Đề tài Cơ cầu đầu tư và cơ cấu đầu tư hợp lý

Xác định rõ những ngành, sản phẩm ưu tiên phát triển trong giai đoạn tới, như: Dịch vụ logistics (vận tải hàng hóa, cảng biển, dịch vụ hải quan, kho bãi và bảo quản hàng hóa, dịch vụ phân phối.); Dịch vụ du lịch (nhà hàng, khách sạn, lữ hành, vận tải hành khách, nghỉ dưỡng, chăm sóc sức khỏe, văn hóa, giải trí, mua sắm, làng nghề truyền thống, sản xuất, chế biến và cung cấp thực phẩm.). Ðây là những ngành có tiềm năng phát triển và có thị trường, có thể trao đổi được qua thương mại quốc tế, có tương tác và thúc đẩy các ngành khác có liên quan cùng phát triển trong quá trình thay đổi mô hình tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đặc biệt có tác động kết nối kinh tế vùng và kết nối kinh tế nước ta với khu vực và thế giới. Chúng ta cần phát triển các ngành này thành các ngành có lợi thế cạnh tranh, bổ sung cho các ngành hiện tại; đồng thời, thay thế dần một số ngành sử dụng nhiều lao động hiện nay như dệt may, da giày, chế biến gỗ. Tiếp tục hiện đại hóa bưu chính viễn thông và hạ tầng công nghệ thông tin. Bên cạnh đó mở cửa khu vực dịch vụ và thu hút đầu tư, liên doanh trên các lĩnh vực dịch vụ. Việc mở cửa thị trường dịch vụ cho nhà đầu tư nước ngoài sẽ tạo điều kiện để đa dạng hoá và nâng cao chất lượng phát triển của các ngành dịch vụ, qua đó, góp phần tăng trưởng kinh tế, tạo thêm giá trị gia tăng và nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam.

doc86 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1674 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Cơ cầu đầu tư và cơ cấu đầu tư hợp lý, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng; được áp dụng nhiều chính sách ưu đãi đặc biệt, ổn định lâu dài và một số ưu đãi khác phù hợp với mô hình các khu kinh tế trong khu vực. Quảng Nam – Quảng Ngãi: Với hai khu kinh tế rất mạnh là Dung Quất – Quảng Ngãi và Chu Lai – Quảng Nam. Dung Quất là khu kinh tế tổng hợp đa ngành, đa lĩnh vực bao gồm: công nghiệp-thương mại-dịch vụ-du lịch-đô thị và nông lâm ngư nghiệp; trong đó trọng tâm là công nghiệp lọc dầu, hóa dầu, công nghiệp hóa chất và công nghiệp nặng, Chu Lai khu thuế quan có các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu giải trí đặc biệt, khu dịch vụ, khu dân cư và hành chính. Sự kết hợp hài hòa thống nhất hai khu kinh tế tạo nên sức bật mạnh mẽ cho kinh tế khu vực miền Trung. Theo số liệu năm 2009 Quảng Ngãi có tổng sản phẩm trong tỉnh (GDP) năm 2009 ước đạt 6.431,63 tỷ đồng, tăng 21,0% so với năm 2008, trong đó nông – lâm – thủy sản tăng 3,4%, công nghiệp và xây dựng tăng 42,1%, dịch vụ tăng 13,1% kinh tế dần tập trung sang phát triển công nghiệp. Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội trên địa bàn trong năm ước đạt 16.390 tỷ đồng, bằng 67,0% so năm trước. Trong đó, vốn khu vực kinh tế nhà nước ước đạt 10.836 tỷ đồng, vốn ngoài nhà nước ước đạt 4.118 tỷ đồng, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 1.436 tỷ đồng. Với tỉnh Quảng Nam Tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh ước thực hiện 8.066 tỷ đồng, tăng 11%. Cơ cấu kinh tế trong GDP công nghiệp xây dựng chiếm 38,6%, dịch vụ chiến 38,4%, nông lâm ngư nghiệp chiếm 23%.Tổng vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện trên 9.240 tỷ đồng, bằng 99,3% kế hoạch, tăng 29,6% so với năm 2008 và chiếm trên 44,4% trong GDP đã góp phần tích cực vào tăng trưởng kinh tế. 1.2. Hạn chế. Ngành công nghiệp có tốc độ tăng khá cao nhưng một số sản phẩm có giá trị sản xuất lớn trong những năm qua có tốc độ tăng trưởng chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế. Sản xuất công nghiệp còn chậm đi vào chiều sâu, mức độ đổi mới công nghệ, thiết bị còn thấp; sản phẩm một số ngành nghề tiểu thủ công nghiệp sức cạnh tranh còn yếu, chưa đáp ứng tốt cho yêu cầu xuất khẩu; hầu hết các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh có quy mô sản xuất - kinh doanh nhỏ bé. Việc triển khai đầu tư và xây dựng một số công trình, dự án trên địa bàn vẫn còn chậm so với kế hoạch đề ra; chính sách bồi thường, hỗ trợ tái định cư, chuyển đổi ngành nghề, giải quyết công ăn việc làm cho người bị thu hồi đất một số nơi chưa thật sát hợp với thực tế. Công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng chậm là nguyên nhân cơ bản ảnh hưởng đến tiến độ thi công của các dự án nhất là các dự án trên địa bàn thành phố và các dự án sử dụng vốn ODA; là nguyên nhân đã kéo dài nhiều năm nhưng chưa thể giải quyết triệt để, chỉ có thể khắc phục một phần và xử lý từng trường hợp cụ thể để giải quyết vướng mắc tạm thời. Nông nghiệp, nông thôn còn nhiều vấn đề phải giải quyết. Các phương thức canh tác tiên tiến, nhiều mô hình sản xuất tốt chậm được áp dụng trên diện rộng. Năng suất một số loại cây trồng, vật nuôi và chất lượng sản phẩm nông nghiệp còn thấp. Tình trạng ô nhiễm môi trường, đặc biệt là ô nhiễm nguồn nước ngầm đang có chiều hướng gia tăng; xử lý rác thải ở các chợ nông thôn, khu dân cư tập trung vẫn còn nan giải. Tỷ trọng chăn nuôi còn chiếm tỷ lệ thấp trong cơ cấu kinh tế nông nghiệp. Kinh tế hợp tác và hợp tác xã nhìn chung phát triển chưa mạnh; nhiều hợp tác xã hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp. Công tác xã hội hóa về giáo dục, y tế, hoạt  động văn hóa vẫn còn nhiều lúng túng, chưa có giải pháp hiệu quả trong tổ chức thực hiện. Phát triển giáo dục ở miền núi và vùng dân tộc còn nhiều khó khăn. Cơ sở vật chất trường học tuy có khang trang hơn và có bước tiến rõ rệt song vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển mạng lưới trường lớp ở các cấp học, ngành học nhất là ở ngành học mầm non tiểu học và THCS ở miền núi. Tỉ lệ huy động trẻ học mẫu giáo còn thấp, thu nhập của giáo viên mẫu giáo ngoài công lập ở vùng nông thôn chưa thực sự đảm bảo cuộc sống. Tỉ lệ đi học bậc THCS và THPT ở các huyện miền núi còn thấp so với các huyện đồng bằng. Hiệu quả đào tạo ở bậc tiểu học và THCS của miền núi cũng thấp chỉ mới đạt từ 41-68 %. Giáo viên THCS và THPT còn thiếu, nên tỉ lệ GV/lớp chưa đủ định mức qui định của Bộ Giáo dục và Đào tạo.           Vùng còn phải hứng chịu rất nhiều cơn bão, lũ lụt. Gần đây nhất cơn bão số 9 và lũ năm 2009 tâm bão đã đi vào thẳng Đà Nẵng, Quảng Nam và Quảng ngãi, để lại hậu quả nặng nề về người và của. Đòi hỏi mất nhiều thời gian và kinh phí lớn mới có thể tiếp tục khắc phục. Một yếu tố không thể không nói tới trong hậu quả mà bão để lại là do Công tác quản lý môi trường, tài nguyên, bảo vệ rừng có chuyển biến nhưng còn rất hạn chế, việc khai thác tùy tiện các khoáng sản như vật liệu xây dựng, vàng sa khoáng; chặt phá rừng vẫn còn tiếp diễn,  Đặc biệt các tỉnh Tây Nguyên. 