Đề tài Đánh giá thực trạng công tác theo dõi đánh giá tình hình thực hiện kinh tế xã hội 5 năm tỉnh Hòa Bình giai đoạn 2006 - 2010

Theo dõi và Đánh giá trong khuôn khổ Quản lý vì Các kết quả phát triển. Quản lý vì các kết quả phát triển (QLKQPT) là một sáng kiến có lồng ghép nhiều khía cạnh. Sáng kiến được đưa ra nhằm mục đích thúc đẩy quan hệ đối tác phát triển toàn cầu có hiệu quả hơn và định hướng theo kết quả hơn, sử dụng nhiều công cụ quản lý hiệu quả hoạt động thực tiễn. Nó phản ánh sự đồng thuận giữa các đối tác về tầm quan trọng của quản lý hiệu quả trong viện trợ phát triển quốc tế, dựa trên kinh nghiệm quản lý hành chính công trong hơn 30 năm qua. Quản lý dựa trên kết quả được xem là một công cụ quan trọng để nâng cao chất lượng cũng như tác động của các nỗ lực phát triển.

doc72 trang | Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1005 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đánh giá thực trạng công tác theo dõi đánh giá tình hình thực hiện kinh tế xã hội 5 năm tỉnh Hòa Bình giai đoạn 2006 - 2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tra chất lượng thông tin. Thu thập số liệu được tiến hành chủ yếu tại các cơ sở trên địa bàn tỉnh. Ví dụ như dịch vụ thủy nông và năng suất có thể do nông dân tự thực hiện hoặc do cán bộ khuyến nông tiến hành. Điều tra thu thập số liệu có thể phải cần đến các phương pháp thu thập số liệu tinh vi hơn, vì thế có thể phải cần đến các chuuyên gia kinh tế nông nghiệp, do đó có thể chỉ cần tiến hành công tác này một lần cho cả dự án. Kinh phí cho việc thu thập số liệu cũng phải xác định rõ và cần phân bổ nếu không các hoạt động không thể thực hiện được. Nhưng thực sự những kinh phí đó phải do những người thực sự quan tâm và sử dụng những số liệu cụ thể được thu thập này cung cấp. Kết quả phục vụ nhờ hệ thống thủy nông là mối quan tâm lớn nhất đối với người quản lý hệ thống thủy nông này nên họ sẽ rất sẵn sang và cần mẫn với việc theo dõi hệ thống thủy nông đó. Việc theo dõi năng suất lúa có thể được coi là việc của những bà con nông dân, và cả các cơ quan khuyến nông nhưng việc cung cấp kinh phí hỗ trợ cho công tác theo dõi năng suất lúa có thể do họ chịu trách nhiệm trực tiếp, tuy nhiên nghiên cứu về thu thập của các hộ nông dân và việc xóa đói giảm nghèo có thể là mối quan tâm rất lớn đối với cơ quan, hay đơn vị đề xuất dự án. Vì thế các cơ quan đơn vị này sẽ cấp kinh phí cho hoạt động nghiện cứu tìm hiểu những thông tin này, nếu không các tổ chức hay hợp tác xã nông nghiệp khó lòng thực hiện hoạt dộng đó. Bản thân tôi cũng được tham gia làm báo cáo tháng về tình hình kinh tế xã hội của tỉnh cho Sở Kế hoạch đầu tư, tuy chỉ làm có 2 báo cáo liên quan nhưng tôi nhận thấy có rất nhiều vấn đề “khó khăn” để có thể làm một báo cáo tháng. Bắt đầu từ việc thu thập thông tin từ các Sở ngành, vì báo cáo hàng tháng phải nộp trước ngày 25 hàng tháng nên việc thu thập thông tin là rất khó, gần sát hạn nộp báo cáo 1 ngày hoặc đến ngày 25 mới thu thập được các số liệu để làm báo cáo, nhưng việc thu thập về Sở Kế hoạch cho kịp tiến độ phải do người làm báo cáo đi từng Sở để lấy, vì nếu đợi các báo cáo mà các Sở gửi lên thì đến tay người thực hiện nhiệm vụ báo cáo là đầu tháng sau mới nhận được. Việc thu thập thông tin của các Sở như Sở Nông nghiệp và PTNT và Cục Thống Kế đến hết ngày 12 hàng tháng, các số liệu mà Sở NN và Cục TK đều được thu thập từ các huyện báo cáo lên theo chỉ tiêu từng ngành, nhưng nhiều chỉ tiêu của 2 bên rất trùng khớp nhưng không trùng khớp về con số. Vì thế khi nhận được thông tin số liệu của 2 bên thì người làm báo cáo tháng tổng hợp lại, lại phải “ Xào xáo” để có một con số đẹp cho vừa ý cấp trên chứ không biết được thực tế con số