Đề tài Cơ chế tỷ giá hối đoái trong bối cảnh phục hồi kinh tế ở Việt Nam

Năm 2009, bằng những chính sách kịp thời, phù hợp, lạm phát ở Việt Nam đã được kìm hãm ở mức 6,88%. Tuy nhiên, các chuyên gia ở Trung tâm nghiên cứu kinh tế và chính sách Việt nam nhân định rằng, năm 2010, con số này khó có khả năng ở dưới mức 10%. Khi nền kinh tế đang bước đầu hồi phục và các gói kích cầu hỗ trợ không còn nữa, lạm phát sẽ lại một lần nữa trở thành vấn đề nan giải và ảnh hưởng lan tỏa tới toàn bộ hệ thống tỷ giá hối đoái và hệ thống tiền tệ ở Việt Nam. Để tránh lạm phát cao, chúng tôi khuyến nghị Việt Nam nên dần dần thắt chặt tiền tệ và tín dụng, tuy nhiên không quá cứng rắn tức thời, mà cần linh hoạt để duy trì được tính thanh khoản cho nền kinh tế. Trước áp lực tín dụng tăng cao trong năm 2009 và vài tháng đầu năm 2010, tâm lý lo ngại và sự kì vọng lạm phát cao là điều hoàn toàn tất yếu. Sau khi một lượng lớn cung tiền được đổ vào nền kinh tế thông qua các gói cứu trợ của Chính phủ (145.600 tỷ đồng – nguồn: Bộ trưởng Kế hoạch và đầu tư Võ Hồng Phúc), giờ đây cấp thiết phải giảm cung tiền và thu nội tệ về, tránh tình trạng mất giá nghiêm trọng đồng nội tệ. Đứng trước mâu thuẫn giữa nhu cầu tăng trưởng kinh tế cao của giai đoạn phục hồi và tỷ lệ lạm phát cao, chúng tôi khuyến nghị rằng năm 2010 này Việt Nam vẫn nên chú trọng hơn tới việc kìm hãm lạm phát, bình ổn các biến kinh tế vĩ mô trước khi hướng tới tăng trưởng kinh tế.

doc87 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 2107 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Cơ chế tỷ giá hối đoái trong bối cảnh phục hồi kinh tế ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
à đạt mức cao nhất trong năm 2008. Với mỗi thời kì phát triển kinh tế, chính sách tỷ giá cố định của nhà nước sẽ có hiệu quả trong việc hạn chế lạm phát, nhưng duy trì quá lâu cơ chế tỷ giả cố định bảo thủ này lại làm trầm trọng hơn tình trạng lạm phát tại nước ta. Nguyên nhân hình thành lạm phát ở nước ta do 2 nhóm nguyên nhân tác động lên thông qua góc nhìn tỷ giá hối đoái đó là tăng lượng cung tiền và “nhập khẩu lạm phát”. Nền kinh tế Việt Nam sau khi gia nhập WTO, mở rộng mối quan hệ với nhiều đối tác trên thế giới, đã thu hút lượng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam tăng mạnh mẽ. Làm cho nhu cầu VND tăng lên, tiền đồng tăng giá so với đôla Mỹ, do chính phủ muốn duy trì mức tỷ giá để tăng sức cạnh tranh thương mại của hàng hoá Việt Nam, NHNN bán nội tệ để mua vào ngoại tệ nhằm kìm hãm sự tăng giá của VND với USD. Tác nhân dòng vốn nước ngoài đầu tư vào Việt Nam làm tiền đồng tăng giá, buộc NHNN phải tăng cung tiền nội địa nhằm kìm giữ tỷ giá là một trong những nguyên nhân gây ra lạm phát. Trong giai đoạn 2007- 2008 khi dòng vốn nước ngoài vào Việt Nam mạnh mẽ, không được trung hoà hiệu quả với lượng tiền nội tệ đã gây ra tác động trực tiếp lên nền kinh tế, làm tăng cung tiền và tổng phương tiện thanh toán khiến cho tình hình lạm phát trở nên mạnh hơn. Tuy nhiên tác động này của tỷ giá lên lạm phát chưa rõ ràng như trong năm 2008, mặc dù tỷ giá ổn định nhưng lạm phát vẫn tăng rất cao 19,89%. Giải thích cho nguyên nhân này, theo một số chuyên gia chủ yếu bắt nguồn từ cung tăng và tín dụng tăng quá nóng, nới lỏng chính sách tiền tệ trong thời kì 2007 -2008 làm cho lạm phát ở Việt Nam tăng cao. Hình 2.10. Lạm phát của Việt Nam qua các giai đoạn Nguồn: NHNN Chính sách tỷ giá hối đoái lúc chỉ là một phần trong chính sách tiền tệ mà NHNN góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, hạn chế lạm phát. Vai trò của chính sách tỷ giá nhằm tác động lên lạm phát trong thời kì khủng hoảng và hậu khủng hoảng không thực sự rõ ràng, vì còn phải phụ thuộc vào cơ chế điều hành chính sách tiền tệ của NHNN, cũng như thay đổi xu thế nền kinh tế Việt Nam trong những năm tới. Cần khẳng định rằng, xuất khẩu và thu hút đầu tư nước ngoài vẫn là mục tiêu quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế, vì vậy một tỷ giá được điều tiết hiệu quả là điều kiện cấp bách nhằm thu hút nhà đầu tư nước ngoài vào thị trường Việt Nam, tăng tính cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu. Nguyên nhân thứ 2 do chi phí đầu vào của doanh nghiệp sản xuất trong nước tăng cao. Trong thời điểm suy thoái kinh tế 2007-2008, đã chứng kiến những đỉnh cao mới về giá dầu, giá thép trên thế giới, gây sức ép lên nguyên liệu đầu vào phục vụ sản xuất tại Việt Nam. Sự mất giá của đồng USD hay sự gia tăng giá tính bằng VND là nguyên nhân khiến chi phí sản xuất tăng lên, làm cho giá bán cũng phải tăng lên tương ứng để bù đắp cho chi phí. Mức giá tăng như vậy do hiện tượng “nhập khẩu lạm phát” từ nước ngoài vào Việt Nam, tình trạng nhập siêu của Việt Nam càng nặng nề hơn tạo áp lực lên cán cân thương mại, NHNN muốn ghìm giữ tỷ giá bắt buộc phải tăng cung tiền trong nền kinh tế. Cơ chế điều hành tỷ giá cố định không chỉ làm cho các doanh nghiệp Việt Nam mất lợi thế cạnh tranh trong xuất khẩu mà còn khiến cho tình hình lạm phát càng ngày càng trầm trọng thêm do mức giá cả tăng (chi phí sản xuất tăng) và lượng cung tiền lớn đổ ra nhằm ổn định tỷ giá. Năm 2009, kinh tế toàn cầu suy giảm. giá cả thế giới giảm đã làm giảm áp lực lạm phát tại Việt Nam xuống còn 6,88%. Việt Nam nhập khẩu hàng hoá không thể tự kiểm soát những biến động trên thị trường giá cả thế giới, nên để hạn chế nguồn gốc “lạm phát” từ nhân tố này, bản thân chúng ta phải có chính sách điều hành tỷ giá tăng tính linh hoạt cho từng giai đoạn biến động kèm theo đó là công cụ tài chính nhằm giảm thiểu rủi ro trên thị trường thế giới. 2.4. Các tác nhân ảnh hưởng tới tỷ giá Tỷ giá hối đoái trong giai đoạn 2008 đến nay vẫn liên tục tăng giá trên thị trường, bên cạnh việc NHNN liên tục đưa ra những điều chỉnh tỷ giá chính thức trên thị trường cùng với thay đổi biên độ giao dịch nhằm cải thiện tình hình căng thẳng trên thị trường ngoại tệ. Mặc dù, những điều chỉnh này là hợp lí, tuy có hơi muộn nhưng góp phần làm giảm sức nóng trên thị trường trong ngắn hạn, nhưng vẫn không giải quyết được toàn bộ bài toán về tỷ giá cũng như mức chênh lệch tỷ giá đáng kể giữa thị trường tự do và chính thức. Sau đây là một số nguyên nhân khiến cho tỷ giá tăng mạnh trong thời gian vừa qua 2.4.1 Lãi suất Chênh lệch lãi suất giữa ngoại tệ và nội tệ trong hệ thống ngân hàng thương mại thúc đẩy hoạt động vay ngoại tệ tại NHTM, làm tăng lượng cung ngoại tệ trong nền kinh tế. Trong giai đoạn khủng hoảng, chính phủ đã tung ra gói kích thích kinh tế, hỗ trợ lãi suất 1 tỷ đô la, hỗ trợ 4% lãi suất với các