Đề tài Con người- Nguồn nhân lực trong nền kinh tế tri thức

Tuy ta mới đặt bàn chân vào nền kinh tế tri thức, nhưng để làm chủ được nó khi đã hình thành phát triển hoàn chỉnh, thì phải chuẩn bị ngay từ bây giờ. Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 2 khoá VIII đã đề ra cụ thể là: "Đẩy mạnh nghiên cứu và ứng dụng công nghệ cao như công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới.Bước đầu xây dựng 2 khu công nghệ cao tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh". Thủ tướng chính phủ cũng đã duyệt y kế hoạch trong 5 năm tới sẽ đào tạo được 25 000 nhân lực cho công nghệ phần mềm, tạo ra 500 triệu $ sản phẩm phần mềm. Muốn làm được những mục tiêu đã đề ra, phải thấy được việc xây dựng nguồn nhân lực phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế tri thức là nhân tố quyết định sự thắng lợi. Vấn đề chuẩn bị nhân tố con người và nguồn nhân lực vừa mang tính cấp bách, vừa có ý nghĩa cơ bản lâu dài. Đây là vấn đề đòi hỏi có sự nỗ lực của tất cả các ngành các cấp, chứ không chỉ riêng giáo dục đào tạo. Nếu các lớp cha anh là niềm kì vọng của thế kỉ 20, thì lớp học sinh, sinh viên chúng ta thời nay là niềm hy vọng của thế kỉ 21. Để chuẩn bị cho một nền kinh tế tri thức trong tương lai, trách nhiệm của lực lượng tri thức trẻ hôm nay là rất lớn, bởi họ sẽ là người làm chủ xã hội. Đây là thách thức lớn lao đối với người trẻ tuổi.

doc27 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1416 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Con người- Nguồn nhân lực trong nền kinh tế tri thức, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
à chủ thể sáng tạo ra quá trình lịch sử đó. 2. Vai trò của con người trong sự vận động và phát triển của đời sống xã hội Lịch sử phát triển của xã hội là lịch sử kế tiếp nhau của các phương thức sản xuất, cụ thể là lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất là mối quan hệ giữa con người với tự nhiên trong quá trình sản xuất. Nó bao gồm tư liệu sản xuất và người lao động, trong đó người lao động là nhân tố quan trọng nhất. Tư liệu lao động dù có tinh xảo, hiện đại , đối tượng lao động dù có phong phú đa dạng nhưng thiếu con người thì sẽ không phát huy tính tích cực của nó. Bởi vì người lao động bằng kinh nghiệm và trí tuệ đã chế tạo ra công cụ sản xuất, đồng thời bằng tri thức và kinh nghiệm của mình con người mới biết cách sử dụng sáng tạo công cụ sản xuất để tạo ra của cải vật chất cho xã hội. Tính tích cực sáng tạo chủ động của con người luôn là động lực trực tiếp thúc đẩy tốc độ, quy mô, hiệu quả của một nền sản xuất. Lịch sử đã chứng minh do sự phát triển của lực lượng sản xuất, loài người đã 4 lần thay đổi quan hệ sản xuất, dẫn đến sự ra đời của các nền kinh tế xã hội. Mặt khác, ta thấy các nguồn lực khác là hữu hạn, có thể bị khai thác cạn kiệt trong một thời gian nhất định. Trong khi đó trí tuệ của con người là nguồn lực vô tận.Tính vô tận của nó thể hiện ở chỗ nó có khả năng không chỉ tái sinh và tự sản sinh về mặt sinh học mà còn tự đổi mới, không ngừng phát triển về chất lượng.Trí tuệ con người có sức mạnh vô cùng to lớn một khi nó được vật thể hóa trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Tóm lại, con người là động lực, là mục tiêu, là điều kiện đủ, là đối tượng thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội. 3. Nguồn lực con người 3.1.Khái niệm Khái niệm nguồn lực con người được sử dụng từ những năm 60 ở nhiều nước phương Tây và một số nước châu á, giờ đây khá thịnh hành trên thế giới dựa trên quan niệm mới mẻ về vai trò, vị trí con người trong sự phát triển. Ơ nước ta khái niệm này được sử dụng rộng rãi kể từ đầu thập niên 90 đến nay. Quan niệm về nguồn lực con người khá đa dạng. Trong lí luận về lực lượng sản xuất con người được coi là lực lượng sản xuất hàng đầu, là yếu tố quan trọng nhất quyết định sự vận động và phát triển của lực lượng sản xuất, quyết định quá trình sản xuất, do đó quyết định năng suất lao độngvà tiến bộ xã hội. Trong lí thuyết tăng trưởng kinh tế, con người được nhìn nhận như phương tiện chủ yếu, đảm bảo tốc độ tăng trưởng sản xuất và dịch vụ. Liên hiệp quốc cũng có cách tiếp cận tương tự khi cho rằng nguồn lực con người là tất cả những kiến thức, kỹ năng và năng lực của con người có quan hệ tới sự phát triển của đất nước. Thủ tướng Phan Văn Khải khẳng định:"Nguồn lực con người bao gồm cả sức lao động, trí tuệ và tinh thần gắn với truyền thống của dân tộc ta" Dưới dạng tổng quát có thể nói rằng: nguồn lực con người là khái niệm chỉ số dân, cơ cấu dân số và chất lượng với tất cả đặc điểm và sức mạnh của nó trong sự phát triển xã hội. Như vậy, khái niệm nguồn lực con người có nội dung rất lớn: - Lịch sử loài người trươc hết là lịch sử lao động sản xuất, vì vậy khái niệm nguồn lực con người cũng được biểu hiện ra là người lao động, là lực lượng lao động. - Khái niệm này phản ánh khía cạnh cơ cấu dân cư và cơ cấu lao động-yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng và sức mạnh của nguồn lực con người. - Khái niệm này phản ánh chủ yếu phương diện chất lượng dân số , đặc biệt là của lao động trong hiện tại và tương lai gần. Tức là nói đến nguồn lực con người là phải nói đến sức lao động của con người, chất lượng con người( thể chất, tinh thần, sức khoẻ, trí tuệ , năng lực, phẩm chất, thái độ, phong cách làm việc) Phát huy nguồn lực con người chính là nuôi dưỡng và khai thác có hiệu quả những năng lực và phẩm chất sinh lí- tâm lí- xã hội tạo nên nhân cách trong mỗi cá nhân. - Khái niệm còn chỉ ra rằng con người được xem xét với tư cách là một nguồn lực, nguồn lực nội tại, cơ bản trong hệ thống các nguồn lực của sự phát triển xã hội. Là một nguồn lực, cũng như các nguồn lực khác, con người tạo ra sức mạnh và tham gia vào quá trình thúc đẩy sự phát triển của một quốc gia, dân tộc. Song nguồn lực con người khác nguồn lực khác ở chỗ, có nó các nguồn lực khác mới phát huy được tác dụng và có ý nghĩa đối với sự phát triển xã hội, vì thế nó là nguồn lực của mọi nguồn lực. Trong thực tế, khái niệm "nguồn nhân lực "ngoài nghĩa rộng được hiểu như"nguồn lực con người", thường được hiểu theo nghĩa hẹp là nguồn lao động, lực lượng lao động. Tuy nhiên trong nền kinh tế tri thức thì có lẽ chúng ta nên hiểu theo nghĩa rộng. 3.2. Vai trò của nguồn nhân lực Thực tiễn cho thấy sự phát triển kinh tế-xã hội phụ thuộc vào nhiều yếu tố, nhiều điều kiện nhưng chủ yếu vẫn là phụ thuộc vào con người. Hơn bất cứ nguồn lực nào khác, nguồn nhân lực phải chiếm vị trí trung tâm trong chiến lược phát triển kinh tế-xã hội nước