3 Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam.     Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam có vai trò rất quan trọng, đóng góp lớn nhất cho kinh tế Việt Nam, chiếm gần 60% thu ngân sách. Gồm các tỉnh, thành phố: Thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa-Vũng Tàu, Bình Phước, Tây Ninh, Long An và Tiền Giang.    Sau hơn 10  năm thành lập, vùng kinh tế trọng điểm phía Nam ngày càng phát triển năng động và khẳng định vai trò là một vùng động lực trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Chỉ tính riêng giai đoạn 2001-2005, tốc độ tăng trưởng GDP bình quân của vùng đạt 7,9%, trong khi mức bình quân chung của cả nước chưa đến 7,2%. Tính đến cuối năm 2005, GDP toàn vùng chiếm 40% GDP cả nước và GDP bình quân đầu người đạt khoảng 20-22 triệu đồng, cao hơn 2,4 lần so với mức trung bình của cả nước. Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế đã khiến công nghiệp phát triển trở thành thế mạnh lớn nhất của vùng này với trên 40 sản phẩm chủ lực, đặc biệt là khai thác dầu thô, khí thiên nhiên, sản xuất phần mềm máy tính, các sản phẩm hóa chất, may-mặc, da giày. Trong đó, thành phố Hồ Chí Minh cùng với Bình Dương, Đồng Nai và Bà Rịa-Vũng Tàu đã liên kết thành mạng lớn các trung tâm công nghiệp, dịch vụ thương mại, tài chính, du lịch; có vai trò điều hòa thị trường lao động, thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế cả khu vực phía nam.     Thành phố Hồ Chí Minh: Là thành phố của sự năng động và phát triển. Nền kinh tế của Thành phố Hồ Chí Minh đa dạng về lĩnh vực, từ khai thác mỏ, thủy sản, nông nghiệp, công nghiệp chế biến, xây dựng đến du lịch, tài chính... Cơ cấu kinh tế của thành phố, khu vực nhà nước chiếm 33,3%, ngoài quốc doanh chiếm 44,6%, phần còn lại là khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Về các ngành kinh tế, dịch vụ chiếm tỷ trọng cao nhất: 51,1%. Phần còn lại, công nghiệp và xây dựng chiếm 47,7%, nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản chỉ chiếm 1,2%. Thành phố Hồ Chí Minh xứng đáng là đầu tàu kinh tế của cả nước Thành phố chiếm 0,6% diện tích và 7,5% dân số của Việt Nam nhưng chiếm tới 20,2% tổng sản phẩm, 27,9% giá trị sản xuất công nghiệp và 34,9% dự án nước ngoài. Theo số liệu thống kê năm 2009 tổng sản phẩm trong nước GDP tăng 10% trong đó nông nghiệp tăng 1,3% công nghiệp tăng 43,9% dịch vụ tăng 54,8%. Tổng vốn đầu tư 143.504 tỷ đồng. Bình Dương: Tỉnh được đánh giá là có môi trường đầu tư tốt nhất Việt Nam hiện nay, Trong bảng xếp hạng chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh hàng năm, Bình Dương liên tục đứng ở vị trí số 1. Hiện nay địa phương này đang tập trung hoàn thiện cơ sở hạ tầng kỹ thuật, đẩy nhanh tiến độ thi công các khu công nghiệp mới để phát triển công nghiệp. Với sự nỗ lực của các ngành, các cấp trong việc thực hiện có hiệu quả các giải pháp, chính sách đã ban hành, tốc độ tăng trưởng kinh tế đã từng bước được phục hồi, năm 2009 tăng 10,3%. Trong đó chuyển dịch cơ cấu kinh tế, trong GDP, tỷ lệ công nghiệp - xây dựng giảm còn 62,3% , dịch vụ tăng lên 32,4% và nông lâm nghiệp giảm còn 5,3%. Đẫn đầu cả nước về tổng vốn đầu tư: Đầu tư trong nước có số vốn đăng ký kinh doanh tăng thêm 8.675 tỷ đồng (bằng 70% cùng kỳ), gồm: 1.568 doanh nghiệp đăng ký kinh doanh mới - vốn đăng ký 4.992 tỷ đồng và 436 lượt doanh nghiệp đăng ký bổ sung vốn - vốn đăng ký bổ sung 3.736 tỷ đồng. Luỹ kế đến nay, toàn tỉnh có 8.348 doanh nghiệp trong nước với tổng số vốn đăng ký kinh doanh là 54.538 tỷ đồng. Đầu tư nước ngoài có vốn đầu tư tăng thêm 2 tỷ 468 triệu đô la Mỹ (kế hoạch: trên 1 tỉ đô la Mỹ); gồm: 99 dự án đầu tư mới - vốn đầu tư 2 tỷ 022 triệu đô la Mỹ (trong đó, dự án khu nhà ở thương mại, nhà ở xã hội Phú Hưng Long có vốn đầu tư là 1,7 tỷ đô la Mỹ, chiếm 84%) và 125 lượt dự án bổ sung vốn - vốn đầu tư bổ sung là 446 triệu đô la Mỹ. Luỹ kế đến nay, toàn tỉnh có 1.850 dự án đầu tư nước ngoài với tổng số vốn đầu tư là 12 tỷ 934 triệu đô la Mỹ. Bà  Rịa – Vũng Tàu: Hoạt động kinh tế của tỉnh trước hết nói đến việc khai thác dầu khí, nguồn tài nguyên có giá trị kinh tế cao, đem lại lợi nhuận lớn tại đây đã phát hiện các mỏ dầu có giá trị thương mại lớn như: Bạch Hổ (lớn nhất Việt Nam), Rồng, Đại Hùng, Rạng Đông. Đương nhiên xuất khẩu dầu đóng góp một phần quan trọng trong GDP của Bà Rịa-Vũng Tàu. Ngoài lĩnh vực khai thác dầu khí, Bà Rịa Vũng Tàu còn là một trong những trung tâm năng lượng, công nghiệp nặng, du lịch, cảng biển của cả nước. Trung tâm điện lực Phú Mỹ và Nhà máy điện Bà Rịa chiếm 40% tổng công suất điện năng của cả nước. Công nghiệp nặng có: sản xuất phân đạm urê, sản xuất polyetylen, clinker, thép. Về lĩnh vực cảng biển: kể từ khi chính phủ có chủ trương di dời các cảng tại nội ô Thành phố Hồ Chí Minh, Bà Rịa-Vũng Tàu trở thành trung tâm cảng biển chính của khu vực Đông Nam bộ. Về lĩnh vực du lịch, tỉnh này là một trong những trung tâm du lịch hàng đầu của cả nước. Trong thời gian qua, chính phủ đã cấp phép và đang thẩm định một số dự án du lịch lớn như: Saigon Atlantis (300 triệu USD), Công viên giải trí Bàu Trũng và Bể cá ngầm Nghinh Phong (500 triệu USD)…  Đồng Nai: Tỉnh có hệ thống cơ sở hạ tầng tương đối phát triển taọ diều kiện cho quá trình phát triển kinh tế. Đồng Nai có nhiều nguồn tài nguyên đa dạng và phong phú gồm tài nguyên khoáng sản có vàng, thiếc, kẽm; nhiều mỏ đá, cao lanh, than bùn, đất sét, cát sông; tài nguyên rừng và nguồn nước…theo số liệu thống kê năm 2009 tăng trưởng kinh tế của tỉnh đạt 9,3% trong đó cơ cấu của công nghiệp chiếm 53,7%, nông lâm ngư nghiệp chiếm 9,9% dịch vụ chiếm 32,8%. Tổng vốn đầu tư  vào tỉnh 28.037 tỷ đồng, trong đó vốn trong nước chiếm 47,2% vốn đầu tư nước ngoài chiếm 52,8%. b) Hạn Chế.     Cơ sở hạ tầng kém phát triển chưa đáp ứng nhu cầu giao thương các vùng. Mạng lưới giao thông 270 km dọc theo tuyến biên giới hiện chỉ mới đầu ưu được 71 km nên Bình Phước, tuyến đường sắt Dĩ An- Lộc Ninh chưa xây dựng, đường 322 nối trung tâm Bình Phước với Đồng Nai cũng chưa được nâng cấp mở rộng…     Vùng vẫn chưa có quy hoạch tổng thể cho cả vùng. Định hướng phát triển còn bộc lộ rất nhiều yếu kém, quá trình phát triển chưa bộc lộ được sự chỉ huy của tỉnh trọng tâm trong vùng. Sự liên kết các tỉnh trong vùng rất kém quá trình đầu tư các tỉnh mang tính tự phát, đôi khi theo phong trào.     