sách và quy hoạch tổng thể của chính phủ Trong chương 1 đã nói khá rõ về các nhân tố ảnh hưởng tới sự dịch chuyển cơ cấu đầu tư, trong đó, có lẽ nhân tố chủ quan tác động mạnh nhất là các chiến lược, định hướng vĩ mô của chính phủ. Mặc dù sự tác động ở dạng gián tiếp nhưng các định hướng đó là mục tiêu mà chúng ta cần phải đạt được, chính vì vậy từ công tác định hướng hay thiết lập các chính sách phải được chú trọng hàng đầu. *Giải pháp về quy hoạch tổng thể: Các quy hoạch tổng thể phát triển vùng, kế hoạch đầu tư có ảnh hưởng rất lớn tới cơ cấu đầu tư phát triển. Bởi vì các quy hoạch, kế hoạch này chính là định hướng cho hoạt động đầu tư của các đơn vị. Để chuyển dịch tốt, cần nâng cao chất lượng việc quy hoạch, lập kế hoạch. Tất cả các quy hoạch phải có tầm nhìn dài hạn, ưu tiên cho ngành cụ thể và phải tranh thủ sự giám sát của nhân dân. Các nội dung an ninh quốc phòng cần phải được giữ bí mật, nhưng những quy hoạch kinh tế, xã hội cần phải công khai hóa. Việc quy hoạch, lập chính sách, luật, không thể chung chung, nhất định phải có mục tiêu cụ thể, có định lượng về chỉ tiêu, các con số. Nguyên tắc quản lý này luôn đúng đắn cho mọi trường hợp, ở tầm vĩ mô thì không thể thiếu sót được. *Nhóm giải pháp về thị trường: Muốn chuyển dịch cơ cấu đầu tư, và cơ cấu kinh tế một cách hiệu quả, chắc chắn chúng ta phải dựa vào quy luật của thị trường. Tôn trọng quy luật kinh doanh của thị trường, phải trao quyền định đoạt cho các chủ thể đầu tư, kinh doanh trực tiếp. Công tác dự báo và nghiên cứu cung- cầu thị trường trong nước và quốc tế phải thật sự chủ động, bền vững. Trong những năm vừa qua, việc một số ngành sản xuất quá nhiều so với cầu của thị trường, điều này khẳng định việc dự báo vĩ mô, thị trường của chúng ta kém. Đầu tư là một hoạt động liên ngành, do vậy chỉ cần một sai sót nhỏ trong khâu định hướng, dự báo là có thể dẫn tới một kết cục rất xấu. Chúng ta dự báo cho thị trường sản phẩm không chính xác là do quá chú trọng vào yếu tố giá và thị trường hiện tại mà quên đi những yếu tố khác như xu hướng tiêu dùng, động cơ mua sắm và khả năng thanh toán của xã hội cũng như khả năng có thể xuất khẩu. Các địa phương phải có trách nhiệm hướng dẫn doanh nghiệp, khuyến khích đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh cho địa phương mình. Ở địa phương cũng phải làm tốt công tác dự báo cung-cầu cho những sản phẩm mũi nhọn, lợi thế của địa phuơng mình. Chẳng hạn như ngành mía đường ở Lam Sơn hay nhãn ở Hải Dương vậy. Việc sản xuất tràn lan khiến cho người dân không kịp trở tay với sự xuống giá của sản phẩm. Lấy ví dụ về trồng nhãn, nếu giá giảm quá thấp, người dân sẽ tự phát phá bỏ cây nhãn và trồng loại cây khác, năm sau đó cung nhãn < cầu về nhãn. Sự chênh lệch này là một sự lãng phí to lớn cho năng lực sản xuất của địa phương đó, nếu như cán bộ kinh tế của địa phương không tuyên truyền hay giải thích cho nông dân hiểu được thì rõ ràng việc chuyển dịch cơ cầu ngành ở địa phương coi như thất bại, mà như vậy trong tổng thể chung của cả nước, chúng ta không thể chuyển dịch thành công. *Nhóm các giải pháp về chính sách: Để thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu đầu tư, chính sách đầu tư, luật đầu tư cần cởi mở và thông thoáng hơn. Như thế mới kích thích các nhà đầu tư an tâm bỏ vốn, và mạnh dạn đầu tư vào những ngành quan trọng hơn. Nhà nước không nên can thiệp bằng các biện pháp hành chính vào hoạt động kinh tế của chủ thể kinh tế mà chỉ can thiệp bằng các công cụ vĩ mô và các chính sách giải pháp đồng