ta. Nhận thức được điều đó, Đảng ta đã xác định con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển xã hội bền vững. - Con người được coi là nguồn lực cơ bản để tăng trưởng và phát triển kinh tế xã hội. Trong bất cứ hình thái kinh tế xã hội nào, con người đều là nhân tố trung tâm của quá trình sản xuất. Khi mô hình sản xuất lấy con người làm trung tâm xuất hiện thì mau chóng chiếm ưu thế và dần trở nên phổ biến. Hướng ưu tiên đầu tư con người đã được nâng lên hàng"quốc sách hàng đầu", được coi là hướng chính trong chiến lược phát triển ở hầu hết mọi quốc gia trên thế giới - Các nguồn lực khác tự nó chỉ tồn tại dưới dạng tiềm năng, chúng chỉ phát huy tác dụng và có ý nghĩa tích cực khi được kết hợp với nguồn lực con người. Bởi lẽ con người là nguồn lực duy nhất biết tư duy, có trí tuệ và ý chí, biết gắn các nguồn lực thành sức mạnh tổng hợp. - Các nguồn lực khác chỉ là hữu hạn, có thể bị khai thác cạn kiệt. Trong khi đó nguồn lực con người, mà cốt lõi là trí tuệ là nguồn lực vô tận, nó có khả năng tái sinh và tự sản sinh về mặt sinh học, và luôn được đổi mới về chất. Con người từng bước làm chủ tự nhiên, ngày càng khám phá ra nhiều tài nguyên thiên nhiên, hoặc sáng tạo những nguồn tài nguyên không có sẵn trong tự nhiên. - Trí tuệ con người có sức mạnh vô cùng to lớn một khi nó trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Giờ đây sức mạnh trí tuệ đã đạt đến mứcnhờ nó con người có thể sáng tạo ra những máy móc mô phỏng trí tuệ con người. Nói tóm lại, tiềm năng sức lao động-con người với trí tuệ được định hướng đã và đang là tài sản quý giá, là nguồn lực quan trọng nhất quyết định sự phát triển của mỗi quốc gia. Vai trò này ngày càng tăng lên trong thời đại ngày nay, một thời đại mà nền kinh tế dựa trên tri thức. II. Một số vấn đề chung về nền kinh tế tri thức 1. Khái niệm về kinh tế tri thức 1.1.Khái niệm Nền kinh tế mới đang được hình thành có nhiều tên gọi khác nhau. Nhưng phổ biến hơn cả là thuật ngữ: kinh tế tri thức hay nền kinh tế dựa trên tri thức. Trước thế kỉ 17, tri thức khoa học đã từng bước đưa ngành trồng trọt, chăn nuôi trở thành cốt lõicủa nền kinh tế nông nghiệp phát triển ổn định dựa chủ yếu vào tài nguyên đất đai.Từ giữa thế kỉ 17 đến giữa thế kỉ 18, nền kinh tế công nghiệp bắt đầu hình thành.Từ giữa thế kỉ 18 đến cuối thế kỉ 19 đã có 2 cuộc cách mạng công nghiệp xảy ra nhờ những tiến bộ vượt bậc của khoa học kỹ thuật, được đánh dấu bằng sự xuất hiện của máy hơi nước và máy phát điện. Đặc biệt thế kỉ 20 là sự bùng nổ của các ngành công nghệ cao, đặc biệt là công nghệ vi điện tử, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới...Từ đây tri thức khoa học dần dần trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, các sản phẩm mang hàm lượng trí tuệ cao ngày càng chiếm địa vị quan trọng trên thị trường quốc tế. Như vậy một nền kinh tế mới đang dần được hình thành. Đó là nền kinh tế tri thức. Nền kinh tế tri thức được định nghĩa theo nhiều cách. - Đó là nền kinh tế, trong đó sự sản sinh, phổ cập và sử dụng tri thức giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triểnkinh tế, tạo ra của cải, nâng cao chất lượng cuộc sống(GS.VS.Đặng Hữu) - Cũng có thể định nghĩa đơn giản hơn: kinh tế tri thức là nền kinh tế trong đó khoa học- công nghệ- kỹ thuật trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, là yếu tố quyết định hàng đầu việc sản xuất ra của cải, sức cạnh tranh và triển vọng phát triển. Như vậy trong nền kinh tế tri thức không chỉ là tạo ta tri thức mà cả thu nhận, sử dụng và truyền bá tri thức. Kinh tế tri thức không chỉ bao hàm duy nhất các lĩnh vực hoạt động với công nghệ cao, sử dụng lao động trí thức và lao động có kĩ năng cao là chính mà còn là quá trình tri thức xâm nhập vào và chi phối tất cả mọi hoạt động kinh tế. Nghĩa là không phải tất cả các ngành đều dựa vào công nghệ kĩ thuật cao song điều chắc chắn là tất cả các ngành dù ở trình độ nào cũng đều hoạt động dưới sự chi phối của tri thức. Khía cạnh quan trọng nhất của nền kinh tế mới này không phải là công nghệ thông tin hay những công nghệ cao cấp và hiện đại khác mà là việc sử dụng thông tin và tri thức để làm tăng năng suất cuả tất cả các khu vực trong một nền kinh tế. Để có thể hình dung rõ về kinh tế tri thức, chúng ta hãy xem bảng so sánh sau: STT Các đặc trưng I Hình thái kinh tế thứ 1 (kinh tế sức người). II Hình thái kinh tế thứ 2 (Kinh tế tài nguyên). III Hình thái kinh tế thứ 3 (Kinh tế tri thức). 1 Phương thức tồn tại Tự cấp tự túc, khép kín trong từng cộng đồng nhỏ tách biệt. Phân công và trao đổi bị giới hạn bởi các biên giới địa phương, quốc gia. Phân công và trao đổi phổ biến thông qua mạng liên kết toàn cầu. 2 Tầm quan trọng của nghiên cứu khoa học. Nhỏ Lớn Rất lớn. 3 Tỷ lệ kinh phí dành cho nghiên cứu khoa học trên GDP. Dưới 3% 1% - 2% Trên 3% 4 Tỷ lệ đóng góp của KH-CôNG NGHệ cho tăng trưởng KT. Dưới 10% Trên 40% Trên 80% 5 Tầm quan trọng của giáo dục. Nhỏ. Lớn. Rất lớn. 6 Tỷ lệ kinh phí dành cho giáo dục trên GDP. Dưới 1% 2% - 3% 6% - 8% 7 Bình quân trình độ văn hoá. Tỷ lệ mù chữ cao. Trung học. Trung học chuyên nghiệp. 8 Kết cấu công nghệ (CN): - CN thông tin. 3%- 5% ~15% - CN sinh học. 2% ~10% CN năng lượng Tái sinh và năng lượng mới 2% ~10% CôNG NGHệ biển. 2% ~10% CôNG NGHệ sạch. 1% ~5% CôNG NGHệ vật liệu mới. 1% ~5% CôNG NGHệ không gian. ~5% CôNG NGHệ mềm. ~5% 9 Kết cấu sức lao động. Nông nghiệp. Trên 50%. 10% - 20% Dưới 10% Công nghiệp. 15% - 20% Trên 30%. Dưới 20% Công nghệ cao. 10% - 15%. Trên 40%. 10 Tỷ lệ tăng dân số Cao. Thấp. Rất thấp. 11 Mức độ đô thị hoá. 25% 70% Hạ thấp dưới 70%. 12 Vai trò của truyền thông. Không lớn Lớn. Rất Lớn. 13 Trình độ tổ chức xã hội. Đơn giản. Phức tạp Rất phức tạp. 14 Mức độ toàn cầu hoá kinh tế thế giới. Thấp. Khá cao. Rất cao. 1.2. Các phạm trù trong kinh tế tri thức: Thông tin và tri thức là nguồn lực chủ yếu của kinh tế tri thức. Chúng ta phải phân biệt 2 phạm trù này vì như John Naribett nói"Chìm ngập trong thông tin mà vẫn thiếu tri thức" * Thông tin là dữ liệu được xếp thành trật tự có nghĩa, có thể thu nhận được, có thể dùng hoặc không. * Tri thức là thông tin đã được thu thập, xử lí và nhận thức, là áp dụng và sử dụng một cách có ích các thông tin. Theo nhiều tài liệu kinh điển thì tri thức được hiểu là kết quả của nhận thức, là phản ánh trung thực của thực tiễn vào tư duy con người, tính đúng đắn của nó thể hiện bằng sự kiểm nghiệm của thực tế, đồng thời phù hợp với các nguyên lí của lí luận về nhận thức trên cơ sở phương pháp duy vật biện chứng. - Thông tin là nội dung của tri thức được truyền đạt, nhưng khi tri thức được hệ thống hóa lại trở thành thông tin. Thông tin là đầu vào của quá trình sản sinh ra tri thức. * Sản phẩm tri thức Tri thức là sản phẩm của lao động, là biểu hiện cụ thể về năng lực tư duy mà chỉ duy nhất loài người mới có. Sản phẩm tri thức có nhiều tính chất đặc biệt khác với các sản phẩm vật thể thông thường: + Vì tri thức thuộc phạm trù tinh thần nên tri thức luôn phải có vật mang nó. Vật mang ấy có thể là bộ nhớ trong não, băng từ, đĩa quang... + Đối với sản phẩm thông thường, người mua có quyền sở hữu về nó, nghĩa là có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt.Đối với sản phẩm tri thức người mua chỉ có quyền sở hữu vật mang, còn về nội dung tri thức thì chỉ có quyền sử dụng. Đặc tính này có nguồn gốc sâu xa ở chỗ chỉ duy nhất con người mới có khả năng tư duy. + Quá trình tiêu dùng sản phẩm tri thức dù là tiêu dùng sản xuất hay tiêu dùng cho cá nhân, nói chung đều mang tính chất của một quá trình nghiên cứu, học tập và trực tiếp hoàn thiện sản phẩm tri thức đó. Đôi khi người tiêu dùng còn phát hiện ra tính năng mà chính tác giả của nó không ngờ tới. + Việc sản xuất các loại sản phẩm tri thức thường có giá trị gia tăng rất lớn. Chẳng hạn, E. Sanchez và D. Myric sản xuất bộ phim" Đồ án Blair Witch" bằng kỹ thuật số, phát hành trên Internet, chỉ riêng trong nước Mỹ đã thu được 140 triệu $, trong khi chi phí chỉ là 500 000$, nghĩa là tỉ suất lợi nhuận 280! Nền kinh tế tri thức do được nuôi dưỡng bằng nguồn năng lượng vô tận và năng động là tri thức nên phát triển nhanh và khả năng bền vững cao. * Công nhân tri thức Theo tính tất yếu của lịch sử thì kinh tế tri thức phát triển đầy đủ ở thế kỉ 21 sẽ là sự phát triển lên một đỉnh cao mới của kinh tế công nghiệp hiện đại của thế kỉ 20- là sự phủ định biện chứng, tức phủ định có kế thừa kinh tế công nghiệp hiện đại thế kỉ 20. Tương ứng với tiến trình đó công nhân tri thức ra đời. Công nhân tri thức có nhiều điểm tiến bộ so với công nhân trước đó. Biểu hiện: - Công nhân tri thức có sở hữu trí tuệ. Sở hữu này cho phép họ có thu nhập cao hơn công nhân công nghiệp bình thường khiến họ có tư hữu chứ không còn là vô sản nữa - Tri thức khoa học dần dần trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Trên cơ sở đó, số lượng công nhân tri thức, công nhân có tay nghề cao ngày càng tăng. - Công nhân tri thức làm chủ một nền kinh tế mà phần lớn các ngành kinh tế đều dựa vào các thành tựu mới nhất của khoa học. - Giai cấp công nhân có sự tăng tiến cả về số lượng lẫn chất lượng - Kinh tế tri thức thích hợp với tính sáng tạo vốn là bản năng của công nhân. Nhằm mục tiêu tri thức hoá, công nhân chăm lo không ngừng học tập, nâng cao trình độ khoa học kỹ thuật. Tri thức sẽ đóng vai trò động lực thúc đảy sự phát triển về chất lượng của công nhân. 1.3. Các ngành như thế nào được gọi là ngành kinh tế tri thức? Theo giáo sư viện sĩ Đặng Hữu : Các ngành sản xuất và dịch vụ do công nghệ cao tạo ra như các dịch vụ khoa học và công nghệ,dịch vụ tin học, các ngành công nghiệp công nghệ cao...được gọi là ngành kinh tế tri thức. Các ngành truyền thống như công nghiệp, nông nghiệp nếu được cải tạo bằng công nghệ cao, mà giá trị do tri thức mới, công nghệ mới mang lại chiếm 2/3 tổng số giá trị thì những ngành đó là ngành kinh tế tri thức. 1.4. Các tiêu chí cơ bản của nền kinh tế tri thức - Về cơ cấu GDP: hơn 70%do các ngành sản xuất và dịch vụ và ứng dụng công nghệ cao - Cơ cấu giá trị gia tăng: hơn 70% do lao động trí óc đem lại - Cơ cấu lao động: hơn 70%là công nhân tri thức - Cơ cấu tư bản: hơn 70% là vốn con người. Ngoài ra còn các tiêu chí khác, trong đó có tiêu chí về vai trò rất quan trọng của giáo dục và bình quân trình độ văn hóa là trung học chuyên nghiệp... 2. Đặc trưng chủ yếu của kinh tế tri thức Kinh tế tri thức có nhiều đặc điểm cơ bản khác biệt so với các nền kinh tế trước đó. Những đặc điểm này còn đang được định hình và tiếp tục được phát hiện chứ chưa phải là bộc lộ đâỳ đủ. Nhưng ta có thể thấy xương sống của nền kinh tế dựa trên tri thức chính là thông tin, nhưng không phải chỉ dựa vào công nghệ thông tin mà điều cốt yếu là khả năng thu nhập, phân tích, tổng hợp thông tin trong quá trình đưa ra quyết định dựa trên thông tin đã thu thập được. KTTT có các đặc trưng sau: 2.1. Sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế. Nếu kinh tế nông nghiệp dựa vào nông nghiệp là chủ yếu, kinh tế công nghiệp thì công nghiệp và dịch vụ là chủ yếu, thì trong kinh tế tri thức các ngành kinh tế tri thức thống trị. Hiện nay ở Bắc Mỹ và một số nước Tây Âu kinh tế tri thứcchiếm khoảng 45%-50% GDP, trong các nước OEDC kinh tế tri thức chiếm hơn 50% GDP, công nhân tri thức chiếm trên 60% lực lượng lao động. 2.2. Khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Sản xuất công nghệ trở thành loại hình sản xuất quan trọng nhất, tiên tiến nhất, tiêu biểu nhất của nền sản xuất tương lai. Các ngành kinh tế tri thức đều phải dựa vào công nghệ mới để đổi mới và phát triển. Do đó sự hình thành và phát triển các khu công nghệ là yếu tố rất quan trọng thúc đẩy phát triển nhanh sự ra đời các công nghệ mới. 2.3. Cấu trúc mạng toàn cầu. Tức là việc ứng dụng công nghệ thông tin rộng rãi trong mọi lĩnh vực, và thiết lập mạng thông tin phủ khắp các nước. Thông tin trở thành tài nguyên quan trọng nhất để nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả. Thương mại điện tử, thị trường ảo, làm việc từ xa...được thiết lập làm cho các hoạt động sản xuất kinh doanh nhanh nhạy, linh hoạt, khoảng cách bị xoá dần...Chính vì vậy, nhiều người gọi kinh tế tri thức là nền kinh tế số hay kinh tế mạng. 2.4. Xã hội thông tin là một xã hội học tập. Giáo dục rất phát triển. Vốn con người là yếu tố then chốt nhất tạo ra giá trị cho doanh nghiệp tri thức.Về vấn đề này em xin đề cập rõ hơn ở phần sau. 2.5. Tri thức là nền tảng rất quan trọng, là vốn quý nhất trong nền kinh tế dựa trên tri thức. Bất cứ hàng hoá nào cũng chứa đựng một hàm lượng tri thức nhất định. Chỉ cần một chút lệch lạc trong tri thức chúng ta sẽ trở thành kẻ thất bại trên thị trường. 2.6. Cơ sở trực tiếp nhất của kinh tế tri thức là con người. Đó là con người được giáo dục đào tạo tốt, đầy sức sáng tạo, luôn đổi mới mình để thích nghi với những thay đổi nhanh chóng và toàn diện về kinh tế-xã hội. Về vấn đề này sẽ trình bày ở phần sau. 2.7. Đề cao sự sáng tạo, đổi mới. Do môi trường vừa cạnh tranh vừa hợp tác nên sự sáng tạo, sự đổi mới thường xuyên là động lực chủ yếu nhất thúc đẩy sự phát triển. Công nghệ đổi mới nhanh, tốc độ sản sinh tri thức tăng theo cấp số nhân. Trong nền kinh tế tri thức, vì nảy sinh nhiều công nghệ mới nên luôn luôn xuất hiện nhiều công ty mới. Các doanh nghiệp muốn trụ được và phát triển thì phải đổi mới công nghệ và sản phẩm liên tục- sáng tạo là linh hồn của đổi mới, đồng thời để tăng sức mạnh, các công ty phải hợp tác với nhau không những để mua sản phẩm của nhau mà còn hợp tác thành các công ty lớn, đa quốc gia, chi phối toàn cầu. 2.8. Nền kinh tế tri thức là nền kinh tế toàn cầu hoá. Cơ sở kinh tế xã hội của kinh tế tri thức là kinh tế thị trường hội nhập kinh tế quốc tế. Không thể phát triển kinh tế tri thức bằng một nền kinh tế đóng kín. Một sản phẩm sản xuất ở bất kì nơi nào cũng có thể nhanh chóng có mặt ở khắp nơi trên thế giới. Toàn cầu hoá và kinh tế tri thức gắn bó với nhau, thúc đẩy nhau. Tuy nhiên, nó cũng tạo ra mặt trái là khoảng cách giàu nghèo, sự thách thức đối với văn hoá...Khoảng cách giàu nghèo tăng nhanh do chênh lệch về tri thức. Nếu rút ngắn chênh lệch về tri thức cũng có nghĩa là rút ngắn khoảng cách giàu nghèo. Còn về văn hoá, do thông tin, tri thức bùng nổ, trình độ văn hóa nâng cao, nội dung và hình thức văn hoá đa dạng. Mặt khác, giao lưu văn hoá cũng làm cho các nền văn hóa đứng trước rủi ro: bị pha tạp, dễ mất bản sắc...Vì vậy cần phải giữ gìn, phát huy các giá trị truyền thống, xây dựng và phát triển nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. 2.9. Kinh tế tri thức phải dựa trên cơ sở pháp luật rõ ràng, có hiệu lực và có đầy đủ thông tin. Tránh hiện tượng lừa đảo, chụp giật, nhiễu thông tin. Kinh nghiệm các nước chỉ rõ rằng công nghệ thông tin cho phép kiểm soát rất có hiệu quả mọi giao dịch, giảm bớt khả năng trốn lậu thuế... 3. Tác động của xu thế phát triển kinh tế tri thức 3.1. KTTT đẩy nhanh quá trình toàn cầu hoá, làm cho nó trở thành xu thế bao trùm của quan hệ quốc tế hiện đại. Bởi vì, kinh tế tri thức dựa vào việc tạo ra và sử dụng tri thức vốn mang bản chất năng động, lan toả không biên giới, đặc biệt là lĩnh vực thông tin, cho nên lực lượng sản xuất thế giới và các hoạt động kinh tế của con người ngày càng được quốc tế hoá. Trên thực tế, không ít công trình nghiên cứu đã chỉ ra rằng toàn cầu hoá là một quá trình khách quan phổ biến được thúc đẩy chủ yếu bởi những tiến bộ khoa học-công nghệ. Hiện nay, mỗi ngày tổng giá trị giao dịch tài chính quốc tế lên tới 3500 tỉ $, có hơn 50 000 công ty xuyên quốc gia với khoảng 300 000 công ty con nằm khắp các nước trên thế giới. Chính vì điều này, ở nhiều nước khuyến khích việc phát triển và sử dụng khoa học công nghệ cao trong sản xuất. Các công ty ra sức nắm bắt các tiến bộ khoa học-công nghệ trong sản xuất. Trên phương diện vĩ mô, các nước đều tăng cường hội nhập kinh tế quốc tế để tận dụng tối đa các cơ hội. 3.2. Quá trình phát triển tri thức làm cho phân công lao động trở nên sâu sắc và toàn cầu. Cùng với quá trình chuyển từ kinh tế công nghiệp sang kinh tế tri thức, tri thức mà trước hết là khoa học công nghệ sẽ phát triển hết sức nhanh chóng, làm cho phân công lao động phát triển cả chiều rộng lẫn chiều sâu. Vì trong thời đại kinh tế tri thức, thay vì sử dụng đất đai, tài nguyên và vốn trước đây, tri thức ngày càng làm nên giá trị áp đảo trong mỗi sản phẩm. Bên cạnh đó, sự phân công chuyên sâu trong hợp tác quốc tế cũng được tăng cường theo hướng ngày càng có nhiều công ty trong nước đi chuyên vào sản xuất một mặt hàng, một chi tiết cụ thể nào đó của một sản phẩm hoặc chỉ cung cấp một dịch vụ chuyên môn nhất định. 3.3. KTTT làm thay đổi sâu sắc cơ cấu kinh tế thế giới và cấu trúc quan hệ kinh tế quốc tế. Với sự xuất hiện của kinh tế tri thức, cơ cấu kinh tế thế giới đang đứng trước một sự thay đổi sâu sắc. Trong những năm 60 cơ cấu sản phẩm thế giới có tỉ lệ nông nghiệp- công nghiệp- dịch vụ là 10,4%-28,4%-50,4%, đến năm 90 cơ cấu này đã thay đổi mạnh mẽ : 4,4%-21%-62,4%. Như vậy các ngành dựa trên tri thức đã chiếm vị trí ngày càng quan trọng hơn và trong tương lai với sự phát triển của kinh tế tri thức, các ngành dựa trên tri thức sẽ chiếm vị trí áp đảo trong cơ cấu kinh tế thế giới. Cụ thể: +Hàng hoá, dịch vụ có hàm lượng trí tuệ cao ngày càng chiếm vị trí chủ chốt trong thương mại quốc tế. Hiện nay, tỉ lệ hàng hoá có kỹ thuật cao chiếm khoảng 70% trong tổng các sản phẩm buôn bán giữa các nước phát triển. Trao đổi kỹ thuật và công nghệ giữa các nước đạt 110 tỉ $ năm 1990, 250 tỉ năm 1995, khoảng 500 tỉ năm 2000. + Thương mại điện tử là lĩnh vực phát triển nhanh nhất và sẽ đóng vai trò hàng đầu trong thương maị quốc tế. Trong những năm qua, thương mại điện tử phát triển với tốc độ rất lớn, từ tổng giá trị 17 tỉ $ năm 97 lên 70 tỉ $năm 99 và dự kiến sẽ đạt 1000 tỉ $ năm 2002. + Quá trình phát triển kinh tế tri thức và xu thế toàn cầu hóa làm tăng tình trạng vừa cạnh tranh vừa hợp tác giữa các doanh nghiệp và tính năng động linh hoạt của chúng trên phạm vi toàn cầu. Để tồn tại và phát triển trong nền kinh tế tri thức toàn cầu hoá, các công ty luôn tìm cách đổi mới công nghệ để nâng cao năng lực cạnh tranh. Sẽ có công ty lớn mạnh lên và ngược lại sẽ có công ty phá sản. + Quá trình chuyển từ kinh tế công nghiệp sang kinh tế tri thức và xu thế toàn cầu hoá đã và đang làm thay đổi các lợi thế so sánh của các quốc gia trong thương mại quốc tế theo hướng giảm dần các lợi thế truyền thống như đất đai, tài nguyên, vị trí địa lí... và tăng vai trò, giá trị của các yếu tố tri thức. Nước nào khai thác, phát triển tốt nguồn tri thức sẽ có cơ hội phát triểnvà càng có vị trí cao trên thương trường quốc tế. Các nước phát triển sẽ có lợi hơn vì nền kinh tế của họ phát triển cao, đặc biệt có nhiều ngành dựa trên tri thức, nắm giữ khoa học công nghệ hiện đại, có đội ngũ công nhân tri thức đông đảo. Vì thế quá trình toàn cầu hoávà chuyển sang kinh tế tri thứcđang và có thể làm gia tăng sự phân cực về trình độ phát triển và khoảng cách giàu nghèo giữa các nước trên thế giới. Tuy nhiên quá trình này không chỉ tác động một cách tiêu cực mà có còn có tác động tích cực đối với các nước đang phát triển. Nó mở ra nhiều cơ hội mà các nước đang phát triển có thể tận dụng để đi tắt, đón đầu trên con đường phát triển kinh tế, và thu hẹp dần khoảng cách với các nước đi trước. + Theo một số nhà kinh tế, nền kinh tế tri thức mang đặc tính tăng trưởng bền vững và thoát được sự phát triển theo chu kỳ(tăng trưởng- suy thoái) Nếu đúng vậy thì quan hệ kinh tế quốc tế sẽ phát triển một cách ổn định, nguy cơ về khủng hoảng kinh tế khu vực và thế giới không còn là nỗi kinh hoàng nữa. 