doanh nghiệp, tổ chức có nhu cầu vay phục vụ cho hoạt động sản xuất. Sự ưu đãi 4% này chỉ áp dụng cho đối tượng vay VND (lãi suất cho vay từ 10,5% giảm còn 6,5%) mà không áp dụng cho vay bằng ngoại tệ (lãi suất cho vay ngoại tệ 4,5%). Lãi suất năm 2009-2010, lãi suất cho vay VND 16-18%, lãi suất vay tiền USD 7-7,5% .Chênh lệch lớn giữa lãi suất cho vay ngoại tệ và nội tệ, cùng với nỗi lo thay đổi tỷ giá của chính phủ, các chủ thể kinh tế có nhu cầu đi vay ngoại tệ và chuyển đổi sang nội tệ để hưởng mức chênh lệch lãi suất đáng kể và không lo sợ về rủi ro tỷ giá mang lại. Vay ngoại tệ mới mục đích hưởng chênh lệch tỷ giá, dịch chuyển lượng cung ngoại tệ từ ngân hàng tra thị trường tăng đáng kể. Lãi suất VND đang có xu hướng giảm, khả năng thu hút của thị trường Việt Nam giảm bớt, khiến cho dòng vốn đầu tư nước ngoài sụt giảm. Dòng ngoại tệ chẩy ngược, khan hiếm ngoại tệ trên thị trường, đồng ngoại tệ sẽ tăng giá so với đồng ngoại tệ, làm cho tỷ giá hối đoái tăng lên. Khi suy thoái kinh tế tác động lên nền kinh tế vào cuối năm 2008, NHNN đã thực hiện chính sách nới lỏng tiền tệ, nhằm thúc đẩy kinh tế vượt qua khủng hoảng. NHNN cắt giảm lãi suất cơ bản từ 14% trong tháng 10/2008 xuống mức 7% trong tháng 2/2009, giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc tiền gửi nội tệ với kỳ hạn dưới 12 tháng từ 11% xuống còn 3%. Vào cuối năm 2009, NHNN tăng lãi suất cơ bản lên 8% nhằm giảm áp lực phá giá tiền đồng. Mặt bằng lãi suất cho vay ở Việt Nam giảm, đi cùng với gói hộ trỡ lãi suất làm tăng cung tiền và tín dụng trong nền kinh tế. Tín dụng trong năm 2009 tăng ở mức 38%, cung tiền M2 tăng 29%. Hệ thống ngân hàng thương mại cuối năm 2009, và những tháng đầu năm 2010 thiếu hụt thanh khoản do người dân kỳ vọng vào lãi suất cơ bản tăng cũng như các cơ hội đầu tư vào chứng khoán, bất động sản làm tăng trưởng tiền gửi, bên cạnh đó do sự lo ngại về yếu tố lạm phát. Những yếu tố tâm lý này tác động lên biến động tỷ giá ngoại tệ làm tăng tỷ giá ngoại tệ trên cả thị trường tự do lẫn chính thức. 2.4.2. Mức kỳ vọng thay đổi tỷ giá hối đoái Động cơ tăng tỷ giá của NHNN trong suốt giai đoạn 2008 – 2009, điều chỉnh biến động tỷ giá giảm bớt căng thẳng ngoại tệ và tình trạng găm giữ đôla trên thị trường ngoại hối. Tăng tỷ giá của NHNN tác động làm giảm kỳ vọng về tăng tỷ giá, tăng tỷ giá kịp thời có tác dụng như một chiếc van giảm sức ép lên thị trường ngoại tệ. Việt Nam là một đất nước có tỷ lệ “đôla hoá” cao, đồng đôla được lưu hành sử dụng đồng thời với nội tệ, trong hoạt động ngân hàng và chi tiêu hàng ngày, tăng hoạt động đầu cơ trên thị trường tự do. Bởi vậy, động thái tăng tỷ giá của NHNN đã giảm tình trạng găm giữ đôla trên thị trường đáng kể, tỷ giá trên thị trường tự do và chính thức trở lại gần ngang bằng nhau, lượng cung trên thị trường ngoại tệ tăng lên. Khi lượng cung ngoại tệ tăng lên làm tăng tỷ giá hối đoái. 2.4.3. Lạm phát Lạm phát luôn là nhân tố tác động lên sự tin tưởng của người dân vào đồng nội tệ, ảnh hưởng trực tiếp lên tỷ giá. Do VND được neo tỷ giá với đồng USD trong suốt một thời gian, nhưng NHNN lại không điều chỉnh linh hoạt mức tỷ giá giữa 2 đồng tiền, tăng tỷ giá nhằm phản ánh mức chênh lệch lạm phát giữa Việt Nam và Mỹ gây bất lợi cho nền kinh tế. Thực tế lạm phát của Việt nam trong 3 năm qua 2007-2009 biến động khá mạnh (12,68% - 2007, 19,89% -2008, 6,88% - 2009) trong khi lạm phát của Mỹ dao động quanh 2% mỗi năm. Với thực trạng như vậy, đáng lẽ NHNN phải thực hiện việc điều chỉnh tỷ giá từ lâu nhưng do chính sách điều hành cứng nhắc làm cho tiền đồng bị định giá cao gây nhiễu lên hoạt động kinh tế. Bởi vậy, việc điều chỉnh tỷ giá tăng trong thởi điểm 2008, 2009 và 2/2010 là cần thiết để xác lập lại sự cân bằng giữa VND và USD. 2.4.4. Khả năng can thiệp của NHTW giảm Mức nhập siêu của Việt Nam ước tính 12 tỷ USD trong năm 2009, giảm đáng kể so với mức 18 tỷ USD. Mức giảm nhập siêu một phần do suy thoái kinh tế làm giảm tổng cầu trên thế giới, giá trị xuất khẩu giảm 9,7% và giá trị nhập khẩu giảm 14,7% so với năm 2008. Thâm hụt thương mại sụt giảm làm giảm thâm hụt tài khoản vãng lai xuống 7,4% GDP năm 2009 so với 11,8% năm 2008. Tổng thể cán cân thanh toán vẫn bị thâm hụt, dự trữ ngoại hối giảm xuống còn 15 tỷ USD nhằm bù đắp cho thâm hụt cán cân thanh toán. Việc NHNN duy trì chế độ tỷ giá cố định, cùng với mức độ thâm hụt thương mại của Việt Nam luôn ở mức cao khiến cho NHNN liên tục bơm dự trữ ngoại hối nhằm bình ổn tỷ giá ( từ 23 tỷ USD- 2008 xuống còn 16 tỷ USD- 2009). Hình 2.11. Cán cân thanh toán Việt Nam Nguồn: Tổng cục thống kê Tiền từ dự trữ ngoại hối không phải là túi không đáy, để liên tục bù đắp cho thâm hụt thương mại của Việt Nam nhằm ổn định tỷ giá. Giảm dự trữ ngoại hối làm giảm sự can thiệp của NHTW lên tỷ giá hối đoái, qua đó khả năng duy trì tỷ giá cố định trong thời gian như trước đây sẽ giảm dần khiến cho tỷ giá hối đoái tăng phản ánh đúng mối quan hệ thương mại, kinh tế giữa Việt Nam và Hoa Kỳ. Ngoài những nhân tố chính tác động đến sự biến động của tỷ giá hối đoái trong thời kì hậu khủng hoảng, đặc biệt trong năm 2009. Bên cạnh đó sự phục hồi của nền kinh tế Mỹ làm đồng đôla tăng giá trở lại, các khoản vay nợ ngoại tệ đáo hạn góp phần tác động làm tăng tỷ giá VND/USD. Trong bối cảnh các tác nhân từ bên trong lẫn bên ngoài gây áp lực lên tỷ giá hối đoái đe dọa khả năng phục hồi sau khủng hoảng, NHNN cần điều chỉnh chính sách tỷ giá hối đóai làm giảm tác động tiêu cực của các tác nhân lên tỷ giá. CHƯƠNG 3: GiẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI TRONG BỐI CẢNH PHỤC HỒI KINH TẾ 3.1. Viễn cảnh kinh tế Việt Nam trong giai đoạn phục hồi (trọng tâm 2010) Có thể nói, năm 2009 là một năm đầy biến động đối với nền kinh tế Việt Nam. Cuộc suy thoái kinh tế và khủng hoảng tài chính toàn cầu đã để lại những tác động không hề nhỏ với tốc độ tăng trưởng sụt giảm mạnh, lạm phát ở mức cao, nhập siêu đạt kỉ lục,…Tuy nhiên, bằng những chính sách kích thích kinh tế cương quyết của Chính phủ, Việt Nam đã bước đầu vượt qua đáy khủng hoảng và phục hồi vững chắc để hướng tới một giai đoạn tăng trưởng cao hơn với những cơ hội mới và thách thức mới. 3.1.1. Cơ hội - So với năm 2009, các biến nền tảng của kinh tế vĩ mô nước ta được kì vọng sẽ cải thiện rõ rệt trong năm 2010 mà điểm sáng là sự phục hồi của cầu đầu tư, cầu tiêu dùng nội địa, cầu xuất khẩu. Dòng vốn FDI, FII có thể sẽ tăng trưởng vững chắc và ổn định hơn do kinh tế thế giới cũng đã vượt qua được giai đoạn khó khăn nhất và đang trên đà phục hồi trở lại - Sự tăng trưởng thần kì của Trung Quốc trong giai đoạn khủng hoảng vừa qua cũng phần nào tác động thúc đẩy tới sự tăng trưởng kinh tế ở nước ta do điều kiện lịch sử, địa lý và mối quan hệ thương mại chặt chẽ giữa 2 quốc gia. - Năm 2010 cũng được dự báo là một năm thành công cho xuất khẩu Việt Nam nhờ vào sự phục hồi kinh tế của các thị trường nhập khẩu chủ đạo. Chiến lược tăng trưởng dựa trên xuất khẩu được coi là một chiến lược hợp lý và cần thiết cho Việt Nam vì nó tạo dựng được một thị trường lớn cho sản xuất trong nước, phát triển được kĩ năng sản xuất và tiêu chuẩn hóa nguồn nhân lực chuẩn bị cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. 