Đề tài Công nghiệp hoá hiện đại hoá và vai trò của nó trong sự nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa ở nước ta

Thực tiễn phát triển của hơn 15 năm đổi mới , đã chứng tỏ việc chúng ta áp dụng những tiến bộ khoa học , đổi mới công nghệ , tiếp thu công nghệ tiên tiến là một yếu tố rất quan trọng làm thay đổi bộ mặt của đất nước và cuộc sống của nhân dân . Để đạt được tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước ( GDP ) liên tục đát khoảng 8% những năm qua , ngoài yếu tố chuyển đổi cơ chế , mở cửa , chủ động , hội nhập với thị trường khu vực và thế giới , thì yếu tố tăng lực lượng sản xuất qua vốn , lao động và công nghệ là rất quan trọng . Trong hoạt động sản xuất , kinh doanh thường thấy nổi lên vấn đề vốn , nhưng phân tích kỹ thì thực ra , vốn phần lớn cũng là để để mới và tiếp thu công nghệ ( mua thiết bị , máy móc - phần cứng của công nghệ ; và mua quy trình , bí quyết công nghệ nâng cao trình độ tay nghề , năng lực quản lý cho người lao động . - phần mềm công nghệ ) Để khoa học và công nghệ thực sự là nền tảng và động lực của công nghiệp hoá , hiện đại hoá phải gắn hoạt động nghiên cứu khoa học và công nghệ với thực tiễn , với quá trình công nghiệp hoá , hiện đại hoá , phải tăng đầu tư cho hoạt động khoa học và công nghệ đúng với nghĩa " quốc sách hàng đầu" . Đồng thời , phải tìm ra động lực cho sự phát triển của bản thân khoa học và công nghệ ; động lực này nằm ở lợi ích những người nghiên cứu , phát minh và ứng dụng có hiệu quả khoa học và công nghệ. Như vậy , vấn đề quan trọng đặt ra là chính sách khoa học và công nghệ không chỉ giới hạn ở việc xử lý các vấn đề công nghệ và kỹ thuật trong quá trình công nghiệp hoá , hiện đại hoá mà còn phải khai thác có hiệu quả các tiến bộ khoa học và công nghệ , đặc biệt là phải quan tâm xây dựng và phát huy tốt lực lượng nghiên cứu và ứng dụng khoa học công nghệ .

doc37 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1422 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Công nghiệp hoá hiện đại hoá và vai trò của nó trong sự nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
... cũng dần được bãi bỏ Hai là , áp dụng nhứng chính sách vĩ mô theo hướng khuyến khích xuất khẩu bao gồm mở rộng cơ chế thị trường , hạ giá đồng tiền thấp hơn thực tế , tăng cường tín dụng thương mại , tăng đầu tư từ nguồn ngân sách nhà nước cho các cơ sở hạ tầng phục vụ xuất khẩu , khuyến khích các thành phần kinh tế tư nhân ... Ba là , tăng cường thu hút các nguồn vốn nước ngoài phục vụ xuất khẩu . Các nguồn vốn đó là : vốn viện trợ phát triển chính thức ( ODA ) , vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ( FDI ) , vốn đầu tư gián tiếp ... Bốn là , thành lập các khu chế xuất , các đặc khu kinh tế , các khu mậu dịch tự do . Mô hình này có sức hấp dẫn lớn , được triển khai ở nhiều nước đang phát triển và đã gặt hãi những thành công , nổi bật là một số nền kinh tế Đông á như Hàn Quốc , Đài Loan , Singapore .. và một số nước Mỹ Latinh như Mexico , Brazil , Arghentina , Chile ... Tuy nhiên mô hình này cũng bộc lộ một số hạn chế như : đặt nền kinh tế quốc gia vào sự phụ thuộc quá nhạy cảm đối với các yếu tố bên ngoài ; làm trầm trọng tình trạng bất bình đẳng trong các quan hệ kinh tế quốc tế . 1.2.4. Chiến lược hỗn hợp theo hướng hội nhập quốc tế . Đây là chiến lược kết hợp các mô hình nêu trên : vừa phát triển mạnh sản xuất các sản phẩm xuất khẩu , vừa coi trọng thị trường nội địa . Mô hình này có thể bao hàm nội dung nhất định của mô hình khác . Chẳng hạn chiến lược hướng nội không phủ định thương mại quốc tế . Để có ngoại tệ nhập các điều kiện sản xuất thay thế nhập khẩu , đòi hỏi phải có sản phẩm xuất khẩu . Cho đến nay mô hình công nghiệp hoá hỗn hợp vẫn đang trong quá trình hình thành , khảo nghiệm . Bước đầu có thể nêu lên một số đặc điểm sau đây : Thứ nhất , xã hội cơ cấu công nghiệp theo hướng hội nhập quốc tế . Cơ cấu này là một cơ cấu hướng ngoại , chấp nhận cạnh tranh quốc tế không chỉ trên thị trường ngoài nước mà cả thị trường trong nước , đồng thời tận dụng đến mức tối đa lợi thế địa lý - kinh tế trong chu trình sản xuất - kinh doanh . Thứ hai , xây dựng thể chế kinh tế -xã hội theo hướng hội nhập quốc tế , với hai tính chất : mở và phù hợp với các chế định toàn cầu . Thứ ba , xây dựng nguồn nhân lực hội nhập quốc tế . Toàn bộ kết cấu nguồn nhân lực phải phấn đấu đạt tiêu chuẩn quốc tế , từ các nhà hoạch định chiến lược , chính sách đến các nhà quản lý , đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ , doanh nghiệp , công nhân ... Trong những năm vừa qua , mô hình công nghiệp hoá hỗn hợp theo hướng hội nhập quốc tế gặp một số khó khăn , nhưng nó vẫn tỏ ra là sự lựa chọn chiến lược có triển vọng hơn cả trong kỷ nguyên toàn cầu hoá đương đại . Lộ trình gấp ghềnh với những thăng trầm của các mô hình một lần nữa chứng tỏ bất cứ mô hình công nghiệp hoá nào cũng đều là sản phẩm của một giai đoạn lịch sử mà sự thành công của nó phụ thuộc vào nhiều yếu tố , trong đó năng lực hoạch định đường lối và tổ chức thực hiện công nghiệp hoá trong thực tiễn của con người giữ vai trò quyết định . Và vấn đề đặt ra cho mỗi quốc gia trên con đường công nghiệp hoá là phải nắm bắt kịp thời xu thế khách quan , khai thác tối đa những thời cơ , thuận lợi và hạn chế mức thấp nhất những bất lợi , khó khăn . 1.3. Sự cần thiết phải tiến hành công nghiệp hoá , hiện đại hoá ở nước ta . 1.3.1. Tầm quan trọng của công nghiệp hoá , hiện đại hoá trong sự nghiệp xây dựng đất nước . Đối với Việt Nam , hiện tại nền kinh tế vẫn mang nặng tính chất nông nghiệp lạc hậu , công nghiệp nhỏ bé . Tổng sản phẩm quốc dân ( GDP ) tính theo đầu người vào loại thấp nhất thế giới , tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm chậm hơn nhiều nước trong khu vực . Thực trạng kinh tế này tương đương với nhiều nước Châu á cách đây 30 - 40 năm khi họ chuẩn bị bước vào công nghiệp hoá . Nếu tiếp tục chỉ dựa vào nền kinh tế nông nghiệp mà sản xuất lúa là ngành quan trọng nhất , thi nền nông nghiệp ấy chỉ tăng trưởng 4 - 5 % là cùng , và mức tăng tổng sản phẩm quốc nội ( GDP ) nhiều nhất cũng chỉ có thể là 5-6% , như vậy nền kinh tế vẫn trong tình trạng kém phát triển . Lịch sử thế giới chưa có một nước nào bằng con đường nông nghiệp hoá mà trở thành một nước phát triển . Vì thế , để ra khỏi tình trạng nước nghèo và chậm phát triển , tránh khỏi nguy cơ tụt hậu xa hơn , nước ta không còn con đường nào khác ngoài tiến hành công nghiệp hoá hiện đại hoá . Tại hội nghị Đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII ( tháng 1 - 1994 ) Đảng ta đã xác định là phải " đưa đất nước chuyển dần sang một thời kỳ đẩy tới một bước công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước " . Tháng 6 - 1996 Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng tiếp tục khẳng định : " ... đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá . Mục tiêu của công nghiệp hoá hiện đại hoá là xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại , cơ cấu kinh tế hợp lý , quan hệ sản xuất tiến bộ , phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất , đời sống vật chất và tinh thần cao , quốc phòng , an ninh vững chắc , dân giàu nước mạnh , xã hội công bằng văn minh . Từ nay đến năm 2020 , ra sức phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp " . Và một lần nữa , đường lối đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá lại được Đảng ta khẳng định tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX . Với việc tiến hành công nghiệp hoá hiện đại hoá ở nước ta với những thành tựu mà nó mang lại sẽ có tác động tích cực trên nhiều phương diện . Trước hết , công nghiệp hoá hiện đại hoá sẽ thúc đẩy lực lượng sản xuất . Giải quyết tình trạng công nghệ lạc hậu hiện nay , dẫn tới tăng năng suất lao động , làm cho tổng sản phẩm xã hội tăng lên và do vậy , có điều kiện để nâng cao phúc lợi cho nhân dân . Mặt khác , sự phát triển lực lượng sản xuất sẽ kéo theo sự phát triển của quan hệ sản xuất , do đó làm tăng thêm những yếu tố mới , tiến bộ trong kiến trúc thượng tầng . Cùng với nó , sự phát triển của lực lượng sản xuất sẽ dẫn đến mở rộng phân công lao động xã hội , hình thành nhiều ngành nghề mới , góp phần giải quyết tình trạng thiếu việc làm hiện tại ; tăng năng lực sản xuất , làm cho nền kinh tế hàng hoá phát triển , tạo điều kiện mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế ; thúc đẩy hình thành cơ cấu kinh tế mới hợp lý , cho phép khai thác tốt nhất các nguồn lực và lợi thế của đất nước và nhờ đó , nâng cao tính hiệu quả của nền sản xuất xã hội . Sự phát triển kinh tế do công nghiệp hoá hiện đại hoá mang lại sẽ trở thành nhân tố quan trọng bảo đảm sự ổn định chính trị , chính trị ổn định lại tạo điều kiện cho kinh tế phát triển , đó là sự tác động biện chứng giữa kinh tế và chính trị . Quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá còn làm cho các mối liên hệ giữa các ngành , các lĩnh vực và các vùng kinh tế tăng lên , nhờ đó mối quan hệ giữa công nghiệp , nông nghiệp và dịch vụ , giữa thành thị và nông thôn , giữa công nhân , nông dân và trí thức ngày càng được củng cố và phát triển . Những thành tựu kinh tế - xã hội của công nghiệp hoá hiện đại hoá sẽ góp phần quan trọng nâng cao đời sống vật chất - tinh thần cho nhân dân , giúp họ có điều kiện mở mang dân trí , nâng cao nhận thức , phát triển văn hoá , củng cố truyền thông yêu nước và lòng tự hào dân tộc , tăng thêm niềm tin vào chế độ xã hội . Đồng thời , công nghiệp hoá hiện đại hoá còn tạo ra những cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại , góp phần tạo ra thế trận quốc phòng , an ninh vững chắc ... Nói một cách khái quát , với nước ta hiện nay , công nghiệp hoá hiện đại hoá có tác dụng to lớn trên nhiều lĩnh vực đời sống xã hội , từ kinh tế , chính trị , văn hoá tư tưởng đến an ninh , quốc phòng . Sự thành công của một nước công nghiệp hoá hiện đại hoá sẽ đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại , cơ cấu kinh tế hợp lý , lực lượng sản xuất phát triển , quan hệ sản xuất phù hợp , tiến bộ , đời sống vật chất và tinh thần cao , quốc phòng an ninh vững chắc , nghĩa là chuyển xã hội từ trình độ văn minh nông nghiệp lên văn minh công nghiệp , đạt tới mục tiêu dân giàu nước mạnh , xã hội công bằng , dân chủ , văn minh . 1.3.2. Thành tựu của những năm đầu đổi mới . Sau 15 năm đổi mới , thực hiện công cuộc công nghiệp hoá , hiện đại hoá , toàn Đảng , toàn dân ta ra sức thực hiện Nghị quyết Đại hội và đạt được những thành tựu quan trọng : Kinh tế tăng trưởng khá . Tổng sản phẩm trong nước tăng bình quân hàng năm 7% . Nông nghiệp phát triển liên tục , đặc biệt là sản xuất lương thực . Việc nuôi trồng thuỷ sản , hải sản được mở rộng . Giá trị sản xuất công nghiệp bình quân tăng 13,5% . Hệ thống kết cấu hạ tầng : bưu chính - viễn thông , đường sá , cầu , cảng , điện , thuỷ lợi ... được tăng cường đáng kể . Các ngành dịch vụ , xuất khẩu và nhập khẩu đều phát triển . Năm 2000 đã chặn được đà giảm sút mức tăng trưởng kinh tế , các chỉ tiêu chủ yếu đều đạt được hoặc vượt mức kế hoạch đề ra . Văn hoá xã hội có những tiến bộ ; đời sống nhân dân tiếp tục được cải thiện . Giáo dục và đào tạo phát triển về quy mô và cơ sở vật chất . Trình độ dân trí và chất lượng nguồn nhân lực được nâng lên . Nước ta đã đạt chuẩn quốc gia về xoá mù chữ và phổ cập giáo dục tiều học . Khoa học xã hội và nhân văn , khoa học tự nhiên và công nghệ chuyển biến tích cực , gắn bó hơn với phát triển kinh tế - xã hội . Các hoạt động văn hoá , văn nghệ , báo chí , xuất bản góp phần tích cực động viên toàn dân tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc , nâng cao kiến thức và chất lượng cuộc sống . Những nhu cầu thiết yếu của nhân dân về ăn , ở , mặc , chăm sóc sức khoẻ , nước sạch , điện sinh hoạt , học tập , đi lại , giải trí ... được đáp ứng tốt hơn . Phong trào thể dục thể thao phát triển ; một số môn đạt thành tích cao trong nước và quốc tế . Việc chăm sóc sức khoẻ của nhân dân được đẩy mạnh . Mỗi năm có hơn 1,2 triệu lao động có việc làm mới . Công tác xoá đói , giảm nghèo trên phạm vi cả nước đạt kết quả nổi bật , được dư luận thế giới đánh giá cao . Công tác dân số - kế hoạch hoá gia đình có nhiều thành tích được Liên hợp quốc tặng giải thưởng . Các hoạt động xã hội khác đều được quan tâm đúng mức như đền ơn đáp nghĩa , cứu trợ đồng bào bị thiên tai , giúp đỡ trẻ em có hoàn cảnh khó khăn , người già cô đơn ... Tình hình chính trị - xã hội cơ bản ổn định ; quốc phòng và an ninh được tăng cường . Các lực lượng vũ trang nhân dân làm tốt nhiệm vụ bảo vệ độc lập , chủ quyền , toàn vẹn lãnh thổ , bảo đảm an ninh quốc gia . Quan hệ đối ngoại không ngừng mở rộng , hội nhập kinh tế quốc tế được tiến hành chủ động và đạt nhiều kết quả tốt . Nước ta đã tăng cường quan hệ hữu nghị , hợp tác nhiều mặt với các nước xã hội chủ nghĩa , các nước láng giềng , các nước bạn bè truyển thống ; tham gia tích cực vào các hoạt động thúc đẩy sự hợp tác có lợi trong Hiệp hội các nước Đông Nam á ( ASEAN ) , diễn đàn hợp tác quốc tế châu á - Thái Bình Dương ( APEC ) , gần đây chúng ta đã đạt được một bước tiến quan trọng là bình thường hoá quan hệ với Mỹ và mới đây đã ký hiệp định song phương Thương Mại Việt - Mỹ , tạo điều kiện hơn nữa để hội nhập với kinh tế thế giới . Như vậy , cả lý luận và thực tiễn đều cho thấy quá trình công nghiệp hoá , hiện đại hoá là một quá trình lịch sử tất yếu . Con đường của Đảng và Nhà nước vạch ra cho đất nước ta là đúng đắn , khách quan , một nước muốn phát triển lớn mạnh không còn cách nào khác là phải tiến hành công nghiệp hoá , hiện đại hoá đất nước . 