Đề tài Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn trong khẩu hiệu “Tiết kiệm là quốc sách”

Việc ra đời thị trường chứng khoán đã tạo điều kiện cho người dân có cơ hội đầu tư, dù vốn ít hay nhiều, vào các công ty cổ phần để sử dụng nguồn tiết kiệm của họ có hiệu quả nhất. Đồng thời, nó tạo ra khả năng chia sẻ lợi nhuận của các doanh nghiệp trong những ngành kinh tế có triển vọng giữa đông đảo tầng lớp dân cư, tạo điều kiện huy động vốn để xây dựng những công trình công nghiệp lớn của quốc gia. Muốn đẩy nhanh tốc độ phát triển thị trường chứng khoán cần làm tốt các giải pháp sau: . Phải tạo hàng hoá cho thị trường chứng khoán. Muốn vậy, cần đẩy nhanh quá trình cổ phần hoá DNNN và thành lập các công ty cổ phần tư nhân. Tiếp tục triển khai việc phát hành các loại tín phiếu, kỳ phiều, trái phiếu và cho phép được mua bán, chuyển nhượng công khai trên thị trường tiền tệ. Các công ty cổ phần cũng cần phát hành các loại chứng khoán không ghi danh, và có mệnh giá thích hợp để tạo điều kiện cho mọi tầng lớp nhân dân đều có khả năng mua được.

doc36 trang | Chia sẻ: Kuang2 | Lượt xem: 877 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn trong khẩu hiệu “Tiết kiệm là quốc sách”, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
à tiết kiệm trong dân cư. Nếu các kênh huy động vốn hoạt động có hiệu quả thì đại bộ phận nguồn tiết kiệm trong dân đó sẽ sẵn sàng tích trữ nguồn tiết kiệm đó dưới dạng mua vàng, ngoại tệ hoặc các tài sản có giá trị, thay vì gửi chúng vào ngân hàng hay các kênh huy động tài chính khác. Đó sẽ là một sự lãng phí nguồn lực rất lớn đối với một đất nước còn đang rất khát vốn đầu tư như chúng ta. Có được vốn huy động rồi , nếu muốn biến chúng thành vốn đầu tư thực hiện, đòi hỏi ngân hàng và các tổ choc tín dụng phải có những chính sách cho vay hấp dẫn, môi trường đầu tư thuận lợi đủ sức khuyến khích các doanh nghiệp vay vốn để mở rộng sản xuất. Vì thế, tăng cường thu hút vốn trong dân mà không có các biện pháp khuyến khích đầu tư thì sẽ dẫn đến tình trạng ứ đọng trong ngân hàng như tình hình của Việt Nam trong những năm 1996 - 1997. Kinh nghiệm của một số nước về vấn đề: “ tiết kiệm là quốc sách “ - Thái Lan: Năm 1997, Thái Lan đang đắm chìm trong cuộc khủng hoảng tài chính, thế giới đã được chứng kiến hình ảnh cảm động người dân Thái lũ lượt đi quyên góp để cứu ngân khố nước nhà. Có lẽ cũng từ kinh nghiệm đó, lúc này đang có ngày càng nhiều nhà nghiên cứu, phân tích kinh tế Thái Lan lên tiếng kêu gọi Chính phủ thực hiện chủ trương tiết kiệm để giải quyết những khó khăn kinh tế - xã hội của đất nước. Có điều, tiết kiệm ở đây không theo nghĩa thông thường, mà phải là sự kết hợp vận động của tất cả các lĩnh vực tâm lý, xã hội, hành chính . . . thông qua cả khu vực Nhà nước lẫn khu vực tư nhân. Theo báo Matichon, một tờ báo lớn có uy tín ở Thái Lan, tiền gửi tiết kiệm dù chỉ là phần của thu nhập còn dư lại sau khi chi tiêu nhưng có vai trò quan trọng trong hoạt động của bộ máy kinh tế ở cấp vĩ mô cũng như trong ổn định kinh tế của các cá nhân, các tổ chức tư nhân. Tờ báo viết: ở cấp vĩ mô, nếu ngành kinh tế nào không đủ tiền tiết kiệm cho đầu tư theo mong muốn của ngành mình thì sẽ phải lệ thuộc vào đầu tư từ bên ngoài một cách triền miên. Do vậy, tiền tiết kiệm trở thành vấn đề đặc biệt quan trọng đối với mọi nền kinh tế. Các nhà lãnh đạo kinh tế cần phải xây dựng điều kiện và môi trường thu hút thích hợp để hạn chế việc xảy ra tình trạng quá nóng đồng thời đầu tư ở mức thích hợp với lượng tiền tiết kiệm theo tốc độ tăng trưởng kinh tế hợp tình hợp lý. Đối với việc gửi tiết kiệm từ khu vực tư nhân, hệ thống điều hành tốt của các tổ chức, tức là mức độ minh bạch, công bằng trong làm việc ( người lãnh đạo không tham nhũng của công ty và của các cổ đông ) cũng góp phần tạo ra tiền gửi tiết kiệm ( bao gồm cả phần dư của số lãi từ phân chia lợi nhuận mà cổ đông được hưởng ) một cách có hiệu quả. Đối với khu vực Nhà nước, tiền gửi tiết kiệm bao gồm phần thu nhập thực sự còn lại sau khi chi tiêu sẽ xuất hiện khi công tác điều hành hoạt động tốt. Tiền NSNN không bị biển thủ dẫn tới chi tiêu hợp lý vào các dự án đúng đắn. Nói tóm lại là phải có tầm nhìn tài chính trong khu vực Nhà nước để tạo ra được số dư tiết kiệm. Do vậy, cách hiểu coi tiền gửi tiết kiệm chỉ là vấn đề kinh tế có thể giải quyết đơn thuần bằng biện pháp kinh tế như tỷ lệ lãi suất là cách hiểu sai. Phải huy động tất cả các lĩnh vực tâm lý, xã hội, hành chính . . . thông qua khu vực Nhà nước, khu vực tư nhân và nhân dân thì mới có thể giải quyết được vấn đề tiền gửi tiết kiệm ngắn hạn cũng như dài hạn. Một ví dụ khác về việc không chỉ dùng biện pháp kinh tế mà phải kết hợp nhiều lĩnh vực để giải quyết khó khăn là sự ủng hộ của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tờ báo viết: nhìn chung, người ta quan niệm rằng biện pháp tiền tệ là sự ủng hộ quan trọng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ. Nhưng thực ra tiền tệ mới chỉ là biện pháp cần chứ chưa đủ. Tình trạng thiếu vốn của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Thái Lan tuy đã được đáp ứng trong giai đoạn xảy ra khủng hoảng kinh tế nhưng còn có những điều khác biến doanh nghiệp nhỏ trở thành mạch máu kinh tế. Đó là kinh nghiệm và trình độ kinh doanh, bao gồm từ vạch kế hoạch, đánh giá tình hình và triển vọng lưu thông tiền mặt, tính khả thi của kế hoạch, cho tới vấn đề tài chính, kế toán. - Chilê và Singapore: Hai quốc gia rất thành công trong vấn đề tiền gửi tiết kiệm. Chilê sử dụng hệ thống tiết kiệm bắt buộc, đòi hỏi trích tiền thu nhập của mọi cá nhân lao động để thành lập ngân quỹ. Biện pháp này đã trở thành kiểu mẫu được áp dụng ở khắp thế giới. Singapore cũng áp dụng hình thức tương tự để tạo ngân quỹ và đem đi đầu tư khắp thế giới. Điều này tạo ra ngân quỹ ổn định cho đời sống nhân dân lúc đang làm việc cũng như khi về hưu. Từ những nội dung nêu trên, việc hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ để làm cơ sở sinh sống cho không ít người lao động cần phải bao gồm các biện pháp toàn diện, chứ không đơn thuần hỗ trợ về tiền tệ. Nghĩa là, phải quan tâm đào tạo, hướng dẫn về hoạch định kinh doanh, hệ thống kế toán, tài chính cho doanh nghiệp. Đặc biệt, các nhà kinh doanh này phải thay đổi cách nhìn và tập quán để có khả năng tồn tại lâu dài trong thế giới kinh doanh hiện đại. Đã qua rồi thời chộp giật lợi nhuận bằng cách lừa gạt hoặc ép buộc người tiêu dùng, tổ chức lao động thiếu hiệu