3.1.2. Khó khăn và thách thức - Bên cạnh những cơ hội sáng sủa kể trên, Việt Nam vẫn còn phải đối mặt với không ít những khó khăn thách thức. Trong giai đoạn khủng hoảng 2007 – 2009, do phải chống chọi với các tác động từ sự suy thoái, những vấn đề khó khăn căn bản nhất của kinh tế Việt Nam như bất ổn vĩ mô, môi trường kinh doanh yếu kém, cấu trúc kinh tế chưa hợp lý, sự phát triển khu vực kinh tế tư nhân còn hạn hẹp, các chính sách điều hành chưa nhất quán và đồng bộ…vẫn chưa được chú trọng giải quyết. Những yếu tố này góp phần đáng kể vào việc chặn đà phục hồi kinh tế 2010 và về lâu về dài sẽ là một cản trở lớn kìm hãm sự phát triển và tăng trưởng của kinh tế Việt Nam. - Dự đoán trong giai đoạn tới, Việt Nam vẫn là nước có mức độ tăng trưởng tín dụng nóng. Việc mở rộng tín dụng có vai trò tích cực và trực tiếp trong tăng trưởng kinh tế tuy nhiên cũng là nguyên nhân chính gây ra tình trạng lạm phát cao, thâm hụt cán cân thương mại, suy yếu đồng nội tệ, đô la hóa nền kinh tế…. - Trong năm 2010, Việt Nam vẫn sẽ phải tiếp tục chia sẻ những khó khăn chung với các nền kinh tế đang phát triển và trong giai đoạn chuyển đổi về các vấn đề thâm hụt cán cân thương mại, bội chi ngân sách, sụt giảm dự trữ ngoại hối. Điều này thường xuyên dẫn tới những bất ổn tiềm ẩn cho nền kinh tế, sói mòn những nỗ lực phục hồi. Nền kinh tế trở nên nhạy cảm với các biến động kinh tế toàn cầu. - Các đường lối, chính sách nói chung ở Việt Nam hiện nay còn thiếu tính nhất quán, không hợp lý và mang tính ngắn hạn. Yếu tố tăng trưởng GDP được đặt lên hàng đầu thay vì sự ổn định kinh tế vĩ mô. Điều này cực kì nguy hiểm trong dài hạn và có khả năng để lại những tác động lâu dài. - Sự bất bình đẳng về mặt chính sách giữa 2 khu vực Nhà nước và tư nhân vốn là điểm rất đáng chú ý tại Việt Nam lại được thể hiện khá rõ ràng trong giai đoạn khủng hoảng vừa qua. Gói kích cầu và hỗ trợ lãi suất 4% của Chính phủ đã tạo được đà trỗi dậy cho các tập đoàn, công ty Nhà nước trong khi khu vực tư nhân vẫn đang chật vật tìm sự hỗ trợ và hướng đi hồi phục. Các tập đoàn Nhà nước này giờ đây đã tạo dựng được suy nghĩ trong dân chúng rằng dường như họ mới chính là đầu tầu, là chỗ dựa vững chắc đưa cả nền kinh tế phục hồi. Xét về mặt lâu dài điều này sẽ gây nguy hại tới khu vực tư nhân, bóp méo quá trình phân bố nguồn lực, đẩy khu vực tư nhân vào thế phải lệ thuộc, biến dạng nền kinh tế thị trường, giảm thiểu sự linh hoạt trong tiến trình hội nhập quốc tế. Xét cho tới cùng, nền kinh tế sẽ khó có khả năng phục hồi toàn diện. - Sau một giai đoạn dài trầm lắng của thị trường chứng khoán Việt Nam, năm 2010 được kì vọng là năm có nhiều dấu hiệu tích cực cho sự phục hồi và tăng trưởng mới. Tuy vậy, các nhà kinh tế cũng đặt ra một mối lo ngại khi dòng vốn đầu tư nước ngoài vào chủ yếu cho các kênh chứng khoán, bất động sản và tiêu dùng. Các dòng vốn này thường mang tính ngắn hạn, đột biến, dễ vào dễ ra làm nền kinh tế dễ rơi vào trạng thái đổ vỡ. Việc ngăn chặn những dòng vốn có tính chất này vào Việt Nam không còn là điều đơn giản và nằm dưới sự điều hành của NHNN khi Việt Nam đã ra nhập WTO, thị trường tài chính được từng bước tự do hóa. Vấn đề cấp thiết trong các chính sách tiền tệ 2010 là phải mở rộng cửa đón các dòng tiền đầu tư nhưng cũng phải thanh lọc, giám sát chặt chẽ, sử dụng hiệu quả nguồn vốn này, hạn chế tình trạng đầu cơ và những bất lợi tới nền kinh tế đang phục của Việt Nam. - Thị trường hàng hóa Việt Nam vẫn bị chiếm hữu phần lớn bởi các hàng hóa ngoại nhập, tâm lý “Người Việt Nam dùng hàng Việt Nam” chưa được cải thiện đáng kể, thị trường nội địa chưa được chú trọng. Có một thực tế tồn tại rằng, trong khi các nhà sản xuất Việt Nam để ngỏ thị trường nội địa cho nước ngoài làm mưa làm gió thị họ lại đang rất chật vật tìm kiếm và cạnh tranh ở thị trường nước ngoài, chống đỡ với khủng hoảng và đau đầu với tỷ giá hối đoái. 3.1.3. Tỷ giá hối đoái – vấn đề trọng tâm 2010 Theo dự đoán của các chuyên gia kinh tế VEPR, tỷ giá hối đoái tại Việt Nam 2010 sẽ tiếp tục có những biến động khó lường theo chiều hướng mất giá đồng nội tệ từ 5 – 8% vì những căng thẳng tiếp diễn trong vấn đề lạm phát, lãi suất và thâm hụt ngân sách, thâm hụt cán cân thương mại. Lạm phát nếu giữ được ở mức một con số đã là một thành công lớn, tuy nhiên phần lớn cho rằng sẽ khó có khả năng ở dưới mức 10%. Xuất khẩu và FDI, FII mặc dù sẽ có những mức tăng trưởng nhất định nhưng vẫn chưa thể khẳng định được điều gì vì 2010 là giai đoạn đầu phục hồi, chưa thực sự vững vàng và chưa có nhiều đột biến. Theo dự tính, bất chấp việc nguồn cung có tăng lên, nhu cầu về ngoại hối năm 2010 vẫn đang hết sức căng thẳng đối với nền kinh tế bị đô la hóa như Việt Nam, các quỹ dự trữ ngoại hối bình ổn tỷ giá hối đoái được sử dụng tương đối nhiều như một công cụ chính sách của chính phủ thời gian vừa qua, nay đang cấp thiết cần bổ sung lại. Thêm vào đó, Trung Quốc đã tranh thủ giai đoạn khủng hoảng nâng mức dự trữ ngoại hối nước mình lên mức kỉ lục trên 2000 tỷ đô la Mỹ nhằm mục tiêu giữ đồng nội tệ yếu, đẩy mạnh xuất khẩu. Trong khi đó, nhập siêu từ Trung Quốc năm 2009 chiếm 75,4% tổng kim ngạch nhập siêu của Việt Nam. Đồng nhân dân tệ càng mất giá càng khiến cho xuất khẩu Việt Nam gặp khó khăn. Do vậy để khắc phục tình trạng nhập siêu, Việt Nam đồng cũng phải mất giá, từ đó tạo áp lực khiến Việt Nam phải tăng cường dự trữ ngoại tệ. Một phần nguyên nhân của vấn đề bất ổn tỷ giá hối đoái đến từ sự thâm hụt ngân sách, một căn bệnh kinh niên tại Việt Nam. Theo thống kê của VEPR, mức bội chi ngân sách trung bình hàng năm của Việt nam là 5% GDP, đặc biệt năm 2009 là 7% GDP và dự báo khoảng 5,5 – 6,3% GDP trong năm 2010. Hiệu quả đầu tư khu vực công chưa có dấu hiệu được cải thiện cũng như chưa có một hướng đi, chiến lược cụ thể để giảm chi tiêu Chính phủ 2010. Để cân bằng lại thâm hụt ngân sách, Chính phủ buộc lòng phải đi vay nợ từ hai nguồn cơ bản là nội địa và nước ngoài. Vay nợ nội địa thông qua chính sách thắt chặt tín dụng, tài khóa đẩy mức lãi suất lên cao, các doanh nghiệp rơi vào thế khó lòng phục hồi. Vay nợ nước ngoài sẽ tác động rất lớn vào tỷ giá hối đoái, rủi ro cao. Tuy nhiên, theo chúng tôi, hình thức thứ hai này có khả năng lớn sẽ được áp dụng trong giai đoạn phục hồi tại Việt Nam. Sau giai đoạn khủng hoảng với những biến động theo chiều hướng đáng ngại của tỷ giá hối đoái, giờ đây tâm lý chờ đón phá giá Việt Nam đồng vẫn luôn thường trực trong tâm lý người dân và các doanh nghiệp. Nếu có bất kì dấu hiệu nào đó không ổn, một cuộc đua tranh đầu cơ hỗn loạn USD như 2009 sẽ lại một lần nữa xảy ra, gây sói mòn nghiêm trọng lòng tin và gia tăng nguy cơ tái khủng hoảng. Mặc dù NHNN có những định hướng rất tốt về mặt chính sách, những mục tiêu rõ ràng và tích cực, tuy nhiên kết quả thực tiễn lại phụ thuộc chính vào tiềm lực thực tế của NHNN mà trong đó khả năng dự trữ ngoại tệ còn rất mỏng, khả năng kiểm soát và tác động còn hạn hẹp, mức độ và quy mô còn hạn chế. Do vậy, xét trong thực tiễn, mọi chính sách này vẫn có độ cứng cao, chưa linh hoạt và phù hợp. Tính tới cuối tháng 6/2009, nợ nước ngoài của Việt Nam (bao gồm nợ các quốc gia khác, nợ các tổ chức quốc tế như MF, WB…) khoảng 29,8 tỷ USD, tương đương 31% GDP (nguồn: ATP Việt Nam). Con số này năm 2008 là 21,8 tỷ USD, 2007 là 19,2 tỷ USD. Ước tính tổng dư nợ nước ngòai còn tăng cao nữa trong năm 2010, theo Ủy bạn kinh tế Quốc hội, có thể chiếm khoảng 44% GDP. Do vậy, nếu đồng Việt Nam tiếp tục mất giá thì xuất khẩu sẽ được cải thiện nhưng gánh nặng nợ nần sẽ ngày càng nghiêm trọng và ngược lại. Làm thế nào để cân đối được mâu thuẫn trên vẫn luôn là một thách thức nan giải cho Việt Nam. 3.2. Định hướng chung điều hành chính sách tỷ giá hối đoái tại Việt Nam trong bối cảnh phục hồi kinh tế Không thể phủ nhận một điều rằng, trong suốt những năm vừa qua tính từ thời điểm mở cửa nền kinh tế và chuyển đổi sang cơ chế thị trường 1986, các cơ chế chính sách tỷ giá hối đoái tại Việt Nam đã liên tục được điều chỉnh cho phù hợp với tình hình thực tiễn nước ta và đã đạt được không ít những thành tựu trong việc ổn định đồng nội tệ, cải thiện cán cân thương mại và thanh toán quốc tế, tăng dự trữ ngoại hối hướng tới mục tiêu chung là bình ổn kinh tế vĩ mô, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và phát triển theo cơ chế thị trường. NHNN không ngừng nâng cao vai trò trong việc kiểm soát chặt chẽ tỷ giá hối đoái, thanh lọc các dòng vốn ngoại tệ và điều tiết cung cầu trên thị trường. Trong thời gian tới đây, với tính chất là giai đoạn nhạy cảm, phục hồi kinh tế, các chính sách tỷ giá hối đoái cấp thiết phải trở nên linh hoạt hóa hơn, góp phần thúc đẩy xuất khẩu, kìm hãm tình trạng nhập siêu kéo dài, thu hút dòng vốn đầu tư nước ngoài, giải quyết các tác động của khủng hoảng tài chính và từng bước phục hồi vững chắc. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 9 đã thống nhất đường lối và chính sách như sau: “Thực hiện chính sách tỷ giá hối đoái linh hoạt dựa trên cung và cầu ngoại tệ, từng bước thực hiện tự do hóa tỷ giá hối đoái có sự quản lý vĩ mô của Nhà Nước, tiến tới thực hiện đầy đủ tính chuyển đổi của đồng nội tệ Việt Nam”. Từ đó thấy rằng, chính sách tỷ giá sẽ phải bám sát vào tình hình thực tiễn nước ta từ lạm phát, lãi suất, sức mua thực tế, cân bằng cung cầu ngoại tệ theo nguyên tắc cân bằng sức mua (PPP), diễn biến trên thị trường thế giới, xu hướng giá quốc tế…., dần dần cải tiến theo hướng linh hoạt hóa, thả nổi tự do có lộ trình, tránh điều chỉnh đột ngột, gây sốc. 3.2.1. Khuyến nghị chế độ tỷ giá hối đoái Hiện nay, Việt Nam vẫn đang áp dụng chế độ neo tỷ giá có điều chỉnh gắn liền với đồng đô la Mỹ. Tuy nhiên, xét theo bối cảnh tình hình thế giới sau khủng hoảng khi USD đang dần suy yếu và đánh mất vị trí độc tôn của mình so với các ngoại tệ khác thì tỷ giá hối đoái chính thức nên được gắn liền với một rổ ngoại tệ thiết lập theo tỷ trọng thương mại và đầu tư. Theo đó, giá trị Việt Nam đồng sẽ được định giá thông qua quan hệ cung cầu và xu hướng biến động của các ngoại tệ mạnh trên thị trường như đô la Mỹ, đồng Euro, nhân dân tệ, yên Nhật…hoặc với ngoại tệ của các bạn hàng lớn có quan hệ thương mại lâu dài với Việt Nam, từ đó tác động tích cực tới cán cân thương mại và cán cân thanh toán. Tiếp tục tiến hành thu hẹp khoảng cách chênh lệch giữa tỷ giá hối đoái chính thức và tỷ giá hối đoái song song (thị trường chợ đen), tiến tới thống nhất thành một tỷ giá. Linh hoạt điều chỉnh tỷ giá thống nhất này, dần dần thả nổi để giúp đồng nội tệ hoàn toàn có khả năng chuyển đổi tới đa dạng các ngoại tệ khác, tránh tình trạng nền kinh tế bị đô la hóa, đầu cơ tích trữ ngoại tệ gây mất cân bằng cung cầu ngoại hối. Trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay khi mà tất cả các nền kinh tế ít nhiều đều ảnh hưởng lẫn nhau, là một nền kinh tế nhỏ, Việt Nam không thể tránh khỏi ảnh hưởng của xu hướng chung là thống nhất tỷ giá và chuyển dịch mạnh sang cơ chế tỷ giá thả nổi của các nền kinh tế mới nổi. Thêm vào đó, nhìn vào thực trạng Việt Nam giai đoạn vừa qua thì thấy rằng, mặc dù áp dụng cơ chế neo tỷ giá có điều chỉnh biên độ, tình trạng lạm phát và nhập siêu vẫn luôn ở mức báo động, VND vẫn liên tục mất giá và dự đoán vẫn sẽ mất thêm trong năm 2010. Xét trong tiến trình lịch sử, thời kì hậu khủng hoảng vẫn luôn là thời điểm thích hợp nhất cho một sự chuyển đổi mạnh mẽ. Vậy, Việt Nam có nên tiếp tục giữ cơ chế neo tỷ giá như cũ hay tiến hành thả nổi? Những quan điểm theo đường lối bảo thủ cho rằng, Việt Nam không những nên giữ vững định hướng cơ chế của Đảng và Nhà nước ta trong những năm vừa qua mà còn có thể quay hẳn về neo cứng tỷ giá hối đoái. Việc cố định tỷ giá hối đoái là một động lực lớn giúp cho nền kinh tế ổn định, các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có thể dễ dàng lập kế hoạch, tính toán giá cả, thúc đẩy thương mại quốc tế và đầu tư nước ngoài, đặc biệt trong những lĩnh vực cần máy móc, công nghệ cao để phục vụ cho tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nước ta. Bên cạnh đó, cơ chế neo cố định còn giúp cho Việt Nam đồng trở thành một ngoại tệ mạnh và hạn chế tối đa tình trạng đô la hóa nền kinh tế. Mặt khác, những quan điểm theo đường lối mới lại nghĩ rằng, việc neo cố định tỷ giá rốt cuộc cũng chỉ làm được với tỷ giá danh nghĩa, còn tỷ giá thực tế sẽ ngày càng chuyển động ra xa tỷ giá danh nghĩa. Cho dù có neo cố định, thì cũng chỉ là neo cứng với đô la mà thực