4. Việt Nam với nền kinh tế tri thức 4.1. Kinh tế tri thức là một tất yếu khách quan Thông qua các đặc điểm của nền kinh tế mới này, chúng ta nhận ra một điều là rõ ràng các nước tư bản phát triển, trước hết là Mỹ hiện đang có rất nhiều lợi thế nắm bắt kinh tế tri thức và chi phối kinh tế thế giới. Khoảng cách về thông tin-tri thức, sự chênh lệch giàu nghèo và bất bình đẳng giữa các nước và có thể cả giữa các nhóm người trong cùng một nước gia tăng. Tuy nhiên cái gì cũng có 2 mặt của nó. Do kinh tế tri thức có tốc độ biến đổi cực kì cao, thuộc tính tốc độ biến đổi nói lên rằng khả năng bắt kịp các nước đi trước cũng như khả năng tụt hậu sẽ lớn. Kinh tế tri thức là chìa khóa vàng cho các nước nghèo mở lối đi tắt, đón đầu, vươn lên bằng trí tuệ của mình. Mô hình "đi tắt" để chuyển sang kinh tế tri thức là rất cao. Chỉ có cách nắm bắt và lợi dụng các lợi thế của kinh tế tri thức, các nước đang phát triển và chậm phát triển mới có cơ hội từng bước làm chủ vận mệnh của mình. Hiện nay nền kinh tế tri thức mới chỉ được hình thành ở một số nước tiên tiến, chưa thể lan rộng ra toàn thế giới. Những nước đi sau chỉ có 2 cách lựa chọn: hoặc cam phận mãi mãi đi sau, hoặc tìm mọi cách bứt phá lên phía trước. 4.2. Chúng ta có khả năng thực tế tiếp cận và hội nhập nền kinh tế tri thức hay chỉ tìm cách thích nghi với nó? Thực tế đang khẳng định sự đăng quang của nền kinh tế mới. Liệu có quá sức mình khi ta chưa hoàn thành giai đoạn công nghiệp hoá mà đã tiến thẳng vào kinh tế tri thức? Nước ta là một nước nông nghiệp, trình độ phát triển thấp với lực lượng sản xuất chưa phát triển. Bước vào giai đoạn mới, nông nghiệp nông thôn nước ta đang đứng trước những thách thức lớn. Theo nhận định của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đó là 4 thách thức lớn: cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm, đa số sản phẩm làm ra chất lượng thấp, giá thành cao. Kinh tế nông thôn vẫn nặng về nông nghiệp(70%), lực lượng lao động nông thôn dồi dào, cần cù nhưng vẫn thiếu việc làm... Đứng trước thực trạng nông nghiệp và nông thôn Việt Nam như vậy, nhiều ý kiến cho rằng: với một nước còn nghèo, 3/4 dân số sống ở nông thôn như ở Việt Nam thì có lẽ khó sử dụng tri thức cho phát triển, thậm chí không thể nói việc đi vào nền kinh tế tri thức trong tương lai. Đó dường như là xa vời, là quá sức. Nhưng TSKH Nguyễn Quang Thái- Phó viện trưởng Viện chiến lược phát triển- Bộ Kế hoạch-Đầu tư lại cho rằng: "Trong thực tế có không ít lĩnh vực công nghệ cao trong thời đại ngày nay không chỉ là độc quyền của các nước công nghiệp phát triển. Nếu chúng ta biết lựa chọn những ngành hợp với lợi thế so sánh về nguồn nhân lực, về tài nguyên thiên nhiên, và tập trung cho đầu tư phát triển với bước đi thích hợp thì có khả năng vươn lên..." Lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn ông cho rằng: "Chúng ta có thể đi theo con đường rút ngắn, đi vào công nghệ hiện đại, dựa vào việc ứng dụng thành tựu khoa học công nghệ" Nước ta đang trong quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá thì tri thức cho nông thôn- con đường duy nhất để phát triển. Nói cách khác, chúng ta cần sử dụng tri thức, dựa vào tri thứcđể CNH-HĐH nền kinh tế. Như vậy, khi hoàn thành sự nghiệp CNH-HĐH thì chúng ta cũng đồng thời chuyển nền công nghiệp đó sang nền kinh tế tri thức, không như các nước đi trước phải hoàn thành CNH mới có thể tiếp cận nền kinh tế tri thức. Và chúng ta sẽ sử dụng nền kinh tế tri thức để tạo thêm nhiều công ăn việc làm, xoá đói giảm nghèo, thực hiện CNH-HĐH nông thôn, đồng thời tạo và phát triển nhanh các ngành kinh tế mũi nhọn như công nghệ thông tin, tạo thành đầu tàu kích thích các nền kinh tế khác phát triển. Dân tộc ta kiên cường bất khuất, tất nhiên sẽ không chịu lùi bước trước khó khăn nào. Tuy nhiên không nên vội vàng, nhưng cũng không được nản chí khi nghe những luận điệu kiểu:" Chưa học hết tiểu học làm sao có thể nhảy thẳng vào đại học" Cuộc sống đa dạng, sôi động đâu chỉ có một "logic tuần tự" ấy. Thực tế cho thấy có nhiều bước đột phá. Nam Triều Tiên, Singapo...công nghiệp hoá đất nước trong vòng 30 năm, Ailen từ một nước nông nghiệp những năm 60, ngày nay đang đàng hoàng sánh vai cùng các nước tiên tiến...Nước ta cũng vậy, nếu chỉ tuân theo logic tuần tự thì trong kháng chiến chắc chắn chúng ta không vượt qua đưởc trình độ vũ khí hiện đại nhất lúc ấy, để có ngày hôm nay. Vấn đề là chúng ta bước vào nền kinh tế tri thức bằng cánh cửa nào? Kinh tế tri thức là một tất yếu khách quan, đang diễn ra một cách ráo riết, dù là nước nghèo nhất thế giới cũng phải đương đầu với những thách thức của nền kinh tế đang được tri thức hoá và toàn cầu hoá. Về vấn đề này tổng bí thư Lê Khả Phiêu đã phát biểu rất hay trong bài diễn văn đọc tại hội nghị quốc tế " Việt Nam trong thế kỉ 21" : "Phải nắm lấy ngọn cờ khoa học như đã nắm ngọn cờ dân tộc...Nhân dân Việt Nam ngày nay có câu: đã biết cầm đũa thì biết vót chông, đã biết vót chông thì 10 ngón tay ấy sẽ biết học tập, sử dụng máy vi tính, đi vào công nghệ thông tin, cánh cửa của kinh tế tri thức." Chiến lược phát triển của ta là chiến lược dựa vào tri thức, nội dung công nghiệp hoá nước ta là vận dụng các yếu tố của kinh tế tri thức. Nước ta hiện nay, GDP bình quân đầu người chỉ bằng 1/12 bình quân của thế giới, thuộc nhóm những nước nghèo nhất. Đảng và Chính phủ đã đưa ra nhiều giải pháp cho một chiến lược kinh tế dựa trên tri thức, chẳng hạn đổi mới cơ chế quản lí, phát huy mọi năng lực sáng tạo của người dân, tăng cường năng lực khoa học và công nghệ quốc gia, cải cách hành chính và tạo lập một khuôn khổ pháp lí mới đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh các doanh nghiệp tri thức...trong đó chăm lo phát triển nguồn nhân lực được coi là quốc sách hàng đầu. Nước ta phải chủ động tiếp cận xu hướng phát triển kinh tế tri thức như một tất yếu và phải đi thẳng vào nền kinh tế tri thức theo mô hình 2 tốc độ-có nghĩa là phải thực hiện 2 nhiệm vụ kép: chuyển từ kinh tế nông nghiệp sang kinh tế công nghiệp, và từ kinh tế công nghiệp sang kinh tế tri thức. Hai nhiệm vụ này phải thực hiện đồng thời, lồng ghép và bổ trợ cho nhau. Và một trong những giải pháp chiến lược thích hợp và tối ưu là phát triển nguồn nhân lực, chấn hưng giáo dục. III. Thực trạng nguồn nhân lực và các biện pháp phát triển nguồn nhân lực cho nền kinh tế tri thức của nước ta. 1. Thực trạng nguồn nhân lực Việt Nam Việt Nam có nguồn nhân lực dồi dào về số lượng. Với nguồn nhân lực đó, nước ta đã có thể hoà nhập vào môi trường cạnh tranh toàn cầu cũng