quả, quản lý kém cỏi của mọi doanh nghiệp, dù ở quy mô nào. Nếu như các khó khăn kinh tế có thể giải quyết thuần tuý bằng các biện pháp kinh tế thì khủng hoảng kinh tế của tất cả các quốc gia trên thế giới đều đã dễ dàng được tháo gỡ và các nhà kinh tế học sẽ là thần tượng của đông đảo công chúng. Nhưng trên thực tế, các kho khăn kinh tế đan xen từ nhiều góc độ và mọi biện pháp giải quyết đều là liều thuốc đắng ở mức độ nhất định. Tức là, sẽ phải có người mất việc làm, có người bị thiệt hại, mất mát địa vị trong doanh nghiệp và nếu không giải quyết dứt điểm thì còn có thể kéo theo những phát sinh nghiêm trọng khác. Chương 2 Thực trạng về vấn đề thực hành tiết kiệm ở Việt Nam trong thời gian qua Tiết kiệm trong khu vực Nhà nước Tiết kiệm của NSNN Như đã nói ở trên, vốn NSNN được huy động nhờ tiết kiệm chênh lệch giữa thu và chi của ngân sách quốc gia. Tình hình hoạt động ngân sách có thể thấy rõ qua bảng sau: Tóm tắt hoạt động ngân sách, giai đoạn 1996 - 2003 Chỉ tiêu 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 Thực tính ( tỷ đồng ) Tổng nguồn thu và viện trợ 21 30.7 42.1 53.4 62.4 66.3 68.6 69.5 Thu từ thuế 5.5 11.4 16.8 23.4 28.1 28.1 32.1 33.9 Đóng góp của DNNN 11.9 15.3 20.6 21.9 25.9 27.6 27.3 27.3 Nguồn thu ngoài thuế khác 2.8 3 3.5 6.5 6.9 8 7.3 6.4 Viện trợ 0.8 1 1.2 1.6 1.5 2.6 1.9 1.9 Tổng chi 22.9 36.9 43.9 54.6 62.9 40.8 72.5 74.5 Chi thường xuyên 15.5 25.6 31.1 39.6 44.6 49.4 49.5 48.5 Chi đầu tư ( không kể cho vay lại ) 6.4 9.6 11.7 12.1 15.6 19.5 19.8 23 Trả lãi 1 1.7 1.1 2.9 2.7 1.9 2 2.5 Dự phòng 0 0 0 0 0 0 1.2 0.5 Cán cân chung ( cơ sở tiền mặt ) -1.9 -6.2 -1.8 -1.2 -0.5 -4.5 -3.9 -5 Tỷ lệ phần trăm trong GDP Tổng nguồn thu và viện trợ 19 22.5 24.7 23.9 22.9 21.1 19 17.8 Thu từ thuế 5 8.3 9..9 10.5 10.3 9 8.9 8.7 Đóng góp của DNNN 10.8 11.2 12.1 9.8 9.5 8.8 7.5 7 Nguồn thu ngoài thuế khác 2.5 2.2 2.1 2.9 2.5 2.6 2 1.6 Viện trợ 0.8 0.7 0.7 0.7 0.6 0.8 0.5 0.5 Tổng chi 20.7 27.1 25.8 24.4 23.1 22.6 20.1 19.1 Chi thường xuyên 14 18.8 18.3 17.8 16.4 15.7 13.7 12.4 Chi đầu tư ( không kể cho vay lại ) 5.8 7 6.9 5.4 5.7 6.2 5.5 5.9 Trả lãi 1 1.3 0.6 1.3 1 0.6 0.6 0.6 Dự phòng 0 0 0 0 0 0 0.3 0.1 Cán cân chung ( sơ sở tiền mặt ) -1.7 -4.6 -1.1 -0.5 -0.2 -1.4 -1.1 -1.3 Ghi chú: GDP ( nghìn tỷ đồng ) 111 137 170 229 272 314 362 391 Nguồn: Ngân hàng Thế giới. Số liệu của Tổng cục Thống kê. Qua bảng trên, có thể thấy tỷ trọng thu ngân sách đã giảm liên tục từ kể từ năm 1999. Mặc dù so với kế hoạch mà chính phủ đặt ra thì con số đạt được nêu trên gần sát, nhưng việc đưa ra các con số kế hoạch thấp về mục tiêu thu ngân sách cũng kéo theo sự sụt giảm tương ứng trong các khoản chi. Tuy vậy, chi cho đầu tư vẫn được duy trì ở khoảng trên dưới 5.5% ngân sách hàng năm, trong đó tập trung chủ yếu vào chi cho hạ tầng cơ sở trong nông nghiệp. Mức thâm hụt ngân sách vẫn dừng ở mức tương đối ổn định, khoảng dưới 1.5% GDP. Tỷ trọng thu ngân sách giảm gần một phần tư so với năm 2000, theo đánh giá của các chuyên gia Ngân hàng Thế giới, chủ yếu bắt nguồn từ sự giảm sút nguồn thu từ thuế thu nhập doanh nghiệp và thuế nhập khẩu. Thu thuế doanh nghiệp giảm là do hoạt động kém hiệu quả của các DNNN, trong khi các DNTN tiếp tục gặp nhiều khó khăn trong những năm kể từ năm 2001 trở lại đây. Còn doanh thu thuế nhập khẩu giảm là do sự chuyển hướng cơ cấu nhập khẩu theo hướng hạn chế nhập hàng tiêu dùng, đồng thời tỷ trọng nhập khẩu trong GDP cũng giảm dần trong những năm qua. Điều này cho thấy, để giữ vững nguồn thu cho ngân sách thì việc cải cách hệ thống thuế, nhất là thành công của thuế VAT sẽ đóng vai trò cực kỳ quan trọng. Trong khi nguồn thu ngân sách giảm mạnh từ 23% GDP năm 2000 xuống dưới mức 18% năm 2003, chính phủ đã theo đuổi một chính sách thận trọng, không cho phép sự giảm sút nguồn thu ngân sách gây ra sự bất ổn định về ngân sách quốc gia, mà đã có sự cắt giảm chi tiêu một cách tương ứng. Tuy nhiên, phần lớn sự cắt giảm là các khoản chi cho dịch vụ kinh tế và chi hành chính. Còn chi đầu tư xây dựng cơ bản vẫn được duy trì và có sự gia tăng chút ít. Năm 2002 - 2003 cũng là giai đoạn chính phủ mở rộng hình thức đầu tư tín dụng Nhà nước - một loại ưu đãi tài chính của chính phủ đối với các dự án đầu tư. Mặc dù loại tài trợ này hoạt động trên nguyên tắc tự bù đắp nhưng ngân sách vẫn phải trợ cấp phần chênh lệch giữa lãi suất huy động của tổ chức cho vay và lãi suất cho vay ưu đãi mà các tổ chức này áp dụng theo địa chỉ mà Nhà nước hướng dẫn. Nếu những năm trước 1998, tỷ trọng vốn đầu tư bằng hình thức tín dụng Nhà nước trong tổng vốn đầu tư xã hội đều chỉ giữ ở mức khiêm tốn dưới 10% thì từ năm 1998 đến nay, tỷ trọng này đã không ngừng tăng lên. Đến năm 2002, nguồn đầu tư này đã chiếm đến hơn 15% tổng vốn đầu tư xã hội. Vì thế, việc tăng mạnh các loại hình cho vay này sẽ áp đặt một gánh nặng đáng kể lên ngân sách trong những năm tiếp theo. Tóm lại, có thể nêu một số điểm chính như sau về thực trạng công tác huy động và sử dụng vốn đầu tư qua NSNN: Vốn đầu tư từ NSNN đã và đang đóng một vai trò hết sức quan trọng trong việc đầu tư vào các lĩnh vực mang lại hiệu quả kinh tế xã hội cao, nhưng khả năng thu hồi vốn thấp khiến các nhà đầu tư tư nhân không thấy hấp ( như đầu tư vào cơ sở hạ tầng, xoá đói giảm nghèo ở nông thôn ). Trong những năm qua đã có sự chuyển hướng mạnh về định hướng đầu tư công cộng. Nhờ đó, đã có tác động tích cực đến việc điều chỉnh cơ cấu đầu tư nói chung và cơ cấu kinh tế. Công tác thu chi ngân sách chưa thật vững chắc, khiến cho nguồn đầu tư từ tiết kiệm ngân sách cũng chưa bền vững. Việc chống buôn lậu, chống thất thu thuế cho Nhà nước cũng chưa có nhiều chuyển biến tích cực. Ngân sách thường xuyên căng thẳng, vốn đầu tư quốc gia chưa được quản lý chặt chẽ, vẫn còn nhiều sơ hở, gây thất thoát lãng phí. Tích luỹ của các DNNN Như đã nói ở trên, nguồn vốn đầu tư của các DNNN chủ yếu dựa vào phần lợi nhuận để lại, bổ sung thêm vào nguồn vốn kinh doanh ( tái đầu tư ) của các doanh nghiệp. Hiện nay, thành phần kinh tế Nhà nước vẫn giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế. Số lượng các doanh nghiệp quốc doanh còn nhiều, tài sản của thành phần kinh tế này vẫn chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng tài sản quốc gia. Hoạt động kinh doanh của chúng vẫn nhận được nhiều sự ưu đãi của chính phủ về cấp phát vốn, cho vay ưu đãi, ưu đãi về thuế . . . Đáng tiếc, hoạt động của các doanh nghiệp này lại rất kém hiệu quả, do đó tiết kiệm của các