nào là chính xác. Đối với Sở Công Thương và Sở Tài Chính cũng vậy, nếu đem so sánh với các số liệu của các Sở với Cục TK thì không có số liệu nào trùng khớp với số liệu nào, trong khi Cục Tk được chuẩn hóa về nội dung, phương pháp trong toàn quốc và được niên giám cẩn thận nhưng hầu như nếu lấy số liệu lại lấy từ các Sở ngành ít sử dụng số liệu của Cục TK, các số liệu thông tin từ Cục TK chỉ mang tính chất tham khảo. Thực chất nếu sử dụng số liệu của Cục TK thì cũng có nhiều khó khăn vì các mẫu biểu báo cáo chỉ tiêu của TK không phản ánh đủ nội dung mà báo cáo theo dõi KH yêu cầu. Vì thế nếu các chỉ tiêu nào mà Cục TK cao hơn các Sở ngành thì vẫn sử dụng, và ngược lại. Việc các số liệu không chính xác, không trùng khớp đã gây khó khăn cho người làm báo cáo, lại thêm sức ép của cấp trên về vấn đề “ chính trị” nên người làm công tác theo dõi, đánh giá nói chung sẽ gặp rất nhiều áp lực( cho dù họ có được đào tạo cơ bản đến đâu), tình hình theo dõi đánh giá của tỉnh sẽ còn nhiều ” khó khăn “. 2. Năng lực các cấp trong theo dõi, đánh giá 2.1.Về tổ chức bộ máy chính quyền Công tác theo dõi là một quy trình liên tục sự thay đổi các mục tiiêu, chỉ tiêu kế hoạch từ thực trạng ban đầu do những cơ quan có liên quan thực hiện. Các cơ quan hữu quan có liên quan đến quy trình theo dõi đánh giá thực hiện Kế hoạch là: Quốc hội, hội đồng nhân dân các cấp Sở Kế hoạch đầu tư, và các phòng ban ở các Sở ngành và các địa phương trên địa bàn tỉnh. Cục thống kê Hệ thống kiểm toán, kế toán Hiện nay ở tỉnh Hòa Bình , sở Kế hoạch và đầu tư là cơ quan đầu mối lập và TD ĐG tình hình thực hiện kế hoạch của toàn tỉnh, các sở ban ngành của tỉnh có các phòng kế hoạch cấp huyện có phòng tài chính kế hoạch, cấp xã giao cho văn phòng ủy ban chịu trách nhiệm TD ĐG. Do kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội 5 năm 2006- 2010 của tỉnh được cụ thể hóa trong bước đi là kế hoạch hàng năm. Kế hoạch 5 năm được báo cáo giám sát, đánh giá theo từng năm giữa kỳ và khi kỳ kết thúc kế hoạch. Các kế hoạch hàng năm được đánh giá theo tháng quý, 6 tháng và kết thúc năm. Cả hai quá trình theo dõi và đánh giá đều cần đựoc xác định rõ cơ quan chịu trách nhiệm phối hợp. Quá trình đánh giá thực hiện kế hoạch bao gồm hai quá trình là: Thu thập tổng hợp số liệu nghiên cứu phân tích và đánh giá Để đánh giá có chất lượng cao cần phải phối kết hợp chặt chẽ cả hai quá trình trên và cử ra một cơ quan chịu trách nhiệm điều phối và cơ quan thường trực. UBND sẽ là cơ quan điều phối cả hai quá trình này, trong đó: Điều tra thu thập thông tin sẽ do Cục Thống kê chủ trì Phân tích đánh giá sẽ do các cơ quan như sở Kế hoạch và đầu tư và các sở ngành có liên quan, các huyện cùng cục TK thực hiện Các mục tiêu trong bản kế hoạch còn chung chung, không rõ ràng. Các nguồn số liệu từ 2 nguồn kể trên mâu thuẫn nhau, các số liệu luôn không trùng khớp nên khó có thể tổng hợp lại những con số như thực tế vốn có. Các báo cáo mang nặng tính hình thức, chạy đua theo thành tích, các con số được tô đẹp được mang lý do vì “ chính trị ” của các cấp lãnh đạo, quản lý không phản ánh đúng thực tế. Năng lực tổ chức và trình độ cán bộ còn yếu kém chưa thể đảm bảo việc theo dõi đánh giá dựa trên kết quả của tỉnh. Và dù các cán bộ có trình độ nhưng do các số liệu không trùng khớp như trên thì rất khó có thể tính toán, theo dõi và để đưa ra những đánh giá chính xác. Công nghệ, nguồn tài chính, hệ thống dữ liệu, kỹ thuật quản lý của địa phương chưa đủ điều kiện để áp dụng hệ thống theo dõi, đánh giá, vì ngoài việc xác định thời gian thực hiện TD ĐG, và xác định thành viên tham gia TD ĐG thì các mục dự trù ngân sách bao gồm rất nhiều khoản khác để có thể thực hiện được việc TD ĐG như: Chi