chất nền kinh tế Hoa Kỳ đang trên đà suy yếu, bộc lộ rất nhiều bất cập, đồng đô la cũng không còn giữ vững vị trí độc tôn so với các đồng tiền khác trên thế giới như Euro, Nhân dân tệ hoặc Yên Nhật nữa. Còn nếu trong trường hợp, đồng đô la lên giá, hàng hóa Việt Nam vì thế cũng trở nên đắt tương đối so với các nước khác trong khu vực và trở nên kém hấp dẫn. Do vậy, chúng tôi nghiêng về khuyến nghị Việt Nam nên xây dựng một cơ chế tỷ giá hối đoái thả nổi có điều tiết của NHNN. Tỷ giá sẽ hoàn toàn được xác lập trên cơ sở mức cân bằng cung cầu ngoại tệ trên thị trường, NHNN sẽ không áp đặt bất kì mức giá hay biên độ nào. Tuy nhiên, trong những trường hợp biến động không hợp lý, thái quá, NHNN sẽ can thiệp thông qua các công cụ thị trường mở, kiểm soát dòng tiền… Đa số các nền kinh tế mới nổi hiện nay như Thái Lan, Singapore, Malaysia, Philippines…và ngay cả Việt Nam cũng mới chỉ nên dừng lại ở cơ chế thả nổi có điều tiết vì nền kinh tế vẫn còn tương đối non yếu, phụ thuộc nước ngoài nhiều, hệ thống tài chính, tiền tệ chưa hoàn chỉnh, kinh tế vĩ mô bất ổn, các cơ chế chính sách còn nhiều bất cập và có độ mở thị trường cao. Nếu thả nổi hoàn toàn, Việt Nam rất dễ tổn thương bởi những cú sốc từ sự đột biến tỷ giá, rối loạn thương mại và khủng hoảng kinh tế thế giới, càng làm cho nền kinh tế trở nên chông chênh hơn. Như đã được chứng minh, cơ chế thả nổi có điều tiết đem lại nhiều lợi ích hơn cơ chế neo tỷ giá, tuy nhiên, vấn đề cốt lõi đặt ra là liệu Việt Nam đã thực sự sẵn sàng cho sự chuyển mình này hay chưa. Việt Nam đã tiến hành mở cửa và thị trường hóa nền kinh tế từ năm 1986, sau 24 năm, hầu hết tất cả mọi sản phẩm trong nền kinh tế đều được định giá và phân phối dựa trên quy luật cung cầu thị trường. Việt Nam cũng đã là thành viên của WTO, đang từng bước phá bỏ hoàn toàn các rào cản bảo hộ và tăng cường hội nhập. Thêm vào đó, Việt Nam còn có sự tự chủ về mặt kinh tế, không quá bị lệ thuộc vào bất cứ quốc gia nào nên việc thả nổi tỷ giá sẽ không khiến Việt Nam bị tác động trầm trọng bởi các khủng hoảng tiền tệ từ các nước khác. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn còn tương đối nhiều hạn chế mà chúng tôi khuyến nghị cần thiết phải đựơc cải thiện trước khi tiến hành chính thức chuyển đổi cơ chế tỷ giá hối đoái. Thứ nhất, cần phải có một cơ sở hạ tầng hoàn thiện để xây dựng cơ chế trên đó, chính là thị trường ngoại hối. Thị trường ngoại hối cần phải được hiện đại hóa trong cách thức giao dịch, đa dạng hóa các công cụ, sản phẩm, trong đó một phần rất quan trọng là thị trường phái sinh. Thị trường các công cụ phái sinh liên quan tới ngoại hối hiện nay ở Việt Nam hầu như chưa hình thành. Nó là một phần tất yếu của cơ chế tỷ giá thả nổi với tác dụng “chắn” rủi ro cho các thành viên tham gia thị trường. Thị trường ngoại hối đơn giản vẫn chỉ là những giao dịch mua bán ngoại tệ trực tiếp, NHNN vẫn chiếm lĩnh thị trường. Mặc dù hình thành từ rất lâu đời nhưng thị trường ngoại hối vẫn còn rất non yếu, chưa có tính bùng nổ và phổ quát như thị trường chứng khoán. Vấn đề trọng yếu thứ hai là ngay sau khi thả nổi tỷ giá, liệu VND có ngay lập tức bị mất giá hoặc phá giá hay không. Liệu hệ thống tiền tệ Việt Nam có còn duy trì được sự ổn định cần thiết? Do vậy, Việt Nam cần phải có sự chuẩn bị cẩn thận toàn diện cho hệ thống tiền tệ để việc chuyển đổi diễn ra trơn tru, không sốc. NHNN lúc này có thể sử dụng 2 phương thức cơ bản để ổn định hệ thống tiền tệ, một là kiểm soát nguồn cung tiền, hai là kiểm soát tình trạng lạm phát. Đối với nền kinh tế có độ mở cao như Việt Nam, kiểm soát triệt để tình trạng lạm phát là điều tương đối khó thực hiện. Do vậy, chúng tôi khuyến nghị chú trọng phương thức kiểm soát nguồn cung tiền. Quá trình thả nổi tỷ giá có thể tuần tự tiến hành theo 3 bước cơ bản: + Bước 1: Nới lỏng các biện pháp quản lý hành chính cưỡng chế, dần dần chuyển sang các công cụ gián tiếp mang tính thị trường + Bước 2: Thả nổi tỷ giá trên thị trường ngoại hối, thường xuyên can thiệp để làm mềm sự dao động. + Bước 3: Thả nổi tỷ giá trên thị trường ngoại hối, can thiệp tối thiểu trong những trường hợp cần thiết. 3.2.2. Khuyến nghị chính sách hỗ trợ điều hành cơ chế tỷ giá. - Thu hẹp dần khoảng cách giữa lãi suất huy động/ cho vay bằng đồng nội tệ và ngoại tệ dựa trên tình hình thực tiễn cung cầu trên thị trường quốc tế. Một mặt vẫn phải giữ được tính hấp dẫn của lãi suất ngoại tệ để thực hiện chiến lược thu hút dòng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam nhưng mặt khác phải kìm hãm tình trạng đô la hóa trong hệ thống ngân hàng, nguyên nhân gây bất ổn tỷ giá hối đoái. Khoảng cách chênh lệch này phải dựa trên sự đánh giá các rủi ro tín dụng và kì vọng biến động tỷ giá, góp phần tích cực giúp NHNN tránh phải sử dụng các công cụ chính sách cưỡng ép khác tham gia trực tiếp vào thị trường ngoại hối như nghiệp vụ thị trường mở, quỹ dự trữ bình ổn ngoại hối…. - Kiểm soát chặt chẽ, kip thời và đầy đủ các luồng ngoại tệ ra vào nước ta thông qua một hệ thống thông tin hiện đại, chính xác, tạo dựng các cơ sở dữ liệu chuẩn về quan hệ cung cầu ngoại tệ trên thị trường giúp NHNN có những điều chỉnh chính sách kịp thời, hợp lý. Thực hiện nghiêm ngặt các chính sách quản lý ngoai hối, tiết kiệm triệt để việc sử dụng ngoại hối. - Thống kê và quản lý chặt chẽ tất cả các khoản nợ bằng ngoại tệ của nền kinh tế đặc biệt trong hệ thống ngân hàng. Các khoản vay ngoại tệ ngắn hạn của doanh nghiệp, phát hành trái phiếu của Chính phủ và doanh nghiệp bằng ngoại tệ. - NHNN không ngừng tăng cường vai trò và khả năng trong công tác quản lý Quỹ dự trữ và bình ổn thị trường ngoại hối, làm sao để sử dụng hợp lý và tối đa hiệu quả nhằm tập trung và khai thác hết nguồn lực của quỹ trong vai trò ổn định và phát triển kinh tế nói chung. Thêm vào đó, NHNN cần phải hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao liên quan tới ngoại hối để hỗ trợ cho sợ phát triển của các ngành kinh tế khác. - Kết hợp chặt chẽ với Chính phủ, các Bộ, ban ngành liên quan để đưa ra các chính sách quản lý đồng bộ, nhất quán liên quan đến vấn đề ngoại hối như kích thích xuất khẩu, kiềm chế nhập khẩu, thu hút vốn đầu tư nước ngoài và các dòng kiều hối, hỗ trợ cho sự bình ổn của thị trường ngoại hối…. - Đồng bộ hóa các chính sách ngoại hối với các mục tiêu, chính sách về lạm phát, lãi suất, thâm hụt ngân sách, tăng trưởng GDP…và với các mục tiêu phát triển con người, ổn định xã hội. - Chuẩn hóa các phương thức thống kê, kết quả các biến kinh tế vĩ mô để từ đó có cái nhìn đúng đắn và chuẩn xác về nền