doanh nghiệp này để bổ sung vào nguồn vốn đầu tư toàn xã hội chưa tương xứng với tầm vóc của chúng. Tình hình tài chính của các DNNN yếu kém Loại doanh nghiệp Yếu kém Không hiệu quả Số lượng DNNN 711 1989 Số lao động ( nghìn người ) 183 583 Tổng nợ ( nghìn tỷ đồng ) 19.5 42.5 Nợ ngân hàng ( nghìn tỷ đồng ) 14 29 Vốn Nhà nước ( nghìn tỷ đồng ) 10.2 52.5 Lợi nhuận trước thuế ( nghìn tỷ đồng ) -0.25 5 Nguồn: Bộ Tài chính và Ban Đổi mới Quản lý Doanh nghiệp Trung ương Từ bảng trên có thể thấy, các DNNN “ yếu kém nhất “ và “ hoạt động không có hiệu quả “ được phân loại trên cơ sở tỷ suất lợi nhuận và nợ, lần lượt có mức nợ gần 20 nghìn tỷ và 43 nghìn tỷ đồng ( tương ứng với khoảng 1400 và 3000 triệu đôla ) vào cuối năm 2001. Sự kém cỏi trong hoạt động của các DNNN nói chung đã làm giảm sức mạnh của nền kinh tế xét về ba khía cạnh. Thứ nhất, nó gây ra sự phân bổ sai, không hiệu quả các nguồn lực vốn còn rất khan hiếm của xã hội. Nếu khu vực tư nhân nói chung hoạt động hiệu quả hơn các DNNN thì việc nâng đỡ các DNNN này bằng ngân sách quốc gia đã làm lãng phí nguồn lực xã hội mà đáng lẽ phải hướng sang phục vụ các DNTN. Thứ hai, nếu các ngân hàng quốc doanh bị ép phải tiếp tục cho các DNNN thua lỗ này vay thì sẽ làm tăng lượng vốn khê đọng, và nguy hiểm hơn có thể làm mất khả năng chi trả của các ngân hàng. Thứ ba, những vấn đề nêu trên nếu không được giải quyết triệt để thì sẽ ngày càng làm tăng thêm chi phí cho các cuộc cải cách ngân hàng và DNNN. Theo ước tính, nếu không có các chính sách thích hợp, chi phí cho việc cơ cấu lại hệ thống ngân hàng ( xoá các khoản nợ không có khả năng thanh toán của các DNNN và tái cấp vốn cho các ngân hàng ) có thể sẽ tăng thêm hàng năm 1-2% GDP, trong khi mức dự kiến hiện nay đã vào khoảng 8 - 10% GDP. Như vậy, tình hình hoạt động bi quan của đa số các DNNN cho thấy không thể dự kiến gì nhiều về nguồn vốn do các DNNN này tự đầu tư trong thời gian tới so với những gì họ đã làm được trong những năm qua, nếu không muốn nói là tình hình còn có thể xấu hơn nữa. Cải cách mạnh khu vực này theo hướng sắp xếp lại DNNN, xúc tiến cổ phần hoá, kiên quyết sát nhập hoặc giải thể những doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả là hướng đi cần thiết để nâng cao hiệu quả hoạt động của chúng, giảm gánh nặng tài chính cho ngân sách quốc gia, đồng thời từng bước tạo điều kiện để các doanh nghiệp có được tích luỹ thực sự từ lợi nhuận do kết quả sản xuất kinh doanh hiệu quả của chính họ. Tiết kiệm trong khu vực tư nhân Tích luỹ của các DNTN Tỷ trọng đóng góp của khu vực tư nhân trong GDP năm 2000 vào khoảng 51%, trong đó riêng khu vực tư nhân trong nước ( không kể khu vực tư nhân nước ngoài ) là 41% ( xem bảng dưới ). Trong giai đoạn 1999 - 2002, tuy gặp nhiều trở ngại nhưng khu vực tư nhân Việt Nam vẫn tăng trưởng 9% một năm, chỉ kém khu vực Nhà nước có 1%. Tỷ trọng của khu vực tư nhân trong GDP năm 2000 ( % ) Tổng GDP GDP của ngành chế tạo Khu vực Nhà nước Các doanh nghiệp Nhà nước 49 54 Khu vực tư nhân Khu vực đầu tư nước ngoài 10 18 Khu vực đầu tư trong nước 41 28 trong đó: Các doanh nghiệp gia đình 34 18 DNTN vừa và nhỏ 7 10 Nguồn: Niên giám Thống kê, 2003. Khu vực tư nhân đang tạo ra gần một nửa GDP trong các ngành chế tạo, trong đó khu vực tư nhân vẫn chiếm ưu thế, và tỷ trọng này còn tiếp tục gia tăng. Các doanh nghiệp gia đình và DNTN vừa và nhỏ chiếm 28% GDP của ngành công nghiệp chế tạo. Tiếp tục những cải cách trong việc khuyến khích đầu tư tư nhân từ những năm trước, năm 1999, chính phủ đã tiến hành các biện pháp như: . Cho phép các công ty tư nhân Việt Nam góp quyền sử dụng đất của mình dưới dạng vốn sở hữu trong các liên doanh, khi họ đã trả đầy đủ tiền thuê đất. . Thành lập Diễn đàn Khu vực Tư nhân và gặp gỡ hàng quý để trao đổi các vấn đề liên quan đến quyền lợi của khu vực tư nhân trong nước và ngoài nước. . Thành lập Ban Chỉ đạo xây dựng chiến lược 5 năm phát triển khu vực tư nhân. . Công bố danh sách các khuyến khích mới dành cho các nhà đầu tư nước ngoài. . Thông qua Luật Doanh nghiệp, bãi bỏ sự hạn chế có tính chất phân biệt về quyền thành lập doanh nghiệp và tiến hành kinh doanh của bất kỳ một pháp nhân hoặc thể nhân nào, đơn giản hoá đáng kể các quy định thủ tục về đăng ký, tạo cơ sở pháp lý thống nhất cho tất cả các loại hình doanh nghiệp, kể cả doanh nghiệp cổ phần hoá. . Công bố cụ thể về chương trình hành động về khu vực tư nhân theo Kế hoạch Myazawa. Chương trình này không chỉ đề cập đến các vấn đề giảm bớt khó khăn trong quá trình lập DNTN và tạo sân chơi bình đẳng, mà còn nêu lên các định chế tín dụng và các cơ quan hỗ trợ cho khu vực tư nhân. Tuy nhiên, các doanh nhân đều cho rằng, chính sách mới còn chưa được tự do hoá đầy đủ và qua trình thực hiện các chính sách hiện hành còn rất chậm chạp. Một số điểm cụ thể về những trở ngại này là: . Về sự tham gia của khu vực tư nhân. Luật Doanh nghiệp vẫn chưa củng cố thêm tính chất tự do hoá. . Về khuôn khổ pháp lý của khu vực tư nhân. Vẫn chưa có một hệ thống khuôn khổ pháp lý thống nhất dành cho toàn bộ các doanh nghiệp tư nhân. . Chính sách đất đai. Vẫn có sự phân biệt về quyền sử dụng đất. Quyền sử dụng đối với đất thuê và các bất động sản khác sẽ không được chuyển nhượng nếu không được sự đồng ý của chính phủ trong từng trường hợp. Chưa có một hệ thống pháp lý thống nhất về đăng ký đất đai. Do đó, dễ gây ra sự tranh chấp về đất đai và gây khó khăn cho tổ chức tín dụng khi muốn xác định chủ sở hữu đích thực có quyền sử dụng đất. . Khả năng tiếp cận yếu đối với các nguồn nhập khẩu và mạng lưới xuất khẩu. Về xuất khẩu, thủ tục hải quan đối với hàng xuất khẩu còn rất rườm rà. Về nhập khẩu, các công ty bị hạn chế quyền nhập khẩu các mặt hàng không đăng ký trong giấy phép, và để xin được các giấy phép kinh doanh mới có liệt kê mặt hàng nhập khẩu thích hợp thì rất khó khăn. Thủ tục hải quan đối với hàng nhập khẩu cũng tốn thời gian và chi phí không kém, nhiều mặt hàng nhập khẩu vẫn chịu hạn chế của các hàng rào phi thuế quan. . Khả năng tiếp cận nguồn tín dụng còn hạn chế. Một nguyên nhân chính là các DNTN gặp rất nhiều khó khăn trong việc thoả mãn các yêu cầu thế chấp. . Các tổ chức hỗ trợ thị trường kém. Do đó, DNTN thiếu những kênh quan trọng để trao đổi, thu thập thông tin. Các dịch vụ hỗ trợ kinh doanh cũng còn hạn chế, do đó chưa tranh thủ được kinh nghiệm và trình độ thực hiện các công việc chuyên môn của những chuyên gia giỏi. Tất cả những trở ngại trên đây đang từng bước được chính phủ Việt Nam tích cực tìm cách tháo gỡ. Mặc dù đây không phải là công việc một sớm một chiều, nhưng với triển vọng ngày một thuận lợi của khu vực tư nhân, có thể dự kiến tỷ trọng vốn đầu tư của DNTN trong tổng vốn đầu tư xã hội trong những năm tới sẽ gia tăng mạnh mẽ. Tiết kiệm của các tầng lớp dân cư ở nước ta, người dân có tiền thường đưa vào những cách sử dụng chủ yếu sau: Mua ngoại tệ, vàng cất trữ. Cách làm này thường được áp dụng khi có sự biến động cao về tỷ giá hoặc tỷ lệ lạm phát. Đầu tư kinh doanh, kể cả việc mua đất đai, xây dựng khách sạn. . . Đây là hiện tượng phổ biến trong các năm 1989 - 1996. Theo một thống kê của các chuyên gia tài chính, đến cuối năm 1996, vốn của dân đầu tư vào sản xuất kinh doanh là 4.350 tỷ đồng. Mua cổ phiếu của các công ty cổ phần, ngân hàng thương mại cổ phần hay các công ty tài chính cổ phần. Hình thức này hiện nay chưa phổ biến, do số lượng các công ty cổ phần ở nước ta còn ít, thị trường chứng khoán chưa thành lập. Phổ biến nhất là việc các cán bộ công nhân viên chức trong các DNNN đứng ra mua cổ phần khi các doanh nghiệp này được cổ phần hoá. Mua trái phiếu Kho bạc Nhà nước. Hình thức này mới xuất hiện ở nước ta từ năm 1992 đến nay. Do lãi suất cao hơn nhiều so với lãi suất ngân hàng cùng kỳ hạn, lại là cách đảm bảo nhất nên hình thức trái phiếu Kho bạc đã hấp dẫn được rất nhiều tầng lớp dân cư trong những năm qua. Gửi tiền tiết kiệm thông qua hệ thống ngân hàng và các tổ chức tín dụng. Đây là hình thức được người dân lựa chọn nhiều nhất và cũng là kênh thu hút được khối lượng tiền nhàn rỗi của dân cư lớn nhất. Hùn vốn kinh doanh hoặc cho nhau vay trên thị trường phi chính thức dưới nhiều hình thức như chơi bụi, chơi họ . . . Giữ tiền mặt trong nhà cho tiện việc chi tiêu sử dụng. Khác với các nước khác, hình thức này cũng tương đối phổ biến ở nước ta, nhất là khi tỷ lệ giao dịch bằng tiền mặt trong nền kinh tế còn rất cao như hiện nay. Cơ cấu sử dụng nguồn tiết kiệm của dân cư được thể hiện rõ nét thông qua kết quả Điều tra Mức sống Dân cư vừa được Tổng cục Thống kê kết hợp với Ngân hàng Thế giới thực hiện trong năm 2001 - 2002, như bảng dưới đây. Tiền tiết kiệm, theo hình thức tiết kiệm của khu vực thành thị - nông thôn ( Đơn vị: phần trăm ) Chung Khu vực Thành thị Nông thôn Tổng số 100 100 100 Sổ tiết kiệm ngân hàng quốc doanh 14.2 17.8 9.31 Sổ tiết kiệm các ngân hàng khác, 4.29 7.1 0.46 HTX tín dụng, tín phiếu, kỳ phiếu Đôla Mỹ và ngoại tệ khác 2.26 3.83 0.13 Cổ phiếu, cổ phần, góp họ 3.2 3.09 3.35 Tiền mặt 26.27 23.71 29.76 Vàng, bạc, kim loại quý và đá quý khác 28.82 26.35 32.17 Đồ trang sức 18.65 15.84 22.46 Thóc gạo, sản phẩm cây trồng khác 0.22 0.06 0.44 Các hình thức khác 2.09 2.22 1.92 Nguồn: Điều tra Mức sống Dân cư lần II, năm 2001 - 2002. Qua bảng trên, có thể thấy hình thức tiết kiệm phổ biến nhất hiện nay là tích trữ vàng bạc, đá quý chiếm 28.82% các hình thức tiết kiệm. Sau đó là hình thức giữ tiền mặt chiếm 26.27%, hình thức thứ ba là đồ trang sức chiếm 18.65%. Nếu tính gộp các hình thức này, cộng với hình thức giữ ngoại tệ mạnh thì có đến 76% nguồn tiết kiệm của dân cư vẫn tồn đọng trong khu vực dân cư, và không được huy động vào phục vụ sản xuất. Còn nếu giả định lượng tiền mặt mà cá nhân giữ sẽ được huy động vào các hoạt động sản xuất kinh doanh của họ thì tỷ lệ vốn “ nằm chết “ trong dân cũng vào khoảng 50% tổng tiết kiệm dân cư. Những con số này tuy mới chỉ là sơ bộ, nhưng nó cũng tương xứng với ước tính của nhiều chuyên gia ngân hàng cho rằng có đến 60% tiết kiệm của dân cư vẫn tồn đọng trong khu vực này. Tính đến nay, hệ thống ngân hàng mới chỉ huy động được 18.5% tiết kiệm của dân cư. Tốc độ tăng bình quân hàng năm của vốn huy động qua hệ thống ngân hàng và các tổ chức tài chính giai đoạn 1996 - 2001 là 37,1%, trong đó huy động bằng nội tệ tăng 50.9%, bằng ngoại tệ tăng 22.95%. Tuy nhiên, trong năm 2003, xu hướng này đã đảo ngược. Vốn huy động bằng ngoại tệ đã tăng nhanh hơn vốn huy động bằng nội tệ. Tại hai thành phố lớn là Hà Nội và TP.Hồ Chí Minh, tốc độ tăng vốn huy động bằng ngoại tệ đã gấp từ 1.5 đến 2 lần tốc độ tăng vốn huy động bằng nội tệ. Nguyên nhân chính là do tỷ giá trong năm qua đã ổn định. Tỷ trọng vốn tín dụng trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội năm 1995 chiếm 8.3%, năm 2000 là 10.6%, năm 2001 là 9.9% và năm 2002 là 10.5%. 2.3. Đánh giá chung và nguyên nhân Về mặt được Hoạt động huy động vốn có nhiều tiến bộ, lượng vốn huy động được trong dân cư ngày càng tăng với mạng lưới các kênh huy động ngày càng mở rộng. Trong vòng một thập kỷ qua, hệ thống ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng Việt Nam đã có bước phát triển khá, bao gồm 4 ngân hàng thương mại quốc doanh ( Ngân hàng Ngoại thương, Ngân hàng Công thương, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn và Ngân hàng Đầu tư Phát triển ), giữ vai trò chủ đạo trong hoạt động kinh doanh tiền tệ. Ngoài ra còn có nhiều ngân hàng và các tổ chức tín dụng ngoài quốc doanh như 33 ngân hàng thương mại cổ phần đô thị, 21 ngân hàng thương mại cổ phần nông thôn, 2 công ty tài chính cổ phần, 23 chi nhánh ngân hàng nước ngoài, 4 ngân hàng liên doanh với nước ngoài, 40 văn phòng đại diện các ngân hàng nước ngoài và trên 950 Quỹ tín dụng nhân dân. Tuy nhiên, do tâm lý người dân vẫn tin tưởng vào các ngân hàng quốc doanh hơn nên hệ thống ngân hàng thương mại quốc doanh chiếm tỷ trọng lớn nhất trong vốn huy động từ dân cư. Tốc độ tăng vốn huy động của các ngân hàng này đạt 18% - 19% trong năm 1999 so với năm 1998, một tốc độ tăng nhanh nhất trong thời gian trở lại đây. Bên cạnh những kênh huy động trực tiếp truyền thống đó, chính phủ cũng đã hình thành những kênh huy động mới rất có triển vọng như phát hành trái phiếu Kho bạc Nhà nước hay cho phép một số tổng công ty huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu, kỳ phiếu ( ví dụ, Tổng công ty Vàng bạc Đá quý Việt Nam đã huy động kỳ phiếu bằng vàng đạt kết quả tốt ). Tuy nhiên, thực tế cho thấy trong năm 1999, kể cả khối lượng trái phiếu do Kho bạc Nhà nước trực tiếp bán lẻ và khối lượng công trái mà người dân mua thì tổng giá trị của hai loại này chỉ mới bằng 50% khối lượng trái phiếu Kho bạc Nhà nước bán lẻ trong năm 1998, lại diễn ra không thường xuyên, nên kênh huy động vốn qua các hình thức phát hành công trái, trái phiếu này trong những năm gần đây chưa phải là kênh chủ lực, mà gửi tiền vào ngân hàng vẫn là hình thức chính, ngoài việc cất trữ tài