bộ. Cụ thể nhà nước cần tập trung vào nhiệm vụ định hướng, quản lý, tạo môi trường pháp lý đồng bộ, thông thoáng cho các chủ thể kinh tế yên tâm đầu tư, kinh doanh, giải toả tâm lý e ngại mặc cảm, kích thích mạnh mẽ các thành phần kinh tế, tạo tiền đề phát triển những tập đoàn kinh tế lớn đủ sức cạnh tranh với quốc tế khi tham gia hội nhập. Để nhanh chóng thoát ra khỏi danh sách các nước nghèo vào năm 2010, thì nhà nước phải đẩy nhanh tiến trình đầu tư bằng việc huy động tối đa và sử dụng các nguồn lực trong nước thong qua kênh dân cư và khu vực tư nhân, việc cổ phần hoá các tổng công ty nhà nước, trái phiếu chính phủ hay trái phiếu công trình phải được đẩy mạnh. Về vấn đề quản lý hoạt động đầu tư: Các tỉnh, thành phố có quyền cấp giấy chứng nhận đầu tư, quản lý đầu tư, điều này phát huy tính sáng tạo, năng lực chủ động của địa phương cơ sở, nhưng kèm theo đó, phải quy trách nhiệm rõ ràng, rành mạch, đồng thời phải có ủy ban kiểm tra, giám sát tổ chức thực hiện kế hoạch. Tình trạng yếu kém của các địa phương trong việc quản lý các dự án đấu tư, tình trạng tham nhũng đã trở thành vấn nạn những nhối. Chẳng hạn như vụ PMU18, nếu nói là tham nhũng cũng đúng, nhưng nguyên nhân của nó thì mới đáng quan trọng, tại sao một ban quản lý dự án nhỏ vậy mà lại được rót 1 lượng vốn khổng lồ, trách nhiệm cũng chưa rõ ràng, vậy là có cơ sở, lỗ hổng để tham nhũng. Cơ cấu trong các cấp quản lý, các hệ thống tầng bậc quá rắc rối và không rõ ràng trách nhiệm chính là cấp nào cả. Việc đầu tiên trong việc quản lý hoạt động đầu tư là phải nhanh chóng hoàn thiện các chế tài trong luật, và nghiêm khắc trong việc kiểm tra giám sát cơ sở. Đã muốn phát huy tính sáng tạo, chủ động của địa phương cơ sở thì phải cắt đứt tính ỷ lại, dựa dẫm vào ngân sách. Thiết nghĩ chúng ta nên khoán cả trong quản lý. Rất nhiều vấn đề liên quan đên đầu tư cho một nước đang phát triển như Việt Nam. Việc thu hút vốn đầu tư đã khó khăn, và nhiều vấn đề như vậy thì chúng ta không nên đưa ra quá nhiều mục tiêu trong cùng một lúc để thực hiện được. Chính vì vậy đầu tư thì càng không thể để dàn trải, vì dàn trải đồng nghĩa với thiếu vốn, đồng nghĩa với không thể quản lý chặt được và như vậy lại dẫn tới thất thoát. 3.2.2. Nhóm các giải pháp cụ thể 3.2.2.1 Giải pháp điều chỉnh mạnh cơ cấu theo ngành Sở dĩ chúng ta chưa thể chuyển dịch nhanh cơ cấu theo ngành và vùng vì chúng ta đã phát triển quá tràn lan mà không chọn lựa theo lợi thế so sánh tốt nhất. Theo David Ricardo, lợi thế so sánh của 1 đất nước là ở ngành, lĩnh vực mà nước đó sản xuất tốt nhất. Dường như nhiều khi trong khi chọn ngành, lĩnh vực, chúng ta đã vi phạm nguyên tắc ấy, chúng ta có thể sản xuất rất nhiều thứ, có khả năng trong nhiều lĩnh vực và phát triển một cách tràn lan khiến chúng ta thất bại trong khâu tiêu thụ. Vì vậy nhà nước cần xác định một hướng đi phù hợp dựa trên lợi thế cạnh tranh, nguồn lực nội tại của nền kinh tế, thị trường và tài nguyên. Những ngành nên được đầu tư mở rộng là những ngành có lợi thế về tăng năng suất, ít rủi ro và tạo ra nhiều giá trị mới, tạo ra nhiều tích luỹ cho xã hội. Cụ thể trong các ngành cần phát triển như sau Công nghiệp-xây dựng : Phải ưu tiên cho các ngành và các lĩnh vực mũi nhọn, đó là điện; viễn thông; chế tạo vật liệu; công nghệ thông tin; may mặc và thủy sản. Trước tiên phải hình thành và hoàn thiện các khu công nghiệp, khu chế xuất, cũng phải nhấn mạnh rằng, các khu công nghiệp này nên cố gắng hết sức để đặt ở những vùng đất xấu, dành phần đất tốt cho sản xuất