Đề tài Đặc điểm và con đường công nghiệp hóa - hiện đại hóa của các nước ASEAN

MỤC LỤC LỜI NÓI ĐẦU 1 I. TỔNG QUAN VỀ CNH - HĐH VÀ ASEAN 2 1. Công nghiệp hoá - hiện đại hoá 2 1.1. Khái niệm công nghiệp hoá-hiện đại hoá 2 1.2. Tính tất yếu của công nghiệp hóa 2 2. Asean (Association of the south east Asian nations) 4 2.1. Điều kiện tự nhiên-văn hoá 4 2.2. Hoàn cảnh kinh tế 5 II. ĐẶC ĐIỂM VÀ CON ĐƯỜNG CNH- HĐH CỦA CÁC NƯỚC ASEAN 1. Các nước ASEAN tiến hành CNH-HĐH từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu 7 2. Thực hiện CNH từ xây dựng các xí nghiệp sử dụng nhiều lao động đến sử dụng nhiều chất xám và công nghệ hiện đại 8 3. Từ chiến lược CNH thay thế nhập khẩu (Import Substituation Industrialization-ISI) đến hướng vào xuất khẩu (Export Oriented Industrialization- EOI) 9 4. Vốn và công nghệ của nước ngoài là yếu tố then chốt thực hiện CNH 5. Thực hiện CNH-HĐH dưới sự điều tiết của nhà nước và gắn liền với tăng cường mở cửa, hội nhập quốc tế 15 6. Kết hợp giữa CNH với HĐH, thực hiện đi tắt đón đầu, tiếp nhận công nghệ mới tiên tiến 16 7. Kết hợp HĐH kinh tế với HĐH xã hội 17 8. Kết hợp HĐH kinh tế với ổn định chính trị 18 III. HẠN CHẾ TRONG QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN CNH-HĐH VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM DÀNH CHO VIỆT NAM 18 1. Hạn chế 19 2. Một số bài học cho quá trình CNH-HĐH ở Việt Nam 21 KẾT LUẬN 24 TÀI LIỆU THAM KHẢO 25

doc27 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1837 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đặc điểm và con đường công nghiệp hóa - hiện đại hóa của các nước ASEAN, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là yêu cầu không thể tách rời trong tiến trình phát triển của bất cứ quốc gia nào. Nó chính là con đường và bước đi tất yếu để tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền sản xuất lớn hiện đại; để từ đó các quốc gia tiến hành xây dựng nền kinh tế xã hội phù hợp với hoàn cảnh và mục tiêu của mình. Trong lịch sử 300 năm của CNH, với rất nhiều biến đổi to lớn trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, chúng ta đã được chứng kiến nhiều mô hình công nghiệp hoá diễn ra ở các nước. Nó bắt đầu ở Anh (với cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất vào giữa thế kỷ XVIII), tiếp đó là Bắc Mỹ, rồi Liên Xô (với mô hình công nghiệp hoá hướng nội), và các nước NICs (với mô hình công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu). Không nằm ngoài quy luật phát triển chung của lịch sử nhân loại, các nước Asean cũng đã xây dựng cho mình một con đường công nghiệp hoá mang những đặc điểm riêng phù hợp với từng giai đoạn lịch sử và những mục tiêu đặt ra. Năm 1995, Việt Nam trở thành thành viên chính thức của Asean. Với những điểm tương đồng cả về lịch sử, địa lý cũng như xuất phát điểm của nền kinh tế, những đặc điểm và bài học mà quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá của Asean mang lại sẽ có một tác động nhất định và thực sự có ích cho chúng ta trong tiến trình thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá xây dựng đất nước tiến lên CNXH.Với những lý do như trên, tôi quyết định chọn đề tài: “Đặc điểm và con đường CNH - HĐH của các nước ASEAN”. Trong khuôn khổ bài tiểu luận, tác giả cố gắng trình bày những hiểu biết của mình, song sẽ không tránh khỏi những thiếu sót, kính mong nhận được ý kiến đóng góp từ phía thầy giáo và bạn đọc để bài tiểu luận được hoàn thiện. Tôi xin chân thành cảm ơn. I. TỔNG QUAN VỀ CNH - HĐH VÀ ASEAN 1. Công nghiệp hoá- hiện đại hoá 1.1. Khái niệm công nghiệp hoá-hiện đại hoá Theo khái niệm truyền thống, CNH là quá trình cải biến kỹ thuật nền kinh tế lạc hậu sang nền kinh tế sản xuất trên nền đại công nghiệp cơ khí (sử dụng máy móc, cơ khí hoá). Theo định nghĩa của Liên Hợp Quốc, CNH là quá trình, phát triển kinh tế trong đó một bộ phận nguồn lực quốc gia ngày càng lớn được huy động để xây dựng cơ cấu kinh tế nhiều ngành với công nghệ hiện đại để chế tạo ra tư liệu sản xuất, hàng tiêu dùng có khả năng đảm bảo một nhịp độ tăng trưởng cao trong toàn bộ nền kinh tế và đảm bảo lợi ích toàn xã hội. Theo định nghĩa được đưa ra trong Đại hội VIII, CNH-HĐH là một quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chinh sang sử dụng phổ biến sức lao động kết hợp cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại dựa trên sự phát triển của công nghệ và tiến bộ khoa học công nghệ tạo ra năng suất lao động cao. 1.2. Tính tất yếu của công nghiệp hóa Xây dựng cơ sở vật chất-kỹ thuật cho nền sản xuất lớn, hiện đại là một quy luật chung, phổ biến đối với tất cả các nước. Tuy nhiên, tuỳ từng nước khác nhau, do điểm xuất phát khác nhau nên cách thức tiến hành xây dựng cơ sở vật chất- kỹ thuật cho nền sản xuất lớn hiện đại sẽ không giống nhau. Với những nền kinh tế như Asean , nền sản xuất nhỏ , kỹ thuật thủ công là chủ yếu…thì cơ sở này chỉ có thể là nền đại công nghiệp cơ khí hoá cân đối và hiện đại dựa trên trình độ khoa học- công nghệ ngày càng phát triển cao. Cơ sở vật chất- kỹ thuật đó phải có một cơ cấu kinh tế hợp lý, có trình độ xá hội hoá sản xuất và lao động cao. Để có được cốt vật chất-kỹ thuật như vậy, tất cả các nước phải tiến hành xây dựng nó. Nói cách khác, xây dựng cơ sở vật chất- kỹ thuật của nền sản xuất lớn, hiện đại là quy luật chung, phổ biến đối với tất cả các nước trong quá trình phát triển. Chỉ có như vậy mới có thể làm thay đổi căn bản đời sống vật chất và tinh thần của xă hội, đẩy mạnh tốc độ tăng năng suất lao động và thoả mãn ngày càng đa dạng nhu cầu của nhân dân. Việc thực hiện và hoàn thành tốt CNH-HĐH có ý nghía đặc biệt to lớn, và có tác dụng trên nhiều mặt: - CNH-HĐH nói một cách chung nhất là cuộc cách mạng về lực lượng sản xuất, làm thay đổi căn bản kỹ thuật, công nghệ sản xuất, tăng năng suất lao động. CNH-HĐH chính là thực hiện xã hội hoá về mặt kinh tế kỹ thuật, tăng trưởng và phát triển kinh tế với tốc độ cao, góp phần ổn định và ngày càng nâng cao đời sống vật chất và văn hoá của mọi thành viên trong cộng đồng xã hội . - Trong những điều kiện mới của sự phát triển kinh tế, mối quan hệ kinh tế giữa các ngành, các vùng không chỉ bó hẹp trong phạm vi một quốc gia, và càng ngày càng phức tạp, đa dạng đòi hỏi phải không ngừng nâng cao chất lượng quản lý, nâng cao khả năng tích luỹ mở rộng sản xuất, phát triển, tích cực tham gia phân công lao động quốc tế để từng bước giải quyết được nhu cầu việc làm trong nước, cũng như ngày một nâng cao chất lượng của đội ngũ nhân công này. Tất cả các nhiệm vụ này chỉ có thể được thực hiện tốt trên cơ sở thực hiện đầy đủ và đúng đắn quá trình công nghiệp hoá. - Ngày nay nhân tố con người đang trở thành vấn đề trung tâm. Điều đó đòi hỏi phải không ngừng nâng cao vai trò của nhân tố con người trong nền sản xuất, đặc biệt trong nền sản xuất lớn hiện đại, kỹ thuật cao. Để phát huy đầy đủ vai trò của mình, con người tất yếu phải là những con người hiện đại, có trình độ khoa học- kỹ thuật cao, nắm bắt kịp thời những kỹ thuật, công nghệ tiên tiến trên thế giới. Cũng chỉ trên cơ sở thực hiện tốt CNH-HĐH mới có khả năng thực tế để quan tâm đầy đủ đến sự phát triển tự do và toàn diện của nhân tố con người. - CNH-HĐH còn tạo điều kiện vật chất cho việc củng cố vị thế trên trường quốc tế, hạn chế phụ thuộc vào bên ngoài, và tăng cường tiềm lực quốc phòng. Những vấn đề này phụ thuộc vào nhiều điều kiện và nhân tố khác nhau, ví dụ như kinh tế, quân sự, văn hoá, xã hội…trong đó CNH-HĐH có những tác dụng trực tiếp trong việc thực thi tốt những yêu cầu này. - CNH-HĐH còn tạo ra những điều kiện thuận lợi cho việc hội nhập, hợp tác về kinh tế, khoa học, công nghệ cũng như tham gia vào phân công lao động quốc tế với vị thế cao. 2. Asean (Association of the south east Asian nations) Hiệp hội các quốc gia Đông nam á được các chuyên gia chính trị, kinh tế đánh giá là một trong những khu vực phát triển năng động nhất trên thế giới hiện nay. ASEAN được thành lập ngày 8.8.1967, ban đầu chỉ có 5 nước thành viên sáng lập: Malaysia, Indonesia, Tháilan, Philippin, và Singapo, sau đó kết nạp thêm các quốc gia: Bruney(1984), Việt Nam(1995), Lào và Myanma( 1997), Campuchia(1999). Sự ra đời của tổ chức ASEAN đánh dấu sự đoàn kết và hợp tác của khu vực đông nam á. Ban đầu tổ chức được thành lập chỉ với mục đích chính trị, nhưng giờ đây khi đứng trứơc xu thế toàn cầu hoá, quốc tế hoá diễn ra mạnh mẽ trên thế giới, tổ chức này đã trở thành một cầu nối hợp tác trên tất cả các lĩnh vực của khu vực như: kinh tế, chính trị , văn hoá,… 2.1. Điều kiện tự nhiên-văn hoá Asean với diện tích 4,5 triệu km2, có một vị trí đặc biệt quan trọng trong bản đồ kinh tế- chính trị thế giới.Vị trí này cũng rất thuận lợi cho việc thông thương cũng như phòng thủ quốc tế. Nằm giữa hai đại dương lớn (Thái bình dương và ấn độ dương), các nước này là đầu mối quan trọng của các con đường hàng hải và hàng không quốc tế. Với nguồn rừng nhiệt đới, đồng bằng phù sa màu mỡ, nguồn nông sản phong phú, các nước này có nguồn tài nguyên giàu có và đa dạng ít thấy trên thế giới như cao su, thiếc, dầu cọ, sợi gai, dầu dừa, hồ tiên, và trữ lượng lớn gỗ nhiệt đới, dầu mỏ, khí đốt, và kim loại quý. Khu vực Đông Nam á có nền văn hoá cổ xưa, phong phú, và đa dạng với những nét riêng biệt độc đáo. Những phát hiện mới nhất về khảo cổ học đã khẳng định rằng khu vực này là một trong những cái nôi của loài người, là một trung tâm hình thành chủng tộc, một trung tâm phát sinh nông nghiệp sớm nhất thế giới. Bên cạnh đó, các nước vùng Đông Nam á cũng là nơi có nền văn hoá đồ đồng cách đây hàng nghìn năm và văn minh đồng thau Đông Nam á đã toả sáng rực rỡ. 2.2. Hoàn cảnh kinh tế Có thể khái quát tình hình kinh tế của các nước Đông Nam á qua hai giai đoạn: trước khi giành được độc lập và sau khi giành được độc lập. a. Kinh tế các nước Đông Nam á trước khi giành được độc lập. Trước khi bị thực dân phương tây xâm lược, phần lớn các nước ASEAN đang ở thời kỳ chế độ phong kiến, tiền phong kiến nền kinh tế trong tình trạng lạc hậu, thấp kém. Sau các phát kiến địa lý vĩ đại, từ thế kỷ XVI, lần lượt các nước thực dân phương tây đã nhảy vào xâm lược các nước Đông Nam á. Và các nước này đã nhanh chóng biến Đông Nam á thành những thuộc địa quan trọng nhất của chúng. Chúng sử dụng nơi đây như là nơi cung cấp các loại nguyên liệu, nông sản chủ yếu cho chúng như là bông, gạo, hồ tiêu, gỗ, sợi gai, mía…Hình thức bóc lột siêu kinh tế( tiêu biểu chế độ trồng trọt đồn điền cưỡng bức) và sự trao đổi ngoại thương không ngang giá chính là những đặc trưng trong hoạt đông khai thác của thực dân phương tây ở khu vực này. Dưới sự tác động của chính sách thuộc địa cơ cấu kinh tế của các nước ASEAN đã có sự thay đổi sâu sắc. Bên cạnh quan hệ sản xuất phong kiến vẫn tiếp tục được duy trì, quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa đã xuất hiện nhưng còn yếu ớt. Nền kinh tế các nước Đông Nam á trong thời kỳ này có thể khái quát thành những đặc điểm sau: - Kinh tế nông nghiệp lạc hậu, độc canh là phổ biến, tập trung chủ yếu vào lương thực và một số cây công nghiệp để xuất khẩu. Thực tế quan hệ sản xuất tư bản đã xâm nhập vào nông nghiệp, nhưng các quan hệ sản xuất tiền tư bản vẫn duy trì và tồn tại phổ biến với kỹ thuật sản xuất sức lạc hậu. - Công nghiệp phát triển què quặt, phiến diện, chủ yếu là công nghiệp khai thác mỏ và sơ chế nguyên liệu. - Nền kinh tế phụ thuộc hoàn toàn vào tư bản nước ngoài, hướng vào xuất khẩu nguyên liệu và sản phẩm nông lâm nghiệp. Nhìn chung, phần lớn các nước Đông Nam á rất giàu về tài nguyên thiên nhiên, nhưng sau hàng thế kỷ thực dân phương tây nô dịch nên kinh tế các nước này đã trở nên què quặt, lạc hậu, và phụ thuộc vào các nước khác. b. Kinh tế các nước Đông Nam á sau khi giành được độc lập. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, các nước Đông Nam á lần lượt giành được độc lập. Do sự khác nhau về điều kiện lịch sử cụ thể và về thể chế chính trị nên trong quá trình phát triển, các nước trong khu vực đã có chính sách kinh tế không đồng nhất. Trong khi các nước như Malaysia, Philippin, Brunei, Thái lan,…đi theo con đường tư bản chủ nghĩa, tiếp tục phát triển kinh tế thị trường và duy trì quan hệ với bên ngoài. Thì các nước như Việt Nam, Lào lại lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa, xây dựng mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung( cho đến giữa những năm 1980) và chủ yếu chỉ đặt quan hệ với các nước trong khối xã hội chủ nghĩa. Nhưng từ sau những năm 1980 các nước này cũng tiến xây dựng nền kinh tế thị trường, nhiều thành phần , các mà các nước kia đá làm từ trước, chỉ khác là vẫn theo định hướng xã hội chủ nghĩa, có sự can thiệp của nhà nước. Các nước Đông Nam á đồng thời cũng tăng cường phát triển khu vực kinh tế nhà nước và coi đó như là sức mạnh để độc lập về kinh tế. Sau khi được độc lập về chính trị, hầu hết các nước ASEAN đều bắt đầu xây dựng nền kinh tế từ một nền tảng nền nông nghiệp lạc hậu.Và xu hương xây dựng một nền kinh tế ít phụ thuộc vào bên ngoài chiếm ưu thế. Vì vậy để phát triển kinh tế các nước này đều chủ trương tiến hành công nghiệp hoá. Và mô hình công nghiệp hoá-hiện đại hoá đầu tiên được áp dụng đó là " chiến lược phát triển công nghiệp thay thế nhập khẩu". Nhưng dưới tác động của xu thế toàn cầu hoá, quốc tế hoá và để tận dụng tối đa các nguồn lực từ bên ngoài để phát triển kinh tế trong nước, một chiến lược khác đã được áp dụng đê thay thế cho chiến lược này đó chiến lược" công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu”. Nhưng sau cả hai lần ấp dụng các chiến lược này, bên cạnh những thành tựu đáng kể, nó cũng bộc lộ những hạn chế( tiêu biểu là khủng hoảng tài chính 1997) và các nước Đông Nam á đang trong quá trình điều chỉnh, hoàn thành những chính sách đó. Có thể khái quát tình hình kinh tế các nước Đông Nam á thời kỳ này qua một số đặc điểm sau: - Tốc độ tăng trưởng kinh tế không đông đều. - Cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch theo hướng tiến bộ nhưng còn nhiều khác biệt. - Có sự chênh lệch rõ rệt về thu nhập bình quân đầu người giữa các nước trong khu vực. II. ĐẶC ĐIỂM VÀ CON ĐƯỜNG CNH- HĐH CỦA CÁC NƯỚC ASEAN Với xuất phát điểm từ một nền sản xuất nông nghiệp lạc hậu, tuy lựa chọn những con đường phát triển khác nhau, nhưng cùng với một mục tiêu phục hồi và phát triển nhanh chóng nền kinh tế, dần thoát khỏi sự phụ thuộc vào bên ngoài, các quốc gia Đông Nam á đều chủ trương tiến hành công nghiệp hoá. Và xác định đây chính là chìa khoá giúp các nước này vượt qua được thời kỳ đen tối. Con đường CNH-HĐH của các nước ASEAN có thể được khái quát qua những đặc điểm sau: 1. Các nước ASEAN tiến hành CNH-HĐH từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu Trong giai đoạn còn là thuộc địa của các nước phương Tây, chịu ảnh hưởng nặng nề của chính sách chính sách bóc lột siêu kinh tế mà điển hình là chế độ trồng trọt cưỡng bức, nền nông nghiệp của các nước Đông Nam á còn rất lạc hậu, độc canh là phổ biến, chủ yếu tập trung vào lương thực và một số cây công nghiệp để xuất khẩu. Có thế kế đến ở đây một vài ví dụ điển hình: Thái lan chủ yếu là độc canh lúa gạo xuất khẩu, trong khi ở một số nứơc khác lại chủ yếu là phát triển các đồn điền trồng cây công nghiệp như: cà phê, cao su, mía, dừa,…Riêng ở Malaysia, khoảng 50% số vốn đầu tư của tư bản Anh tập trung vào trồng cà phê. Hơn nữa, ruộng đất phần lớn nằm trong tay địa chủ phong kiến và tư bản nước ngoài. Sau khi giành được độc lập, các nước ASEAN đã bắt đầu chú hơn tới nông nghiệp. Từ 1950-1970, các nước này lần lượt tiến hành các cuộc cải cách ruộng đất, nông nghiệp đựơc ưu tiên phát triển, giá trị sản lượng nông nghiệp tăng 4,1%, tuy nhiên đây vẫn là nền nông nghiệp nặng về tự cung tự cấp. Bắt đầu từ năm 1970 trở đi, nền nông nghiệp Đông Nam á mới thực sự chuyển sang nền kinh tế hàng hoá, và “cuộc cách mạng xanh” đã thực sự mang lại một chuyển biến to lớn trong nông nghiệp. Các nước đã bắt đầu áp dụng khoa học, kỹ thuật, công nghệ cao cùng với việc đưa các giống cây trông mới, cũng như sử dụng các phương pháp canh tác mới vào sản xuất nông nghiệp. Công tác thuỷ lợi được chú trọng đầu tư phát triển, tăng cường đầu tư chiều sâu cho nông nghiệp, đa dạng hoá cây trồng và chuyển hướng cây công nghiệp hướng về chuyên canh xuất khẩu. Bên cạnh đó việc áp dụng chính sách khai hoang cũng đem lại những hiệu quả tích cực, với việc đưa người dần từ đồng băng lên miền núi đã thực sự làm thay đổi những suy nghĩ đã tồn tại trước đó về công tác sản xuất, cũng như việc lựa chọn địa điểm làm ăn sinh sống. Những chính sách này đã mang lại cho nền nông nghiệp Đông Nam á một bộ mặt mới, diện tích canh tác nông nghiệp tăng lên nhanh chóng, sản lượng nông nghiệp cao chưa từng có, tăng hơn 80% so với thời kỳ trước đó, tiêu biêu có thể kể đến: Thái lan- quốc gia xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới, còn Malaysia đã trở thành quốc gia xuất khẩu dầu cọ lớn nhất thế giới (chiếm hơn 50% sản lượng dầu cọ thế giới)sau một thời gian tiến hành đa dạng hoá các sản phẩm nông nghiệp hướng ra xuất khẩu không những đảm bảo được an ninh lương thực mà còn tạo ra một thế mạnh xuất khẩu từ nông nghiệp cũng như lấy đó làm nền tảng cho việc thực hiện CNH-HĐH và phát triển vững chắc của nền kinh tế xã hội. 2. Thực hiện CNH từ xây dựng các xí nghiệp sử dụng nhiều lao động đến sử dụng nhiều chất xám và công nghệ hiện đại Có thể nói, muốn tiến hành công nghiệp hoá điều thuận lợi, đầu tiên mà chúng ta nghĩ đến đó là thật nhiều vốn( bằng tiền, bằng nguyên vật liệu...), nhân lực với kỹ năng cao, công nghệ hiện đại, sự ủng hộ nhiều mặt từ bên ngoài. Nhưng từ thực tế chúng ta đã thấy ở các nước Đông Nam á, xuất phát điểm chủ yếu từ sản xuất nông nghiệp lạc hậu, điều đó giải thích cho sự yếu kém về vốn, nhân lực, công nghệ cũng như không có sự giúp đỡ ủng hộ của các nước phương tây sau ngày được độc lập. Vì vậy, hầu hết các nước ASEAN tiến hành công nghiệp hoá đều bắt đầu đi từ xây dựng các xí nghiệp sử dụng nhiều lao động, với công nghệ đơn giản. ở thời kỳ đầu CNH, từ Xinhgapo đến Malaysia, Inđônêxia, và Thái lan đều đã chủ trương xây dựng các xí nghiệp vừa và nhỏ nhằm thu hút nhiều lao động có kỹ năng thấp, vốn đầu tư ít, kỹ thuật đơn giản, nhưng nhanh thu hồi vốn, cũng như nhanh có sản phẩm cung cấp cho thị trường nội địa, đó chủ yếu là các mặt hàng công nghiệp thực phẩm, vải sợi, may mặc, sản xuất vật liệu xây dựng, đồ gỗ gia dụng và một vài mặt hàng cơ khí