như đón đầu nền kinh tế tri thức chưa? Nếu chỉ nhìn vào số lượng thì chưa đủ. Chất lượng của nguồn nhân lực còn thấp, chủ yếu là lao động phổ thông, lao động nhàn rỗi trong nông nghiệp, trong khi cầu về lao động lại đòi hỏi nguồn nhân lực lành nghề, có trình độ chuyên môn, kỹ thuật, quản lí cao. Theo điều tra năm 96 : 87,7 % tổng số lao động là lao động giản đơn, đến 1999 số lao động đào tạo đạt 13%. Nếu phân chia trình độ cho số lao động được đào tạo trong những năm đó, trình độ sơ cấp 1,5-1,8 %, công nhân kĩ thuật có bằng cấp 2,1-2,5%, trên đại học 0,03-0,047%. Tuy nhiên những chỉ tiêu đó còn ở mức thấp. Đến cuối 1998, đội ngũ lao động có trình độ chuyên môn kĩ thuật của lực lượng lao động cả nước có khoảng gần 5 triệu người gồm công nhân kĩ thuật, sơ cấp trung học chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học thạc sĩ, tiến sĩ. Hiện nay chúng ta có khoảng 88% giáo sư, 63,7% phó tiến sĩ tuổi từ 55 trở lên, 24% tiến sĩ và 35,6% phó tiến sĩ ở tuổi ngoài 50. Trong những năm tới nếu không có sự thay đổi đột biến về giáo dục đào tạo thì sẽ thiếu hụt nghiêm trọng lao động chất xám. Đội ngũ lao động có trình độ đại học, cao đẳng tăng nhanh song phân bố chưa hợp lí giữa các ngành, các vùng , các loại trình độ dẫn đến chênh lệch trong cơ cấu chất lượng đội ngũ lao động. Nước ta đang trong tình trạng khan hiếm nhân lực cao cấp nghiêm trọng. Thị trường đang cần chuyên gia về quản trị kinh doanh, lập trình viên, kỹ thuật viên...Kỹ năng lao động tập thể của họ còn yếu. Phần lớn sinh viên của ta sau khi tốt nghiệp vẫn chưa đủ trình độ hội nhập khu vực, còn thiếu kinh nghiệm và kiến thức thực tế, ngoại ngữ chưa giỏi. Như vậy, nguồn nhân lực không chỉ được xem là tổng số người lao động hay đơn thuần là chất lượng, cơ cấu của đội ngũ đó. Phát triển nguồn nhân lực chính là phát triển các năng lực làm việc của người lao động, sử dụng lao động hợp lí. Cơ cấu lao động nông nghiệp- công nghiệp- dịch vụ với tỉ lệ: 67%- 12%- 21%. Đội ngũ trí thức phân bố không đồng đều, phần lớn tập trung ở các thành phố lớn. Mặc dù đội ngũ trí thức nước ta còn mỏng, song theo đánh giá của các nhà khoa học quốc tế thì đó là lực lượng có trình độ cao. Hiện nay, nhiều trí thức nước ngoài đã về nước đầu tư. Như đã nói ở trên, muốn đi tắt đón đâu, con đường phát triển của ta phải phối hợp ở tốc độ cao. Tốc độ cao ấy chỉ có thể thực hiện được bằng công nghệ mới và nguồn nhân lực có khả năng khai thác và phát huy công nghệ đó. Nhưng trên thực tế, nhân lực cho công nghệ, đặc biệt là công nghệ phần mềm ở nước ta còn thiếu trầm trọng. Dự kiến đến năm2005 công nghiệp phần mềm cần ít nhất 50 nghìn chuyên gia về công nghệ thông tin ở các trình độ khác nhau. Một khiếm khuyết lớn nhất về nhân lực công nghệ phần mềm(CNPM) ở nước ta là sự thiếu hụt trầm trọng chuyên viên trình độ cao. Trong những năm gần đây, nguồn nhân lực phát triển và ứng dụng CNPM được tăng cường chủ yếu là sinh viên tốt nghiệp từ các khoa CNTT thuộc các trường đại học như: ĐH Quốc gia, Bách khoa, ĐH Sư phạm Hà nội, Thăng long, Đông đô... Trong lúc đó số sinh viên tốt nghiệp bổ sung nguồn nhân lực cho CNTT hàng năm khoảng 2000 người- bao gồm 1400 chuyên viên phần mềm, 600 chuyên viên phần cứng. Số cán bộ CNPM trẻ nói trên đã đáp ứng phần nào nhu cầu nhân lực CNPM hiện tại. Tuy nhiên hàng năm các kỹ sư CNTT ra trường rất đông nhưng lại thiếu trầm trọng kỹ sư CNTT có khả năng trong thị trường. Một tỉ lệ không nhỏ- khoảng 30 % đối với nhóm trường đại học hàng đầu- các kỹ sư tốt nghiệp không đủ khả năng làm việc đúng ngành. Cho đến nay, trong sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hóa, chúng ta đã có những cán bộ, công nhân đưa được tri thức mới vào quy trình sản xuất, cho ra được những sản phẩm mới có hàm lượng tri thức cao, làm lợi cho nhà máy hàng tỷ đồng. Nhưng phải khi ứng dụng rộng rãi công nghệ thông tin vào quy trình sản xuất thì sản phẩm có hàm lượng tri thức cao mới tăng lên gấp bội, mới chiếm lĩnh thị trường trong nước và thế giới. Hiện nay, công nghệ thông tin đã được ứng dụng ngày càng rộng rãi trong các ngành bưu chính viễn thông, ngân hàng, hàng không, dầu khí, điện lực, thương mại, quốc phòng...Cả nước có khoảng 400 000 máy tính cá nhân, khoảng 25 nghìn người truy cập Internet. Bước đầu sản phẩm phần mềm của Việt Nam đã được thế giới biết đến. Cụ thể như sản phẩm phần mềm" PopMap for Windows" của Viện công nghệ thông tin thuộc Trung tâm khoa học tự nhiên và công nghệ quốc gia làm theo đơn đặt hàng của LHQ đã thành công, được tặng giải thưởng Khoa học công nghệ năm 2000. Việt Nam đã nghiên cứu thành công và đang phát triển một loại giống lúa cao sản có hàm lượng protein lên tới11%( so với nước trung bình 7% protein của thế giới) Hiện nay đội ngũ cán bộ khoa học được phân theo lĩnh vực đào tạo như sau: Như vậy, nhà nước đã có sự quan tâm tới các ngành công nghệ, và tương lai sẽ phục vụ đắc lực trong nền kinh tế tri thức. 2. Yêu cầu về nguồn nhân lực Từ những nội dung trên ta khẳng định nguồn lực con người đóng vai trò chủ yếu, quan trọng trong nền kinh tế tri thức.Tuy nhiên vai trò con người chỉ trở thành hiện thực khi con người có những năng lực và phẩm chất cần thiết đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế tri thức. Các nhà nghiên cứu khẳng định rằng nâng cao chất lượng nhân lực là con đường duy nhất và ngắn nhất để đi tới nền kinh tế tri thức. Nguồn nhân lực chúng ta cần các tố chất: - Yếu tố hàng đầu của nguồn lực con người đó là trí tuệ. Bởi vì tất cả những gì thúc đẩy họ hành động phải thông qua đầu óc họ. - Họ phải có sức mạnh niềm tin, ý chí, ham học hỏi, cần cù, sáng tạo, biết cùng nhau gắn bó - Tính chuyên nghiệp cao trong công việc. Nó thể hiện ở trình độ nghề nghiệp tinh xảo, tinh thần kỉ luật lao động cao, say mê nghề nghiệp, đóng góp hết khả năng mình. - Khả năng hoà nhập và năng lực cạnh tranh. Họ phải có khả năng tư duy độc lập và sáng tạo trong công việc, mạnh dạn thay đổi và tìm tòi cái mới. Bên cạnh đó người lao động cần có khả năng làm việc trong các môi trường và với những đối tượng khác nhau. Môi trường lao động trong tương lai sẽ luôn thay đổi theo những thành tựu tiên tiến của khoa học kỹ thuật . Người lao động phải thành thạo các kỹ năng nghề nghiệp cũng như kỹ năng giải quyết vấn đề, đàm phán, máy tính, ngoại ngữ... 3. Biện pháp 3.1. Khai thác tiềm năng trí tuệ, phát huy năng lực sáng tạo trở thành yêu cầu chủ yếu của chiến lược phát triển nguồn nhân lực. Cuộc cách mạng khoa học công nghệ tác động và làm biến đổi mạnh mẽ lao động xã hội theo hướng tăng tỉ trọng