nông nghiệp. Tỷ trọng vốn dành cho ngành công nghiệp mũi nhọn cần phải tăng thêm, như vậy mới đủ phát triển ngành và tạo ra một thị trường về lĩnh vực công nghiệp có tính cạnh tranh quyết liệt. - Các ngành công nghệ cao, cơ khí, công nghiệp nặng đòi hỏi nguồn vốn rất lớn. Nguồn vốn từ ngân sách nhà nước lại dành cho kết cấu hạ tầng cơ sở, phát triển văn hoá, giáo dục. Nguồn vốn trong nước lại ở trong tình trạng thiếu và yếu. Những ngành kể trên lại không hấp dẫn vốn đầu tư nước ngoài do quay vòng vốn chậm, đòi hỏi vốn lớn. Do vậy chính sách thu hút vốn vẫn là giải pháp hàng đầu mà chúng ta vẫn thường phải nhắc tới. Hơn thế nữa, vốn dân cư là nguồn vốn khá lớn mà chúng ta chưa tận dụng hết khả năng của mình. Trong ngành công nghiệp nặng, tạo môi trường đầu tư lâu dài, ổn định, để thu hút FDI nhiều hơn. Nguồn vốn nước ngoài cũng sẽ giải quyết cho vấn đề công nghệ lạc hậu và máy móc cũ kỹ của chúng ta.Trong thời gian tơi sẽ có những sự thay đổi trong các dự án FDI, đó là sự xuất hiện những nước Trung Đông như các tiểu vương quốc Arập thống nhất, Oman, do vậy sự lo lắng về FDI trong công nghiệp nặng là không cần thiết. Việc chúng ta cần làm sớm là cải tổ lại một số ngành công nghiệp quan trọng của chúng ta, nếu có lợi thế tuyệt đối về mặt hàng nào thì cũng phải đáp ứng được nhu cầu tiêu thụ trong nước, đặc biệt là ngành công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng như mía đường, muối, ximăng… - Ngành chế biến thuỷ sản: Tận dụng lợi thế từ thiên nhiên, nguồn lao động rẻ, nguồn vốn đầu tư lại không lớn. Điều cần nên làm ngay lúc này là đầu tư theo chiều rộng các mô hình chế biến hàng thuỷ sản, phục vụ mục tiêu xuất khẩu, cùng với đó, bộ thuỷ sản phải tăng cường công tác dự báo thị trường quốc tế hàng nông sản, ban hành các chuẩn mực chất lượng nghiêm khắc cho từng loại mặt hàng. Chúng ta cũng cần có chiến lược xây dựng thương hiệu cho hàng thuỷ sản, có như vậy giá trị gia tăng do ngành này tạo ra sẽ là rất lớn. - Ngành dệt may: Đặc thù của ngành này là cần nhiều nhân công, khâu việc làm sẽ được giải quyết đáng kể nếu các các doanh nghiệp về dệt may được nhân rộng hơn nữa. Trung Quốc cũng khá giống Việt Nam ở nhiều điểm, nhưng giá cả của họ rẻ hơn của chúng ta rất nhiều. Hàng dệt may của họ có lợi thế do họ trồng sẵn được bông, và tự sản xuất hoá chất nhuộm cho mình. Chúng ta không thể bắt chước họ, trồng bông để phục vụ tốt hơn cho ngành dệt may, vì đơn giản, trồng bông không có lợi thế hơn các loại cây khác, nhưng việc sản xuất hoá chất nhuộm, các loại vải nilon, nhân tạo là hoàn toàn có thể. Đó tạm thời là những nguyên nhân chủ quan, còn nguyên nhân khách quan như việc hàng dệt may Trung Quốc bị cắt giảm ở Hoa Kỳ, chúng ta cần tận dụng càng nhanh càng tốt. * Ngành dịch vụ: Bốn ngành dịch vụ tăng trưởng mạnh là ngân hàng-tài chính; du lịch; bưu chính viễn thông và vận tải dịch vụ kho cảng biển. Khi hội nhập quốc tế, mà nguyên tắc đầu tiên là bình đẳng, do vậy chúng ta cần tập trung đột phá phát triển ngành dịch vụ để theo kịp trình độ của khu vực và thế giới. Nhà nước kiểm soát chặt chẽ độc quyền và tạo môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp mọi thành phần kinh tế tham gia bình đẳng trên thị trường dịch vụ. Đẩy nhanh xã hội hoá các hoạt động dịch vụ, khuyến khích các thành phần kinh tế, kể cả các thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài nhằm đẩy tranh tốc độ và quy mô. - Đầu tư lớn cho các ngành dịch vụ có năng lực cạnh tranh cao như ngân hàng; tài chính; chứng khoán; bảo hiểm. Đầu