điện gia dụng phổ thông. Vào thời điểm những năm 60, 70, và đầu những năm 80, bằng chiến lược phát triển này, nạn thất nghiệp ở các quốc gia Đông Nam á như Thái lan, Malayxia, Sinhgapo.. đã thực sự được đẩy lùi. Nhưng dưới tác động của xu thế phát triển đang diễn ra mãnh mẽ trên thế giới, từ những năm 70, các nước này đã bắt đầu chú trọng đến những nghành công nghiệp sử dụng nhiều vốn hơn, với kỹ thuật đòi hỏi hiện đại hơn, đó là các ngành: lọc hóa dầu, luyện thép, chế tạo máy và các thiết bị chính xác, điện tử, thiết bị bán dẫn…Các tổ hợp sản xuất lớn với chu trình khép kín và đồng bộ, như liên hiệp sản xuất xi măng, thức ăn gia súc, gia cầm…ở các quốc gia như Thái lan hay Inđônêsia; tổ hợp luyện thép và cán thép Krakatan steel Mills của Inđônêsia; công ty dầu khí quốc gia Petronas, hay tổ hợp công ty HICOM của Malaysia; liên hiệp thép quốc gia của Philippin…. Nhưng các sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao, chất lượng tốt, giá thành không cao này lại chỉ phục vụ chủ yếu cho chiến lược công nghiệp hướng về xuất khẩu bởi nó không phù hợp với túi tiền và yêu cầu của người tiêu dùng nội địa, những người vừa không lâu trước đó còn là nô lệ của chế độ thực dân và phong kiến. 1. Từ chiến lược CNH thay thế nhập khẩu (Import Substituation Industrialization-ISI) đến hướng vào xuất khẩu (Export Oriented Industrialization- EOI) Nói đến con đường CNH của các quốc gia Đông Nam á, một đặc trưng mà chúng ta không thể không nhắc đến đó là, các nước này đã từng áp dụng hai chiến lược CNH, từ thay thế nhập khẩu đến hướng về xuất khẩu. Chiến lược CNH thay thế nhập khẩu của nhà kinh tế học Raun Prebish ra đời vào thập niên 50 của thế kỷ XX. Và các nước ASEAN đã theo đuổi chiến lược này với mục tiêu giảm sự phụ thuộc vào thị trường bên ngoài, xây dựng nền kinh tế tự chủ. Nhìn chung, trong giai đoạn sau chiến tranh, khi các nước Đông Nam á mới thoát khỏi ách đô hộ thì chiến lược này lại càng trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết. Nội dung chủ yếu của chiến lược này là hạn chế nhập khẩu hàng thành phẩm công nghiệp, nhất là hàng tiêu dùng từ bên ngoài, thực hiện bảo hộ mậu dịch, tập trung phát triển một số ngành công nghiệp trong nước để thay thế hàng nhập khẩu, mở rộng thị trường nội địa, tận dụng tối đa nguồn vốn đầu tư từ trong nước. Chiến lược ISI được áp dụng rất phổ biến trong giai đoạn đầu của quá trình CNH ở nhiều nước đang phát triển trong khu vực và thế giới( trong đó có ASEAN). Trong những năm đầu, chiến lược này đã có một số tác động tích cực: giúp các nước này xây dựng cơ sở công nghiệp then chốt chủ yếu dựa vào nguồn lực trong nước, tăng cường vị trí của tư sản trong nước và khu vực kinh tế nhà nước. Những sản phẩm hữu ích, thiết thực, và hiện đại như xe máy, đồ điện gia dụng… được sản xuất ngày càng nhiều, thêm vào đó những ngành sản xuất sử dụng nhiều tư bản và công nghệ cao như lọc dầu, sản xuất thép tổng hợp…cũng bắt đầu được chuyên môn hoá. Tuy nhiên, việc chủ yếu dựa vào nguồn lực trong nước trong điều kiện một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu đã tỏ ra không có hiệu quả, hàng hoá sản xuất ra không thể đủ sức cạnh tranh với các nước khác. Mặt khác, do thiếu kinh nghiệm trong quản lý, do cơ chế quản lý mang tính tập trung hoá nên không những các doanh nghiệp quốc doanh hoạt động kém hiệu quả mà còn tạo điều kiện cho tư bản nước ngoài kiểm soát một số ngành giữ vị trí then chốt trong nền kinh tế. Hậu quả là thị trường nộiđịa vẫn không mở rộng đươc, hàng hoá trong nước thiếu hụt trầm trọng, vốn đầu tư không phát huy được hiệu quả, lạm phát, thất nghiệp tăng nhanh, nợ nước ngoài gia tăng cùng với sự phụ thuộc ngày càng sâu sắc vào nước ngoài. Để khắc phục những hạn chế của của chiến lược ISI, vào cuối những năm 60 đầu những năm 70 các quốc gia Đông Nam á đã từng bước chuyển sang chiến lược “CNH hướng về xuất khẩu”. Đây là sự thayđổi căn bản trong chính sách công nghiệp nói riêng và chính sách phát triển kinh tế nói chung ở ASEAN5. Đó là quá trình chuyển từ nền kinh tế tự cung, tự cung, tự cấp, khép kín sang kinh tế thị trường mở, hội nhập với kinh tế thế giới. Nội dung cơ bản của chiến lược này là tận dụng tối đa nguồn vốn và công nghệ từ bên ngoài, tập trung những ngành công nghiệp có thể xuất khẩu được, từng bước cạnh tranh và chiếm lĩnh thị trường thế giới. Các nước đã áp dụng một số chính sách và biện pháp chủ yếu sau: - Thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô khuyến khích xuất khẩu, bao gồm: - Chính sách mở cửa rộng rãi và tự do hoá kinh tế: giảm và miễn thuế hàng xuất khẩu, bãi bỏ các hàng rào phi thuế quan với hàng xuất khẩu, đơn giản hoá các thủ tục hải quan, thành lập quỹ hỗ trợ xuất khẩu, cho phép tư nhân được trực tiếp xuất khẩu, miễn giảm thuế đối với hàng nhập khẩu phục vụ xuất khẩu. - Áp dụng chính sách tỷ giá có lợi cho xuất khẩu: từ bãi bỏ chế độ tỷ giá cố định, phá giá đồng tiền trong nước, thực hiện chế độ tỷ giá linh hoạt, và thả nổi tỷ giá. - Nhà nước tạo môi trường kinh doanh thuận lợi để đẩy nhanh CNH theo hướng khuyến khích xuất khẩu. - Giảm sự can thiệp trực tiếp của nhà nước vào nền kinh tế, cải cách hệ thống ngân hàng theo hướng kinh doanh tiền tệ, cải cách bộ máy hành chính. - Phát triển cơ sở hạ tầng phục vụ đầu tư xuất khẩu. Khuyến khích khu vực kinh tế tư nhân phát triển và tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài. - Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng phát triển các ngành có thể xuất khẩu được. - Chuyển đổi cơ cấu công nghiệp từ các ngành truyền thống, sang các ngành phục vụ xuất khẩu sử dụng nhiều lao động. - Thực hiện “cách mạng xanh” trong nông nghiệp. - đổi mới mạnh mẽ trong lĩnh vực dịch vụ, đặc biệt là lĩnh vực tài chính ngân hàng. Với việc áp dụng chiến lược này, kim ngạch xuất khẩu của các nước Đông Nam á tăng lên rõ rệt, cùng với tốc độ tăng trưởng kinh tế cao( tiêu biểu là Thái lan với tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 11,6% năm 1990). Tuy nhiên, kim ngạch xuất khẩu nội khối vẫn còn rất khiêm tốn( cao nhất là Inđônêxia, cũng chỉ đạt 10% năm 1996). Và cũng có thể nhận thấy, chiến lược này cũng chưa