Quá  trình phát triển kinh tế chỉ chú trọng tăng trưởng quên đi vấn đề về môi trường và xã hội. Kiểm soát quá trình xả thải các doanh nghiệp rất kém, gây ra ô nhiễm trầm trọng cho môi trường. không chỉ có quy hoạch tổng thể vùng và liên kết vùng phát triển khu công nghiệp, dẫn tới không gian phát triển của các khu công nghiệp bị cắt khúc, phân đoạn bởi ranh giới địa lý hành chính. Mà chất lượng dịch vụ phục vụ sản xuất còn yếu kém ví dụ , điện chập chờn, cắt điện không báo trước, dịch vụ bưu chính viễn thông chậm, chi phí cao... Thêm nữa là chất lượng nguồn nhân lực chưa đáp ứng nhu cầu phát triển của các khu công nghiệp như điện chập chờn, cắt điện không báo trước, dịch vụ bưu chính viễn thông chậm, chi phí cao... Thêm nữa là chất lượng nguồn nhân lực chưa đáp ứng nhu cầu phát triển của các khu công nghiệp.      Từ  phân tích thực trạng và những vấn đề đặt ra trong liên kết của ba vùng KTTĐ trên đây có thể rút ra nhận xét sau:     So với 2 vùng KTTĐ miền Bắc và miền Nam, vùng KTTĐ  miền Trung có tiềm năng, thế mạnh về phát triển khu kinh tế biển tổng hợp, phát triển cảng biển trung chuyển và du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng.Vai trò và năng lực liên kết của vùng KTTĐ miền Nam thể hiện khá rõ nét trên nhiều mặt đáng ghi nhận. Những kết quả do vùng KTTĐ miền Nam tạo ra trong vùng đã tạo thêm thế và lực thúc đẩy tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế của các tỉnh vùng Đông Nam Bộ. Vùng này trên thực tế đã trở thành động lực thúc đẩy kinh tế chung của các tỉnh phía Nam và cả nước với nhiều "cái nhất": kinh tế tăng trưởng cao nhất, thu hút vốn FDI nhiều nhất, kim ngạch xuất khẩu lớn nhất, cơ cấu kinh tế chuyển dịch nhanh nhất, thu ngân sách nhiều nhất và GDP bình quân đầu người cao nhất, khu công nghiệp nhiều nhất, thu hút nhiều lao động nhất.     Vùng KTTĐ miền Trung hình thành sau, nhưng lại là vùng có nhiều năng lực liên kết với các vùng và cả nước trên nhiều lĩnh vực, trong đó rõ nét nhất là vận tải, du lịch, nuôi trồng thuỷ sản. Vùng có nhiều tiềm năng về liên kết kinh tế với nước ngoài, nếu có hệ thống đường giao thông không ngừng được đầu tư và hoàn thiện. Tuy nhiên, đây là vùng nghèo, thiên nhiên không ưu đãi nên trước mắt còn nhiều khó khăn trong liên kết với các vùng và cả nước.     Vùng KTTĐ miền Bắc có nhiều lợi thế và tiềm năng, nhất là chất xám, khoa học - công nghệ và  lao động. Trong những năm qua liên kết giữa các tỉnh trong vùng và với các vùng khác của cả nước đã được cải thiện đáng kể, tạo động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động trong vùng theo hướng tiến bộ. So sánh năng lực liên kết của ba vùng KTTĐ tại thời điểm hiện nay, theo chúng tôi, khả quan nhất là vùng KTTĐ miền Nam, thứ hai là vùng KTTĐ miền Trung và thứ ba là vùng KTTĐ miền Bắc. 4. Hạn chế đầu tư theo vùng - lãnh thổ       Sự liên kết các vùng địa phương còn mang nặng tính tự phát, không theo quy hoạch, không có định hướng, nên kết quả không tương xứng với vai trò và tiềm năng. Vai trò của vùng kinh tế động lực cho các tỉnh trong vùng và cả nước thể hiện chưa đều và chưa vững. Thế nên vẫn chưa tồn tại kinh tế vùng theo đúng nghĩa vùng sản xuất kinh tế. Các địa phương, đòn bẩy chính sách kinh tế hiện nay là tương tự nhau, chạy theo cơ cấu kinh tế cũng tương tự nhau. Đầu tư phát triển cái gì cũng theo phong trào, làm gì cũng theo phong trào, tỉnh kia có xi măng thì tỉnh này cũng phải có xi măng, có cảng thì cùng có cảng. Ngay trong 1 vùng chính sách khuyến khích đầu tư của các tỉnh có mâu thuẫn với nhau, xuất hiện tình trạng cạnh tranh trong quá trình thu hút vốn đầu tư. Khả  năng lập quy hoạch, kế hoạch định hướng phát triển bộc lộ rất nhiều hạn chế, do không xác định được thành phố trung tâm chỉ huy toàn bộ vùng kinh tế. Một tạo ra sự yếu kém, lỏng lẻo trong việc liên kết hợp tác giữa các vùng và địa phương. Không phát huy được tối đa nguồn lực của địa phương, và sự hộ trợ gắn kết giữa các vùng địa phương. Nhìn khắp lượt, cứ hai tỉnh có một nhà máy thép, công suất không phải nhỏ. Đáng buồn là có tới 24 nhà máy thép thuộc diện ngoài quy hoạch vẫn vô tư được cấp giấy phép. Trên 160 bến cảng từ Cà Mau cho tới Móng Cái (tính cả cảng chuyên dùng), mỗi tỉnh ven biển chia nhau “gánh” gần 6 bến. Đầu tư các tỉnh chủ yếu theo chiều rộng mà chưa có chiều sâu, phát triển ồ ạt các loại hình đầu tư. Dẫn đến tình trạng mất cân đối với 1 số sản phẩm như tình trạng các nhà máy sản xuất xi măng ở các tỉnh, khi mà tất cả các tỉnh đổ xô đi xây dựng nhà máy xi măng thì bây giờ làm thừa xi xăng cho ngành xây dựng.      Đầu tư tràn lan không tính đến các vấn đề về tự nhiên xã hội, chỉ chú trọng việc tăng trưởng ngắn hạn mà quên đi vấn đề về dài hạn và có ảnh hưởng rất lớn đến đời sống của nhân dân. Có thể nói đến đó tình trạng ô nhiễm môi trường ở các dự án sản xuất công nghiệp mà gần đây nhất là tình trạng ô nhiễm rất nặng ở songo Thị Vải, một vấn đề đang lưu tâm nữa trong nhưng năm gần đây đó là đó là an ninh lương thực cho quốc gia đặt ở tình trạng báo động khi các tỉnh vùng ồ ạt chuyển đổi đất cacnh tác nông nghiệp thành khu công nghiệp và đô thị.  V. Đánh giá cơ cấu đầu tư của Việt Nam giai đoạn 2000-2009 Nhìn chung, cơ cấu đầu tư của chúng ta còn thiếu hiệu quả và kém nhanh nhạy với sự vận động của nền kinh tế. Đầu tư còn phụ thuộc khá nhiều vào các nguồn từ bên ngoài nhưng chúng ta lại sử dụng các nguồn đó chưa thực sự hiệu quả, theo ước tính tỉ lệ thất thoát trong đầu tư của chúng ta lên tới 13-15%, đặc biệt là trong đầu tư xây dựng cơ bản, tỉ lệ này có thể lên tới 30%. Chuyển dịch cơ cấu ngành, vùng kinh tế ngày càng dựa vào vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài nhưng nguồn vốn này phân bổ không đồng đều, chất lượng chưa cao và cũng chưa đóng góp được nhiều cho nền kinh tế. Hệ số ICOR ngày càng cao, nền kinh tế ngày càng cần nhiều vốn hơn để tăng trưởng trong khi cơ cấu đầu tư lại mất cân đối. Hiệu quả quản lý nhà nước thấp và chậm được cải thiện: văn bản quy phạm pháp luật ban hành rất nhiều nhưng còn có những quyết định không phù hợp với thực tiễn; cách thức xây dựng chính sách còn thiếu khoa học, thiếu chuyên nghiệp, cắt khúc, có biểu hiện lợi ích cục bộ. Bộ máy hành chính các cấp cồng kềnh, năng lực yếu, làm ảnh hưởng đến chất lượng chính sách và tổ chức thực hiện. Đầu tư chưa gắn liền với các vấn đề xã hội, sự bùng phát về số lượng khu công nghiệp dẫn đến nảy sinh các vấn đề xã hội: nông dân mất đất, ô nhiễm môi trường, tình trạng đình công, thiếu nhà ở cho công nhân…nhưng lại không được quan tâm thích đáng. Bố trí đầu tư còn dàn trải và chưa đúng trọng tâm. Bố trí vốn đầu tư phân tán ở tất cả các nguồn vốn, đặc biệt là nguồn vốn đầu tư thuộc ngân sách nhà