tư phát triển các sản phẩm tài chính, định chế tài chính. Đây là những ngành có giá trị gia tăng rất lớn, vì vậy có nhiều nhà đầu tư nước ngoài để mắt tới là điều dễ hiểu. Chúng ta nên mạnh dạn hơn trong khung luật, bớt đi các rào cản để nhà đầu tư nước ngoài tham gia mạnh hơn vào khu vực này. Có thể đây là vấn đề nhạy cảm đối với một nước XHCN như Việt Nam, để khắc phục điều đó mà vẫn đảm bảo cho tăng trưởng nhanh, trước hêt các doanh nghiệp, tập đoàn, ngân hàng trong nước phải cố gắng vươn lên rất nhiều. Có thêm sự xuất hiện của các nhà đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực này thì doanh nghiêp Việt Nam càng có sự tiếp thu kinh nghiệm, càng phải làm việc chuyên nghiệp hơn. Dù sao lợi thế sân nhà, am hiểu dân mình, cũng sẽ giúp cho doanh nghiệp Việt Nam tự tin hơn, và chúng ta có quyền được tin tưởng. Khuyến khích người dân sử dụng hệ thống tài khoản, thẻ trong tiêu dùng, và thanh toán, giảm thiểu việc tiêu dùng bằng tiền mặt. - Đối với ngành du lịch, cần chú trọng ưư tiên phát triển khu vực sinh thái, văn hoá, đồng thời tăng cường hợp tác liên kết hợp tác phát triển du lịch giữa các địa phương thể hiện tính liên ngành, liên vùng trong phát triển du lịch. Tăng cường đào tạo phát triển nguồn nhân lực cho ngành du lịch, nhằm tạo dựng thương hiệu du lịch, tăng cường thu hút khách du lịch. - Đa dạng hóa các loại hình dịch vụ bưu chính viễn thông và giải pháp chăm sóc khách hàng. Trong đó bao gồm nâng cao chất lượng, giảm giá cước dịch vụ bưu chính viễn thông phù hợp với lộ trình hội nhập. Ngoài ra ngành bưu chính-viễn thông cần tăng cường hợp tác, chuyển giao công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực cho ngành. - Với dịch vụ thương mại, trung tâm là thị trường trong nước, để phát triển mạnh hơn, chúng ta phải phát triển giao thông vận tải trước, các kho bãi, cảng phải đáp ứng cho nhu cầu luân chuyển hàng hoá. Việc nâng cao hệ thống các siêu thị bán lẻ hiện đại, các trung tâm thương mại, các hội chợ trong nước cũng phải được đẩy nhanh tiến độ. Hỗ trợ các doanh nghiệp Việt Nam tham gia vào các hội chợ quốc tế để học hỏi, nâng cao tầm nhìn về văn hoá doanh nghiệp. - Một khu vực dịch vụ nữa là dịch vụ công cộng. Dịch vụ này liên quan đến trực tiếp đời sống của nhân dân và là yếu tố quan trọng để ổn định xã hội. Việc chuyển đổi phương thức cung ứng dịch vụ này cần phải đồng bộ, có lộ trình cụ thể. Như đã nói ở trên, nguồn vốn của chúng ta rất hạn chế, do vậy không thể tham lam đầu tư cho tất cả mọi thứ, mặc dù tất cả đều quan trọng * Ngành nông nghiệp Để khắc phục những hạn chế trong đầu tư nông nghiệp, trong cơ cấu ngành nông nghiệp, chúng ta có những giải pháp trước mắt như sau: - Nâng cao năng lực quản lý của bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, các cấp cơ sở hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp. Chính phủ cũng nên quan tâm đầu tư nhiều hơn nữa cho nông nghiệp, phần lớn các dự án đầu tư cho hiện đại hoá nông nghiệp đều diễn ra rất chậm chạp và không một nơi nào trên cả nước đạt được chỉ tiêu về công nghiệp hoá nông nghiệp-nông thôn,hệ quả này cũng là do sự thiếu quan tâm của các ban ngành và địa phương tới nông nghiệp, nông thôn. - Trước hết, tập trung phát triển cơ sở hạ tầng, hệ thống thuỷ lợi, máy móc cho khu vực nông nghiệp.Việc này phải thực hiện mạnh mẽ, sau đó là hình thành nên các vùng chuyên canh sản xuất chất lượng cao về lương thực, nông sản, vật nuôi có đủ điều kiện xuất khẩu. - Tập quán sản xuất nông nghiệp của nông dân còn lạc hậu, để đầu