phải là hoản hảo, nó vẫn còn khá nhiều khiếm khuyết, mà cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính năm 1997 là điển hình. 4. Vốn và công nghệ của nước ngoài là yếu tố then chốt thực hiện CNH Vừa thoát ra khỏi chế độ áp bức bóc lột của chủ nghĩa thực dân, phong kiến, nguồn vốn tích luỹ từ các hoạt động đầu tư trong nước, cũng như các nguồn công nghệ quốc gia của các nước ASEAN còn rất hạn chế. Trong khi đó, yêu cầu về vốn và công nghệ để đẩy nhanh tiến trình CNH lại rất cấp thiết, và cần một khối lượng lớn với trình độ cao. Chính vì thế, một trong những yêu cầu đặt ra, cũng đồng thời là đặc điểm phát triển kinh tế của ASEAN trong hơn 30 năm qua đó là huy động và cố gắng sử dụng hiệu quả nguồn vốn, cũng như công nghệ của nước ngoài trong quá trình CNH-HĐH đất nước. Trong quá trình xây dựng và phát triển, các quốc gia Đông Nam á đã thực thi nhiều biện pháp nhằm tăng cường khả năng vốn cho đầu tư phát triển. Nó bao gồm hai nguồn chủ yếu, là Vốn trong nước, Vốn nước ngoài. Bài học để lại từ các quốc gia đi trước đã khẳng định tầm quan trọng cũng như vai trò của huy động vốn nội địa, theo đó nó là nền tảng vững chắc của sự phát triển bền vững. Hơn nữa, giữa sự tăng trưởng kinh tế và huy động vốn này lại có một quan hệ hữu cơ rất chặt chẽ. Sự tăng trưởng vừa là nguyên nhân vừa là kết quả của của quá trình tích luỹ vốn. Kinh nghiệm cho thấy, các quốc gia muốn đẩy nhanh tốc độ tặng trưởng kinh tế thì tỷ lệ tích luỹ vốn nội địa phải chiếm từ 30% GDP trở lên. Nhận thức được tầm quan trọng của các nguồn vốn từ trong nước, các quốc gia Đông Nam á đã thực hiện khá tốt lĩnh vực này, theo số liệu thống kê năm 1995, tỷ lệ tiết kiệm so với GDP là rất cao, tiêu biểu có Xinhgapo với 48%, Việt nam chúng ta tuy điều kiện còn nhiều khó khăn cũng đạt tỷ lệ 7%. Nhưng yếu tố quan trọng nhất để tạo ra hiện tượng “thần kỳ châu á”, phải kể đến đó là nguồn vốn đầu tư từ bên ngoài. Nó cùng với nguồn vốn nội địa là những yếu tố quan trọng tạo ra những tích luỹ ban đầu, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhanh chóng và là điều kiện vô cùng quan trọng để hoàn thành mục tiêu kinh tế-xã hội dài hạn, trung hạn và ngắn hạn của các quốc gia Đông Nam á. Nó bao gồm: Viện trợ phát triển chính thức ODA, vốn vay tín dụng ngắn hạn, và vốn đầu tư trực tiếp FDI. Khi nói đến ODA dành cho các nước châu á nói chung và các quốc gia Đông Nam á nói riêng, chúng ta không thể không nhắc đến ODA của Nhật Bản. Tính từ khi thành lập ASEAN, ODA mà Nhật Bản dành cho các nước này chiếm từ khoảng 30%-50% tổng vốn viện trợ cho châu á. Tính đến năm 1975, Tổng nguồn vốn ODA Nhật Bản đầu tư cho Đông Nam á là 380,7 triệu đôla, chiếm 44,8% tổng ODA của Nhật Bản dành cho các nước. Trong số 5 nước châu á được nhận ODA của đất nước giữ vị trí số một về cung cấp ODA này, thì có đến 3 nước ở khu vực Đông Nam á , đó là Thái lan, Inđônêsia, và Philippin. Viện trợ ODA chủ yếu được đầu tư phát triển trong các lĩnh vực nông nghiệp, y tế, sức khoẻ, giáo dục, năng lượng, giao thông vận tải và hệ thống viễn thông, ngoài ra cũng có các lĩnh vực khác như dân số, phòng chống AIDS. Từ những năm 90 trở đi, khi mà các nước ASEAN đạt được những bước phát triển đáng kể, gần đuổi kịp các nước NICs, thì hầu hết các ODA chỉ là cho vay và hợp tác kỹ thuật. Nói về vay tín dụng ngắn hạn, trước đây người ta hay nghĩ rằng chỉ có các nước NICs mới tiếp nhận chúng. Bởi vì, đó là các khoản vay ngắn hán,số lượng không hạn chế, nhưng lãi xuất cao, và thời hạn thanh toán nợ ngắn. Trên thực tế, vào đầu những năm 90, các quốc gia Đông Nam á đã dần trở thành địa điểm đến phổ biến của dòng vốn này. Bởi với tốc độ phát triển rất nóng của mình, các quốc gia trong khu vực thực sự đã trở thành những cục nam châm hút những nguồn vốn, những nhà đầu tư muốn kiếm được lợi nhuận lớn trong một thời gian ngắn. Các nước ASEAN coi đầu tư trực tiếp FDI là một yếu tố then chốt để tiến hành CNH-HĐH. FDI không những đem lại nguồn vốn cung cấp công nghệ và kinh nghiệm quản lý, phát triển đất nước. Có thể khẳng định được rằng, việc sử dụng hiệu quả được nguồn vốn này chính là nguyên nhân dẫn đến tốc độ tăng trưởng cao và quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế hướng về xuất khẩu một cách nhanh chóng. Bằng những chính sách thu hút đầu tư hiệu quả, đầu tư trực tiếp vào các nước ASEAN không ngừng tăng lên, điển hình là Sinhgapo, với nguồn vốn đầu tư FDI 157 triệu đôla năm 1965 thì đến năm 1973 đã tăng lên 2,3 tỷ đôla; còn ở Inđônêsia, 1,093 tỷ đôla năm 1990 đã tăng lên 4,677 tỷ đôla năm 1997. Với sự tham gia của yếu tố FDI vào quá trình phát triển, nền kinh tế các nước ASEAN đã thực sự trở thành thiên đường đầu tư, với tốc độ tăng trưởng cao và hết sức năng động. Một yếu tố nữa cần nhắc đến ở đây, đó là sự chuyển giao công nghệ. Từ lâu đã có rất nhiều quan niệm khác nhau về yếu tố này. Có người cho rằng, chuyển giao công nghệ là chuyển giao trọn gói công nghệ, nhưng thực ra thì chỉ cần chuyển giao nhưng công nghệ quan trọng, then chốt trong quá trình đổi mới công nghệ của nước tiếp nhận. Một xu thế tiếp nhận chuyển giao công nghệ hiện đang diễn ra đó là đi tắt đón đầu, tiếp nhận những công nghệ hàng đầu, ví dụ như một vài nước ở Đông Nam á mặc dù công nghệ quốc gia của họ là rất kém, nhưng khi nhập công nghệ của nước ngoài họ cũng luôn chọn những công nghệ hiện đại nhất để tránh tình trạng tự biến mình thành bãi thải công nghệ của thế giới. Tình hình chuyển giao công nghệ đã và đang diễn ra ở các nước Đông Nam á có rất nhiều biến động, và bất cập. Hầu như các nước tư bản khi đầu tư vào các nước này đều không muốn cho họ những công nghệ mới nhất, không để cho họ tự sản xuất một sản phẩm hoàn chỉnh dưới cái tên của mình, mặc dù về một lĩnh vực nào đó có thể họ là những người hàng đầu, ví dụ như Malayxia đứng thứ 4 thế giới về cung cấp băng video, Thái lan với xe gắn máy….Các nhà tư bản hầu như chỉ muốn các nước nhận đầu tư có một sự ràng buộc nhất định vào mình, không muốn cho họ đứng lên. Trong những năm qua, việc chuyển giao công nghệ mà Nhật Bản tiến hành với các nước Đông Nam á diễn ra trên các lĩnh vực: vận hành, bảo dưỡng, kiểm tra chất