nước. Những năm gần đây đã có tiến bộ bước đầu (tập trung hơn cho các dự án thuộc nhóm A); tuy nhiên nhiều Bộ, ngành và nhiều địa phương vẫn còn tình trạng bố trí vốn chưa tập trung, chủ yếu là đối với các công trình, dự án nhóm B và C. Đầu tư cho lĩnh vực phát triển nguồn nhân lực còn ở mức thấp, chưa gắn chặt với chiến lược phát triển các ngành kinh tế, các vùng kinh tế. Công tác giám sát, đánh giá đầu tư chưa đáp ứng được các yêu cầu theo quy định, một mặt do đội ngũ cán bộ chưa được chuẩn bị chu đáo, cán bộ nghiệp vụ còn thiếu kinh nghiệm, năng lực còn hạn chế, chưa có hệ thống thông tin phục vụ hoạt động giám sát. Mặt khác, lãnh đạo ở một số Bộ, ngành và địa phương cũng chưa nhận thức đầy đủ được vị trí, vai trò của công tác giám sát, đánh giá đầu tư trong quản lý đầu tư nói chung. Về trách nhiệm của các cơ quan quản lý: còn buông lỏng trong công tác quản lý đầu tư và xây dựng. Việc phân cấp quản lý trong đầu tư và xây dựng cho các Bộ, ngành và địa phương đã thực hiện tương đối mạnh. Tuy nhiên, cơ chế quản lý đầu tư và xây dựng hiện tại thiếu các chế tài, những quy định cụ thể (kể cả biện pháp hành chính) nhằm kiểm soát và hạn chế được việc phê duyệt dự án đầu tư tràn lan, kém hiệu quả. Chất lượng của các tổ chức tư vấn đầu tư còn thấp; khi xây dựng dự án và thiết kế kỹ thuật lập tổng dự toán chưa dựa vào các quy chuẩn, đơn giá, định mức... gây nên lãng phí lớn. Năng lực của các chủ đầu tư không phù hợp với yêu cầu của công tác quản lý; không kiểm tra, giám sát được các tổ chức tư vấn, các nhà thầu. Công tác giám sát thi công còn mang tính hình thức. Nợ đọng trong đầu tư xây dựng cơ bản đang vượt quá khả năng cân đối của ngân sách, chưa được xử lý dứt điểm. Do nhiều nguyên nhân khác nhau, tình hình thực hiện vượt kế hoạch vốn đầu tư xây dựng cơ bản của các Bộ, ngành và địa phương vẫn tiếp diễn và có xu hướng tăng. Cơ chế tín dụng đầu tư ưu đãi còn nhiều bất cập: đối tượng cho vay dàn trải, mở rộng quá mức; lãi suất cho vay thấp, kéo dài thời gian trả nợ, khoanh nợ, dùng ngân sách để trả nợ vay. Hiện tồn tại nhiều mức lãi suất trong tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước, gây phức tạp trong quản lý, đồng thời dễ phát sinh tiêu cực. Về hình thức tín dụng, chủ yếu vẫn là cho vay theo dự án, hình thức hỗ trợ lãi suất sau đầu tư mới được áp dụng. Công tác giám sát và đánh giá đầu tư chưa được tất cả các Bộ, ngành và địa phương quan tâm đúng mức và thực hiện nghiêm túc theo quy định; chỉ có khoảng 30% các đơn vị Bộ, ngành, 40% các tỉnh, thành phố có báo cáo về giám sát và đánh giá đầu tư. Đối với việc giám sát và đánh giá đầu tư của các chủ đầu tư còn rất hạn chế, chỉ có 30% các chủ dự án sử dụng vốn ngân sách có báo cáo về giám sát và đánh giá đầu tư. Chất lượng các báo cáo về đánh giá đầu tư còn sơ sài, chưa đủ các thông tin cần thiết để tổng hợp báo cáo. Công tác giám sát nói chung còn chưa thường xuyên, bị động và chủ yếu tổng hợp từ các báo cáo theo quy định, chưa có tác dụng phát hiện kịp thời và xử lý các vi phạm. Công tác giám sát cộng đồng chưa được chú trọng. Thủ tục thanh toán phức tạp, công tác nghiệm thu của các chủ đầu tư và các ban quản lý công trình còn chậm. Chất lượng công tác tư vấn thiết kế chưa đảm bảo yêu cầu, nên trong quá trình triển khai thi công đã phát sinh nhiều khối lượng không được chủ đầu tư bổ sung kịp thời, ảnh hưởng đến công tác thanh toán. Các chủ đầu tư, nhất là chủ đầu tư, các ban quản lý dự án sử dụng nguồn vốn ngân sách nhà nước chưa khẩn trương cùng các nhà thầu hoàn tất các thủ tục nghiệm thu, thanh quyết toán. Nhiều công trình, dự án đã hoàn thành nghiệm thu, đưa vào sử dụng trong nhiều năm nhưng không quyết toán công trình Chương III: Giải pháp cho cơ cấu đầu tư hợp lý ở nước ta đến năm 2020 I. Quan điểm chuyển dịch CCĐT của nước ta đến năm 2020 CCĐT phải đảm bảo phù hợp với mô hình kinh tế hướng tới của Việt Nam. Đó là một nền kinh tế nhiều thành phần, phát triển ổn định với tốc độ tăng trưởng cao và ngày càng hội nhập với nền kinh tế thế giới.     - CCĐT phải đảm bảo phù hợp với mục tiêu phát triển và các vấn đề kinh tế cơ bản của một nền kinh tế đã lựa chọn.     - Đảm bảo phát huy sức mạnh tổng hợp của các thành phần kinh tế, khai thác tối đa tiềm năng và thế mạnh của các vùng kinh tế trong nước.     - CCĐT phải phù hợp với khả năng huy động nguồn lực của đất nước và phối hợp tối ưu với cơ cấu kinh tế các nước trong khu vực và  trên thế giới, mà trước hết là Trung Quốc và ASEAN.     - Bảo đảm lựa chọn và kết hợp đúng đắn các loại hình quy mô lớn, vừa và nhỏ, trong đó quy mô vừa và nhỏ là phổ biến, kết hợp hợp lý các trình độ công nghệ từ tiên tiến đến những công cụ tiên tiến và kinh nghiệm truyền thống.     - Bảo đảm thực hiện sự liên kết chặt chẽ giữa các mục tiêu kinh tế với quốc phòng, an ninh, ổn định chính trị - xã hội. 1. Quan điểm phát triển toàn diện đồng bộ nhưng có trọng điểm.      Phát triển toàn diện đồng bộ là sự kết hợp giữa phát triển kinh tế và tiến bộ  xã hội. Phát triển kinh tế chính là cơ sở cho sự tiến bộ xã hội. Việt nam phải bố trí CCĐT đảm bảo mối quan hệ tỷ lệ cân đối, đồng bộ phát triển toàn diện các mặt chính trị, kinh tế - văn hoá xã hội và văn minh con người. Bất cứ nền kinh tế trong sự phát triển toàn diện cũng phải xét đến những mặt, lĩnh vực trọng điểm, tập trung nguồn lực chính, là đòn bẩy quyết định sự phát triển của nền kinh tế quốc dân. Mũi nhọn ấy được tính toán trên tiềm lực về các nhân tố tăng trưởng và lợi thế so sánh từng vùng lãnh thổ, từng ngành, từng thành phần kinh tế, cũng như từng đơn vị sản xuất kinh doanh và của quốc gia. 2. Chuyển dịch cơ cấu đầu tư phải mang tính hiện thực, tiên tiến phù  hợp với tính hình chung của đất nước.      Trong điều kiện cách mạng khoa học công nghệ phát triển, trong cơ cấu giá trị hàng hoá, hàm lượng chất xám có xu hướng ngày càng tăng lên. Do vậy để sản phẩm có khả năng cạnh tranh trên thị trường, việc sản xuất ra sản phẩm phải tiếp cận đến những tiến bộ kỹ thuật và công nghệ tiên tiến. Để tạo được các ngành sản xuất như vậy, quá trình chuyển dịch CCĐT phải tính đến những thành tựu của khoa học và công nghệ áp dụng nó vào sản xuất và phát triển kinh tế. Trong điều kiện eo hẹp về nguồn vốn đầu tư chưa thể tiến hành đồng loạt thi cần lựa chọn các lĩnh vực, các ngành nghề hay các vùng để tập trung ưu tiên nâng dần từng bước trình độ cơ khí hoá, điện khí hoá, tự động hoá, đặc biệt là lĩnh vực công nghệ thông tin, vật liệu mới, năng lượng mới… Lựa chọn CCĐT mang tính thực tế phù hợp với công nghệ hiện đại. 3. Quan điểm nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội phải được xác định là cơ bản nhất xuyên suốt quá trình chuyển dịch CCĐT .     