tư hiệu quả hơn, phải thay đổi cách làm nông của họ. Chúng ta cần đầu tư vùng trồng lúa lớn, khắc phục tình trạng ruộng đất mạnh mún. Và vùng trồng trọt lớn còn dễ dàng áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật như phân bón hay máy cơ giới. - Như chúng ta đã chứng kiến, trong năm 2007, và sẽ tiếp tục trong năm 2008, giá lương thực thực phẩm tăng cao chưa từng thâý. Điều này sẽ làm chuyển dịch cơ cấu trong nông nghiệp mạnh, mà không phải do tác động của chính sách vĩ mô nào. Bộ nông nghiệp cần làm tốt công tác dự báo cung cầu thị trường, cũng như chính sách hỗ trợ nông dân khi giá thay đổi hay do ảnh hưởng nặng nề của thời tiết. - Chuyển bớt lao động ngành nông nghiệp sang ngành công nghiệp và dịch vụ. Điều đó phải có hỗ trợ liên ngành trong việc đào tạo của ngành công nghiệp, dịch vụ. Đồng thời phát triển các làng nghề thủ công ở nông thôn, tranh thủ thời kỳ nông nhàn để sản xuất những sản phẩm mỹ nghệ, thủ công, tạo ra giá trị cao và xuất khẩu. - Tăng tỷ trọng ngành chăn nuôi trong nông nghiệp, chú trọng về chất lượng, các yêu cầu về chất lượng cũng phải để người nông dân nắm rõ, có như vậy sản xuất mới hiệu quả và gia tăng giá trị cho sản phẩm nông nghiệp.Các quy định về chất lượng phải trở nên phổ biến trong sản xuất nông nghiệp. - Tiếp tục thu hút FDI trong ngành nông nghiệp. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến việc thu hút FDI đạt hiệu quả thấp, trong đó nguyên nhân chính là ngành NN&PTNT còn thiếu năng lực quản lý, thiếu cung cấp các dịch vụ thông tin cần thiết cho những đối tác đầu tư và thương mại của ngành. Bên cạnh đó, tính rủi ro của các dự án FDI nông nghiệp rất lớn, do phụ thuộc vào thiên nhiên của từng khu vực nông thôn và cơ sở hạ tầng nông thôn yếu kém, kỹ năng lao động thấp. Ngoài ra, việc triển khai các thủ tục hành chính vẫn còn gặp nhiều khó khăn do cơ chế và chính sách. Giải pháp trước tiên là tháo gỡ những hạn chế trên. Ngành nông nghiệp cần có đề xuất các dự án FDI của từng ngành, nêu rõ những ưu đãi, hỗ trợ, đồng thời có cơ quan chuyên theo dõi, và giải quyết các vướng mắc trong quá trình thực hiện và xúc tiến đầu tư FDI. Bên cạnh các lĩnh vực thu hồi vốn nhanh như sản xuất thức ăn chăn nuôi gia súc, giống cây trồng và vật nuôi, FDI nên phát triển cho các lĩnh vực công nghệ sinh học, lai tạo giống cây trồng, vật nuôi mới, trồng chế biến các loại rau, quả xuất khẩu bằng công nghệ kỹ thuật cao để mặt hàng nông sản Việt Nam có thương hiệu trên thị trường quốc tế, mang lại hiệu quả kinh tế cao, là một trong những mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu lớn nhất. Hy vọng trọng thời gian tới với sự hỗ trợ của một hệ thống cơ chế chính sách về khuyến khích FDI bao gồm các chính sách về ưu đãi vốn và tín dụng, đất đai, phát triển thị trường, hạ tầng và nguồn nhân lực…ổn định và hoàn thiện hơn. Ngành NN&PTNT cũng sẽ phát triển hệ thống quản lý và xúc tiến FDI đối với các doanh nghiệp nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam cũng như các nước vùng lãnh thổ có tiềm năng đầu tư vào nông nghiệp…hướng tới mục tiêu đến năm 2010, ngành nông nghiệp có thể huy động 1,5 tỷ USD vốn thực hiện FDI. Đây cũng có thể coi là chìa khoá để giải đáp cho bài toán cơ cấu đầu tư của ngành nông nghiệp. 