2. Nhiệm vụ và nội dung của công nghiệp hoá , hiện đại hoá ở nước ta . 2.1. Nhiệm vụ công nghiệp hoá , hiện đại hoá ở nước ta . Con đường công nghiệp hoá , hiện đại hoá của nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian , vừa có những bước tuần tự , vừa có những bước nhảy vọt . Phát huy những lợi thế của đất nước , tận dụng mọi khả năng để đạt trình độ công nghệ tiên tiến , đặc biệt là công nghệ thông tin và công nghệ sinh học , tranh thủ ứng dụng ngày càng nhiều hơn , ở mức cao hơn và phổ biến hơn những thành tựu mới về khoa học và công nghệ , từng bước phát triển kinh tế trí thức . Phát huy nguồn lực trí tuệ và sức mạnh tinh thần của người Việt Nam ; coi phát triển giáo dục và đào tạo , khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực của sự nghiệp công nghiệp hoá , hiện đại hoá . Phát triển kinh tế nhanh , có hiệu quả và bền vững , chuyển dịch cơ cấu kinh tế , cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hoá , hiện đại hoá . Mọi hoạt động kinh tế được đánh giá bằng hiệu quả tổng hợp về kinh tế tài chính , xã hội , môi trường , quốc phòng và an ninh . Trước mắt tập trung nâng cao hiệu quả sản xuất , kinh doanh của các doanh nghiệp , nhất là doanh nghiệp nhà nước , hiệu quả đầu tư , hiệu quả sử dụng vốn . Chuyển dịch cơ cấu kinh tế , cơ cấu đầu tư dựa trên cơ sở phát huy các thế mạnh và các lợi thể so sánh của đất nước , tăng sức cạnh tranh , gắn với nhu cầu thị trường trong nước và ngoài nước , nhu cầu đời sống nhân dân và quốc phòng an ninh . Tăng cường sự chỉ đạo và huy động các nguồn lực cần thiết để đẩy nhanh công nghiệp hoá , hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn . Tiếp tục phát triển và đưa nông nghiệp , lâm nghiệp , ngư nghiệp lên một trình độ mới bằng ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ , nhất là công nghệ sinh học , đẩy mạnh thuỷ lợi hoá , cơ giới hoá , điện khí hoá , quy hoạch sử dụng đất hợp lý ... Đầu tư nhiều hơn cho phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội ở nông thôn . Phát triển công nghiệp , dịch vụ , các ngành nghề đa dạng , chú trọng công nghiệp chế biến , cơ khí phục vụ nông nghiệp , các làng nghề . Công nghiệp vừa phát triển các ngành sử dụng nhiều lao động , vừa đi nhanh vào một số ngành , lĩnh vực có công nghệ hiện đại , công nghệ cao . Phát triển mạnh công nghiệp chế biến nông sản , thuỷ sản , may mặc , da - giầy , điện tử , công nghiệp phần mềm .... Khai thác có hiệu qủa nguồn tài nguyên dầu khí , khoáng sản , vật liệu xây dựng . Phát triển mạnh và nâng cao chất lượng các ngành dịch vụ , thương mại , kể cả thương mại điện tử , các loại hình vận tải , bưu chính - viễn thông , du lịch , tài chính , ngân hàng , bảo hiểm , tư vấn pháp lý .... Phát triển mạng lưới đô thị , phân bố hợp lý trên các vùng . Hiện đại hoá dần các thành phố lớn , thúc đẩy quá trình đô thị hoá nông thôn . Không tập trung quá nhiều cơ sở công nghiệp và dân cư vào các đô thị lớn . Khắc phục tình trạng ùn tắc giao thông và ô nhiễm môi trường . Tăng cường công tác quy hoạch và quản lý đô thị , nâng cao thẩm mỹ kiến trúc . 2.2. Nội dung của công nghiệp hoá , hiện đại hoá Phải thừa nhận rằng , để đưa ra được một quan niệm hoàn chỉnh bao quát hết nội dung phong phú và hết sức phức tạp của quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá phù hợp với thời đại ngày nay là một công việc không hề đơn giản . Các nhà nghiên cứu lý luận nước ta và nước ngoài , cho đến nay vẫn chưa nhất trí hoàn toàn với nhau về bất cứ quan niệm nào được đưa ra . Song , không vì thế mà không thể đi đến một quan niệm tương đối hoàn chỉnh về công nghiệp hoá hiện đại hoá . Trong bối cảnh hiện nay , quan niệm về công nghiệp hoá hiện đại hoá dù có được nhìn nhận từ góc độ nào cũng không đồng nhất với quá trình phát triển của công nghiệp . Theo tác giả , công nghiệp hoá hiện đại hoá là quá trình rộng lớn phức tạp , bao hàm những nội dung cơ bản sau : 2.2.1. Công nghiệp hoá hiện đại hoá là quá trình trang bị và trang bị lại công nghiệp hiện đại cho tất cả các ngành kinh tế quốc dân , trước hết là các ngành chiếm vị trí trọng yếu . Lịch sử công nghiệp hoá trên thế giới cho thấy , quá trình công nghiệp hoá gắn liền với các cuộc cách mạng công nghiệp diễn ra vào cuối thể kỷ XVIII , được thực hiện đầu tiên ở nước Anh , đã tạo ra công cụ lao động bằng máy móc , thay thế lao động thủ công bằng lao động cơ khí , làm thay đổi về chất của tư liệu sản xuất . Từ giữa thế kỷ XX , cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại lại tạo ra bước đột phá mới trong sự phát triển lực lượng sản xuất . Sự phát triển đó không chỉ đem lại tính chất hiện đại cho các yếu tố tư liệu sản xuất , mà còn ở kỹ thuật , phương pháp , bí quyết sản xuất hiện đại , trình độ tổ chức và quản lý tiên tiến ... nghĩa là từ thiết bị , con người , thông tin đến tổ chức , quản lý . Đó là những yếu tố cấu thành nội dung công nghệ mà sự phát triển của nó là vấn đề cốt lõi của công nghiệp hoá hiện đại hoá . Chính vì vậy , trong thời đại ngày nay , công nghiệp hoá luôn đòi hỏi phải trang bị và trang bị lại công nghệ cho các ngành kinh tế gắn liền với quá trình hiện đại hoá ở cả phần cứng lẫn phần mềm của công nghệ . Tuy nhiên, cách thức tiến thành ở những nước khác nhau lại không giống nhau. Đã có nước tiến hành bằng cách tự nghiên cứu , sáng chế , tự trang bị công nghệ mới cho các ngành kinh tế trong nước ; lại có nước tiến hành thông qua chuyển giao công nghệ ; một số nước khác thì kết hợp giữa tự nghiên cứu và chuyển giao . Thực chất của chuyển giao công nghệ là đưa công nghệ từ nước này sang nước khác , làm thay đổi quyền sở hữu và quyền sử dụng công nghệ được chuyển giao nhằm rút ngắn quá trình hiện đại hoá công nghệ và do vậy , có thể đẩy nhanh tốc độ nâng cao năng lực sản xuất , khai thác có hiệu quả hơn các nguồn lực nhằm đạt được sẽ tăng trưởng kinh tế nhanh . Đối với những nước đang trong quá trình chuyển từ mô hình công nghiệp hoá hướng nội . " thay thế nhập khẩu " sang mô hình công nghiệp hoá hướng ngoại , " hướng về xuất khẩu , đồng thời thay thế nhập khẩu những sản phẩm trong nước sản xuất có hiệu quả " , công nghiệp hoá hiện đại hoá sẽ thúc đẩy nhanh sự chuyển dịch này và cho phép đạt được hiệu quả kinh tế cao . Như vậy , có thể nói rằng , công nghiệp hoá hiện đại hoá là quá trình chuyển nền sản xuất xã hội từ trình độ công nghệ thấp lên trình độ công nghệ hiện đại cùng với sự chuyển lực lượng lao động thích ứng với cơ cấu ngành nghề . 