sản, hàng hoá của người dân. Từ tháng 11 năm 1998, Tổng cục Bưu điện đã khai thác dịch vụ tiết kiệm qua Bưu điện. Kinh nghiệm của nhiều quốc gia như Đài Loan, Nhật Bản cho thấy đây là một kênh huy động vốn rất quan trọng, bởi đặc thù ngành Bưu điện là có chi nhánh vươn ra khắp mọi miền đất nước, vì thế chi phí huy động vốn của ngành sẽ thấp hơn rất nhiều so với những kênh huy động truyền thống khác. Trong thời gian sau đại chiến Thế giới Lần thứ 2, chính tiết kiệm qua Bưu điện là kênh huy động vốn dân cư quan trọng nhất, góp phần làm nên sự thần kỳ của Nhật Bản. Hình thức huy động vốn ngày càng đa dạng, phong phú với công nghệ tiên tiến. Trong thời gian qua, ngành ngân hàng đã mở ra nhiều hình thức thu hút tiền gửi của người dân như cho phép gửi tiền một nơi và rút tiền nhiều nơi, phát hành thẻ điện tử, séc cá nhân để thanh toán thay cho việc phải sử dụng tiền mặt, huy động cả tiền gửi bằng đồng nội tệ và ngoại tệ, người dân có thể mở tài khoản tiết kiệm bằng ngoại tệ và được rút ra bằng ngoại tệ . . . Tháng 4 năm 1998, lần đầu tiên, ngân hàng đã thí điểm cho ra đời hình thức “ trái phiếu Ngân hàng trung ương và dài hạn “, đã thu được kết quả khả quan. Chỉ sau 25 ngày đã huy động được 1.100 tỷ đồng, vượt kế hoạch 100 tỷ. Cùng với việc đa dạng hoá hình thức huy động, ngành ngân hàng cũng đã có nhiều cải tiến về thủ tục gửi và rút tiền, từng bước máy tính hoá các công đoạn khác nhau trong nghiệp vụ ngân hàng, đảm bảo nhanh, gọn, chính xác, đa dạng hoá các hình thức phục vụ như giúp gửi tiền và chi trả tại nhà . . . Nhờ đó, uy tín của ngành đã được nâng cao. Chính sách huy động luôn đảm bảo lãi suất thực dương cho người gửi tiền. Trong thời gian qua, Ngân hàng Nhà nước đã có chính sách lãi suất tích cực, đảm bảo lãi suất thực luôn dương để tạo tâm lý yên tâm cho người gửi tiền, khuyến khích họ gửi tiền vào ngân hàng. Điều này có thể được chứng tỏ qua bảng sau: Lãi suất tiền gửi ngân hàng, giai đoạn 1996 - 2003 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 Lãi suất tiền gửi ( % ) 20.4 20.4 20.4 20.4 10.8 7.8 11.7 8.4 Tốc độ lạm phát ( % ) 17.5 5.2 14.4 12.7 4.5 3.6 9.2 1.5 Lãi suất thực ( % ) 2.9 15.2 6 7.7 6.3 4.2 2.5 7.2 Nguồn: Ngân hàng Nhà nước. Về mặt chưa được Tiềm lực vốn trong dân còn lớn, mà ngân hàng và các tổ chức tài chính chưa huy động được. Như đã sơ bộ ước tính ở trên, tỷ lệ vốn nhàn rỗi của dân cư được huy động qua hệ thống ngân hàng và các hình thức phát hành kỳ phiếu, trái phiếu của chính phủ vẫn còn rất khiêm tốn ( chiếm chưa đến 20% tổng mức tiết kiệm của dân cư ). Đó là chưa kể một lượng kiều hối khá lớn hàng năm vẫn được kiều bào ta ở nước ngoài gửi về cho thân nhân trong nước. Theo một ước tính không chính thức, con số này hàng năm có thể lên tới 1 tỷ đôla, trong đó lượng kiều hối chuyển về nước năm 1999 đã tăng từ 1,5 đến 1,8 lần so với năm 1988. Vốn dân cư huy động được chủ yếu là vốn ngắn hạn. Năm 1996, trong tổng số dư tiền gửi tiết kiệm trị giá 7.500 tỷ đồng thì có đến 90% là tiền gửi tiết kiệm ngắn hạn. Còn theo các chuyên gia Ngân hàng Thế giới ước tính thì trong tổng tiền gửi tiết kiệm, trung bình có đến 70% - 80% là loại tiết kiệm ngắn hạn ( dưới 1 năm ) và không thời hạn. Các trung gian tài chính còn gặp khó khăn và một số hình thức huy động chưa phát huy được hiệu quả. Như đã phân tích ở phần trên, muốn thu hút được vốn nhàn rỗi trong dân cư, không những ngân hàng cần có một chính sách huy động tiền gửi hấp dẫn, mà cần có khả năng cho vay được. Tuy vậy, một hiện tượng nổi cộm trong thời gian qua là nhiều lúc ngân hàng gặp tình trạng “ ứ đọng vốn “ không cho vay được. Điều đó đã khiến nhiều ngân hàng thương mại và tổ choc tín dụng phải xử lý bằng cách dùng vốn ứ đọng mua lại công trái mà nhân dân bán ra để hưởng chênh lệch về lãi suất. Thực tế này đã làm mất tác dụng thực sự của công trái xây dựng đất nước, còn vốn dân cư vẫn không huy động được thêm vào các kênh tín dụng chính thức của đất nước. Nguyên nhân của những mặt chưa được Tình hình trên do nhiều nguyên nhân gây ra. Có những nguyên nhân mang tính khách quan, và có nhiều nguyên nhân mang tính chủ quan về mặt cơ chế, chính sách, môi trường đầu tư cũng như những yếu kém của bản thân hệ thống ngân hàng. Về nguyên nhân khách quan Trình độ phát triển của đất nước và mức độ tiền tệ hoá nền kinh tế còn thấp. Mặc dù 10 năm qua, nước ta đã có những bước phát triển mạnh mẽ nhưng nhìn tổng thể, chúng ta chưa thoát ra khỏi tình trạng nghèo nàn lạc hậu. Thu nhập quốc dân tính theo đầu người còn thấp, tỷ lệ đói nghèo cao và nền kinh tế chủ yếu vẫn dựa vào nông nghiệp. ở nhiều nơi, đặc biệt là các vùng sâu, vùng xa vẫn còn tình trạng trao đổi bằng hiện vật. Còn phổ biến là người dân vẫn còn thói quen trao giao dịch chính bằng tiền mặt. Những phương tiện thanh toán hiện đại như séc, thẻ điện tử vẫn còn xa lạ. Điều này đã hạn chế tốc độ chu chuyển tiền tệ trong lưu thông, gây tâm lý thích dự trữ tiền mặt trong dân cư thay vì gửi vào ngân hàng hay các tổ chức tín dụng. Cơ cấu sản xuất kém hiệu quả, không đủ sức cạnh tranh quốc tế. Nguyên nhân này có thể gây ra nhiều hậu quả khác nhau, nhưng chủ yếu là sức sản xuất yếu kém, mức lợi nhuận thấp đã không khuyến khích các doanh nghiệp vay vốn đầu tư, gây ra tình trạng ứ đọng vốn trong ngân hàng không cho vay được. Việt Nam chưa có thị trường chứng khoán, và các hình thức trung gian tài chính phi ngân hàng chưa phát triển. Đây là những kênh quan trọng để người có nhu cầu vay hoặc đầu tư vốn nhàn rỗi của mình gặp gỡ nhau, tránh được những thủ tục phiền hà gây chi phí giao dịch lớn. Thiếu vắng một thị trường và những tổ chức tài chính như vậy, người dân mất đi những cơ hội có thể trực tiếp bỏ tiền đầu tư vào những dự án hay doanh nghiệp có triển vọng. Cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực cũng đã góp phần làm các doanh nghiệp điêu đứng, không còn khả năng sinh lời, chứ chưa nói gì đến việc đầu tư mở rộng sản xuất. Tính đến cuối năm 1997, nợ quá hạn đã lên đến 12,3% tổng tín dụng so với 6% năm 1994. Con số này trong năm 1998 còn cao hơn nữa, đạt 13%. Một lý do không kém phần quan trọng là cơ hội đầu tư của dân cư rất thấp, sức mua thấp nên khả năng phát triển khó khăn. Về nguyên nhân chủ quan Chất lượng hệ thống tài chính ngân hàng của nước ta còn thấp, chưa theo kịp yêu cầu hiện đại hoá, do đó đã gây nhiều phiền toái cho nhân dân trong việc gửi và rút tiền. Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong việc phát triển mạng lưới thu hút vốn nhàn rỗi của dân cư, nhưng so với yêu cầu của một số quốc gia hơn 75 triệu dân hiện nay thì con số đó còn thấp cả về số lượng và chất lượng. Theo Ngân hàng Thế giới đánh giá thì nước ta, bình quân 30.000 người có một chi nhánh ngân hàng phục vụ, trong khi con số này ở Indonesia là 22.000, ở Thái Lan là 12.000, ở Hàn Quốc và Đài Loan là 5.500 người và ở Nhật Bản là 2.200 người. Chất lượng của hệ thống ngân hàng cũng còn rất yếu kém. Mức độ tin học hoá chưa cao, trình độ của cán bộ ngân hàng còn non kém, nhất là trong khâu thẩm định, đánh giá và quản lý vốn vay. Vì thế, nhiều ngân hàng đã để thất thoát khối lượng vốn rất lớn của Nhà nước, gây mất uy tín cho hệ thống ngân hàng nói chung. Sau những tình huống như vậy, ngân hàng lại có xu hướng chuyển sang một thái cực khác là thắt chặt quá mức việc cho vay, khiến nhiều dự án có khả năng sinh lời cũng không thể tiếp cận được vốn tín dụng của ngân hàng. Trình độ của cán bộ ngân hàng đã vậy, nhưng của cán bộ các Quỹ tín dụng nhân dân còn bất cập hơn nữa. Nhiều cán bộ mới chỉ qua đào tạo ngắn hạn về nghiệp vị cho vay và huy động trong khoảng 45 ngày, một số khác mới được hướng dẫn theo kiểu “ cầm tay chỉ việc “ từ 10 đến 15 ngày. Môi trường đầu tư chưa thông thoáng, nhiều chính sách của Nhà nước chưa đồng bộ hoặc thực hiện thiếu nhất quán. Tình hình đầu tư trực tiếp của dân cư bị chững lại, cũng như hiện tượng các nhà đầu tư trong nước tỏ ra ngần ngại không muốn đầu tư cũng một phần có nguyên nhân từ các chính sách động viên, khuyến khích đầu tư của Nhà nước còn chưa đủ hấp dẫn, chưa thực sự tạo dựng một sân chơi bình đẳng giữa DNTN và DNNN. Vấn đề này đã được phân tích kỹ ở trên. Chính sách của Nhà nước chưa có độ ổ định cao cũng là một nguyên nhân khiến người dân có tâm lý thích tích trữ tiền mặt và tài sản có giá trị hơn là gửi tiền vào ngân hàng hay bỏ vốn đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Trên đây là một số nguyên nhân cơ bản dẫn đến những tồn đọng trong hoạt động thu hút vốn dân cư vào phát triển kinh tế ở nước ta trong thời gian qua. Để khắc phục những nhược điểm này, tăng cường thu hút vốn dân cư nói riêng và vốn trong nước nói chung để phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đòi hỏi phải có những giải pháp đồng bộ, mạnh mẽ của chính phủ. Những chính sách đó không thể tách rời mà phải được đặt trong bối cảnh có sự kết hợp chặt chẽ với các chính sách thu hút vốn đầu tư ngoài nước có hiệu quả, một nguồn vốn quan trọng mà phần dưới đây xin được đề cập tới. Chương 3 Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả tiết kiệm ở Việt Nam trong thời gian tới Đối với khu vực Nhà nước Đối với nguồn vốn đầu tư từ NSNN Tăng cường nguồn thu cho ngân sách Thuế luôn là nguồn thu cơ bản và lâu dài của ngân sách quốc gia. Vì thế, những biện pháp tăng cường nguồn thu ngân sách sẽ chủ yếu tập trung vào việc tăng doanh thu thuế, theo phương châm thu đúng, thu đủ các khoản thu mà luật thuế đã quy định. Trong tương lai, cùng với tiến trình gia nhập AFTA và xa hơn nữa là WTO, nguồn thu từ thuế nhập khẩu sẽ giảm. Để tránh thất thu cho ngân sách thì thuế VAT sẽ trở thành nguồn thu chủ lực để bù đắp cho sự sụt giảm trên. Đồng thời, khi hệ thống kế toán kiểm toán của chúng ta đã được củng cố vững mạnh thì thuế thu nhập cá nhân và doanh nghiệp cũng sẽ là những nguồn thu quan trọng. Tinh thần chung là phải tận dụng tối đa các khoản thu từ thuế và lệ phí cho Nhà nước, bằng cách mở rộng dần diện thuế và hạn chế các đối tượng miễn giảm thuế. Nhưng để giảm tình trạng trốn lậu thuế thì các sắc thuế phải đơn giản, rõ ràng, có tính ổn định tương đối, thuế suất ở mức phải chăng, phù hợp với thông lệ quốc tế, khuyến khích được cá nhân và doanh nghiệp thực hiện nghĩa vụ đóng thuế đối với Nhà nước. Trong năm vừa qua, chính phủ đã thực hiện việc giảm thuế đối với nhiều giao dịch trong nền kinh tế như giảm thuế mua bán, chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Đây là một dấu hiệu tích cực, thể hiện những nỗ lực rất lớn nhằm giảm thất thu cho ngân sách. Xu hướng này cần tiếp tục được đẩy mạnh trong quá trình cải cách hệ thống thuế. Bên cạnh việc hoàn chỉnh và đưa các sắc thuế mới vào cuộc sống, cần tăng cường công tác quản lý thị trường, chống hàng lậu hàng giả. Nâng cao năng lực thu thuế cũng là một hướng quan trọng trong quá trình cải cách thuế. Muốn vậy, cần từng bước chuyển cơ chế thu thuế sang để người kinh doanh tự kê khai và nộp thuế. Cơ quan thuế sẽ chuyển trọng tâm sang việc theo dõi, giám sát và xử lý các trường hợp vi phạm luật thuế. Xử lý nghiêm minh với những trường hợp tham nhũng, hối lộ và gian lận thuế, cũng như ép buộc người nộp thuế phải nộp những khoản ngoài quy định của luật pháp. Triển khai việc chứng từ hoá các giao dịch kinh tế, nâng cao kỷ luật về kế toán thống kê kết hợp với việc giáo dục sâu rộng ý thức và thói quen sử dụng hoá đơn, chứng từ trong mua bán hàng hoá. Đưa các tiến bộ khoa học như vi tính hoá, tự động hoá vào công tác xử lý cơ sở dữ liệu về thuế, tiến tới mã hoá người nộp thuế và các thông tin cần thiết trên phạm vi toàn quốc. Bằng các biện pháp tích cực đó, chắc chắn hiệu quả công tác thu thuế sẽ được đẩy mạnh. Tiết kiệm chi tiêu ngân sách quốc gia Như đã phân tích ở trên, tăng cường huy động vốn qua ngân sách không những đòi hỏi phải tăng thu mà còn đòi hỏi phải giảm chi tiêu từ ngân sách quốc gia. Đối với các khoản chi thường xuyên: tiếp tục đẩy mạnh việc tiết kiệm chi hành chính sự nghiệp bằng cách thực hành chống xa hoa, lãng phí trong cơ quan Nhà nước kết hợp với việc tăng cường tinh giảm biên chế trong bộ máy Nhà nước. Cần rà soát lại các khoản chi tiêu, kiên quyết cắt giảm các khoản chi không hợp lý hoặc chưa cần thiết. Trong những trường hợp phù hợp, có thể khoán các quỹ chi tiêu đối với cơ quan hành chính Nhà nước. Đối với chi đầu tư: cần khắc phục tình trạng đầu tư tràn lan, thiếu trọng điểm. Giảm dần tiến tới xoá bỏ bao cấp qua ngân sách, như bao cấp qua lãi suất cho vay, qua thuế, qua các khoản cấp phát . . . đối với những DNNN không thuộc những ngành hoặc khu vực trọng yếu của nền kinh tế. Nhà nước cần kiên quyết chỉ đầu tư cho các công trình hoặc dự án đầu tư công cộng có hiệu quả kinh tế xã hội cao, nhưng khả năng thu hồi vốn khó hoặc không thể được, cho nên không thu hút được khu vực tư nhân tham gia đầu tư. Đồng thời, để giảm bớt gánh nặng cho ngân sách, Nhà nước cần có những chính sách linh hoạt, đa dạng để gọi vốn đầu tư từ khu vực tư nhân vào những ngành, những lĩnh vực mà trước đây chỉ trông chờ vào sự đầu tư của Nhà nước như y tế, giáo dục, cơ sở hạ tầng, giao thông vận tải, thông tin liên lạc . . . Cách làm này đã thu được thành công ở rất nhiều nước, nhưng ở nước ta trong thời gian qua chưa được chú trọng đúng mức. Muốn vậy, cần có một quy chế rõ ràng với các loại hình đầu tư có tư nhân bỏ vốn như BOT, BT hay BTO để tư nhân yên tâm đầu tư. Nâng cao chất lượng công tác quản lý vốn đầu tư XDCB từ ngân sách Đầu tư XDCB qua ngân sách Nhà nước luôn là lĩnh vực nổi cộm và còn nhiều yếu kém trong những năm qua. Nhà nước cần tiếp tục thể chế hoá công tác quản lý vốn đầu tư XDCB của ngân sách, cải tiến các quy chế về đấu thầu để có thể thực hiện được các công trình và dự án đầu tư công cộng một cách hiệu quả cả về chi phí, tiến độ lẫn thời gian. Bên cạnh đó, cần nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ quản lý dự án Nhà nước trong cả ba khâu xây dựng, thẩm định và thực hiện dự án, nâng cao hiệu lực của bộ máy quản lý vốn của Nhà nước theo hướng giảm bớt đầu mối, tăng cường công tác thanh kiểm tra các dự án đầu tư bằng vốn ngân sách. Đối với nguồn đầu tư của các DNNN Đa dạng hoá hình thức sở hữu. Tính đến cuối tháng 8 năm 1998, đã có gần 224 DNNN được cổ phần hoá. Tuy nhiên, hầu hết các doanh nghiệp này đều là vừa và nhỏ, chỉ có một số ít doanh nghiệp được coi là tương đối lớn ( có giá trị vào khoảng 1 triệu đôla ). Tuy vậy nền kinh tế cũng sẽ thu được những lợi ích rất lớn từ cổ phần hoá các doanh nghiệp vừa và nhỏ này. Với các doanh nghiệp đã cổ phần hoá không có cổ phần khống chế của Nhà nước và tỷ lệ cổ phần ngoài quốc doanh đã vượt quá 65% thì cả quyền sở hữu và kiểm soát sẽ được chuyển sang cho người mua ngoài quốc doanh. Ngoài ra, chuyển đổi sở hữu còn có thể bao gồm bán đấu giá, đấu thầu cạnh tranh, bán thẳng hay chuyển cho công nhân viên và cho thuê. Nghị định 103 của Thủ tướng chính phủ tháng 9 năm 1999 đã cho phép chuyển đổi sở hữu của các doanh nghiệp có vốn ít hơn 1 tỷ đồng ( tương đương với 70.000 đôla ) và các doanh nghiệp có vốn đến 5 tỷ đồng ( hay 350.000 đôla ), nếu đang thua lỗ. Để đẩy nhanh tốc độ cổ phần hoá, có thể cần thực hiện một số bước đi như sau: Xoá bỏ quy định về sở hữu cổ phần tối đa trong những DNNN không thực sự có vai trò trọng yếu để cho phép các nhà kinh doanh tư nhân có tài năng và năng lực quản lý có thể mua đa số cổ phiếu của các doanh nghiệp này. Tăng cường hơn nữa tính minh bạch trong quá trình cổ phần hoá, chẳng hạn có thể kéo dài thời gian công bố bán cổ phần trước thời hạn bán để thu hút nhiều người quan tâm hơn. Chuyển thẩm quuyền bán và phát hành cổ phiếu ra ngoài bộ máy lãnh đạo các DNNN, để mở rộng khả năng các nhà đầu tư bên ngoài doanh nghiệp có thể tiếp cận được các DNNN đang cổ phần hoá. Sát nhập và giải thể DNNN. Đối với các DNNN được liệt vào loại yếu kém nhất và không có khả năng tồn tại, chính phủ cần kiên quyết giải thể. Còn biện pháp sát nhập có thể áp dụng ở bất cứ đâu nếu sự sát nhập đó nâng cao được hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Theo kế hoạch, chính phủ đã cho giải thể hoặc phá sản trên 300 trong số các doanh nghiệp thua lỗ nhất, kể cả một số doanh nghiệp lớn, trong giai đoạn 2000 - 2002. Cơ cấu lại các DNNN lớn. Đối với các DNNN lớn mà Nhà nước chủ trương giữ lại dưới hình thức quốc doanh, việc cơ cấu lại các doanh nghiệp này có ý nghĩa rất quan trọng. Muốn vậy, cần thực hiện các biện pháp sau: Thiết lập một hệ thống theo dõi hàng quý việc vay ngân hàng và hỗ trợ của ngân sách cho những DNNN nợ nần nhiều nhất. Có thể cần áp dụng một mức trần tín dụng hàng năm ( trong phạm vi mức trần áp dụng đối với tất cả các DNNN ) và giới hạn trợ giúp ngân sách đối với các DNNN nói trên, để khuyến khích các doanh nghiệp này tiến hành cơ cấu lại. Tiến hành kiểm toán phân tích để đánh giá hoạt động đối với các DNNN đang cơ cấu lại, qua đó sẽ xác định các biện pháp cải thiện tình hình tài chính cho các doanh nghiệp này. Đẩy mạnh kế hoạch cơ cấu lại từng Tổng công ty Nhà nước. Trước mắt sẽ có ba Tổng công ty ( TCT ) được chọn làm thí điểm là TCT Xuất nhập khẩu Thuỷ sản ( SEAPRODEX ), Dệt may và Cà phê. Đây là những TCT lớn hoạt động trong lĩnh vực thương mại của Việt Nam. Việc cơ cấu lại thành công ba TCT này sẽ tạo nên một mô hình hết sức thuyết phục cho các TCT khác. Định hướng chung là phải đưa các TCT này tập trung vào các khả năng kinh doanh chính của mình, rỡ bỏ các rào cản ngăn chặn sự tham gia của khu vực tư nhân, thúc đẩy cạnh tranh định hướng lại các công ty vào các thị trường xuất khẩu. Xây dựng hệ thống bảo trợ xã hội cho cán bộ công nhân viên trong các DNNN. Quá trình cải cách DNNN sẽ làm dư dôi lao động. Chẳng hạn, đợt cải cách DNNN năm 1989 - 1992 đã làm gần 1/3 số công nhân trong các DNNN này không có việc làm. Vì thế, để quá trình cải cách không gây ra xáo động lớn về mặt xã hội, cần chuẩn bị kỹ lưỡng các điều kiện để xây dựng một quỹ bảo trợ xã hội với mục đích bồi thường thu nhập cho công nhân, bảo đảm họ tự trang trải được cho mình trong thời kỳ quá độ chưa tìm được việc làm mới. Đối với khu vực tư nhân Tiếp tục tạo lập một môi trường thông thoáng, thúc đẩy đầu tư tư nhân Đây là một chính sách lớn của Đảng, không chỉ để tăng cường sự đóng góp của khu vực tư nhân vào nguồn vốn đầu tư xã hội, mà thực sự để khu vực tư nhân phát huy được hết sự năng động sáng tạo của mình, trở thành một động lực quan trọng cho quá trình phát triển và hội nhập kinh tế. Điều này đòi hỏi trước hết Nhà nước phải tiếp tục giảm bớt điều tiết và tạo lập một sân chơi bình đẳng giữa các DNNN và DNTN. Bên cạnh các chính sách giảm điều tiết và thúc đẩy đầu tư tư nhân, môi trường chính sách vĩ mô mà trong đó, quan trọng nhất là chính sách thương mại, cũng sẽ góp phần không nhỏ vào việc động viên, khuyến khích tư nhân bỏ vốn đầu tư. Cải cách chính sách thương mại sẽ cho phép khu vực tư nhân tiếp cận được các nguồn nguyên vật liệu nhập khẩu và mạng lưới xuất khẩu. Đồng thời, tự do hoá thương mại theo hướng huỷ bỏ các hạn chế về giấy phép nhập khẩu và các loại thuế xuất khẩu còn nâng cao cạnh tranh và tạo khuyến khích và tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh, và định hướng các nguồn lực xã hội đầu tư vào những lĩnh vực có hiệu suet đầu tư cao nhất. Đẩy mạnh việc cải cách hệ thống ngân hàng tài chính Hệ thống ngân hàng tài chính được coi là mạch máu của nền kinh tế quốc dân, và là kênh chủ lực để thu hút nguồn vốn nhàn rỗi của dân cư ở nước ta cho đến nay. Tuy