lượng, cải tiến công nghệ, sản xuất , thiết kế, phát triển sản phẩm mới..Nhưng những yếu tố liên quan đến sản xuất phát triển sản phẩm mới lại không hề được khuyến khích, chỉ có 25% các công ty hứa sẽ tiến hành. Nhưng dù sao cũng không thể chối bỏ tác dụng của những chuyển giao này, nó đã giúp các nước ASEAN có một chỗ đứng nhất định trên trường quốc tế, cũng như phát triển nền kinh tế, cải thiện đáng kể tình hình việc làm, một đội ngũ nhân công đủ trình độ có thể gia nhập quá trình phân công lao động quốc tế. 5. Thực hiện CNH-HĐH dưới sự điều tiết của nhà nước và gắn liền với tăng cường mở cửa, hội nhập quốc tế Sau những hạn chế của việc thực hiện đơn thuần hai mô hình CNH, vai trò của nhà nước đã được các nước Đông Nam á nhìn nhận một cách tích cực. Các nước này đề cao vai trò của nhà nước vì rất nhiều lý do, trước tiên vì các cơ sở kinh tế quốc doanh sẽ giúp các nước này củng cố địa vị chính trị; hơn nữa những nước này sử dụng các các cơ sở kinh tế trên như một công cụ giúp phân phối lại xã hội và giảm bớt sự căng thẳng về chủng tộc; và họ cũng nhận ra rằng chỉ có chính phủ mới có khả năng để thúc đẩy và định hướng quá trình CNH phát triển; bên cạnh đó, nhà nước cũng làm giúp vai trò của tư bản tư nhân nội địa trong các công trình đòi hỏi đầu tư lớn, thời gian hoàn thiện dài, thời gian thu hồi vốn lâu, lợi nhuận không rõ ràng; trên hết, chính phủ các nước sẽ giúp nền kinh tế thị trường yếu kém có thể huy động được vốn trong nước cũng như nước ngoài. Có thể gọi tên cho nền kinh tế thị trường này là có thị trường có điều tiết. Trong mô hình này, thị trường và chính phủ là hai bộ phận tác động trực tiếp lẫn nhau. Có hai mô hình nhỏ của mô hình kinh tế lớn này là: - Nhà nước kiểm soát chặt chẽ các hoạt động kinh doanh, kể cả thành phần kinh tế tư nhân, nhưng không can thiệp vào các hoạt động kinh doanh sinh lời, kể cả các doanh nghiệp nhà nước. Vì vậy có người gọi đây là mô hình kiểm soát nhưng không can thiệp (tiêu biểu ở Singgapo) - Nhà nước can thiệp khá sâu vào cả mặt hành chính cũng như tài chính của các doanh nghiệp nhà nước, còn các doanh nghiệp tư nhân sẽ không nhận được sự đối đãi như vậy, chính phủ để chúng cho quy luật tự do cạnh tranh chi phối (tiêu biểu là Thái lan, Inđônêsia, Malayxia, và Philippin). Tăng cường mở rộng hợp tác, hội nhập quốc tế và khu vực là một trong những tiêu chí được đưa ra trong tuyên bố Bangkok 1967. Trên thực tế, các quốc gia Đông Nam á đã đạt được một số thành công quan trọng trên các lĩnh vực hợp tác về thương mại, công nghiệp, đầu tư phát triển, lương thực, nông nghiệp, lâm nghiệp, giao thông vận tải và thông tin liên lạc. Trong lĩnh vực hợp tác thương mại, thành công lớn nhất của các nước ASEAN là việc ký được hiệp định về dàn xếp và ưu đãi thương mại ASEAN (PTA) vào năm 1977. Qua đó, lộ trình cắt giảm thuế quan sẽ dần được áp dụng với tất cả các mặt hàng và với tất cả các nước thành viên, và hiện nay nhờ nó mậu dịch nội khối đang dần tăng lên cả về số lượng và trị giá kim ngạch. Trong lĩnh vực đầu tư, tuy chưa có hiệp định về hợp tác đầu tư, nhưng các quốc gia Đông Nam á đã rất tích cực hợp tác trong các lĩnh vực tài chính, ngân hàng, thuế, hải quan, …và không ngừng trao đổi những kinh nghiệm trong việc thực hiện thu hút vốn đầu tư FDI, cũng như tăng cường đầu tư trực tiếp trong nội khối, ví dụ như FDI của các nước ASEAN cũ rót vào Việt nam chiếm 18,1% tổng FDI của Việt nam. Trong lĩnh vực hợp tác phát triển công nghiệp, các nước Đông Nam á đã thực hiện được một số chương trình như: chương trình dự án công nghiệp (AIP), chương trình liên doanh công nghiệp ASEAN(AIJV).Một lĩnh vực mà đến nay các nước Đông Nam á chưa thực sự đạt được như mong muốn đó là hợp tác tiểu vùng, với mục tiêu đề ra là phát triển hợp tác tiểu vùng để phát triển hợp tác khu vực, nhưng cho đến nay chỉ mới thực hiện ở một vài nơi, tiêu biểu là tiểu vùng sông Mêkông. 5. Kết hợp giữa CNH với HĐH, thực hiện đi tắt đón đầu, tiếp nhận công nghệ mới tiên tiến CNH-HĐH vốn là hai quá trình tách rời, CNH có trước, HĐH có sau, các nước tây âu tiến hành CNH từ hơn 300 năm trước, ban đầu chỉ đơn thuần là việc sử dụng máy móc vào sản xuất, rồi sau đó để đáp ứng yêu cầu của xã hội, nâng cao năng xuất cũng như chất lượng, các nhà tư bản tiến hành cải tiến máy móc, đổi mới công nghệ sản xuất. Còn ngày nay, nếu ta tiến hành CNH trước thì sẽ mất rất nhiều thời gian, hơn nữa, sản phẩm sản xuất ra sẽ không đủ sức cạnh tranh vì ta sử dụng công cụ lạc hậu, chính vì vậy phải áp dụng ngay máy móc hiện đại. Gắn liền quá trình CNH với HĐH, có nghĩa là vai trò của khoa học công nghệ sẽ được đề cao. Trong điều kiện yếu kém, lạc hậu của các quốc gia Đông Nam á thì nếu không áp dụng đồng thời CNH-HĐH thì tình trạng tụt hậu sẽ bị kéo dài, và sẽ còn rất lâu nữa chúng ta mới thực sự thoát khỏi được tình trạng nước nghèo, yếu kém. Công nghệ của các nước ASEAN nói chung còn thấp kém, hơn nưa trong quá trình chuyển giao công nghệ, tâm lý của các nước chuyển giao chỉ muốn bán đi nhưng công nghệ mà mình không dùng nữa, nó đã thực sự lạc hậu. Chính vì vậy các nước Đông Nam á không nên vì cái lợi giá cả trước mắt mà đánh mất đi cơ hội phát triển, cũng như tự biến mình thành bãi rác công nghệ của thế giới. Hơn nữa, khi nhập công nghệ hiện đại, nước nhập sẽ không chỉ tiếp nhận được một cái dây chuyền tốt nhất, mà còn là kinh nghiệm quản lý, sử dụng hiệu quả công nghệ, tiếp sau đó, là một loạt các sản phẩm với số lượng lớn và chất lượng tốt sẽ ra đời, nó có tác dụng khẳng định được vị trí của quốc gia, bên cạnh như thu nhập kếch xù đạt được. 6. Kết hợp HĐH kinh tế với HĐH xã hội Con người vừa là động lực vừa là mục tiêu của quá trình CNH-HĐH. Con người trực tiếp thực hiện CNH, trực tiếp tác động làm nền kinh tế phát triển, chỉ với mục tiêu cải thiện cuộc sống, nâng cao chất lượng cuộc sống cả về vật chất và tinh thần. Chính vì vậy, bên cạnh thực hiện HĐH kinh tế cần chú trọng đến cả mặt xã hội, xem những sản phẩm hiện đại làm ra có được người tiêu dùng tiếp nhận và hài lòng hay không, muốn như vậy, thì con người cũng cần hiện đại theo nền kinh tế, đó là hai mặt của một vấn đề, nó liên quan chặt chẽ đến nhau. Hơn nữa, hiện đại hoá xã hội còn bao gồm các thủ tục, các cơ sở vật chất, cũng như các hoạt hàng ngày của xã hội, nó cũng cần phải hiện đại, như là một yêu cầu của quá trình công nghiệp hóa, ví dụ như thủ tục hành chính cần gọn nhẹ, hiện đại, tránh phiền phức,…cơ sở vật chất hạ tầng cũng cần hiện đại để đáp ứng kịp sự phát triển của nhân tố kinh tế. Đồng thời, sự phát triển kinh tế tự nó sẽ mang đến sự hiện đại cho xã hội như là một tác động tất yếu. 7. Kết hợp HĐH kinh tế với ổn định chính trị Chính trị và kinh tế bấy lâu nay vốn có một mối quan hệ chặt chẽ. Chính trị bao gồm nhiều mặt của quan hệ xã hội, trong các quan hệ ấy, chính sách kinh tế là quan trọng hơn cả. Tính chính trị trong các hoạt động kinh tế,đó là sự tính toán một cách toàn diện các yếu tố đã hình thành và xu hướng phát triển của nền kinh tế, tình hình chính trị quốc gia và quốc tế. Hơn nữa, tính chính trị trong lĩnh vực kinh tế còn có ý nghĩa là tuân theo sự quản lý thống nhất của nhà nước về các hoạt động này. Tính thống nhất trong quản lý đối với hoạt động kinh tế được thể hiện ở chỗ, chính phủ là người duy nhất được ban hành các chính sách để định hướng phát triển nền kinh tế, chính phủ thực hiện các chức năng của mình qua các cơ quan chủ quản. Như vậy, chính trị có ổn định, có hoàn thiện thì nền kinh tế mới vận hành một cách hoàn hảo, hoạt động hợp tác đầu tư giữa các nước mới diễn ra thuận lợi.Trong các hoạt động kinh tế, các chính phủ cũng như các doanh nghiệp không chỉ quan tâm đến kết quả kinh tế mà cả các kết quả chính trị. Ví dụ như trong hoạt động đầu tư, nếu một quốc gia có chế độ chính tri ít biến động, có những chính sách thuận lợi, thì tất nhiên các nhà đầu tư sẽ có thiện cảm hơn trong quyết định đầu tư của mình. Tính thống nhất giữa kinh tế và chính trị còn được thể hiện ở chỗ giữa những chính sách và các hoạt động kinh tế trong thực tiễn phải vận động cùng chiều, điều đó sẽ tạo sức mạnh cho cả hai, đưa quốc gia phát triển và tham gia tích cực hơn một cách có hiệu quả vào nền kinh tế thế giới. Bởi lợi ích lâu dài và cơ bản của các nước đòi hỏi chúng ta phải mở rộng quan hệ thân thiện với các nước. Và đến lượt nó, sức mạnh của sự phát triển kinh tế là vấn đề cốt lõi của sự vận động về chính trị, an ninh quốc gia.Có thể nói, phát triển kinh tế, ổn định và cải thiện đời sống nhân dân là điều kiện quan trọng nhất của ổn định chính trị. III. HẠN CHẾ TRONG QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN CNH-HĐH VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM DÀNH CHO VIỆT NAM 1. Hạn chế Mặc dù đạt được những thành tựu to lớn trong quá trình CNH-HĐH, nhưng sau hơn 30 năm thực hiện, sự phát triển của các nước Đông Nam á cũng để lộ ra những hạn chế. a. Sự tăng trưởng kinh tế nhanh nhưng chưa bền vững. Như đã trình bày, nền kinh tế các nước ASEAN đã đạt được tốc độ tăng trưởng thần kì trong hơn 3 thập kỷ sau chiến tranh, nhưng sự phát triển kinh tế thị trường ở một số nước đã dần bộc lộ những hạn chế, bằng chứng là cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ năm 1997. Cuộc khủng hoảng bắt đầu ở Thái Lan, sau đó nó lan tới hầu hết các nước trong khu vực. Cuộc khủng hoảng có những dấu hiệu đầu tiên vào năm 1996, khi mà lạm phát gia tăng, cán cân thanh toán thiếu hụt, chỉ số giá cổ phiếu giảm sút, đầu tư nước ngoài giảm mạnh…Một vài nguyên nhân đã được các nhà kinh tế đưa ra, kinh tế phát triển nhanh nhưng chủ yếu chỉ dựa vào dòng vốn đầu tư gián tiếp ngắn hạn từ bên ngoài, mất cân đối trong cơ cấu đầu tư, chiến lược đẩy mạnh xuất khẩu nhưng chỉ dựa vào một số ít mặt hàng, nợ nước ngoài cũng như nợ quá hạn quá lớn, hệ thống ngân hạng thương mại hoạt động quá nóng và không có hiệu quả, chính sách tỷ giá được duy trì cứng nhắc trong thời gian dài, tình hình chính trị không ổn định, chịu tác động tiêu cực của hoạt động đầu cơ và can thiệp cứu trợ cứng nhắc từ bên ngoài. Cuộc khủng hoảng này đã làm dừng lại sự phát triển huyền thoại trong nhiều thập kỉ của cả khu vực, trong một thời gian, tốc độ tăng trưởng kinh tế giảm sút, đầu tư trực tiếp vào khu vực ASEAN năm 1998 đã giảm hơn 30% so với năm 1997, xuất khẩu giảm mạnh, nợ nước ngoài tăng, thất nghiệp trầm trọng. b. Nền kinh tế hướng về xuất khẩu ngày càng phụ thuộc sâu sắc hơn vào nguồn vốn, công nghệ cũng như thị trường nước ngoài. Các công ty độc quyền nước ngoài đã kiểm soát đã kiểm soát và chi phối nhiều ngành kinh tế then chốt của hầu hết các nước ASEAN. Do nhu cầu vốn để CNH-HĐH, các nước ASEAN5 đã thực hiện chính sách "mở cửa rộng rãi", thu hút đầu tư nước ngoài. Năm 1979, nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài lên tới 9 tỷ đôla, chiếm 45% tổng số vốn đầu tư của các nước này.Thực chất, viện trợ và đầu tư nước ngoài giữ vai trò chủ đạo và có tính chất quyết định đối với sự phát triển kinh tế của các nước ASEAN. Mặc dù đã cố gắng đa dạng hóa thương mại và thị trường, các nước này vẫn phải phụ thuộc nặng nề vào thị trường của một số ít nước công nghệ phát triển nhất, điều đó càng làm cho tính bấp bênh và lệ thuộc tăng lên. Và cuộc khủng hoảng ở khu vực này cuối thập kỷ 90 đã minh chứng cho điều đó, các nước Đông Nam á thực ra đã bị quá gò bó, lệ thuộc quá nhiều vào hệ thống kinh tế thế giới, đến mức không hoặc hầu như không kiểm soát được tác dụng của nó. Hơn nữa khi thị trường thế giới có bất kỳ một biến động gì dù là rất nhỏ thì thị trường này cũng sẽ bị ảnh hưởng. c. Nhiều nước ASEAN đang đứng trước những vấn đề kinh tế- xã hội gay gắt: cán cân thương mại và thanh toán thiếu hụt, nợ nước ngoài tăng lên, tình hình chính trị xã hội chưa ổn định. Thiếu hụt trong cán cân thương mại ở nhiều nước ASEAN đang có xu hướng tăng lên, nguyên nhân chủ yếu là: trong hệ thống phân công lao động quốc tế, nhiều nước ASEAN chưa thoát khỏi tình trạng chuyên sản xuất và xuất khẩu nguyên liệu, nông lâm sản, hơn nữa việc sản xuất lại phụ thuộc phần lớn vào công nghệ nước ngoài và giá cả của những nguyên liệu, nông lâm sản này lại rất bấp bênh trên thị trường thế giới; do khủng hoảng năng lượng, lạm phát, khủng hoảng kinh tế thế giới, nhiều nước phát triển trên thực hiện bảo hộ mậu dịch và cắt giảm nhập