Đó là một cơ cấu kinh tế cho phép sử dụng tối đa nguồn lực của xã hội, tận dụng đến mức cao nhất lợi thế so sánh của đất nước nhằm đạt được mục tiêu phát triển đã được định hướng trước, tăng cường tích luỹ và mở rộng sản xuất. hiệu quả chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn thể hiện sự thay đổi trong cơ cấu lao động xã hội theo tỷ lệ lao động xã hội theo tỷ lệ lao động làm việc trong nghành nông nghiệp giảm và công nghiệp dịch vụ tăng. Trong xuất khẩu thì tỷ lệ trọng sản phẩm chế biến không ngừng tưng lên và chiếm đại bộ phận kim ngạch xuất khẩu. 4. Chuyển dịch cơ cấu  đầu tư là phải dựa trên tư  thân vân động, dựa vào sức mình là  chính đồng thời ra sức đồng thời ra sức tranh thủ nguồn lực từ bên ngài. Lý  thuyết phát triển kinh tế đã khảng định: phát triển kinh tế là một quá trình vận động theo thời gian và do những nhân tố nội tại của nền kinh tế đạt được, trước hết phải là kết quả cuả việc huy động các nhân tố, nguồn lực từ nội bộ lền kinh tế. Có như vậy thì quá trình phát triển kinh tế mới đạt được sự ồn định, bền vững lâu dài. Đối với Việt Nam do xuất phát từ điểm thấp, nhu cầu vốn đầu tư phát triển là rất lớn, trong khi hết sức tranh thủ nguồn vốn từ bên ngoài, vốn trong nước vẫn phải được khẳng định là có tính lâudài và quyết định. 5. Quan điểm nền kinh tế mở, hướng về  phát triển xuất khẩu trong chuyển dịch CCĐT      Xây dựng hệ thống kinh tế mở, hình thành thị  trưòng đồng bộ, thông suốt trong cả nước gắn với kinh tế và thị trường thế giới thể hiện cả trong chuyển dịch cơ cấu đầu tư và cơ cấu kinh tế, cũng như đổi mới cơ chế quản lý. Mở cửa là chấp nhận sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường thế giới, đặc biệt là các nước trong khu vực. Mặt khác khi thực hiện công nghiệp hoá hưóng xuất khẩu, không thể quên phát triển sản xuất hang hoá thay thế  nhập khẩu để thoả mãn nhu cầu trong nước, tất nhiên là phải tính đến hiệu quả và ngay cả thay thế hang nhập khẩu thì trìnhđộ chất lượng sản phẩm trong nước cũng phải có sức cạnh tranh với hang ngoại nhập, đặc biệt là hang nhập lậu. Thực hiện chính sách mở cửa sẽ tạo điều kiện  để Việt Nam tranh thủ được vốn, kỹ thuật, công nghệ và trình độ quản lý của nước ngoài. Thời cơ đó hết sức thuận lợi, quan trọng, song để phát huy hiệu quả của nhân tố bên ngoài cần phải tạo được chiến lược CCĐT linh hoạt sao cho có thể tạo lập được một chu trình hợp lý về đầu tư nước ngoài - xuất khẩu. Có như vậy mới phát huy được nguồn vốn nước ngoài và lợi thế so sánh của đất nước vào mục tiêu tăng trưởng nhanh và bền vững. 6. Quan điểm gắn lợi ích trước mắt với lợi ích lâu dài, phát triển kinh tế  với củng cố quốc phòng, tăng trưởng kinh tế  và giải pháp các vấn  đề xã hội. Tăng cường xây dựng lực lượng quốc phòng, giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, đề cao ý thức cảnh giác chống khủng bố, phá hoại, chống diễn biến hoà bình; chủ động phòng chống, hạn chế đến mức thấp nhất các tệ nạn xã hội, tai nạn giao thông.Quan tâm phát triển các dịch vụ phục vụ đời sống của người lao động chăm lo cải thiện điều kiện làm việc, bảo đảm an toàn và vệ sinh lao động, phòng chống tai nạn và bệnh nghề nghiệp cho người lao động. Tăng cường bảo vệ, đầu tư, cải thiện và phát triển môi trường bền vững. II. Định hướng đổi mới cơ cấu đầu tư trong thời gian tới(2010-2020) Thứ nhất : Đổi mới cơ cấu đầu tư gắn liền nâng cao hiệu quả sử dụng vốn nhà nước và đảm bảo vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, đồng thời động viên mọi nguồn lực trong xã hội cho đầu tư phát triển. Đối với vốn đầu tư của nhà nước chỉ nên tập trung vào các ngành then chốt của nền kinh tế, những ngành có tính đột phá tạo đà cho các ngành khác phát triển. Mục tiêu là kinh té nhà nước phải thực sự trở thành đòn bẩy để đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế , đồng thời phải giải quyết căn bản được các vấn đề xã hội , mở đường, hỗ trợ và hướng dẫn hoạt động đầu tư sản xuất kinh doanh của các thành phần kinh tế phi nhà nước, là lực lượng vật chất có hiệu quả để Nhà nước thực hiện chính sách quản lý và điều tiết nền kinh tế theo nguyên tắc của kinh tế thị trường. Thứ hai : Đổi mới cơ cấu đầu tư phải hướng vào việc thực hiện thắng lợi mục tiêu phát triển kinh tế xã hội theo hướng công nghiệp hóa , hiện đại hóa. Mục tiêu của chính sách công nghiệp hóa trong giai đoạn tới là phải làm thay đổi căn bản cơ cấu kinh tế xã hội. Công nghiệp hóa trong thời kỳ này cũng phải dựa trên cơ sở của kinh tế thị trường. Sự thay đổi cơ cấu đầu tư phải nhằm mục tiêu thực hiện thắng lợi các quá trình công nghiệp hóa, góp phần làm chuyển dịch một cách sâu sắc và toàn diện cơ cấu nền kinh tế từ nông nghiệp sang công nghiệp, mở rộng thị trường tiêu thụ, khác phục sự mất cân đối giữa các vùng, đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, ổn định và nâng cao mức sống nhân dân. Thứ ba: Coi trọng quy luật cung cầu trong nền kinh tế thị trường , phát huy tính chủ động sáng tạo của cơ sở, đồng thời đảm bảo vai trò quản lý nhà nước. Trong quá trình xây dựng cơ cấu đầu tư hợp lý, phải coi trọng các yếu tố thị trường. Hoạt động đầu tư nên đổi mới theo hướng hạn chế những quyết định đầu tư theo kiểu hành chính. Mở rộng quyền cho các tổ chức sản xuất kinh doanh trên cơ sở định hướng Nhà nước và thực tiễn vận động của thị trường. Các dự án nên tập trung làm tốt khâu nghiên cứu thị trường. Xác định khả năng nghiên cứu và nhu cầu của tiềm năng nhằm tránh trường hợp mất cân đối cung cầu, ảnh hưởng đến tình hình dầu tư và sản xuất như một số mặt hàng trong thời gian vừa qua . Đối với các cơ quan quản lý Nhà nước trong lĩnh vực đầu tư cần giảm các công việc quản lý hành chính, can thiệp quá sâu vào hoạt động đầu tư cụ thể mà tập trung sức làm tốt việc dự báo, cung cấp thong tin kinh tế, định hướng đầu tư, kiểm tra công tác đầu tư ở cơ sở . Thứ tư : Cải thiện môi trường đầu tư thông thoáng hơn, mềm dẻo hơn để thu hút dòng vốn FDI. Đồng thời chú trọng khai thác tiềm năng vốn trong dân cư và khu vực tư nhân: Trong thời gian tới cần tiếp tục duy trì quan hệ với nước như Nhật Bản, các nước NICs, đồng thời mở rộng quan hệ với các đối tác mới ở khu vực Châu Âu, Châu Mỹ, các công ty đa quốc gia, các tập đoàn kinh tế lớn để thu hút nhiều hơn nữa FDI vào Việt Nam. Tiếp theo nữa là cần phải cải thiện chính sách đầu tư và môi trường đầu tư thông thoáng hơn để thu hút vốn FDI. Thứ năm : Đầu tư hơn nữa cho giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ để xây dựng nguồn nhân lực đất nước hướng tới nền kinh tế tri thức. Một trong những hướng sinh lời nhiều nhất trong tương lai là đầu tư cho giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ. Đầu tư cho giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ là đầu tư xây dựng nguồn nhân lực cho đất nước. Việt Nam có một nguồn lao động dồi dào nhưng chất lượng chưa được cao. Xấp xỉ 68% nguồn nhân lực tập trung vào nông nghiệp, điều này phản ánh cơ cấu nhân lực của nền kinh tế còn lạc hậu. Điều này làm cho chính phủ cần phải có những chính sách khuyến khích hoạt động đào tạo nâng cao kĩ năng nghề nghiệp cho người lao động để tạo ra đội ngũ lao động tốt phục vụ cho công cuộc Công nghiệp hóa hiện đại hóa nước ta. Tăng chi phí đào tạo nghiên cứu khoa học công nghệ, tập trung vào phát triển các ngành kinh tế mũi nhọn, các ngành có hàm lượng trí tuệ và tri thức ở mực độ cao cũng như không nên tập trung vào những ngành trên thị trường đã bão hòa. Đầu tư mạnh mẽ cho giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ để xây dựng nguồn nhân lực Việt Nam đủ năng lực, đưa nền kinh tế nước ta tới nền kinh tế tri thức. Thứ sáu: Đổi mới cơ cấu đầu tư đảm bảo sự phát triển hợp lý giữa các vùng và xây dựng các vùng trọng điểm. Để tạo thế và lực trong phát triển, cần xây dựng một số VKTTD. Giữa các vùng vừa tận dụng lợi thế của mình vừa tạo nên sự liên kết, thúc đẩy, hỗ trợ lẫn nhau cùng phát triển. Thực hiện tốt chính sách dân số, phát triển, giải quết việc làm cho người lao động là biện pháp quan trọng để nâng cao khả năng tích lũy nhằm phát triển kinh tế. Để đảm bảo sự hợp lý khi xác định cơ cấu đầu tư giữa các vùng, cần xem xét các đặc tính Xã hội, các điều kiện kinh tế, các điều kiện tự nhiên. Trong điều kiện hiện tại, khu vực các thành phố lớn vẫn là trung tâm phát triển Công nghiệp. Vùng này dân số chỉ chiếm khoảng 14% nhưng đã thu hút hơn 70% vốn đầu tư tư nhân. Do vậy trong thời gian tới việc huy động vốn đầu tư cần thực hiện theo hướng mở rộng liên kết với các tỉnh lân cận, hình thành các vùng kinh tế trọng điểm, có khả năng phát triển và có lợi thế so sánh, tạo sức mạnh cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Các VKTTD sẽ là đầu tàu phát triển của cả quốc gia. III. Giải pháp chuyển dịch CCĐT hợp lý. 1. Chuyển dịch cơ cấu nguồn vốn đầu tư 1.1. Đối với nguồn vốn trong nước - Cần tích cực đẩy mạnh chương trình đổi mới DNNN, đặc biệt đẩy nhanh việc cổ phần hoá để thu hút nguồn vốn đầu tư mới từ xã hội thông qua thị trường chứng khoán.  - Trên cơ sở các quy hoạch phát triển ngành, nghiên cứu xây dựng các cơ chế, chính sách định hướng cho nhà đầu tư, các chủ doanh nghiệp một cách hấp dẫn hơn, yên tâm hơn khi bỏ vốn ra đầu tư, hạn chế tối đa được những rủi ro, không tạo nên sự phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế, tạo nên một sân chơi bình đẳng giữa các loại hình DN. Đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp hoạt động ở những địa bàn kinh tế khó khăn cần có cơ chế chính sách thật ổn định với mức độ khuyến khích cao, nhất là trong việc tiếp cận với đất đai, mặt bằng sản xuất, với các nguồn vốn.  - Thực hiện nghiêm túc các quy định của Luật Đầu tư, Luật Đấu thầu nhằm thực hiện đúng tiến độ và bảo đảm được hiệu quả của dự án, đặc biệt rút ngắn thời gian giải phóng mặt bằng. Đồng thời tăng cường công tác kiểm tra giám sát của chủ đầu tư, của các cơ quan quản lý nhà nước để chống tham nhũng, lãng phí, thực hành tiết kiệm, tạo niềm tin cho nhân dân khi tham gia vốn và đầu tư.  - Tiếp tục hoàn thiện môi trường kinh doanh, tạo điều kiện thuận lợi cho mọi loại hình doanh nghiệp phát triển, tập trung vào xây dựng cơ chế một cửa thực sự; tiến hành rà soát giảm thiểu các loại giấy phép, thời gian cũng như chi phí gia nhập thị trường cho tất cả các nhà đầu tư; không hạn chế về quy mô đầu tư; cần đổi mới cơ chế sử dụng vốn, thủ tức cho vay của các ngân hàng thương mại để huy động và cho vay tốt hơn.  - Cần thay đổi tư duy coi doanh nghiệp là đối tượng quản lý thành doanh nghiệp là đối tượng phục vụ. Trước khi ban hành chính sách mới cần thăm dò dư luận rộng rãi xem tác động đến doanh nghiệp như thế nào; tạo điều kiện để doanh nghiệp tư nhân có cơ hội tiếp cận, đầu tư và các lĩnh vực liên quan đến cơ sở hạ tầng mà các DNNN đang độc quyền và đầu tư không hiệu quả. Đổi mới phương thức xúc tiến thương mại, gắn XTTM, du lịch, thu hút đầu tư nước ngoài với phát triển thị trường, thu hút các nguồn lực trong nước.  1.2. Đối với nguồn vốn nước ngoài - Từng ngành cần xây dựng và công bố ''Danh mục các dự án kêu gọi đầu tư nước ngoài''. Đối với một số ngành nghề nhạy cảm như đối với ngân hàng, bảo hiểm, hàng không... cần có quy định rõ tỷ lệ khống chế vốn của nhà đầu tư nước ngoài một cách phù hợp. Đối với các ngành nghề còn lại cần mở rộng hơn tỷ lệ 30% như quy định hiện nay. Nghiên cứu sớm rút ngắn diện các dự án phải cấp phép đầu tư để chuyển sang hình thức chủ đầu tư đăng ký dự án, nghĩa là chuyển từ cơ chế ''tiền kiểm'' sang cơ chế ''hậu kiểm''. - Xây dựng các phương thức và chính sách phù hợp để có thể kêu gọi các tập đoàn kinh tế lớn đầu tư vào Việt Nam. Một trong những yêu cầu rất quan trọng là chúng ta phải chủ động kế hoạch đào tạo nguồn nhân lực để đáp ứng các dự án công nghệ cao, đặc biệt trong các ngành công nghiệp mũi nhọn như điện tử, tin học, phần mềm, vật liệu mới... Đối với các nhà đầu tư này, chúng ta càng chuẩn bị tốt các điều kiện cho họ bao nhiêu thì tác động, lôi cuốn tới các nhà đầu tư khác sẽ càng tăng bấy nhiêu.  - Tập trung nguồn lực trong nước và ODA để giải quyết những bất cập về cơ sở hạ tầng như cầu, đường, điện, nước, viễn thông, bến bãi... Tạo điều kiện thông thương cho các nhà đầu tư tham gia thực hiện các dự án BOT, BT... Chúng ta cần có biện pháp mạnh mẽ để đạt được một cái gì đó là nhanh nhất, là rẻ nhất trong khu vực làm sức hấp dẫn các nhà đầu tư ví dụ như đền bù và giải phóng mặt bằng nhanh nhất; có giá cước điện thoại rẻ nhất...  - Cần bảo đảm thực hiện các nguyên tắc đối xử quốc gia, đối xử tối huệ quốc trong thu hút đầu tư nước ngoài, làm sao tạo nên một phản ứng dây chuyền tốt cho các nhà đầu tư trước, lôi kéo các nhà đầu tư sau. Việt Nam đang được đánh giá có những lợi thế cơ bản để thu hút đầu tư nước ngoài như thể chế chính trị, xã hội ổn định; vị trí địa lý thuận lợi; lực lượng lao động có tinh thần cần cù, chịu học hỏi, có trình độ... nên rất cần hoàn thiện các yêu cầu khác để hấp dẫn các nhà đầu tư.  