của lao động trí tuệ, việc ứng dụng ngày càng rộng rãi tri thức vào sản xuất và tổ chức lao động làm cho tri thức nhanh chóng trở thành yếu tố sản xuất quan trọng nhất, trí tuệ đang trở thành động lực cho tương lai của nhân loại. Do đó khai thác, phát huy tiềm năng trí tuệ đã trở thành nét đặc trưng và là yêu cầu cơ bản nhấtcủa sự phát triển nguồn nhân lực trong điều kiện cách mạng khoa học công nghệ hiện nay. Nhìn chung quá trình tìm kiếm những mô hình, giải pháp nhằm phát huy tiềm năng trí tuệ vẫn đang diễn ra và thu hút sự chú ý của các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu. Xu thế chú trọng khai thác tiềm năng trí tuệ, phát huy năng lực sáng tạo của nguồn nhân lực đã được khẳng định và áp dụng ở hầu hết các quốc gia. 3.2. Phải lấy sự phát triển con người làm thước đo chung. Phát triển con người là quan điểm về phát triển trong đó lấy con người làm trung tâm. Đó là phát triển của con người, do con người, và vì con người. Phát triển của con người có nghĩa là đầu tư vào phát triển tiềm năng của con người như giáo dục, y tế, kỹ năng... để con người có thể làm việc một cách sáng tạo và có năng suất cao nhất. Phát triển vì con người đảm bảo sự tăng trưởng kinh tế mà con người tạo ra phải được phân phối rộng rãi và công bằng. Phát triển do con người là hướng vào việc tạo cho con người có cơ hội tham gia vào mọi hoạt động của đời sống xã hội( kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội) 3.3. Phải thực sự coi giáo dục là quốc sách hàng đầu. Ưu tiên đầu tư cho phát triển giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là yêu cầu cơ bản của chiến lược phát triển nguồn nhân lực.Trong tất cả các chính sách, biện pháp nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực thì giáo dục-đào tạo có ý nghĩa quan trọng hơn cả. Nó góp phần nâng cao trình độ nhận thức chung cho con người trên các mặt văn hoá xã hội, tri thức khoa học-kỹ thuật, chuyên môn, nghiệp vụ...Giáo dục đào tạo được coi là tiền đề và là cơ sở chủ yếu để nâng cao hiệu quả sử dụngvà phát triển nguồn nhân lực, nhằm hướng tới mục tiêu cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao cho sự phát triển. Tuy mỗi nước có chính sách, chiến lược phát triển nguồn nhân lực riêng, nhưng tất cả đều coi giáo dục và đào tạo là yếu tố trung tâm, là con đường cơ bản để mở rộng và sử dụng các khả năng của con người. Những vấn đề đặt ra cho giáo dục-đào tạo Nền kinh tế tri thức là nền kinh tế dựa trên công nghệ cao, đó là nét đặc trưng rất tiêu biểu của nền văn minh thông tin- sản phẩm của cách mạng thông tin, cách mạng tri thức.Nói đến tri thức, sáng tạo tri thức, ứng dụng tri thức-không thể không nói đến khoa học, công nghệ và giáo dục, đặc biệt là giáo dục- nền tảng cung cấp nguồn nhân lực. * Về nguồn nhân lực Trong kinh tế tri thức, nguồn nhân lực có tri thức là lợi thế hàng đầu để các nước nghèo như nước ta có thể vươn lên theo kịp các nước khác.Vì vậy cần quan tâm hàng đầu đến việc đào tạo có chất lượng nguồn nhân lực, trong đó đảm bảo cơ cấu hợp lí đội ngũ cán bộ khoa học( công nhân cổ trắng), cán bộ có trình độ đại học (công nhân cổ vàng) và công nhân kỹ thuật(công nhân cổ xanh) vì nền kinh tế nước ta sẽ có sự giao thoa của cả 3 loại: kinh tế nông nghiệp, công nghiệp, tri thức. Trong đó nhân tài phải là bộ phận chất lượng cao của nhân lực và được quan tâm phát hiện, bồi dưỡng, tạo điều kiện để phát triển. Các doanh nghiệp cũng phải tham gia và có trách nhiệm đào tạo nguồn nhân lực. * Mô hình nhân cách người lao động Mỗi cá nhân phải có năng lựchoạt động trong lĩnh vực của mình, trong đó điều cốt yếu là phải có vốn tri thứccơ bản, kĩ năng, tinh thần đổi mới và sáng tạo, khả năng thích ứng cùng với lòng ham hiểu biết, có khả năng và phương pháp tự học suốt đời. Bên cạnh đó còn phải có đạo đức. Phẩm chất cốt lõi nhất của đạo đức là ý thức trách nhiệm, có hệ thống thái độ phù hợp với môi trường sống, với con người, xã hội. * Nền giáo dục - Cải cách giáo dục: chúng ta phải chuyển nền giáo dục yếu kém sang nền giáo dục tiên tiến, lành mạnh. Mục đích đào tạo phải nhằm phát triển toàn diện con người một cách bền vững trên cơ sở đảm bảo triệt để thông tin, phải biến tri thức thành kỹ năng, thái độ của người học. Học không chỉ để biết, để có bằng cấp mà để làm một cách sáng tạo và để hợp tác có hiệu quả với người khác trong quốc gia và trên quốc tế. Nội dung đào tạo phải hiện đại ở mọi bậc và gắn với tri thức công nghệ...Phổ cập trung học, công nghệ thông tin và ngoại ngữ là những vấn đề cần được tập trung giải quyết đảm bảo chất lượng đích thực. Phương thức đào tạo phải tạo ra năng lực sáng tạo, nhu cầu ham hiểu biết để chủ động học thường xuyên trên cơ sở phối hợp các phương pháp dạy và học tích cực, áp dụng công nghệ thông tin vào quá trình dạy học - Hình thức tổ chức nền giáo dục trên qui mô toàn xã hội( không chỉ phạm vi học đường). Bên cạnh đa dạng hoácác loại hình trường lớp chính quy, cần mở rộng các hình thức và mạng lưới giáo dục phi chính quy đến tận cộng đồng làng xã, tăng cường hình thức học tập từ xa, qua các phương tiện thông tin đại chúng, qua mạng Internet để tạo cơ hội học tập thường xuyên, học tập suốt đời cho mọi người. Trên cơ sở đó động viên tuyên truyền mọi người học tập với động cơ lành mạnh theo hình thức phù hợp với mình để tạo ra một xã hội học tập- nền tảng để bước vào xã hội thông tin và nền kinh tế tri thức. - Không nên quá chú trọng đào tạo theo bằng cấp, cần quan tâm nhiều hơn đến đào tạo theo công việc. - Song song với đào tạo lí thuyết cần quan tâm kỹ năng thực hành - Thực hiện ưu đãi đối với giáo dục đặc biệt là đầu tư vào chính sách tiền lương đối với những người làm công tác giáo dục. 3.4. Tổ chức quản lí và sử dụng linh hoạt nguồn nhân lực. Một mặt phải nâng cao hiệu quả hoạt động của từng cá nhân và của toàn xã hội trên cơ sở nâng cao trình độ học vấn và chuyên môn nghề nghiệp, mặt khác giảm đến mức tối thiểu số người thất nghiệp. Cần phân nhóm thị trường lao động nhằm phân chia lao động theo nhóm, trả lương theo năng lực chuyên môn của cá nhân và của từng nhóm. Xu hướng chuyển từ sử dụng đội ngũ cán bộ một cách đại trà sang ưu tiên thu hút cán bộ có trình độ chuyên môn cao, hiểu biết rộng đang trở thành phổ biến và là đặc trưng nổi bật trong việc sử dụng và phát triển nguồn nhân lực. Mặt khác, phải bố trí giải quyết việc làm cho mọi người, nhất là sinh viên mới ra trường, giảm tối thiểu tình trạng làm trái ngành, trái nghề. 3.5. Hợp tác quốc tế trong lĩnh vực phát triển nguồn nhân lực là một xu hướng phổ biến.Với sự phát triển của khoa