3.2.2.2 Giải pháp điều chỉnh mạnh cơ cấu đầu tư theo nguồn vốn. *Điều chỉnh từ nguồn vốn ngân sách nhà nước: Có 2 nhóm giải pháp chính trong việc chuyển dịch tốt cơ cấu đầu tư theo nguồn vốn, đó là: chính sách huy động vốn mạnh và sử dụng vốn có hiệu quả, trong phần hiệu quả sử dụng vốn thì quan trọng nhất là quản lý và phân bổ vốn ngân sách nhà nước Thứ nhất: huy động vốn Nguồn vốn đầu tư từ ngân sách còn rất hạn hẹp, lại bị co kéo bởi nhiều nhu cầu cấp bách, nên có nhiều hạn chế trong việc bố trí cơ cấu đầu tư, chuyển đổi cơ cấu đầu tư. Các Bộ, các địa phương chưa quan tâm đến việc tạo thêm các nguồn vốn khác để cải thiện cơ cấu đầu tư, còn trông chờ, ỷ lại nguồn vốn ngân sách Nhà nước. Nguồn vốn tín dụng của Nhà nước cũng rất hạn hẹp, việc huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư chủ yếu là ngắn hạn, Nhà nước dùng cơ chế bù lãi suất mới có thể chuyển từ vốn vay ngắn hạn sang cho vay trung và dài hạn. Hàng năm cũng chỉ đáp ứng được 50%-60% nhu cầu. Khả năng đáp ứng vốn của chúng ta còn rất thấp, nhưng chính sách huy động của chính phủ vẫn còn mang tính lý thuyết, chưa hấp dẫn các tầng lớp dân cư, không mang tính khuyến khích và thiếu tính sáng tạo. Chính phủ quá khắt khe trong các quy định để doanh nghiệp tư nhân tiếp cận nguồn vốn ưu đãi tín dụng của chính phủ, trong khi năng lực của khu vực này là rất lớn và mang tính thị trường cao. Khu vực tư nhân cần phải được ưu tiên nhiều hơn nữa, vì bản thân khu vực này có khả năng huy động vốn từ dân chúng rất cao, trong khi nó lại kém ưu thế hơn khu vực Nhà Nước. Điều này bất hợp lý. Và cần tháo gỡ càng sớm càng tốt, khi được tháo gỡ được rào cản sự kỳ thị, khu vực kinh tế naỳ sẽ bung ra phát triển nhanh chóng, là chìa khoá cho sự tăng trưởng vượt bậc của chúng ta. Một vấn đề nữa là chính phủ cũng cần tăng cường kênh huy động vốn cho ngân sách quốc gia bằng trái phiếu, tín phiếu, để hấp dẫn công chúng có lẽ chính phủ nên xem lại hình thức tiếp cận của mình tới công chúng. Tiếp tục thu hút vốn hỗ trợ phát triển chính thức ODA cho các hạng mục công trình cơ sở hạ tầng chúng ta chưa có khả năng làm tốt như xây dựng tuyến đường sắt trên không, đường giao thông, và đường cao tốc. Thứ 2: Quản lý và sử dụng vốn ngân sách Thực hiện nguyên tắc, vốn nhà nước là tiền của dân, nên phải được đại diện của dân bàn và quyết định. Theo đó các công trình do trung ương quyết định cần phát huy vai trò của các Hội đồng nhân dân đối với việc sử dụng vốn ngân sách địa phương cho đầu tư phát triển. Công khai hoá vốn đầu tư của nhân sách nhà nước, giải pháp cho việc đầu tư không đúng chỗ và thất thoát vốn. Việc này có thể hiện bằng tích cực sự giám sát của nhân dân, công bố công khai dự án đầu tư để dân chúng đóng góp về chủ trương đầu tư, sau đó tham gia việc đấu thầu và thi công xây dựng. Để giải quyết vấn đề nhiều công trình đầu tư theo vốn nhà nước còn quá chậm chạp, nhiều công trình dở dang khiến vốn bị ứ đọng. cần quy định rõ rang về tiến độ, thời gian thực hiện tuỳ từng trường hợp, và nếu vi phạm vào điều này thi trách nhiệm phải như thế nào. Việc phân bổ vốn cũng phải phù hợp với nguồn lực hay khả năng quản lý vốn của cơ sở. Nhà nước phải giới hạn khung vốn mà một tổ chức có khả năng quản lý, tránh tình trạng như các ban quản lý dự án trong bộ giao thông vận tải như những năm vừa qua, một ban quản lý dự án mà lại được phép quản lý tới hàng chục triệu đô la.Việc bất hợp lý đó sẽ dẫn tới thất thoát vốn của nhà nước. Việc quản lý diễn ra qua lỏng lẻo trong khi phân cấp lại quá nhiều, siết chặt kiểm tra các cấp là việc trước tiên phải sửa đổi. Giải pháp chống lại sự ỷ lại, trông chờ vốn rót xuống của các địa phương, chúng ta phải nâng cao năng lực của các cán bộ địa phương, một khi những người đứng đầu một tỉnh, có trách nhiệm trong việc quản lý