2.2.2. Quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá không chỉ liên quan đến phát triển công nghiệp , mà là quá trình bao trùm tất cả các ngành , các lĩnh vực hoạt động của một nước ; nó thúc đẩy việc hình thành một cơ cấu kinh tế mới hợp lý cho phép khai thác tốt nhất các nguồn lực và lợi thế của đất nước . Do chỗ , nền kinh tế của mỗi nước là một thể thống nhất , các ngành , các lĩnh vực hoạt động có quan hệ biện chứng với nhau , sự thay đổi ở ngành kinh tế , ở lĩnh vực hoạt động này sẽ kéo theo hoặc đòi hỏi sự thay đổi thích ứng ở các ngành , các lĩnh vực hoạt động khác và ngược lại, vì thế , quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá cũng gắn liền với quá trình phân công lại lao động xã hội với những đặc điểm mang tính quy luật . Đó là , tỷ trọng và số lao động nông nghiệp giảm dần , tỷ trọng và số lao động công nghiệp ngày một tăng ; tỷ trọng và số lao động trí tuệ ngày càng lớn so với lao động giản đơn trong tổng lao động xã hội ; tốc độ tăng lao động trong các ngành phi sản xuất vật chất nhanh hơn tốc độ tăng lao động trong các ngành sản xuất vật chất . Cùng với quá trình phân công lao động xã hội , cơ cấu các ngành kinh tế mới cũng dần dần được hình thành và vị trí của các ngành cũng thay đổi, Xét tổng thể , cơ cấu kinh tế của mỗi nước được cấu thành bởi ba ngành tổng hợp : công nghiệp , nông nghiệp , dịch vụ . Trong quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá , sự chuyển dịch các ngành này diễn ra theo hướng : từ nông nghiệp - công nghiệp - dịch vụ đến công nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ. Nói cụ thể hơn , nông nghiệp trong giai đoạn đầu giữ vị trí hàng đầu ,là hoạt đong kinh tế cơ bản của dân cư , tạo ra những hàng hoá tiêu dùng thiết yếu và bảo đảm một số điều kiện quan trọng cho phát triển công nghiệp . Đến một trình độ phát triển nhất định , khi những nhu cầu cơ bản của dân cư về lương thực , thực phẩm được bảo đảm , nông nghiệp sẽ chuyển xuống hàng thứ hai , còn công nghiệp được đẩy lên phía trước . Tuy công nghiệp hoá không đồng nhất với phát triển công nghiệp , nhưng không thể công nghiệp hoá nếu không phát triển mạnh công nghiệp . Bởi vậy , từ vị trí khiêm tốn ban đầu với lực lượng nhỏ bé , sản xuất hàng tiêu dùng đơn giản và khai thác các sản phẩm thô từ tài nguyên thiên nhiên , công nghiệp dần dần chiếm lĩnh vị trí hàng đầu trong cơ cấu kinh tế quốc dân . Các hoạt động dịch vụ sản xuất và dịch vụ đời sồng là điều kiện tất yếu để phát triển các ngành kinh tế và cải thiện đời sống của dân cư . Không thể có quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá nhanh và hiệu quả cao khi hệ thống dịch vụ nhất là hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - kỹ thuật không bảo đảm. Tuy nhiên , trong tất cả các giai đoạn của quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá , dịch vụ chưa thể đứng hàng thứ nhất trong cơ cấu kinh tế quốc dân . Những đặc điểm và xu thế của quá trình phân công lại lao động xã hội và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói trên quy định đặc điểm , xu thế biến đổi của cơ cấu lao động trong các ngành , các lĩnh vực hoạt động xã hội . Do vậy , nó là căn cứ quan trọng , làm cơ sở để định hướng xây dựng nguồn nhân lực con người , đáp ứng nhu cầu về các loại lao động mà quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đòi hỏi ở mỗi giai đoạn lịch sử. 2.2.3. Công nghiệp hoá hiện đại hoá vừa là quá trình kinh tế - kỹ thuật , vủa là quá trình kinh tế - xã hội . Công nghiệp hoá hiện đại hoá tác động đến mọi lĩnh vực đời sống xã hội , từ lực lượng sản xuất đến quan hệ sản xuất , từ cơ sở hạ tầng đến kiến trúc thượng tầng . Việc thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá có hiệu quả sẽ thủ tiêu tình trạng lạc hậu về kỹ thật , thấp kém về kinh tế , đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn , lạc hậu . Đồng thời , nó cũng thủ tiêu tình trạng kém phát triển về xã hội , nâng cao mức sống của dân cư , tạo điều kiện mở mang dân trí , phát triển đời sống văn hoá , tinh thần . Trong tiến trình đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá , quá trình kinh tế - kỹ thuật và quá trình kinh tế -xã hội có quan hệ biện chứng với nhau ở cả tầm vĩ mô lẫn vi mô . Quá trình kinh tế - kỹ thuật tạo điều kiện cho việc thực hiện các nội dung của quá trình kinh tế - xã hội . Đến lượt mình , quá trình kinh tế -xã hội lại góp phần tạp nên động lực cho việc thực hiện quá trình kinh tế - kỹ thuật . Với ý nghĩa đó , khi xem xét sự tác động và hiệu quả của công nghiệp hoá , phải có quan điểm toàn diện , không dừng lại ở khía cạnh kinh tế - kỹ thuật , mà phải xem xét thấu đáo khía cạnh kinh tế - xã hội của nó . Như vậy , suy đến cùng , nhìn theo chiều sâu của sự phát triển xã hội , công nghiệp hoá còn là quá trình xây dựng và phát triển văn hoá , trong đó phát triển con người và nguồn lực con người , gia tăng giá trị và vai trò con người là nội dung cốt lõi , bao trùm của văn hoá . Vì thế , đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá phải dựa trên nền tảng văn hoá , phải có sự kết hợp truyền thống với hiện đại , dân tộc với thời đại vì mục tiêu phát triển con người , phát triển kinh tế -xã hội bền vững. 2.2.4. Quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá cũng đồng thời là quá trình mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế . Trong điều kiện ngày nay , nền kinh tế nước ta sẽ không thể tăng trưởng và phát triển mạnh nếu rơi vào tình trạng " đóng cửa " không thiết lập được các mối quan hệ kinh tế với nước ngoài . Điều này ngày càng thể hiện rõ , khi mà quốc tế hoá đời sống kinh tế trở thành xu thế phát triển mạnh mẽ , sự hợp tác trong phân công lao động quốc tế trở thành nhu cầu thiết yếu ; khi mà cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đang phát triển như vũ bão với quy mô toàn cầu ; và khi mà các quốc gia đều muốn hợp tác để phát triển kinh tế vì sự phồn vinh của đất nước mình , không phân biệt chế độ chính trị khác nhau ... Bởi thế , giờ đây các nước đang phát triển trong quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đều muốn mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế nhằm thu hút vốn , công nghệ , thị trường , kinh nghiệm quản lý của các nước đi trước , đồng thởi đẩy mạnh chiến lược hướng vào xuất khẩu , tăng năng lực cạnh tranh hàng hoá trên thị trường khu vực và thế giới nghĩa là công nghiệp hoá hiện đại hoá theo hướng hội nhập quốc tế . Mỗi nước trở thành một bộ phận của hệ thống kinh tế của các nước khác và chịu ảnh hưởng của sự biến động kinh tế - xã hội chung của thế giới . Trong điều kiện như vậy , việc xác định mục tiêu , phương thức công nghiệp hoá hiện đại hoá của mỗi nước cần phải tình đến những biến động kinh tế xã hội của thế giới , đặc biệt là của các nước trong khu vực ; gắn công nghiệp hoá hiện đại hoá với việc xây dựng hệ thống kinh tế mở , tăng cường quan hệ thương mại , tích cực tham gia vào quá trình cạnh tranh và liên kết kinh tế quốc tế . ý thức rõ điều đó , tại đại hội IX , một lần nữa , Đảng ta khẳng định : " Công nghiệp hoá hiện đại hoá phải đảm bảo xã hội nền kinh tế độc lập tự chủ ... " Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ đi đôi với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế . 2.2.5. Công nghiệp hoá hiện đại hoá không phải là mục đích tự thân , mà là một phương thức có tính phổ biến để thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế của mỗi nước . Tính phổ biến của công nghiệp hoá hiện đại hoá thể hiện ở nhiều khía cạnh . Một là , bản thân công nghiệp hoá hiện đại hoá là hiện tượng có tính phổ biến , nghĩa là để từ kém phát triển trở thành phát triển , từ lạc hậu trở thành tiên tiến , hiện đại, các nước đều phải tiến hành công nghiệp hoá , hiện đại hoá . Hai là , mặc dù nội dung , cách thức , bước đi của công nghiệp hoá hiện đại hoá có tính đặc thù , tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể của mỗi nước và bối cảnh quốc tế ở từng thời kỳ , nhưng những nội dung cơ bản nói lên thực chất của công nghiệp hoá hiện đại hoá lại có những nét chung . Đó là ở mọi quốc gia , mọi thời kỳ , công nghiệp hoá hiện đại hoá bao giờ cũng là quá trình trang bị kỹ thuật hiện đại cho các ngành kỹ thuật hiện đại , cho các ngành kinh tế ; " chuyển dịch cơ cấu kinh tế , cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá "; vừa là quá trình kinh tế - kỹ thuật , vừa là quá trình kinh tế - xã hội . Ba là , về mục tiêu của công nghiệp hoá hiện đại hoá , dù rằng mỗi nước có mục tiêu riêng của mình , do bản chất chính trị , kinh tế -xã hội quy định , song vẫn có những nét tương đồng ( thậm chí giống nhau ) . Đó là , đều xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại , khai thác có hiệu quả nguồn lực của đất nước , tạo ra năng suất lao động xã hội bảo đảm nhịp độ phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững ... Như vậy , xét trên tổng thể , bản chất , mục tiêu , nội dung , cách thức công nghiệp hoá hiện đại hoá của các nước , bên cạnh những nét riêng , đặc thù , đa dạng , có cả những nét chung , tương đồng , mang tính phổ biến . Chính vì vậy mà vể mặt phương pháp luận , phải kết hợp cái chung và cái riêng , cái phổ biến và cái đặc thù trong việc hoạch định đường lối công nghiệp hoá hiện đại hoá . Tuyệt đối hoá cái chung , cái phổ biến sẽ rơi vào rập khuôn , máy móc . Tuyệt đối hoá cái riêng , cái đặc thù sẽ rơi vào tình trạng mò mẫm , không vận dụng được những kinh nghiệm thành công về phương pháp , bước đi , các giải pháp khoa học - công nghệ , các biện pháp kinh tế - xã hội ... của quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá ở các nước đi trước . Cả hai thái cực trên đều là cực đoan , siêu hình , làm cho quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá kém hiệu quả , thậm chí thất bại . Theo đó , có thể nói , trong điều kiện hiện nay , bản chất của công nghiệp hoá hiện đại hoá là quá trình cải biến lao động thủ công , lạc hậu thành lao động sử dụng kỹ thuật công nghệ tiên tiến , hiện đại nhằm phát triển lực lượng sản xuất và thúc đẩy hình thành cơ cấu kinh tế mới hợp lý để đạt tới năng suất lao động xã hội cao ; công nghiệp hoá gắn liền với hiện đại hoá dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học - công nghệ. 2.3. Vai trò của triết học trong công cuộc công nghiệp hoá , hiện đại hoá ở nước ta . Ngày nay , hiện đại hoá đang là xu thế chung và tất yếu đối với tất cả các nước đang phát triển. Đối với các nước đang phát triển , hiện đại hoá được gắn chặt với quá trình công nghiệp hoá đất nước Đó là quá trình làm cho xã hội chuyển biến từ xã hội truyền thống sang xã hội hiện đại , làm biến đổi căn bản bộ mặt của xã hội trên tất cả các lĩnh vực : kinh tế , chính trị , xã hội ... Nước ta thuộc vào nhóm các nước phát triển . Do đó , để thực hiện mục tiêu : dân giàu nước mạnh , xã hội công bằng văn minh , chúng ta không có con đường nào khác là phải công nghiệp hoá , hiện đại hoá . Chính vì vây , Đảng ta đã xác định : " Đây là nhiệm vụ trọng tâm có tầm quan trọng hàng đầu trong thời gian tới " . Nhưng để thực hiện nhiệm vụ đó chúng ta không thể không sử dụng những thành tựu khoa học , kỹ thuật và công nghệ . Nói cách khác khoa học kỹ thuật và công nghệ có vai trò hết sức to lớn trong công cuộc công nghiệp hoá , hiện đại hoá đất nước . ở đây chúng ta chỉ đề cập tới vai trò của triết học . Trước hết , khi nói đến vai trò của triết học , chúng ta thường nói đến vai trò thế giới quan và phương pháp luận của nó . Vai trò của thế giới quan của triết học được thể hiện ở chỗ nó cung cấp cho chúng ta cách lý giải về thế giới và vị trí của con người trong thế giới đó . Như vậy , triết học sẽ cung cấp cho chúng ta cách nhìn tổng quát về thế giới nói chung và về xã hội nói riêng . Tuy nhiên , cũng như mọi lý luận , triết học không chỉ là nhiệm vụ lý giải những vấn đề của thế giới nói chung và của xã hội nói riêng , mà còn trên cơ sở của sự lý giải ấy, nó trở thành cái định hướng cho con người trong hành động . Vì vậy , một triết học khoa học sẽ giúp con người có sự định hướng đúng đắn trong hành động . Lịch sử phát triển của khoa học đã chỉ ra rằng mỗi nhà khoa học , dù có tuyên bố hay không tuyên bố , đều chịu sự chi phối bởi một loại thế giới quan hay một hệ thống các quan điểm triết học nhất định . Nhờ đứng trên quan điểm triết học đúng đắn , nhiều nhà khoa học đã đưa ra những phỏng đoán thiên tài mà sau nhiều năm đã được khoa học xác nhận . Trong thực tiễn xã hội , chúng ta khó có thể kể hết vai trò của thế giới quan và phương pháp luận to lớn của triết học đối với xã hội . Thực tiễn lịch sử đã chứng minh rằng nhiều hệ thống triết học đã từng đóng vai trò thế giới quan và phương pháp luận cho những cuộc cách mạng vĩ đại . Từ kinh nghiệm lịch sử và thực tế cuộc sống hiện đại , chúng ta có thể khẳng định rằng nếu có một hệ thống các quan điểm triết học đúng đắn làm cơ sở thì bản thân sự nghiệp công nghiệp hoá , hiện đại hoá sẽ được tiến hành một cách vững chắc và ổn định hơn . Cũng như mọi giai đoạn lịch sử , trong công cuộc công nghiệp hoá , hiện đại hoá , vai trò của triết học được thể hiện ở chức năng và phương pháp luận của nó . Nhưng triết học không được biểu hiện một cách chung chung thông qua quần chúng nhân dân lao động mà được thể hiện một cách tập trung thông qua những người làm nhiệm vụ hoạch định chính sách và những người chỉ đạo hoạt động thực tiễn . Bởi vì công cuộc công nghiệp hoá , hiện đại hoá đất nước được tiến hành như thế nào , cách thức và bước đi của nó ra sao trước hết là