học công nghệ, xu hướng khu vực hoá, quốc tế hoá, toàn cầu hoá đang trở thành xu hướng chủ đạo. Trong lĩnh vực phát triển nguồn nhân lực nhiều hình thức hợp tác quốc tế đã xuất hiện với sự cam kết của nhiều quốc gia và các tổ chức quốc tế như hỗ trợ phát triển giáo dục và kỹ thuật, ngăn chặn nạn chảy máu chất xám... 3.6. Cần tạo động lực cho người lao động, tạo cho họ có sự gắn bó với doanh nghiệp( tiền lương, môi trường làm việc, cơ hội thăng tiến, và nhất là người lao động được thực sự làm việc đúng chuyên môn và khả năng của mình) 3.7. Tăng cường sự đóng góp của trí tuệ Việt kiều. Có thể nói trí thức Việt kiều là một trong những lợi thế của nước ta mà ít quốc gia nào có được. Hiện có nhiều người Việt Nam đang làm việc cho các hãng công nghệ lớn ở nước ngoài( chẳng hạn ở khu công nghệ cao về công nghệ thông tin Silicon Valley có khoảng 12 nghìn người Việt Nam làm việc). Nhà nước cần có các chính sách thu hút trí thức. Việt kiều về nước như tạo điều kiện liên doanh trong nước hoặc trở thành chuyên gia trong các doanh nghiệp CNTT tại Việt Nam. 3.8. Cần đổi mới chính sách đối với người làm khoa học. Làm công tác nghiên cứu khoa học là rất vất vả, tốn nhiều thời gian. Thực tế hiện nay, lương của cán bộ khoa học có khi thấp hơn cả lao động bình thường, khiến họ phải chuyển nghề hoặc làm nghề phụ. Chế độ tiền lương thoả đáng sẽ có sức động viên lớn. Với các nhà khoa học càng có tuổi, kinh nghiệm càng cao, để họ về hưu thì rất phí. Nếu thực hiện chế độ 2 lương( lương hưu và lương thực tế) đối với họ có lẽ sẽ tốt hơn chăng. C: Kết luận Mặc dù có thể có nhiều ý kiến khác nhau về tên gọi, thời điểm xuất hiện nền kinh tế "hậu công nghiệp", cũng như còn phải tiếp tục nghiên cứu kỹ hơn về bản chất và tác động của nền kinh tế này, nhưng điều khó có thể phủ nhận được là sẽ có một nền kinh tế lấy tri thức, trước hết là khoa học công nghệ cao và thông tin làm động lực và nội dung chủ yếu của sự phát triển và thịnh vượng trong tất cả các lĩnh vực kinh tế và xã hội. Dùng thuật ngữ" kinh tế tri thức" có lẽ là thích hợp nhất. Dưới tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại và xu thế toàn cầu hoá, xu hướng chuyển sang kinh tế tri thức đã và đang là một thực tế ngày càng được khẳng định trước hết là trong các nước phát triển và các nước mới công nghiệp hoá. Những thay đổi rất đa dạng do kinh tế tri thức tác động đang đặt ra nhiều cơ hội và thách thức cho mỗi quốc gia, mỗi doanh nghiệp. Nếu quốc gia nào, đặc biệt là các nước đang phát triển, không nhận thức được vai trò ngày càng quan trọng của tri thức, không có sự tập trung đầu tư xứng đáng và khai thác hợp lí các nguồn tri thức, không hội nhập vào xu thế chung để tận dụng các cơ hội phát triển mà quá trình toàn cầu hóa và nền kinh tế tri thức mang lại, thì quốc gia đó tất sẽ ngày càng tụt hậu và ngày càng thiếu sức cạnh tranh trên thương trường quốc tế. Như vậy, thế kỷ 20- thế kỷ thành công của sự nghiệp giữ nước đã khép lại. Chúng ta đang bước vào thế kỷ 21 với triển vọng dựng nước thành công theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nếu ở thế kỷ 20, Việt Nam cần và có những con người cách mạng kiên cường, dám xả thân vì đất nước, thì vào thế kỷ 21, Việt Nam cần và phải có những con người xây dựng tài ba, rất mực cần mẫn, lao động có kỹ thuật, có kỉ luật, có năng suất cao. Trước cả Việt Nam là chiến trường. Nay và mai, cả nước Việt Nam là công trường. ở công trường cũng sẽ có nhiều anh hùng như ở chiến trường. Lao động sáng tạo là tiêu chuẩn chủ yếu đánh giá con người Việt Nam thế kỷ 21. Tuy ta mới đặt bàn chân vào nền kinh tế tri thức, nhưng để làm chủ được nó khi đã hình thành phát triển hoàn chỉnh, thì phải chuẩn bị ngay từ bây giờ. Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 2 khoá VIII đã đề ra cụ thể là: "Đẩy mạnh nghiên cứu và ứng dụng công nghệ cao như công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới...Bước đầu xây dựng 2 khu công nghệ cao tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh". Thủ tướng chính phủ cũng đã duyệt y kế hoạch trong 5 năm tới sẽ đào tạo được 25 000 nhân lực cho công nghệ phần mềm, tạo ra 500 triệu $ sản phẩm phần mềm. Muốn làm được những mục tiêu đã đề ra, phải thấy được việc xây dựng nguồn nhân lực phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế tri thức là nhân tố quyết định sự thắng lợi. Vấn đề chuẩn bị nhân tố con người và nguồn nhân lực vừa mang tính cấp bách, vừa có ý nghĩa cơ bản lâu dài. Đây là vấn đề đòi hỏi có sự nỗ lực của tất cả các ngành các cấp, chứ không chỉ riêng giáo dục đào tạo. Nếu các lớp cha anh là niềm kì vọng của thế kỉ 20, thì lớp học sinh, sinh viên chúng ta thời nay là niềm hy vọng của thế kỉ 21. Để chuẩn bị cho một nền kinh tế tri thức trong tương lai, trách nhiệm của lực lượng tri thức trẻ hôm nay là rất lớn, bởi họ sẽ là người làm chủ xã hội. Đây là thách thức lớn lao đối với người trẻ tuổi. Là một sinh viên khối kinh tế, khi nghiên cứu vấn đề này, em đã hiểu ra được nhiều điều về nền kinh tế tri thức và tầm quan trọng của nguồn lực con người trong sự vận động và phát triển của xã hội cũng như trong nền kinh tế tri thức. Em cũng thấy được trách nhiệm của mình là phải đầu tư cho học tập tốt để có thể tồn tại và cạnh tranh trong nền kinh tế tri thức. Bài viết đã hoàn thành, song do còn những hạn chế về kiến thức, chắc chắn bài viết của em còn nhiều sai sót. Em rất mong nhận được sự góp ý và chỉ bảo của thầy cô và các bạn để bài viết đạt kết quả tốt hơn. Em xin chân thành cảm ơn. Tài liệu tham khảo Tạp chí Triết học các số năm 2000 Tạp chí cộng sản Tạp chí Quản lí nhà nước Toàn cảnh sự kiện và dư luận Phát triển giáo dục số 6/2000 Công tác khoa giáo các số 2000 Thông tin khoa học giáo dục Lao động công đoàn Báo Nhân dân Báo Lao động Báo Sài Gòn giải phóng Mục lục Trang A. Lời mở đầu 1 B. Nội dung I. Một số vấn đề chung về con người 2 1. Khái niệm con người 2 2. Vai trò của con người trong sự vận động và phát triển của đời sống xã hội 3 3. Nguồn lực con người 4 II. Một số vấn đề chung về nền kinh tế tri thức 6 1. Khái niệm về nền kinh tế tri thức 6 2. Các đặc trưng chủ yếu của kinh tế tri thức 10 3. Tác động của xu thế phát triển kinh tế tri thức 12 4. Việt Nam với nền kinh tế tri thức 14 III. Thực trạng nguồn nhân lực và các biện pháp phát triển nguồn nhân lực cho nền kinh tế tri thức ở Việt Nam 16 1. Thực trạng nguồn nhân lực nước ta 16 2. Yêu cầu về nguồn nhân lực 18 3. Biện pháp 19 C. Kết luận 23 Tài liệu tham khảo 25

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35047.doc
Tài liệu liên quan