khẩu; chịu ảnh hưởng của việc buôn bán bất bình đẳng do sự độc quyền của các công ty xuyên quốc gia trên thị trường thế giới. Hơn nữa, nợ nước ngoài ngày càng tăng là một gánh nặng đối với nền kinh tế các nước ASEAN. Lương thực vẫn đang là vấn đề gay gắt. Mặc dù đã có bước phát triển đáng kể trong sản xuất lương thực, nhưng một số nước ASEAN vẫn phải nhập khẩu lương thực. ở nhiều nước Đông Nam á, sự phân hoá giàu nghèo đang ngày càng gay gắt, nạn thất nghiệp tăng, tình hình chính trị xã hội ổn định. d. Sự suy giảm tài nguyên và tình trạng mất cân bằng sinh thái. Trong quá trình phát triển kinh tế, nhiều nước ASEAN trước đây chưa coi trọng đúng mức việc duy trì và phát triển nguồn tài nguyên thiên nhiên của mình, đặc biệt là rừng đang cạn kiệt nhanh chóng. Trong hai thập niên gần đây, ở Malayxia và Thái lan, mỗi năm mất khoảng một triệu ha rừng. Điều đó đã gây nên tình trạng mất cân bằng sinh thái nghiêm trọng của toàn bộ khu vực. Quá trình CNH-HĐH ở một số nước ASEAN còn gây nên tình trạng ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Đó là những vấn đề bức xúc mà cần phải tiếp tục giải quyết được để đạt được sự phát triển bền vững. e. Với trình độ phát triển kinh tế không đồng nhất, việc thúc đẩy hợp tác và hội nhập khu vực theo tầm nhìn ASEAN 2020 đang là một thức to lớn. Trong tổ chức ASEAN, bên cạnh nhóm các nước giàu hơn như Brunei, Sinhgapo, Malayxia, Thái lan,…là nhóm các nước nghèo gồm Việt nam, Lào, Campuchia…Khoảng cách này khiến cho sự hợp tác phát triển của các nước này diễn ra gặp nhiều khó khăn. Vì vậy, việc xây dựng ASEAN nhanh chóng thành một chỉnh thể liên kết kinh tế đầy đủ, một khu vực kinh tế ASEAN thịnh vượng và có khả năng cạnh tranh cao đang gặp rất nhiều khó khăn. 2. Một số bài học cho quá trình CNH-HĐH ở Việt Nam Nghiên cứu quá trình phát triển kinh tế của các nước ASEAN, ta có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm có tính phổ biến sau đây: a. Kinh nghiệm chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ một nền kinh tế nông nghiệp sang kinh tế công nghiệp. Hầu hết các nước ASEAN đều bắt đầu CNH từ nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, công nghiệp chủ yếu là khai khoáng và sơ chế nguyên liệu. Để tiến hành CNH các nước đã phải chuyển đổi cơ cấu kinh tế từ chủ yếu dựa vào nông nghiệp sang cơ cấu kinh tế đa dạng hơn chú trọng phát triển các ngành có lợi thế về tài nguyên, sử dụng nhiều lao động, sản xuất hàng xuất khẩu trong giai đoạn đầu. Bước tiếp theo, trong khi vẫn tiếp tục duy trì các ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động dần chuyển sang phát triển một số ngành công nghiệp có hàm lượng chất xám cao như điện tử, máy tính, hoá dầu… Nhờ đó, cơ cấu kinh tế mới có sự chuyển dịch nhanh chóng theo hướng CNH-HĐH. b. Kinh nghiệm thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) Đối với các nước ASEAN, nguồn vốn trong nước còn hạn chế, FDI có vai trò đặc biệt quan trọng, vì vậy cần phải thực hiện chính sách hấp dẫn có hiệu quả để thu hút FDI. Đó là đa dạng hoá các hình thức đầu tư, mới dần các quy định về lĩnh vực đầu tư cho người nước ngoài vào những ngành mà trước đây bị cấm. Cho phép các công ty nước ngoài được sở hữu 100% vốn, Nhà nước thành lập các khu mậu dịch tự do để thu hút FDI. Đặc biệt phải tạo được môi trường kinh doanh ổn định. c. Vai trò điều tiết của Nhà nước Nhà nước có vai trò cực kỳ quan trọng đối với sự phát triển kinh tế. Nhưng sẽ là không hiệu quả nếu Nhà nước can thiệp quá sâu vào hoạt động kinh tế của các doanh nghiệp. Điều tiết của Nhà nước nên tập trung vào các nội dung chủ yếu sau: - Hoạch định chiến lược và các kế hoạch phát triển kinh tế xã hội. - Tạo môi trường kinh doanh ổn định, thuận lợi cho tư bản trong và ngoài nước bao gồm: môi trường pháp lý, môi trường tài chính tiền tệ, môi trường chính trị… - Xây dựng cơ sở hạ tầng bao gồm cả hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội. - Thực hiện quan hệ kinh tế đối ngoại, tìm kiếm thị trường, phối hợp các chính sách kinh tế và chính sách xã hội một cách hợp lý và hiệu quả. c. Tăng cường mở rộng hợp tác, liên kết kinh tế giữa các nước trong khu vực và hội nhập kinh tế quốc tế. Đó là một trong những nhân tố thúc đẩy sự phát triển kinh tế. Bên cạnh sự hợp tác trong nội bộ khối các nước ASEAN, cần mở rộng những hình thức hợp tác kinh tế mới ví dụ như ASEAN- Trung Quốc, ASEAN- Nhật Bản,… Chuẩn bị những điều kiện cần thiết để bắt kịp xu hướng toàn cầu hoá kinh tế. d. Phát triển kinh tế bền vững, hạn chế tối đa những mặt trái của kinh tế thị trường. Bài học của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ vừa qua ở các nước đã cho thấy rằng để đạt được sự phát triển bền vững, các nền kinh tế đang phát triển cần phải chú ý một số vấn đề như: tăng trưởng trước hết và chủ yếu dựa vào nội lực, đa dạng hoá thị trường và mặt hàng xuất khẩu, nâng cao năng lực và vai trò quản lý vĩ mô của Nhà nước, tăng cường đào tạo cán bộ, tăng trưởng gắn liền với công bằng xã hội và bảo vệ môi trường sinh thái… KẾT LUẬN Bài tiểu luận trình bày về con đường mà các nước ASEAN đã đi qua và con đường phát triển mà nó để lại cũng như những bài học quý giá có thể áp dụng vào thực tế Việt Nam. Đứng trước bao thách thức của quá trình hội nhập và phát triển kinh tế, những bài học đó thực sự có ích cho chúng ta trong quá trình xây dựng CNXH, tránh được những sai lầm, hạn chế mà các nước đã gặp phải; tiến hành xây dựng một nền kinh tế ngày càng hoàn thiện hơn. Trong quá trình viết tiểu luận, do những hạn chế về nhận thức nên sẽ không tránh khỏi những sai sót. Tác giả bài viết rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của thầy giáo cũng như bạn đọc. Tôi xin chân thành cảm ơn. TÀI LIỆU THAM KHẢO - Lịch sử kinh tế _ GS. Nguyễn Trí Dĩnh và PGS - TS Phạm Thị Quý _ Đại học Kinh tế quốc dân. - Giáo trình kinh tế ngoại thương _ GS - TS Bùi Xuân Lưu _ Đại học Ngoại thương. - Kinh tế chính trị học II _ Đại học Kinh tế quốc dân. - Quan điểm của Đảng về tiến trình CNH- HĐH _ Nhà xuất bản Sự thật 1995. - Tạp chí nghiên cứu Đông Nam Á MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLSDOCS (87).doc
Tài liệu liên quan