do những người làm công tác hoạch định chính sách và những người chỉ đạo hoạt động thực tiễn quyết định . Mặt khác , bản thân triết học lại là loại lý luận tổng quát nhất , cho nên vai trò của nó cũng thể hiện ở tầm đường lối , quan điểm khi hoạch định chính sách . Do vậy , nếu có tư duy triết học đúng đắn thì những người làm nhiệm vụ mới có thể đưa ra những quan điểm , những bươc đi và những biện pháp phù hợp trong quát trình công nghiệp hoá , hiện đại hoá , đồng thời chỉ đạo việc thực hiện các chủ trương đó một cách có hiệu quả .. Tuy nhiên , nói như vậy hoàn toàn không có nghĩa rằng chỉ cần có tư duy triết học đúng đắn là những người làm nhiệm vụ hoạch định chính sách và chỉ đạo hoạt động thực tiễn có thể đưa ra những chính sách hữu hiệu . Trái lại , tư duy triết học chỉ là điều kiện cần và để có những chính sách hữu hiệu ngoài việc nắm vững các quan điểm triết học đúng đắn , nhừng người này phải có sự tinh thông về nghề nghiệp , am hiểu thực tiễn , đồng thời phải biết vận dụng một cách nhuần nhuyễn các quan điểm triết học vào công việc cụ thể của mình . Như vậy , chức năng đầu tiên của triết học là chức năng thế giới quan và phương pháp luận . Nhưng bản thân chức năng thế giới quan và phương pháp luận lại được thực hiện thông qua những người làm nhiệm vụ hoạch định chính sách và chỉ đạo hoạt động thực tiễn . Do đó , vai trò triết học được thể hiện ở chức năng thế giới quan và phương pháp luận là vai trò gián tiếp . Vậy cẩu hỏi đặt ra là triết học có vai trò trực tiếp hay không và được thể hiện như thế nào ? Như ta đã biết , sự nghiệp công nghiệp hoá , hiện đại hoá của nước ta được tiến hành sau một loạt nước trong khu vực và trên thế giới . Đó là một khó khăn và thiệt thòi lớn , nhưng nó cũng tạo ra cho chúng ta những thuận lợi nhất định . Cái thuận lợi đầu tiên là ở chỗ thông qua những kinh nghiệm thành công và không thành công của các nước chúng ta có thể rút ra những bài học bổ ích cho sự nghiệp công nghiệp hoá , hiện đại hoá của đất nước . Nhiệm vụ của triết học là nghiên cứu kinh nghiệm của các nước để rút ra những bài học bổ ích đó . Thực ra , công việc này là nhiệm vụ của nhiều ngành khoa học khác nhau . Nhưng bài học mà triết học rút ra sẽ là những bài học mang tính khái quát cao . Khác với các khoa học khác , triết học có nhiệm vụ phải rút ra được cái gì là cái chung và tất yếu đối với tất cả các nước hoặc đối với một nhóm nước khu vực trong quá trình công nghiệp hoá , hiện đại hoá . Việc tìm ra được cái chung và cái tất yếu trong quát trình công nghiệp hoá , hiện đại hoá sẽ giúp cho chúng ta khỏi mò mẫm tránh được những vấp váp không cần thiết khi giải quyết những nhiệm vụ của bản thân chúng ta . Tuy nhiên bản thân triết học không dừng ở đó , mà đi xa hơn , tức là nghiên cứu xem bản thân cái chung và cái tất yếu đó được áp dụng vào điều kiện của Việt Nam như thế nào . Nói cách khác là làm sáng tỏ mối quan hệ biện chứng giữa cái chung và cái đặc thù trong quá trình công nghiệp hoá , hiện đại hoá ở Việt Nam . Vai trò của triết học còn thể hiện ở nhiệm vụ phản biện cho các chủ trương , chính sách của Đảng và Nhà nước để từ đó đưa ra những chủ trương chính sách hợp lý nhất . Để tiếng nói phản biện có hiệu quả hơn nữa , theo tác giả , phụ thuộc vào cả hai phía : các nhà triết học phải có những công trình nghiêm túc có giá trị khoa học ; mặt khác Đảng và Nhà nước phải có những cơ chế cho phép các nhà triết học được phát biểu thẳng thắn những ý kiến , suy nghĩ của mình mà không hề lo ngại bất cứ vấn đề gì . 3. Các giải pháp thực hiện công nghiệp hoá , hiện đại hoá Như vậy đối với nước ta hiện nay , vấn đề đặt ra lúc này là phải tiến hành công nghiệp hoá hiện đại hoá như thế nào cho thích hợp ? Không tìm ra câu trả lời đúng cho câu hỏi tối quan trọng này thì mục tiêu của công nghiệp hoá , hiện đại hoá chỉ là những ý tưởng tốt đẹp . Trong bối cảnh mà cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đang phát triển mạnh mẽ trên phạm vi toàn cầu và xu thế quốc tế hoá đời sống kinh tế ngày càng sâu rộng , mô hình công nghiệp hoá hỗn hợp theo hướng hội nhập quốc tế tỏ ra có triển vọng hơn cả . ở nước ta , công nghiệp hoá hiện đại hoá , về cơ bản cũng đang vận động theo mô hình công nghiệp hóa đó . Do vậy , công nghiệp hoá hiện đại hoá ở nước ta có những đặc điểm mới so với trước đây . Từ những đặc điểm mới đó kéotheo những giải pháp công nghiệp hoá , hiện đại hoá cũng mang những nét riêng : 3.1. Công nghiệp hoá gắn liền với hiện đại hoá ; kết hợp công nghệ truyền thống với công nghệ hiện đại , tranh thủ đi nhanh vào hiện đại hoá ở những khâu quyết định Trong điều kiện cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đang có những bước phát triển nhanh chóng và xu thế quốc tế hoá kinh tế hiện nay , công nghiệp hoá nhất thiết phải gắn với hiện đại hoá . Thực chất của quá trình hiện đại hoá nền kinh tế là không ngừng nâng cao trình độ phát triển của lực lượng sản xuất theo tiến trình của khoa học và công nghệ của thế giới . Tuy nhiên , quá trình này khi thực hiện ở nước ta sẽ gặp phải một nghịch lý . Một mặt nếu không kịp thời sử dụng các kỹ thuật và công nghệ hiện đại để nhanh chóng hiện đại hoá nền kinh tế thì nguy cơ tụt hậu xa hơn sẽ tăng lên . Mặt khác , nếu dồn tất cả mọi sự đầu tư cho việc trang bị kỹ thuật và công nghệ hiện đại thì lại có nguy cơ không phù hợp với điều kiện hiện có , lãng phí nhiều tiềm năng và nảy sinh các vấn đề xã hội bức xúc . Để khắc phục nghịch lý này , trong quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá chúng ta cần áp dụng đồng thời nhiều trình độ kỹ thuật và công nghệ mà các nước đi trước đã thực hiện ở những thời điểm khác nhau . Chỉ như vậy , chúng ta mới có thể vừa từng bước hiện đại hoá nền kinh tế , vừa khai thác được các nguồn lực và lợi thế của đất nước . Trong điều kiện vốn thiếu , dư thừa lao động sốngvà mặt hàng có chất lượng lao động còn thấp như ở nước ta hiện nay , chúng ta không thể đi ngay vào trình độ cao nhất của kỹ thuật và công nghệ trên quy mô toàn xã hội . Nhưng đối với những ngành mũi nhọn , những lĩnh vực cần ưu tiên phát triển , những công đoạn quan trọng mà điều kiện cho phép , thì cần áp dụng ngay trình độ hiện đại , thực hiện " đi tắt , đón đầu " để tạo ra bước nhảy vọt trong tiến trình phát triển lực lượng sản xuất . Nói cụ thể hơn , con đường công nghiệp hoá hiện đại hoá nền kinh tế phải biết kết hợp giữa nhảy vọt từ thủ công lên hiện đại , với bước đi tuần tự thủ công , nửa cơ khí , cơ khí , tự động hoá ... ; đồng thời phát huy đầy đủ tính ưu việt của công nghệ truyền thống , hiện đại hoá công nghệ truyền thống , giữ vững bản sắc dân tộc . Trong quá trình lựa chọn công nghệ để hiện đại hoá nền kinh tế , chúng ta phải xem xét toàn diện các yêu cầu , không chỉ về tính hiện đại của công nghệ , mà còn cả hiệu quả kinh tế - xã hội và yếu tố an toàn sinh thái của nó . 