Các địa phương, các chủ đầu tư cần tăng cường xúc tiến đầu tư trực tiếp với các đối tác, cùng với việc xây dựng và truyền thông cơ sở dữ liệu tập trung qua mạng điện tử quốc gia để cung cấp cho các nhà đầu tư những thông tin hữu ích về địa phương mình, doanh nghiệp mình, về mục tiêu và yêu cầu đầu tư dự án, về các cơ chế chính sách ưu đãi, về thủ tục đầu tư... nhằm thu hút sự quan tâm của các đối tác và nhà đầu tư tiềm năng đang cân nhắc trong việc lựa chọn địa điểm và hướng đầu tư.  - Tăng cường công tác kiểm tra giám sát của Chính phủ để đảm bảo các Luật mới về đầu tư, đấu thầu thực thi một cách nghiêm túc. Khắc phục tình trạng thực thi kém hiệu quả ở các cấp, các ngành, tạo niềm tin cho các nhà đầu tư.  2. Đổi mới CCĐT của VĐT - Ưu tiên dành VĐT một cách hợp lý cho các dự án xây dựng cơ bản có tính hạ tầng kinh tế - xã hội, vì cơ sở hạ tầng của Việt Nam còn yếu kém, cần tạo môi trường thông thoáng đầu tư thuận lợi nhằm thu hút VĐT nước ngoài, nguồn này cũng rất quan trọng, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng. - Tiếp tục thực hiện chủ trương, chính sách đa dạng hóa và đa phương hóa các giải pháp huy động vốn cho đầu tư phát triển. Trong kênh huy động vốn của ngân sách nhà nước, cần tính toán chi tiết hiệu quả sử dụng vốn. Việc phát hành trái phiếu, công trái nội tệ và ngoại tệ cần phải được xem xét và điều chỉnh để có thể huy động được nguồn vốn hiệu quả nhất về phía cả nhà nước và người dân. - Việc nâng cao hiệu quả vốn đầu tư, chống thất thoát và tham nhũng trong các dự án, cần tránh đầu tư dàn trải là giải pháp rất quan trọng. Yêu cầu này cần được thực hiện chặt chẽ đối với ngân sách trung ương. Sử dụng vốn đầu tư phải tuân thủ theo đúng kế hoạch đã được đề ra để tránh tình trạng sử dụng vốn dàn trải, không hiệu quả, thất thoát vốn - Sử dụng VĐT hợp lý để mang lại hiệu quả cao. Đầu tư phải có trọng tâm, trọng điểm theo quy hoạch. Việc quản lý thực hiện VĐT chống thất thoát, lãng phí.Nhà nước cần có những luật định và biện pháp quản lý việc sử dụng VĐT một cách có hiệu quả hơn. Đó là công việc cần thiết tiết kiệm nguồn lực cho quốc gia để tăng hiệu quả đầu tư, mang lại sự phồn thịnh cho đất nước. - Đối với VĐT nhà nước, chỉ cần tập trung vào các ngành then chốt của nền kinh tế, những những ngành có tính đột phá tạo đà cho các ngành khác phát triển. - Đầu tư hơn nữa cho giáo dục,đào tạo khoa học công nghệ để xây dựng nguồn nhân lực đất nước hướng tới nền kinh tế tri thức năm 2020 bằng cách mở rộng quy mô giáo dục hợp lý ; đổi mới mạnh mẽ quản lý nhà nước đối với giáo dục - đào tạo ; tăng cường hợp tác quốc tế về giáo dục và đào tạo… 3. Chuyển dịch CCĐT theo ngành kinh tế. 3.1. Với nông-lâm-thủy sản: Xây dựng một chiến lược tổng hợp cho phát triển nông thôn đến năm 2020 dựa trên cơ sở lấy con người làm trung tâm với sự tham gia, cam kết dài hạn của nhiều ngành, mọi thành phần xã hội, các tổ chức quốc tế. Viện Chiến lược và PTNT đề xuất lộ trình triển khai Chiến lược phát triển nông thôn từ 2007-2020 sẽ bao gồm ba giai đoạn: 2007-2012, đẩy mạnh chuyển đổi cơ cấu sản xuất, cải cách thể chế, đưa sản xuất công nghiệp về nông thôn, thu hút lao động ra khỏi nông nghiệp; 2013-2018, ưu tiên phát triển sản xuất nông nghiệp chuyên canh, tăng mạnh số lượng DN, chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông thôn sang hoạt động phi nông nghiệp; đô thị hóa nông thôn; từ 2019 trở đi, phát triển nông thôn tập trung vào con người, hình thành nền nông nghiệp sinh thái kết hợp hài hòa nông thôn đô thị. Dần chuyển hướng đầu tư phát triển các cơ hạ tầng phục vụ chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy sản. Chuyển đổi nhanh cơ cấu đầu tư theo hướng ưu tiên bố trí các công trình tưới tiêu cho các cây công nghiệp, cây ăn quả, hoa màu và nuôi trồng thủy sản. Đối với các tỉnh vùng trung du miền núi Bắc Bộ ưu tiên đầu tư xây dựng các công trình thủy lợi vừa và nhỏ phục vụ sản xuất lúa, màu, chè. Vùng đồng bằng sông Hồng tập trung chủ yếu vào phục hồi nâng cấp các công trình đã có, kiên cố hóa kênh mương, đảm bảo tưới tiêu chủ động vùng lúa chất lượng cao, vùng rau chuyên canh nguyên liệu và xuất khẩu. Các tỉnh duyên hải miền Trung tập trung đầu tư các công trình hồ đập để phục vụ cấp nước tưới và sinh hoạt, phát triển các ngành kinh tế khác; củng cố các công trình đầu mối, đặc biệt là hồ chứa nước, kiên cố hóa hệ thống kênh mương, xây dựng các cống đập ngăn mặn, giữ ngọt, tiêu úng ở các cửa sông lớn, ưu tiên tưới cho cây trồng cạn: mía, chè, bông, lạc. Các tỉnh Tây Nguyên, Đông Nam Bộ ưu tiên xây dựng các hồ chứa đập dâng giữ nước tưới cho các cây công nghiệp cà phê, hồ tiêu, mía, lúa, rau màu, nước sinh hoạt, phát triển các ngành kinh tế khác. Vùng đồng bằng sông Cửu Long bổ sung, điều chỉnh quy hoạch thủy lợi theo hướng phục vụ đa mục tiêu, không chỉ phục vụ cho sản xuất nông nghiệp mà cho cả nuôi trồng thủy sản và cho các ngành kinh tế khác, nước sinh hoạt; gắn quy hoạch thủy lợi với kiểm soát lũ, thau chua, xổ phèn, ngăn mặn, giữ ngọt, phát triển giao thông, xây dựng cụm, tuyến dân cư. Trên cơ sở quy hoạch, dự án đầu tư đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt bố trí, cân đối vốn đầu tư cho các chương trình cây, con, công nghiệp, bảo quản, chế biến nông, lâm, thủy sản đã được xác định trong quy hoạch. 3.2. Với công nghiệp: Trước hết chúng ta cần định hướng tái cơ cấu ngành công nghiệp, đầu tư tập trung hơn vào các ngành công nghệ cao, thiết bị hiện đại, tăng cường đầu tư khoa học công nghệ vào sản xuất nguyên liệu, đầu tư chiều sâu phát triển công nghiệp chế biến với công nghệ hiện đại, chú trọng phát triển nhóm ngành công nghiệp được coi là nền tảng cho sự phát triển có hiệu quả và bền vững toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Thuộc nhóm ngành này có công nghiệp năng lượng, vật liệu xây dựng, cơ khí sản xuất phụ tùng và sửa chữa thiết bị,… trong đó, công nghiệp năng lượng phải được dành sự ưu tiên hàng đầu. hình thành các cụm liên kết công nghiệp với các doanh nghiệp công nghiệp có mối liên hệ cung cấp và tiêu thụ sản phẩm của nhau, trước hết nhằm vào công nghiệp dệt may, giày dép, điện tử và máy tính. Sự phát triển công nghiệp phụ trợ nằm trong khuôn khổ tổ chức mối liên hệ sản xuất này. Với định hướng mở rộng ra phạm vi thị trường khu vực, việc phát triển công nghiệp phụ trợ không những chỉ góp phần làm tăng giá trị gia tăng của các ngành công nghiệp lâu nay vẫn phải gia công cho nước ngoài, mà còn là cách thức có hiệu quả tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu. Phát triển có giới hạn các ngành khai thác tài nguyên, đặc biệt là những loại tài nguyên không thể tái tạo. Gắn phát triển khai thác với chế biến nguyên liệu bằng công nghệ hiện đại để nâng cao giá trị của sản phẩm cuối cùng và sử dụng có hiệu quả nhất nguồn tài nguyên thiên nhiên. Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi nhất cho đầu tư của các thành phần kinh tế ngoài nhà nước, trong đó có đầu tư nước ngoài. Coi đầu tư ngoài nhà nước là nguồn đầu tư giữ vị trí quyết định trong các nguồn đầu tư phát triển công nghiệp. Trong đó cần cải tạo, nâng cấp và xây dựng mới hệ thống cơ sở hạ tầng, trong đó ưu tiên hàng đầu là hệ thống giao thông, cung ứng năng lượng, cấp thoát nước và thông tin liên lạc. Đầu tư từ ngân sách nhà nước phải được tập trung vào phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng và coi quản lý chặt chẽ để bảo đảm hiệu quả sử dụng nguồn vốn này là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu. Đồng thời, Nhà nước cũng cần có chính sách linh hoạt và cởi mở để thu hút các nguồn vốn bên ngoài. Coi đầu tư ngoài nhà nước là nguồn đầu tư giữ vị trí quyết định trong các nguồn đầu tư phát triển công nghiệp. Bên cạnh đó, cần nhanh chóng quy hoạch  phát triển các khu công nghiệp liên hoàn, các khu kinh tế tự do quy mô lớn thành các vùng lãnh thổ động lực tăng trưởng; kết hợp và kết nối phát triển công nghiệp với đô thị hóa, xây dựng một số khu, cảng trung chuyển hàng hóa thương mại quốc tế, để tổ chức sản xuất công nghiệp,  cung ứng dịch vụ theo quy mô lớn, theo nhóm các sản phẩm có liên quan với nhau, bổ sung phụ trợ lẫn nhau. Xây dựng và thực hiện các chương trình đồng bộ phát triển các ngành ưu tiên phát triển đặt dưới sự chỉ đạo tập trung, thống nhất từ trung ương (về mục tiêu, nguồn lực, cơ chế và cách thức thực hiện, theo dõi, đánh giá và bổ sung, điều chỉnh...). Hoàn thành và vận hành có hiệu quả khu công nghệ cao; nghiên cứu triển khai một số khu nghiên cứu cải tiến kỹ thuật và đổi mới công nghệ. Đổi mới chính sách đầu tư nhằm huy động được nhiều và phân bổ hợp lý các nguồn lực trong và ngoài nước vào phát triển công nghiệp theo định hướng quy hoạch đã xác định. Theo đó: Đầu từ từ ngân sách nhà nước cần được tập trung vào ba lĩnh vực cơ bản là: Cải tạo, nâng cấp và xây dựng mới cơ sở hạ tầng kỹ thuật (giao thông vận tải, điện, cấp thoát nước, thông tin liên lạc). Giáo dục và đào tạo để cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao cho các ngành công nghiệp. Các lĩnh vực công nghiệp liên quan trực tiếp đến an ninh và quốc phòng. 3.3 Giải pháp cho dịch vụ: Xác định rõ những ngành, sản phẩm ưu tiên phát triển trong giai đoạn tới, như: Dịch vụ logistics (vận tải hàng hóa, cảng biển, dịch vụ hải quan, kho bãi và bảo quản hàng hóa, dịch vụ phân phối...); Dịch vụ du lịch (nhà hàng, khách sạn, lữ hành, vận tải hành khách, nghỉ dưỡng, chăm sóc sức khỏe, văn hóa, giải trí, mua sắm, làng nghề truyền thống, sản xuất, chế biến và cung cấp thực phẩm...). Ðây là những ngành có tiềm năng phát triển và có thị trường, có thể trao đổi được qua thương mại quốc tế, có tương tác và thúc đẩy các ngành khác có liên quan cùng phát triển trong quá trình thay đổi mô hình tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đặc biệt có tác động kết nối kinh tế vùng và kết nối kinh tế nước ta với khu vực và thế giới. Chúng ta cần phát triển các ngành này thành các ngành có lợi thế cạnh tranh, bổ sung cho các ngành hiện tại; đồng thời, thay thế dần một số ngành sử dụng nhiều lao động hiện nay như dệt may, da giày, chế biến gỗ... Tiếp tục hiện đại hóa bưu chính viễn thông và hạ tầng công nghệ thông tin. Bên cạnh đó mở cửa khu vực dịch vụ và thu hút đầu tư, liên doanh trên các lĩnh vực dịch vụ. Việc mở cửa thị trường dịch vụ cho nhà đầu tư nước ngoài sẽ tạo điều kiện để đa dạng hoá và nâng cao chất lượng phát triển của các ngành dịch vụ, qua đó, góp phần tăng trưởng kinh tế, tạo thêm giá trị gia tăng và nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam. 4. Chuyển dịch cơ cấu VĐT theo vùng lãnh thổ. Phân bổ đầu tư theo vùng lãnh thổ hợp lý giữa các vùng địa phương tạo ra một sức mạnh tổng thể thúc đẩy vùng kinh tế phát triển. Đầu tư hợp lý các vùng địa phương tạo điều kiện khai thác triệt để lợi thế từng vùng, góp phần tích cực vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hợp lý, nâng cao năng lực cạnh tranh từng vùng, góp phần gắn kết về kinh tế văn hóa giữa các vùng, tạo nên một vùng kinh tế trọng điểm, thúc đẩy kinh tế toàn vùng phát triển. Đầu tư hợp lý giữa các vùng và địa phương là động lực mạnh mẽ góp phần giải quyết tốt vấn đề về xã hội, giảm thiểu tình trạng thất nghiệp, xóa đói giảm nghèo, rút ngắn khoảng cách giàu nghèo… Xây dựng mới đi đôi với cải tạo kết cấu hạ tầng cơ sở đô thị và nông thôn. Chú trọng mạng lưới giao thông nông thôn và miền núi, biên giới, tạo điều kiện phát triển cho vùng khó khăn, căn cứ kháng chiến cũ, xây dựng dải hành lang ven biển. Tạo điều kiện gắn kết giao lưu trao đổi văn hóa kinh tế giữa các vùng miền. Mở rộng thị trường trong nước và giảm thiểu chi phí vận tải. Thực hiện tốt công tác quy hoạch và kế hoạch phát triển của vùng và địa phương tránh tình trạng đầu tư theo phong trào, tràn lan kém hiệu quả. Trong quy hoạch phát triển tìm gia được địa phương trung tâm làm hạt nhân chỉ huy toàn bộ hoạt động đầu tư của cà vùng. Tạo nên một tổng thể kinh tế thống nhất, tập trung vào một số ngành mũi nhọn. Đầu tư chú trọng vấn đề về xã hội, đảm bảo cho tất cả các vùng miền cùng phat triển, tránh đề khoảng cách vùng cách xa nhau quá, đẫn đến tình trạng mất cân bằng tổng thể. Như khu vực miền trung chịu nhiều thiên tai thảm họa tự nhiên, không nhưng thế vùng còn nghèo tài nguyên thiên nhiên, khoa học kỹ thuật kém phát triển… Khu vực miền Tây Bắc, Việt Bắc và Tây Nguyên vùng căn cứ địa cách mạng, đân cư chiếm đa phần dân tộc. Để đảm bảo vấn đề về an sinh xã hội, cân bằng xã hội, không chỉ tập trung vào các vùng có điều kiện thuận lợi về cơ sở vật chất hạ tầng ở thành thị và ở cả vùng trọng điểm mà chú ý đầu tư phát triển các vùng kinh tế trọng điểm. Chú trọng đầu tư theo chiều sâu, giảm bớt đầu tư dàn trải theo chiều rộng lạm dụng tài nguyên thiên nhiên sử dụng nhiều lao động giản đơn. Tập trung ngành sử dụng nhiều vốn, công nghệ kỹ thuật cao… TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Giáo trình kinh tế đầu tư. 2. Thời báo kinh tế Việt Nam. 3. Một số đề tài của trường kinh tế quốc dân 4. Niên giám thống kê – Tổng cục thống kê. 5. Bộ Kế hoạch và đầu tư. 6.Web address: www.mpi.gov.vn www.vneconomy.com.vn www.vir.com.vn www.ciem.org.vn www.worldbank.org.vn www.dangcongsan.vn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc26006.doc
Tài liệu liên quan