đã có những cải cách đáng kể, nhưng hệ thống này vẫn tỏ ra yếu kém, chưa bắt kịp được với nhịp độ phát triển chung của nền kinh tế, và chưa thực hiện được triệt để vai trò trung gian, đưa người có vốn và người muốn vay đến gặp nhau, của mình. Có thể nêu một số định hướng cơ bản đối với việc cải cách hệ thống ngân hàng - tài chính như sau: . Trong thời gian tới, Ngân hàng Nhà nước cần đổi mới thêm một bước nữa cơ chế điều hành lãi suất của mình theo hướng tự do hoá, để lãi suất thực sự là một công cụ điều tiết cung cầu vốn trên thị trường. Đồng thời, cần sớm khắc phục những bất hợp lý trong chính sách trần lãi suất cho vay như hiện nay. Cần bắt buộc các ngân hàng phải triệt để tiết kiệm chi phí hoạt động để giảm lãi suất cho vay, thu hẹp tiến tới thống nhất lãi suất giữa đồng nội tệ và ngoại tệ, giữa tiền gửi của dân cư và tiền gửi thanh toán của các doanh nghiệp. Ngành ngân hàng cần mở rộng và hoàn thiện thị trường thanh toán nội tệ và ngoại tệ liên ngân hàng. Tiếp tục phát triển các loại hình tổ chức tài chính như: hợp tác xã tín dụng, các quỹ tín dụng nhân dân, quỹ đầu tư, công ty bảo hiểm, công ty tài chính . . . . Các ngân hàng thương mại ( NHTM ) cần linh hoạt điều hoà vốn giữa các chi nhánh trong toàn quốc. Không nên điều hành theo kiểu giao chỉ tiêu huy động vốn tại chỗ một cách cứng nhắc, mà trái lại, cần có sự mềm dẻo, linh hoạt trong điều hành theo phương châm nơi nào có khả năng huy động mạnh thì sẽ tăng cường công tác huy động, rồi chuyển vốn đến cho những nơi có nhu cầu cho vay lớn. NHTM cũng phải có chiến lược tiếp cận nhanh đến nghiệp vụ tiền gửi ngắn hạn với các ngân hàng nước ngoài trên thị trường tiền tệ quốc tế. Nhanh chóng đưa các ứng dụng của công nghệ tin học vào phục vụ hoạt động của ngân hàng, hiện đại hoá công nghệ ngân hàng, đi đôi với việc tăng cường đào tạo, nâng cao nghiệp vụ quản lý, thẩm định vốn vay cũng như các mảng nghiệp vụ khác của cán bộ ngân hàng. . Đẩy mạnh chương trình cơ cấu lại các NHTM quốc doanh và ngân hàng cổ phần. Việc cơ cấu lại các NHTM cổ phần có thể thực hiện qua các giải pháp đóng cửa, sát nhập và củng cố các ngân hàng hiện tại. Kế hoạch cơ cấu lại cần tập trung vào việc cải cách hoạt động, giải quyết nợ và tái cấp vốn cho các ngân hàng. Ngoài ra, cần xúc tiến việc ban hành một nghị định về cơ chế bảo hiểm tiền gửi đối với người gửi tiền để họ có thể an tâm khi gửi tiền vào hệ thống tài chính. Đối với việc cơ cấu lại các NHTM quốc doanh, cần chuyển chúng sang hoạt động theo nguyên tắc thương mại và bền vững, xây dựng một tập quán quản lý tín dụng theo hướng thị trường trong các ban lãnh đạo NHTM quốc doanh. Nhà nước cần giúp các NHTM quốc doanh này giải quyết những khoản nợ không sinh lời, do cơ chế chỉ định tín dụng trong thời kỳ bao cấp trước đây để lại. . Đối với hệ thống Quỹ Tín dụng nhân dân, phải nâng cao hiệu quả hoạt động của những quỹ tín dụng này để khai thác thế mạnh của chúng trong việc khai thác các nguồn vốn dân cư ở nông thôn. Muốn vậy, quỹ tín dụng nhân dân cần nghiêm chỉnh thực hiện các quy định về nghiệp vụ huy động và cho vay của Nhà nước, đẩy mạnh việc thu nợ đến hạn hoặc quá hạn, nâng cao trình độ tổ chức, quản lý của cán bộ quỹ tín dụng, đồng thời tăng cường kiểm tra, kiểm soát để kịp thời khắc phục những sai sót, yếu kém. Đa dạng hoá và hoàn thiện các kênh huy động vốn. Trong thời gian tới, ngành ngân hàng - tài chính cần chú trọng đến việc đa dạng hoá các hình thức huy động vốn. Có thể nên cụ thể một số giải pháp như sau: . Mở rộng các hình thức gửi tiết kiệm của nhân dân như tiết kiệm qua bưu điện, tiết kiệm xây dựng nhà ở, tiết kiệm tuổi già, tín dụng tiêu dùng, bảo hiểm các loại . . . Có thể kèm theo các hình thức khuyến khích gửi tiền tiết kiệm như mở thưởng định kỳ, nhận tiền gửi theo hợp đồng ( ngân hàng ký hợp đồng với khách chi trả lãi suất thoả thuận cố định trong suốt thời gian gửi tiền đối với các khoản tiền gửi dài hạn ), nhân rộng hình thức nhận gửi tiền một nơi và rút nhiều nơi . . . . Tăng cường các hình thức phát hành kỳ phiếu, trái phiếu với nhiều loại kỳ hạn, nhiều loại mệnh giá ( bằng cả nội tệ và ngoại tệ ) và có khả năng thanh khoản dễ dàng. Cần có giải pháp cụ thể để đảm bảo tính hiệu quả và tính linh hoạt của thị trường trái phiếu Kho bạc Nhà nước, mua bán lại công trái . . . . Tạo điều kiện để các loại thẻ tín dụng quốc tế thực sự hoà nhập vào thị trường tiền tệ trong nước, khuyến khích các hình thức giao dịch không dùng tiền mặt như dùng thẻ điện tử, séc . . . Để làm được điều đó, cần nhanh chóng hiện đại hoá nghiệp vụ ngân hàng, đảm bảo các phương thức thanh toán hiện đại có thể sử dụng ở nhiều nơi, nhiều lúc, vừa thuận tiện vừa an toàn. Phát triển mạnh hoạt động thị trường chứng khoán Việc ra đời thị trường chứng khoán đã tạo điều kiện cho người dân có cơ hội đầu tư, dù vốn ít hay nhiều, vào các công ty cổ phần để sử dụng nguồn tiết kiệm của họ có hiệu quả nhất. Đồng thời, nó tạo ra khả năng chia sẻ lợi nhuận của các doanh nghiệp trong những ngành kinh tế có triển vọng giữa đông đảo tầng lớp dân cư, tạo điều kiện huy động vốn để xây dựng những công trình công nghiệp lớn của quốc gia. Muốn đẩy nhanh tốc độ phát triển thị trường chứng khoán cần làm tốt các giải pháp sau: . Phải tạo hàng hoá cho thị trường chứng khoán. Muốn vậy, cần đẩy nhanh quá trình cổ phần hoá DNNN và thành lập các công ty cổ phần tư nhân. Tiếp tục triển khai việc phát hành các loại tín phiếu, kỳ phiều, trái phiếu và cho phép được mua bán, chuyển nhượng công khai trên thị trường tiền tệ. Các công ty cổ phần cũng cần phát hành các loại chứng khoán không ghi danh, và có mệnh giá thích hợp để tạo điều kiện cho mọi tầng lớp nhân dân đều có khả năng mua được. . Cần cải tạo điều kiện về vật chất, kỹ thuật, tổ chức chu đáo cho thị trường chứng khoán hoạt động. Tăng cường giáo dục tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng để phổ biến tác dụng và những kỹ thuật cơ bản khi tham gia thị trường chứng khoán và kinh doanh chứng khoán đến mọi người dân. Khuyến khích cộng đồng người Việt ở nước ngoài gửi tiền về nước, góp phần xây dựng quê hương Để làm được điều đó, phải có chính sách tạo điều kiện thuận lợi, dễ dàng cho việc chuyển tiền từ nước ngoài về nước, hướng việc sử dụng kiều hối vào đầu tư tăng trưởng bằng các chính sách ưu đãi đầu tư, khuyến khích kiều bào không chỉ đầu tư tiền của mà cả chất xám về xây dựng quê hương.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docV0525.doc
Tài liệu liên quan