các dự án của địa phương mà lại không am hiểu các quy tắc quản lý, không am hiểu về dự án đầu tư thì không thể hoàn thành nhiệm vụ của mình được. Chúng ta cũng có thể nói luôn đến hiện tượng tham ô, chạy chức quyền, con ông cháu cha là một nguyên nhân gián tiếp nhưng cực kỳ nguy hiểm ảnh hưởng tới việc quản lý và sử dụng vốn. Điều này chưa được giải quyết triệt để, có lẽ chúng ta cũng không nên bàn thêm về năng lực quản lý ở địa phương. Nhà nước quản lý hoạt động đầu tư thông qua các chính sách, các văn bản hướng dẫn thi hành. Nhưng các văn bản này còn quá chung chung, chưa cụ thể trong việc quy định các cấp nào có thẩm trong việc phê duyệt, có trách nhiệm ra sao. Như vậy dù có sai, có thất thoát tới hàng chục tỷ đồng nhưng không quy được trách nhiệm cho ai, hay có người nhận trách nhiệm nhưng không thể gánh nổi trách nhiệm. Vậy làm sao có thể quản lý tốt được, nghiên cứu này cũng mong muốn chính phủ sớm có câu trả lời cho việc hoàn thiện các văn bản quản lý đầu tư, sao cho thật hiệu quả và tránh được những tổn thất do chủ quan không đáng có. * Nguồn vốn trong nước từ khu vực dân cư - Tạo điều kiện để khu vực dân cư cùng với nhà nước bỏ vốn đầu tư các dự án lớn, công trình quan trọng, các dự án thu hút đông lao động tại chỗ, các dự án phát triển ngành nghề nông thôn, dự án cơ sở hạ tầng nông thôn, nhằm thu hút tối đa nguồn vốn trong khu vực dân cư. - Tạo điều kiện thuận lợi, không phân biệt đối xử cả về thủ tục hành chính và cả tâm lý cho khu vực kinh tế tư nhân phát triển theo đúng chủ trương “được tự do kinh doanh trong tất cả lĩnh vực ngành nghề mà nhà nước không cấm”. * Nguồn vốn đầu từ nước ngoài - Nguồn vốn FDI có tác dụng cực kỳ to lớn đối với quá trình CNH, HĐH, chuyển dịch cơ cấu đầu tư và tăng trưởng nhanh cho nước nhận vốn. Việc thu hút các dự án FDI trong mọi lĩnh vực là rất quan trọng. - Ban hành các cơ chế, chính sách, biện pháp cải tiến các thủ tục, tháo gỡ các khó khăn, ách tắc, theo hướng cởi mở thông thoáng để giảm thiểu những cản trở, tăng khả năng thu hút nguồn vốn bên ngoài - Công bố các danh mục, công trình đầu tư, định hướng phát triển đầu tư để các nhà đầu tư nắm rõ, lựa chọn - Trong thời gian tới, trước nguy cơ khủng hoảng của nền kinh tế thế giới, nguồn vốn trực tiếp nước ngoài FDI sẽ có nguy cơ chững lại. Trong thời gian đó chúng ta cần tranh thủ tháo gỡ tất cả những hạn chế trong khung luật của chúng ta, tạo điều kiện tốt để phát triển cơ sở hạ tầng ngày càng hiện đại và theo tiêu chuẩn quốc tế. Xây dựng chiến lược cạnh tranh nâng cao sức hấp dẫn đầu tư của Việt Nam so với các nước trong khu vực như Malaysia, Indonesia, Trung Quốc. Việt Nam có lợi thế về chính trị ổn định nhưng lại mất điểm ở cơ sở hạ tầng quá yếu và thủ tục hành chính còn rườm rà. Chúng ta muốn phát triển nhanh thì bản thân chúng ta phải nâng cao năng lực hiện có, phát huy và tôn thêm những thế mạnh của mình, nhanh chóng khắc phục những hạn chế, rào cản tự thân. - Xây dựng chiến lược ngoại giao tốt, tiếp thị hình ảnh của Việt Nam trên trường quốc tế để các nhà đầu tư nước bạn tham gia vào thị trường Việt Nam. Việc gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO, và trở thành thành viên không thường trực hội đồng bảo an liên hợp quốc đã giúp tên tuổi Việt Nam nâng lên rất nhiều, trong thời gian tới sẽ có rất nhiều dự án hoàn toàn mới vào các lĩnh vực nhiều vốn như dầu mỏ hay cơ khí. Chúng ta cũng không quá lo lắng về việc thu hút FDI nữa mà nên tập trung vào giải quyết các khó khăn trước mắt trong vấn đề cơ sở hạ tầng, thủ tục hành chính. - Tạo thuận lợi để phát triển mạnh mẽ hơn nguồn vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài FII, đây là kênh thu hút vốn tiềm năng nhất hiện nay mà chúng ta cần nỗ lực tập trung nắm bắt. 3.2.2.3 Giải pháp điều chỉnh mạnh cơ cấu theo vùng, lãnh thổ Để chuyển dịch tốt cơ cấu vùng-lãnh thổ, cần phải có thời gian dài và chúng ta phải thực hiện từng bước. Cơ cấu theo địa phương sẽ quyết định cơ cấu tổng thể của cả nước như thế nào. Đạt mục tiêu chung, trước hết chúng ta phải giải quyết bài toán cơ cấu địa phương hợp lý. Những vùng KTTĐ đã làm tốt vai trò thúc đẩy và ảnh hưởng của mình. Những dự án đầu tư lớn thuộc ngành thường được đầu tư cho những vùng này, nhưng sức lan tỏa của nó tới các vùng khó khăn xung quanh là rất lớn, nó tạo ra những ngành công nghiệp phụ trợ, tạo ra nhu cầu cần nguồn cung nguyên vật liệu, và điều này gián tiếp khắc phục tình trạng vốn đầu tư thường khá thờ ơ với những vùng còn khó khăn. Tiếp tục thu hút các dự án ngành lớn cho các vùng trọng điểm, và nâng cao phát triển tính chất liên ngành, liên vùng trong các lĩnh vực. Thực trạng các vùng chưa phát huy được lợi thế so sánh của mình khiến cho sự phát triển chậm lại và ảnh hưởng tới cơ cấu chung. Điều này xảy ra do các địa phương chưa biết kết hợp các nguồn lực hiện có của mình, chưa đánh giá tốt năng lực địa phương, dẫn tới sự phát triển mang tính tự phát mà thiếu tính định hướng. Hầu hết các địa phương này lại rơi vào những vùng miền khó khăn, trình độ dân trí còn thấp, như vậy việc chưa phát huy được các lợi thế so sánh, lợi dụng đặc tính vùng miền là điều dễ hiều. Hơn nữa công tác tuyên truyền, tiếp cận các thông tin thị trường còn lệch lạc, công việc định hướng của cán bộ cấp bộ ngành chưa thực sự triệt để. Như vậy việc chuyển dịch theo hướng phát triển lợi thế so sánh từng địa phương đã không được làm tốt ở những vùng như vậy. Thiệt thòi hơn nữa là các vùng khó khăn lại không phải điểm dừng chân của các nguồn vốn béo bở như FDI, việc kích thích phát triển không nhiều. Cơ cấu các vùng này muốn thay đổi mạnh mẽ, phải có sự can thiệp của chính phủ. Cụ thể là đưa ra các ưu đãi cao hơn, hấp dẫn hơn cho các dự án vào các vùng miền đặc biệt khó khăn. Chính phủ không muốn sự chênh lệch trong phát triển giữa các vùng miền trong cả nước, chính phủ phải đầu tư nhiều hơn khi không ai muốn tham gia đầu tư cả. Vấn đề khó khăn sẽ giải quyết nhanh nếu có một đội ngũ nhân lực tốt trong các vùng đặc biệt, năng suất lao động được kích thích và đẩy lên cao. Có lẽ chìa khoá trong vấn đề này lại là giáo dục, nâng cao chất lượng giáo dục-đào tạo ở các vùng nông thôn, vùng sâu xa. Điều này rất khó giải quyết trong thời gian một sớm một chiều. Công tác quy hoạch vùng phải diễn ra nhanh, kịp thời và chú ý tới quỹ đất cho nông nghiệp, nếu công tác quy hoạch tốt, hợp lý thì mâu thuẫn giữa các nhóm ngành sẽ dễ dàng khắc phục hơn. Cơ cấu vùng - lãnh thổ sẽ dễ dàng chuyển dịch hơn. DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO Giáo trình Kinh tế đầu tư- Đồng chủ biên: PGS.TS. Nguyễn Bạch Nguyệt. PGS.TS. Từ Quang Phương.- Nhà xuất bản ĐạI học Kinh tế quốc dân. Năm 2007. Đánh giá tình hình thực hiện phát triển kinh tế xã hộI 5 năm 2001- 2005- Nhà xuất bản ĐạI học Kinh tế quốc dân. Định hướng chuyển dịch cơ cấu đầu tư theo ngành kinh tế ở nước ta giai đoạn 1996- 2010. Tác giả: Lê Huy Đức, 1996. Niên giám thống kê 2006. Thời báo Kinh tế Việt Nam. Báo Đầu tư.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc24687.doc
Tài liệu liên quan