3.2.Thứ hai , công nghiệp hoá hiện đại hoá được thực hiện trong bối cảnh phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa , lấy hiệu quả kinh tế - xã hội làm tiêu chuẩn cơ bản . Nếu như trước đây công nghiệp hoá được tiến hành theo cơ chế tập trung , bao cấp , kế hoạch hoá cao độ với các chỉ tiêu pháp lệnh nghiêm ngặt , thì giờ đây , công nghiệp hoá hiện đại hoá được thực hiện theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước . Công nghiệp hoá hiện đại hoá trong bối cảnh đó trước hết phải tuân thủ các quy luật của nền kinh tế thị trường , như giá trị , cung cầu , cạnh tranh . Kế hoạch chỉ chủ yếu mang tính định hướng ; thị trường là nơi phản ánh nhu cầu xã hội , có tiếng nói quyết định trong việc phân bổ các nguồn lực cho sản xuất va kinh doanh . Cơ chế thị trường tạo ra các hoạt động kinh tế - xã hội đa dạng . Nó kích thích tính chủ động , tích cực , tháo vát , sáng tạo của người lao động , làm cho họ cũng khôn ngoan hơn , quyết đoán hơn . Cơ chế thị trường cũng tạo ra môi trường thuận lợi cho sự dịch chuyển cơ cấu lao động , cả người sử dụng lao động lẫn người lao động đều có thể chủ động trong việc lựa chọn lao động và việc làm ... Và do vậy , trong nền kinh tế thị trường , tiềm năng và sức mạnh của nguồn nhân lực được khai thác hợp lý , triệt để và có hiệu quả hơn . Nói một cách khái quát , cơ chế thị trường có tác dụng làm cho chủ thể của quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá năng động , biết tính toán , có ý thức tiết kiệm và luôn để cao tính hiệu quả . Tuy nhiên , cơ chế thị trường cũng có những hạn chế và khuyết tật của nó , mà nếu không được chủ động khắc phục , điều tiết thì quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá sẽ không đạt được những mục tiêu ổn định xã hội , an ninh quốc gia và sự bền vững của môi trường . Thực tế khách quan này đòi hỏi phải có sự quản lý của nhà nước , một bộ phận không thể thiếu được của cơ chế quản lý quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá . Nhà nước thực hiện quyền quản lý của mình thông qua các công cụ chủ yếu , như định hướng kế hoạch phát triển , hệ thống pháp luật , các chính sách kinh tế - xã hội , các quỹ quốc gia để điều tiết quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá . Công nghiệp hoá hiện đại hoá trong nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa phải hướng vào việc ưu tiên thúc đẩy sự tăng trưởng và phát triển của các ngành , các lĩnh vực khác , các thành phần kinh tế , các vùng lãnh thổ , các doanh nghiệp có khả năng đem lại tích luỹ nhanh , tích luỹ lớnvà hiệu quả kinh tế cao để đạt được mục tiêu dân giàu nước mạnh . Mặt khác , công nghiệp hoá hiện đại hoá còn phải đảm bảo mục tiêu xã hội công bằng , dân chủ , văn minh , bảo đảm an ninh quốc gia và sự phát triển bền vững . Khi hiệu quả kinh tế đã đạt được , sẽ cho phép thực hiện hiệu quả xã hội và ngược lại hiệu quả xã hội lại góp phần tạo nên động lực thúc đâỷ việc thực hiện hiệu quả kinh tế . Tuy nhiên , hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội không phải mọi lúc , mọi nơi đều có quan hệ song hành , tương ứng . Hiệu quả kinh tế là điều kiện tiên quyết để thực hiện hiệu qủa xã hội , song không phải cứ đạt được hiệu quả kinh tế là sẽ có hiệu quả xã hội , thậm chí làm tổn hại đến nó . Do vậy phải lấy hiệu quả kinh tế - xã hội làm thước đo chủ yếu quyết định việc hoạch định chính sách , lựa chọn phương hướng phát triển , phương án đầu tư và trang bị công nghệ cho quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá toàn bộ nền kinh tế quốc dân , cũng như trong từng ngành , từng thành phân, từng vùng và từng doanh nghiệp . 3.3. Công nghiệp hoá , hiện đại hoá là sự nghiệp của toàn dân , của tất cả các thành phần kinh tế , trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo . Là sự nghiệp của toàn dân , công nghiệp hoá , hiện đại hoá là " một cuộc cách mạng toàn diện và sâu sắc trong tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội , đòi hỏi phải đầu tư rất nhiều trí tuệ , sức người sức của . Chỉ có huy động sức mạnh và khả năng sáng tạo to lớn của toàn dân , dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng , sự quản lý điều hành có hiệu lực và hiệu quả của Nhà nước thì mới đảm bảo thắng lợi " ( Đảng Cộng sản Việt Nam : văn kiện hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành Trung ương khoá VII , Nxb . Chính trị quốc gia , Hà Nội , 1994 , tr. 6 ) Cũng cần nói rằng , công nghiệp hoá trước đây và công nghiệp hoá , hiện đại hoá ngày nay đều xuất phát từ lợi ích của nhân dân , đều nhằm nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân . Tuy vậy , trước đây , trong quá trình công nghiệp hoá , chúng ta chưa có cơ chế , chính sách phù hợp để nhân dân phát huy tốt vai trò của mình với tư cách người chủ đích thực của sự nghiệp công nghiệp hoá . Công nghiệp hoá trong thời kỳ này được hiểu như là công việc của Nhà nước , được thực hiện chủ yếu thông qua một thành phần kinh tế - thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa gồm khu vực quốc doanh và tập thể . Quan điểm công nghiệp hoá , hiện đại hoá là sự nghiệp toàn dân thể hiện ở chỗ , trước hết công nghiệp hoá , hiện đại hoá phải xuất phát từ lợi ích , nguyện vọng của nhân dân , đó là thực hiện mục tiêu dân giàu , nước mạnh , xã hội công bằng , dân chủ , văn minh . Hai là , công nghiệp hoá , hiện đại hoá do nhân dân thực hiện bằng sức lao động , tài năng , năng lực sáng tạo , tiền vốn , tài sản của toàn dân , phát huy sức mạnh và lợi thế so sánh của các thành phần kinh tế , trong đó kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo , dẫn dắt , thúc đẩy các thành phần khác cùng phát triển . Ba là , công nghiệp hoá , hiện đại hoá chỉ thực sự là sự nghiệp của nhân dân và do nhân dân khi xây dựng được và thực hiện tốt cơ chế phát huy quyền làm chủ của nhân dân , tạo điều kiện để nhân dân tham gia , góp phần xây dựng đường lối công nghiệp hoá , hiện đại hoá và kiểm tra quá trình thực hiện đường lối đó . 