kinh tế Việt Nam để đưa ra các biện pháp đối phó kịp thời, hợp lý. - Khuyến khích sử dụng đa dạng hóa các loại ngoại tệ trong các giao dịch thương mại như USD, EUR, Nhân dân tệ, Yên Nhật, Bath Thái, Đôla Singapo…tránh tình trạng phụ thuộc quá nhiều vào một loại tiền nào đó đồng thời dễ dàng tạo lập sự cân bằng trong cung cầu ngoại tệ, cân đối và đa dạng hóa rổ tiền tệ của nền kinh tế. - Tăng cường, bổ sung cho Quỹ dự trữ ngoại hối của NHNN tương ứng với mức độ tăng trưởng GDP, tổng lượng thương mai quốc tế, tỷ lệ đô la hóa và tổng lượng ngoại tệ đang lưu hành… tại Việt Nam. Sau đó, cơ cấu lượng dự trữ ngoại tệ một cách hợp lý theo hướng đa dạng hóa nhiều loại ngoại tệ mạnh chứ không chỉ tập trung vào một số ít hoặc riêng USD để giảm thiểu và phân tán đựơc các rủi ro tỷ giá. - Củng cố và phát triển thị trường nội tệ liên ngân hàng với đầy đủ các hoạt động để tạo điều kiện cho NHNN kết hợp, điều tiết giữa 2 khu vực thị trường nội – ngoại tệ một cách thông suốt. - Tập trung hoàn thiện thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, thị trường hối đoái trong nước với các công cụ, loại hình giao dịch ngày càng phong phú để tạo điều kiện tăng cường các hoạt động trao đổi, mua bán, hạn chế tình trạng đầu cơ, găm giữ ngoại tệ, đảm bảo cân bằng cung cầu trên thị trường. - Các cơ chế quy định chặt chẽ quyền lợi và nghĩa vụ của các tổ chức tài chính, tín dung nhằm hoàn thiện thị trường ngoại hối và thực hiện các chính sách ngoại hối nói riêng và tiền tệ nói chung theo đúng định hướng Nhà Nước. - Cân nhắc cẩn trọng tác dụng và tác hại của các biện pháp hành chính trước khi ban hành như nghiêm cấm mua bán ngoại tệ tự do trên thị trường, buộc các doanh nghiệp xuất khẩu phải bán hết ngoại tệ cho nhà nước, không được phép niêm yết tỷ giá hối đoái tự do, tất cả các nghiệp vụ thanh toán ngoại hối phải thông qua kênh NHNN… Trong ngắn hạn, những chính sách này thường có tính bình ổn rất cao, tức thời. Tuy nhiên, trong trung và dài hạn thường để lai những hậu quả nghiêm trọng vì sự khó khăn trong mua bán ngoại tệ thường dẫn tới nền kinh tế kém tính lưu động và môi trường đầu tư kém hấp dẫn. 3.3. Khuyến nghị riêng, cụ thể về cơ chế và chính sách tỷ giá hối đoái trong năm 2010. Bên cạnh các giải pháp, khuyến nghị và định hướng chung về điều hành cơ chế, chính sách tỷ giá hối đoái trong bối cảnh phục hồi kinh tế kể trên, chúng tôi cũng đưa ra những khuyến nghị riêng đặc biệt cho năm bản lề 2010 – gạch nối giữa giai đoạn cuối khủng hoảng và đầu phục hồi. 3.3.1. Cơ chế Như đã khuyến nghị ở mục 3.2.1 kể trên, chúng tôi cho rằng Việt Nam nên tranh thủ ngay giai đoạn phục hồi kinh tế này để tiến hành chuyển đổi mạnh mẽ từ cơ chế neo tỷ giá có điều chỉnh biên độ sang cơ chế thả nổi có điều tiết. Tuy vậy, xét tình hình thực tế riêng, năm 2010 vẫn chưa đủ điều kiện để thực hiện việc này. Do vậy, chúng tôi khuyến nghị vẫn tiếp tục duy trì cơ chế neo tỷ giá có điều chỉnh biên độ kèm theo các biện pháp bổ sung để hạn chế những yếu điểm của cơ chế cũ, đồng thời chuyển đổi dần dần từng bước. Sự điều hành tỷ giá cần phải có tính linh hoạt, kịp thời trên cơ sở thị trường. Để tạo dựng tâm lý ổn định và niềm tin, các chính sách cần phải công khai, minh bạch và đồng nhất. 3.3.2. Xây dựng và theo dõi mô hình cảnh báo sớm tình trạng khủng hoảng thị trường ngoại hối và tỷ giá hối đoái. Năm 2010 đựơc đánh giá là thời điểm bắt đầu của sự hồi phục sau chuỗi ngày khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế 2007 – 2009 của Việt Nam. Rất nhiều các chuyên gia vẫn đang đặt nghi vấn liệu kinh tế đã thực sự hồi phục hay chưa? Hay chỉ đơn thuần là một điểm chững giả trước khi tiếp tục chìm xuống đáy sâu hơn. Do vậy, trong năm 2010 phải cấp thiết xây dựng và theo dõi chặt chẽ mô hình cảnh báo sớm tình trạng khủng hoảng, đặc biệt đối với thị trường ngoại hối và tỷ giá hối đoái. Mô hình mà chúng tôi kiến nghị sau đây là sự tập hợp của một loạt các dấu hiệu thể hiện nguy cơ khủng hoảng trong tương lai. 3.3.2.1. Mô hình khủng hoảng thế hệ thứ nhất Mô hình khủng hoảng thế hệ thứ nhất do Krugman xây dựng vào năm 1979 bao gồm các dấu hiệu, điều kiện nổi bật sau: - Các quốc gia đang phát triển, trong giai đoạn chuyển đổi - Nền kinh tế non yếu, kinh tế vĩ mô bất ổn - Cơ chế tỷ giá hối đoái neo cố định - Cán cân vãng lai, ngân sách Nhà nước thâm hụt nghiêm trọng - Tồn tại các hoạt động đầu cơ ngoại hối, quy mô ngày càng lớn, tỷ lệ đô la hóa trong ngân hàng và cả nền kinh tế cao - Chính phủ in tiền thiếu kiểm soát, cung nội tệ tăng đột biến, tốc độ tăng trưởng tín dụng cao, nguồn dự trữ ngoại hối yếu - Lạm phát phi mã Mô hình khủng hoảng này của Krugman được thể hiện rõ nhất qua các cuộc khủng hoảng ở một số nước Mỹ La tinh (Áchentina, Mêxicô,…) cuối những năm 1970, đầu 1980. Kết quả là đồng nội tệ bị phá giá và khủng hoảng tỷ giá, tiền tệ xảy ra. 3.3.2.2. Mô hình khủng hoảng thế hệ thứ hai Mô hình khủng hoảng thế hệ thứ hai được Obsfelt phát triển vào năm 1994 – 1995, tập trung vào hiện tượng dẫn tới khủng hoảng tự phát. Sau đây là các dấu hiệu, điều kiện cơ bản: - Các quốc gia đang phát triển hoặc tương đối phát triển - Cơ chế điều hành tỷ giá hiện tại tỏ rõ tính thiếu hợp lý, tốn kém, cồng kềnh - Xuất hiện tràn lan các tin đồn gây nhiễu loạn và tâm lý hoảng loạn bầy đàn - Xuất hiện tình trạng đầu cơ ngoại hối với quy mô và mức độ ngày càng lớn. 3.3.2.3. Mô hình khủng hoảng thế hệ thứ ba Mô hình khủng hoảng thế hệ thứ ba được Yoshitomo và Ohno xây dựng vào năm 1999 (còn được gọi là khủng hoảng kép tiền tệ - ngân hàng) với các dấu hiệu, điều kiện đặc trưng cơ bản sau: - Không loại trừ một quốc gia nào - Giai đoạn đầu: luồng vốn đầu tư nước ngoài đổ vào rất mạnh mẽ, cầu nội tệ tăng cao, dự trữ ngoại hối tăng mạnh, thặng dư cán cân thanh toán, tín dụng tăng trưởng nhanh, hoạt động đầu tư nở rộ, sản xuất dư thừa. Nền kinh tế tăng trưởng mạnh mẽ. - Giai đoạn hai: Các dòng vốn đầu tư ngắn hạn chuyển dịch mạnh sang các lĩnh vực ngoài sản xuất, các thị trường chứng khoán, bất động sản…tăng nóng. Bong bóng kinh tế hình thành - Giai đoạn ba: Bong bóng vỡ, thị trường bất động sản, cổ phiếu sụt giảm nhanh chóng và đóng băng. Vốn đầu tư nước ngoài bị rút về ồ ạt. Cán cân thanh toán, cán cân vãng lai thâm hụt trầm trọng. - Hiệu quả các hoạt động đầu tư vào các dự án dài hạn yếu kém. - Mất cân đối tài sản Nợ - Có trong hệ thống ngân hàng, ngân hàng nhận tiền gửi bằng ngoại tệ và cho vay bằng nội tệ quá nhiều, nới lỏng tín dụng, cho vay ồ ạt dưới chuẩn. Cuộc khủng hoảng kinh tế các nước trong khu vực Đông Nam Á 1997 (tiêu