3.4. Công nghiệp hoá , hiện đại hoá gắn liền với việc " xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ đi đôi với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế ". " Mở cửa " nền kinh tế là sự đổi mới mang tình bước ngoặt trong tư duy và quan điểm kinh tế của Đảng và Nhà nước . Đó là sự thay đổi quan niệm vể độc lập tự chủ trong kinh tế - độc lập tự chủ không có nghĩa là " tự cấp , tự túc , khép kín nền kinh tế " , mà chỉ có nền kinh tế mạnh , phát triển vững chắc mới có khả năng độc lập , tự chủ , đồng thời là tiền đề bảo đảm cho sự độc lập , tự chủ của dân tộc . " Mở cửa " cả bên trong và bên ngoài chính là điều kiện để kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại m khai thác tổng hợp nguồn lực bên trong và nguồn lực bên ngoài cho công cuộc công nghiệp hoá , hiện đại hoá . Từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII , Đảng ta đã khẳng định :"Giữ vững độc lập , tự chủ đi đôi với mở rộng hợp tác quốc tế , đa phương hoá , đa dạng hoá quan hệ đối ngoại . Dựa vào nguồn lực trong nước là chính đi đôi với tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài . Xây dựng một nền kinh tế mở , hội nhập với khu vực và thế giới ... " Tiếp tục quan điểm này , tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX , mộtlần nữa , Đảng ta khẳng định : công nghiệp hoá , hiện đại hoá đất nước phải nhất thiết gắn liền với việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ đi đôi với hội nhập kinh tế quốc tế . Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ , " trước hết là độc lập tự chủ về đường lối , chính sách " , công nghiệp hoá , hiện đại hoá phải thúc đẩy xây dựng nền kinh tế mở . Đó là nền kinh tế dựa trên cơ sở phát triển các quan hệ hợp tác đa phương , đa hình thức , hướng mạnh vào xuất khẩu và thay thế nhập khẩu những sản phẩm trong nước sản xuất có hiệu quả , nhằm tạo nguồn vốn cho công nghiệp hoá , hiện đại hoá . Trong toàn bộ quá trình công nghiệp hoá , hiện đại hoá thì nguồn vốn trong nước là chính , nhưng trong giai đoạn đầu , đối với một nước nghèo như nước ta thi việc thu hút vốn từ nước ngoài có vai trò rất quan trọng . Nó hỗ trợ đắc lực cho việc thực hiện thực hiện đổi mới công nghệ , nhờ đó nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm , tạo điều kiện đẩy mạnh xuất khẩu . 3.5. Khoa học và công nghệ được xác định là nền tảng và động lực của công nghiệp hoá , hiện đại hoá . Thực tiễn phát triển của hơn 15 năm đổi mới , đã chứng tỏ việc chúng ta áp dụng những tiến bộ khoa học , đổi mới công nghệ , tiếp thu công nghệ tiên tiến là một yếu tố rất quan trọng làm thay đổi bộ mặt của đất nước và cuộc sống của nhân dân . Để đạt được tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước ( GDP ) liên tục đát khoảng 8% những năm qua , ngoài yếu tố chuyển đổi cơ chế , mở cửa , chủ động , hội nhập với thị trường khu vực và thế giới , thì yếu tố tăng lực lượng sản xuất qua vốn , lao động và công nghệ là rất quan trọng . Trong hoạt động sản xuất , kinh doanh thường thấy nổi lên vấn đề vốn , nhưng phân tích kỹ thì thực ra , vốn phần lớn cũng là để để mới và tiếp thu công nghệ ( mua thiết bị , máy móc - phần cứng của công nghệ ; và mua quy trình , bí quyết công nghệ nâng cao trình độ tay nghề , năng lực quản lý cho người lao động ... - phần mềm công nghệ ) Để khoa học và công nghệ thực sự là nền tảng và động lực của công nghiệp hoá , hiện đại hoá phải gắn hoạt động nghiên cứu khoa học và công nghệ với thực tiễn , với quá trình công nghiệp hoá , hiện đại hoá , phải tăng đầu tư cho hoạt động khoa học và công nghệ đúng với nghĩa " quốc sách hàng đầu" . Đồng thời , phải tìm ra động lực cho sự phát triển của bản thân khoa học và công nghệ ; động lực này nằm ở lợi ích những người nghiên cứu , phát minh và ứng dụng có hiệu quả khoa học và công nghệ. Như vậy , vấn đề quan trọng đặt ra là chính sách khoa học và công nghệ không chỉ giới hạn ở việc xử lý các vấn đề công nghệ và kỹ thuật trong quá trình công nghiệp hoá , hiện đại hoá mà còn phải khai thác có hiệu quả các tiến bộ khoa học và công nghệ , đặc biệt là phải quan tâm xây dựng và phát huy tốt lực lượng nghiên cứu và ứng dụng khoa học công nghệ . 3.6. Công nghiệp hoá , hiện đại hoá phải lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững ; công nghiệp hoá , hiện đại hoá phải gắn với mục tiêu phát triển bền vững . Đặc điểm quan trọng này không chỉ do điều kiện kinh tế - xã hội và nhu cầu phát triển đất nước quy định , mà còn bị chi phối bởi bối cảnh thời đại . Sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đang làm thay đổi căn bản nền sản xuất xã hội . Nếu trước đây , quá trình công nghiệp hoá tập trung khai thác tài nguyên thiên nhiên thì giờ đây , quá trình công nghiệp hoá , hiện đại hoá lại hướng vào việc khai thác con người , đặc biệt là tiềm năng trí tuệ ở con người . Mặt khác , công nghiệp hoá , hiện đại hoá không chỉ đơn thuần nhằm mục tiêu tăng trưởng , mà quan trọng hơn là phải đạt được mục tiêu phát triển nhanh và bền vững . Đó là sự gia tăng không chỉ về lượng , trước hết là tổng sản phẩm quốc nội ( GDP ) , mà còn về chất , trước hết là phúc lợi của nhân dân . Trong toàn bộ quá trình công nghiệp hoá , hiện đại hoá phải gắn tăng trưởng kinh tế với việc giải quyết các vấn đề tiến bộ và công bằng xã hội , với bảo vệ và cải thiện môi trường sống , vì lợi ích không chỉ của thế hệ hôm nay mà còn của các thế hệ tương lai . Do vậy , quá trình công nghiệp hoá , hiện đại hoá ngày nay đòi hỏi phải biết nuôi dưỡng , phát triển và khai thác hợp lý , có hiệu quả nguồn lực con người ; công nghiệp hoá , hiện đại hoá do con người và vì con người . . C/ Kết luận Công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay đang bước vào thời kỳ phát triển mới - " đẩy mạnh công nghiệp hoá , hiện đại hoá đất nước " - đòi hỏi chúng ta phải nhận thức một cách sâu sắc , đẩy đủ những giá trị lớn lao và ý nghĩa quyết định của nhân tố con người - chủ thể của mọi sáng tạo , mọi nguồn của cải vật chất và văn hoá tinh thần , phải có sụ thay đổi sâu sắc cách nhìn , cách nghĩ , cách hành động của con người và coi việc bồi dưỡng , phát huy nhân tố còn Việt Nam hiện đại như một cuộc cách mạng - cách mạng con người . Hơn nữa , với tính tất yếu khách quan của cuộc cải tạo xã hội một cách toàn diện , của sự nghiệp phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa và sự nghiệp công nghiệp hoá , hiện đại hoá với cách mạng con người phải được nhận thức là hai mặt thống nhất không thể tách rời quá trình phát triển kinh tế - xã hội vì mục tiêu " dân giàu , nước mạnh , xã hội công bằng , dân chủ văn minh " . ššš Tài liệu tham khảo 1. Chính sách công nghiệp và các công cụ chính sách công nghiệp TS. Nguyễn Minh Tú - ThS.Vũ Xuân Nguyệt Hồng Nxb. Lao động 2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá nền kinh tế quốc dân - Tập I GS.TS. Ngô Đình Giao Nxb. Chính trị quốc gia 3. Công nghiệp hoá , hiện đại hoá ở Việt Nam - Lý luận và thực tiễn GS.TS. Nguyễn Trọng Chuẩn PGS,TS.Nguyễn Thế Nghĩa PGS,TS. Đặng Hữu Toàn Nxb. Chính trị quốc gia 4. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII -Nxb. Chính trị quốc gia 5. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX - Nxb. Chính trị quốc gia 6. Tạp chí cộng sản

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc29547.doc
Tài liệu liên quan