biểu Thái Lan, Singapore…) là những ví dụ điển hình của mô hình khủng hoảng thế hệ thứ ba với hệ quả là tài sản ròng các ngân hàng sụt giảm mạnh dẫn tới phá sản hàng loạt, đồng nội tệ bị phá giá, tín dụng thắt chặt đe dọa các ngành sản xuất kinh doanh. Khủng hoảng ngân hàng – Khủng hoảng tiền tệ - Khủng hoảng kinh tế tạo thành cái vòng luẩn quẩn khó lòng thoát ra được. 3.3.2.4. Mô hình cho Việt Nam Nhóm nghiên cứu của chúng tôi cho rằng, các mô hình trên hoàn toàn thích hợp để áp dụng cho Việt Nam. Cùng với đó, thạc sĩ Đặng Đức Anh (Bộ kế hoạch và đầu tư) trong một nghiên cứu mới đây cũng đã mô hình hóa các dấu hiệu cảnh báo phù hợp với đặc trưng riêng của Việt Nam thông qua các bộ chỉ số sau: Chỉ số thông báo Thuyết minh Tài khoản vãng lai + Cán cân tài khoản vãng lai/GDP + Chênh lệch xuất nhập khẩu + Chênh lệch tỷ giá thực và tỷ giá dan nghĩa + Cán cân thương mại / GDP + Thâm hụt / Thặng dư cán cân thanh toán - Việt Nam đang đánh giá cao đồng nội tệ cùng với tình trạng nhập siêu lớn làm cho cán cân vãng lai suy yếu trầm trọng, dẫn tới khủng hoảng tiền tệ - Đồng nội tệ cao giá làm cho hệ thống ngân hàng trở nên bất ổn, về lâu dài dễ dẫn tới khủng hoảng ngân hàng và khủng hoảng tiền tệ Tài khoản vốn + Tài sản Nợ ngoại tệ / Tài sản Có ngoại tệ + Tín dụng nội địa / GDP + Chênh lệch lãi suất cho vay và tiền gửi + Cho vay / tiền gửi + M1/ GDP + Cung tiền tệ M2 + Lãi suất thực VND - Một tài khoản vốn có vấn đề thể hiện rất rõ các bất ổn trong dự trữ ngoại hối, nợ nước ngoài ngắn hạn tăng nhanh, mất cân đối về kì hạn và tiền tệ, dễ dẫn đến tình trạng rút vốn ồ ạt ra nước ngoài. Khu vực sản xuất + Chỉ số giá tiêu dùng + Chỉ số chứng khoán + Chỉ số bất động sản - Sự suy thoái và bong bóng giá tiêu dùng, giá chứng khoán, giá bất động sản là các dấu hiệu rõ nét của khủng hoảng ngân hàng, khủng hoảng tiền tệ Khu vực tài chính công + Cho vay của NHNN cho ngân sách/ GDP + Cân đối ngân sách / GDP + Chi thường xuyên ngân sách / GDP + Tín dụng cho khu vực công / GDP - Thâm hụt ngân sách làm suy yếu cán cân vãng lai, phá giá đồng nội tệ, gây sức ép lên thị trường ngoại hối Kinh tế toàn cầu + Giá dầu thế giới + Tỷ giá của đô la Mỹ với các đồng ngoại tệ mạnh khác + Tỷ giá của đồng nhân dân tệ / USD + Chênh lệch lãi suất thực và danh nghĩa ở Mỹ + Tỷ lệ tăng trưởng kinh tế ở Mỹ - Giá dầu trên thế giới ảnh hưởng tới vị thế của USD và tỷ giá hối đoái USD/VND, tạo ra nguy hiểm tới tài khoản vãng lai và dẫn tới suy thoái kinh tế. - Lãi suất cao trên thị trường thế giới thúc đẩy luồng ngoại tệ dịch chuyển ra khỏi Việt Nam - Tỷ giá USD và các ngoại tệ khác ảnh hưởng và gây sức ép tới điều hành các chính sách tỷ giá của Việt Nam (đặc biệt là NDT vì Việt Nam đang có thâm hụt thương mại rất lớn với Trung Quốc) 3.3.3. Điều phối tỷ giá thông qua các tác nhân tác động 3.3.3.1. Kiểm soát dòng tiền ngoại tệ Việt Nam là một nền kinh tế đang chuyển mình phát triển, được coi là đích đến đầu tư tiềm năng của rất nhiều các doanh nghiệp nước ngoài, do vậy các dòng vốn ngoại tệ ra vào liên tục là điều khó tránh khỏi. Trong giai đoạn khủng hoảng vừa qua, Việt Nam đã phải chứng kiến rất nhiều dòng vốn ngắn hạn đột ngột rút về, gây ra biến động khôn lường trên thị trường ngoại hối, đồng nội tệ mất giá kỉ lục, khó khăn nghiêm trọng cho từng ngành nói riêng và cả nền kinh tế nói chung. Hơn thế nữa, đa số nguồn vốn ngoại tệ hiện nay được đầu tư vào các thị trường chứng khoán, vàng, bất động sản…xét về trung và dài hạn đều làm suy yếu khả năng cạnh tranh của nền kinh tế. Do vậy, vấn đề cấp thiết đặt ra trong năm 2010 (với đặc trưng nền kinh tế còn dễ đổ vỡ, nhạy cảm và dòng vốn ngoại tệ đang chảy vào mạnh mẽ) là kiểm soát chặt chẽ, thanh lọc các nguồn ngoại tệ nhằm tối đa hóa những lợi ích thu được hướng tới mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô và tăng trưởng bền vững. Đầu tiên, cần thiết phải đưa ra các chính sách ưu tiên cho dòng vốn dài hạn và hạn chế các dòng vốn ngắn hạn mang tính chất đầu cơ cao như ưu tiên về mặt thanh toán, chuyển đổi, chi phí, tỷ giá….NHNN phối hợp với các Bộ, ban ngành khác đề xuất các chính sách tiền tệ, chính sách đầu tư hợp lý, thống nhất để tạo dựng niềm tin lâu dài cho các doanh nghiệp nước ngoài sẵn sàng ở lại. Thứ hai, linh họat tỷ giá hối đoái, tránh định giá cao đồng nội tệ khiến cho các dòng vốn ngoại lo ngại đầu tư lâu dài, đến một thời điểm nào đó khi đồng Việt Nam không còn kìm giữ được, mất giá, khi quy đổi ngược trở lại ngoại tệ sẽ khiến cho các doanh nghiệp này bị thiệt hại nặng nề. Thứ ba, các sự thay đổi trong cơ chế, chính sách tỷ giá nên diễn ra từ từ, có lộ trình, tôn trọng thị trường, tránh tình trạng áp đặt, gây shock, gây lo ngại đến khả năng chuyển đổi và bảo toàn nguồn vốn của các nhà đầu tư nước ngoài. Thứ tư, đối với dòng ngoại tệ chảy ra với mục tiêu nhập khẩu, có các chính sách ưu tiên về mặt thanh toán, chuyển đổi, chi phí, tỷ giá… cho việc mua máy móc, công nghệ, trang thiết bị sản xuất, nguyên vật liệu; kìm hãm việc mất nguồn ngoại hối cho các hoạt động nhập khẩu mặt hàng tiêu dùng xa xỉ. Năm 2010, nguy cơ nhập siêu là không hề nhỏ, nước ta vẫn cứ phải làm mất giá đồng nội tệ để tăng xuất khẩu, giảm nhập khẩu. Một loạt các biện pháp gián tiếp nên được áp dụng để kiểm soát dòng tiền xuất nhập khẩu này như hàng rào thuế quan, hàng rào kĩ thuật.. Thứ năm, kiểm soát chặt chẽ các hình thức huy động vốn nợ từ nước ngoài bằng ngoại tệ thông qua trái phiếu, giấy tờ có giá…của Chính phủ và các doanh nghiệp. 3.3.3.2. Lạm phát Năm 2009, bằng những chính sách kịp thời, phù hợp, lạm phát ở Việt Nam đã được kìm hãm ở mức 6,88%. Tuy nhiên, các chuyên gia ở Trung tâm nghiên cứu kinh tế và chính sách Việt nam nhân định rằng, năm 2010, con số này khó có khả năng ở dưới mức 10%. Khi nền kinh tế đang bước đầu hồi phục và các gói kích cầu hỗ trợ không còn nữa, lạm phát sẽ lại một lần nữa trở thành vấn đề nan giải và ảnh hưởng lan tỏa tới toàn bộ hệ thống tỷ giá hối đoái và hệ thống tiền tệ ở Việt Nam. Để tránh lạm phát cao, chúng tôi khuyến nghị Việt Nam nên dần dần thắt chặt tiền tệ và tín dụng, tuy nhiên không quá cứng rắn tức thời, mà cần linh hoạt để duy trì được tính thanh khoản cho nền kinh tế. Trước áp lực tín dụng tăng cao trong năm 2009 và vài tháng đầu năm 2010, tâm lý lo ngại và sự kì vọng lạm phát cao là điều hoàn toàn tất yếu. Sau khi một lượng lớn cung tiền được đổ vào nền kinh tế thông qua các gói cứu trợ của Chính phủ (145.600 tỷ đồng – nguồn: Bộ trưởng Kế hoạch và đầu tư Võ Hồng Phúc), giờ đây cấp thiết phải giảm cung tiền và thu nội tệ về, tránh tình trạng mất giá nghiêm trọng đồng nội tệ. Đứng trước mâu thuẫn giữa nhu cầu tăng trưởng kinh tế cao của giai đoạn phục hồi và tỷ lệ lạm phát cao, chúng tôi khuyến nghị rằng năm 2010 này Việt Nam vẫn nên chú trọng hơn tới việc kìm hãm lạm phát, bình ổn các biến kinh tế vĩ mô trước khi hướng tới tăng trưởng kinh tế. 3.3.3.3. Lãi suất Song hành với định hướng giảm lạm phát, thắt chặt tiền tệ và tín dụng, lãi suất danh nghĩa sẽ có khuynh hướng giữ ở mức cao. Nếu lãi suất tiếp tục tăng cao hơn nữa sẽ gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới các hoạt động của doanh nghiệp, tăng tỷ lệ tiết kiệm toàn dân, giảm chi tiêu,…toàn bộ các kết quả của gói kích thích 1 tỷ đô la hỗ trợ lãi suất và 7 tỷ đô la hỗ trợ kích cầu (nguồn: www.sbv.gov.vn) coi như sẽ đổ xuống sông xuống biển. Tuy vậy, chúng tôi không cho rằng năm 2010 này Việt Nam nên duy trì mặt bằng lãi suất huy động và cho vay thấp nhằm tạo nguồn cung vốn rẻ cho thị trường. Việc giữ lãi suất huy động thấp có thể dẫn tới các luồng đầu tư nước ngoài chuyển dịch sang thị trường các nước có mức lãi suất hấp dẫn hơn, gây xáo trộn hệ thống tỷ giá, tiền tệ, tạo bong bóng và ảnh hưởng kinh tế vĩ mô. Các nguồn vốn vay rẻ được đầu tư thiếu hiệu quả. Ngân hàng trở nên khan hiếm vốn và nhiều nợ xấu, mất cân bằng Nợ - Có, gây hỗn loạn toàn bộ các thị trường tiền tệ, lan tỏa tới cả thị trường ngoại hối. Đồng nội tệ sẽ liên tục mất giá kèm theo tình trạng đầu cơ ngoại hối. Việc Việt Nam hiện nay giữ trần lãi suất huy động là tương đối gượng ép nhưng lại phù hợp với tình hình thực tiễn và chúng tôi khuyến nghị tiếp tục giữ chính sách này. Nếu bỏ trần lãi suất, cái ngân hàng có thể đẩy lãi suất huy động lên rất cao làm tâp trung rủi ro vào hệ thống ngân hàng. NHNN có thể điều chỉnh mức trần để lãi suất tiền gửi thực là dương, từ đó hạn chế một phần tác động của sự tăng giá USD. Ngoài một vài nước đô la hóa chính thức hoàn toàn như Bolivia, Panama…Việt Nam là quốc gia duy nhất với tình trạng đô la hóa bán phần và không hơp pháp duy trì cơ chế nhận và trả tiền gửi bằng đô la, đồng thời niêm yết cả tỷ giá đô la. Hình thức này mặc dù có thể thu hút nguồn ngoại tệ từ dân vào tập trung tại hệ thống ngân hàng, tuy nhiên lại dẫn tới tình trạng chuyển sang găm giữ ngoại tệ, đô la hóa ngày càng trầm trọng, gây áp lực lên hệ thống tỷ giá hối đoái, làm nhiễu loạn hệ thống tiền tệ. Do vậy, chúng tôi thấy rằng hoàn toàn không cần thiết áp dụng hình thức này. KẾT LUẬN Cơn bão khủng hoảng tài chính toàn cầu 2007 – 2009 đã nhen nhóm chỉ một thời gian ngắn ngay sau khi Việt Nam chính thức gia nhập WTO, đe dọa những thành tựu vượt bậc trong phát triển kinh tế trước đó. Là một nền kinh tế mới mở cửa và hội nhập, Việt Nam đã gặp phải không ít những thách thức, tác động lớn nhỏ trong giai đoạn khủng hoảng vừa qua nhưng cũng tìm thấy những cơ hội mới trong bối cảnh phục hồi hiện nay. Những khó khăn, ảnh hưởng từ bên ngoài đã làm bộc lộ nhiều bất cập của kinh tế Việt Nam, như cơ chế quản lí, chính sách điều hành còn thiếu nhất quán, môi trường đầu tư nhiều rào cản, sự minh bạch hóa hệ thống tài chính,…Bởi vậy, nhiệm vụ quan trọng nhất lúc này là phải thực hiện cải cách sâu rộng trên mọi phương diện hướng tới mục tiêu tăng trưởng bền vững trong tương lai. Chính sách tỷ giá hối đoái vốn được coi là một trong những công cụ chính và quan trọng nhất của NHNN trong việc ổn định và phát triển hệ thống tiền tệ tài chính cũng như toàn bộ nền kinh tế vĩ mô lại đang tỏ rõ sự thiếu hiệu quả và ẩn chứa nhiều nguy cơ. Nhằm khắc phục những thiếu sót của cơ chế tỷ giá hối đoái hiện tại, một sự chuyển mình mạnh mẽ sang cơ chế tỷ giá thả nổi có điều tiết từ cơ chế neo tỷ giá có điều chỉnh biên độ là hoàn toàn hợp lý nhưng cần phải có lộ trình hướng đi từng bước cụ thể, rõ ràng. Hầu hết các chính sách nên được xem xét theo hướng tự do hóa và tôn trọng thị trường. Như Milton Friedman đã nhấn mạnh “nên để cơ chế tỷ giá được thả nổi, tự điều tiết nhằm phản ứng lại những cú sốc xảy ra đối với nền kinh tế hơn là cố định tỷ giá để rồi phải điều chỉnh các biến số khác”. Thực tế hiện nay mọi cải cách khuyến nghị có thực sự đem lại hiệu quả hay không vẫn chưa được kiểm chứng và còn mang tính dự báo dựa trên lý thuyết và kinh nghiệm của các quốc gia đi trước. Những tiền đề thành công khi thả nổi chế độ tỷ giá hối đoái ở các quốc gia khác là cơ sở giúp chúng ta tin tưởng rằng vẫn có các giải pháp hữu hiêu giải quyết bài toán tỷ giá tại những đất nước đang phát triển như Việt Nam. Câu hỏi đặt ra là “ Liệu các cơ quan chức năng, những nhà hoạch định chính sách có thực sự quyết tâm cải cách triệt để vấn đề tỷ giá hối đoái trước sức ép từ các nhóm lợi ích và cơ chế mệnh lệnh hành chính vốn đã tồn tại từ lâu như một thông lệ tại Việt Nam hay không?” vẫn chưa có lời giải đáp. Do vậy, trong khuôn khổ giới hạn của đề tài nghiên cứu, các kiến nghị đề xuất của chúng tôi đều có tính chất định tính và định hướng chung. Để có thể áp dụng thực sự hiệu quả, cần thiết đòi hỏi những nghiên cứu sâu hơn, cụ thể hóa và định lượng hóa trong những chuyên đề kế tiếp. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO TS. Nguyễn Đức Thành et al. (2010), “ Báo cáo kinh thường niên kinh tế Việt Nam 2010” ThS.Đặng Đức Anh et al. (2008), “Phối hợp chính sách lãi suất và tỷ giá nhằm đảm bảo tăng trưởng nhanh và bền vững trong quá trinh hội nhập kinh tế quốc tể ở Việt Nam” TS. Nguyễn Văn Tiến (2006), “Tài chính quốc tế hiện đại trong nền kinh tế mở”, Nhà xuất bản Thống kê World Bank (2009), “ World Economic Outlook” Tổng cục thống kê (2009-2010), Số liệu thống kê hàng tháng GS.TSKH Lương Xuân Quỳ, GS.TS Mai Ngọc Cường, TS Lê Quốc Hội, 2010, “Tổng quan kinh tế Việt Nam năm 2009 và khuyến nghị chính sách cho năm 2010” Ngân hàng ngoại thương Việt nam, 2009-2010, “Số liệu tỷ giá hối đoái liên ngân hàng theo tháng Rate Inflation, 2010, “USA Historical Inflation rate” Vietnam Economic Statistic, 2010, “Vietnam Economic Indicators for the year 2009” TS. Nguyễn Văn Tiến, (1999) “Cẩm nang thị trường ngoại hối và các giao dịch kinh doanh ngoại hối”, Nhà xuất bản thống kê, T.P Hồ Chí Minh Heinz Riehl, Rita M. Rodriguez,(2007), “Foreign Exchange and Money Markets – Managing Foreign and Domestic Currency Operations”, McGraw – Hill “ Chính sách tỷ giá hối đoái và việc thu hút đô la trong việc giảm lạm phát” Nguyễn Thành Kiên , (2008), “Tỷ giá hối đoái và vấn đề tỷ giá hối đoái hiện nay ở Việt Nam”, Học viện tài chính

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc26620.doc
Tài liệu liên quan