phí thu thập dữ liệu điều tra Chi phí tiền lương cán bộ điều tra, TD ĐG Chi phí nhân công hỗ trợ kỹ thuật, cố vấn kỹ thuật, thuê chuyên gia( tiền công và chi phí đi lại) Cập nhật hệ thống thông tin của các đơn vị, các cấp chuyên môn Đầu tư nâng cấp hệ thống thông tin phục vụ việc thu thập số liệu Chi phí đào tạo và nghiên cứu khảo sát để xây dựng năng lực theo dõi đánh giá Chi phí hội họp, tiền phụ cấp cho các đối tượng có liên quan Với những chi phícần phải đầu tư cho nhiều khoản như vậy thì ngân sách của tỉnh dành cho việc TD ĐG còn rất hạn chế. Vì thế có nhiều chỉ số cần thiết nhưng chưa có là do nguyên nhân các chỉ số không có nguồn kinh phí để điều tra nghiên cứu, hoặc do không có trong mục tiêu để theo dõi, đánh giá. Với những điều kiện để xây dựng một hệ thống theo dõi, đánh giá dựa vào kết quả và thực trạng của Hòa Bình trong việc sử dụng hệ thống theo dõi đánh giá theo phương pháp truyền thống thì việc đổi mới hệ thống TDĐG là rất cần thiết. Nhưng tình trạng thiếu cán bộ có nghiệp vụ cao đang là vấn đề bức thiết của tỉnh hiện nay, các cán bộ có trình độ nghiệp vụ, chuyên môn thì thiếu song lại thường bị luân chuyển nên khó có thể mang lại bước đột phá về chất lượng của việc TD ĐG tình hình thực hiện kế hoạch của tỉnh đã đề ra. Năng lực cán bộ ở cấp huyện, cấp xã rất yếu, cán bộ không có chuyên môn, không được đào tạo, tập huấn, thậm chí còn nhiều cán bộ không được đào tạo qua trường lớp, qua các cấp cao đẳng hay đại học. Ở cấp tỉnh thì đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn nhưng có mức độ vì hầu hết các cán bộ làm kế hoạch lại có chuyên môn khác, chuyên môn về kế hoạch thì không có nên việc cập nhật những chỉ tiêu ,chỉ số để đào tạo còn kém vì vây nhất thiết phải đào tạo về TDĐG. Đội ngũ cán bộ kế hoạch các cấp nên được trang bị kiến thức, kỹ năng, công cụ để có thể thực hiện được công tác TDĐG. Muốn vậy, cần kết hợp giữa các hình thức đào tạo, tập huấn truyền thống với việc hướng dẫn trực tiếp, có tính chất xây dựng các mô hình lập kế hoạch điểm các cấp để cán bộ có thể trực tiếp quan sát, thực hành và rút kinh nghiệm cũng như tham quan, học hỏi, trao đổi kinh nghiệm với các địa phương khác trong và ngoài nước. Ở cấp huyện, thị, phòng kế hoạch tài chính là cơ quan đầu mối về nghiệp vụ kế hoạch nhưng chỉ có 2-3 cán bộ được bố trí làm kế hoạch nên không đủ khả năng TD ĐG có chất lượng cao theo phương pháp mới. Còn ở cấp huyện do không có chức danh cán bộ kế hoạch nên việc thực hiện công tác TD ĐG do lãnh đạo xã hoặc một vài cán bộ xã có năng lực thường là cán bộ văn phòng- Thống kê của UBND xã kiêm nhiệm. Duy trì lâu dài kết quả nâng cao năng lực của dự án thông qua việc đưa các nội dung tập huấn vào chương trình giảng dạy chính thức của các cơ sở đào tạo cán bộ ở địa phương, qua đó có thể biến việc đào tạo cán bộ kế hoạch trở thành một nhiệm vụ thường xuyên, liên tục của tỉnh, ngay cả khi dự án đã kết thúc. Năng lực làm kế hoạch của cán bộ trực tiếp làm công tác theo dõi đánh giá ở các cấp, các ngành rất yếu, thiếu nhãn quan tổng hợp. Đội ngũ xán bộ công chức được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau, chủ yếu được đào tạo thời kỳ thực hiện cơ chế tập chung bao cấp, rất nhiều người được phân công vị trí công việc khác với chuyên môn được đào tạo, ít được trang bị kiến thức về chuyên môn nghiệp vụ về kế hoạch, đặc biệt chưa đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn theo chức danh cũng như vị trí được đảm nhân, phần nhiều là làm theo kinh nghiệm và năng lực thực tiến. Mặt bằng về trình độ của công chức không đồng đều, kể cả về chất lượng và cơ cấu, nhiều mặt chưa ngang tầm với đòi hỏi của thời buổi kinh tế thị trường như hiện nay. 2.2. Về tình hình cán bộ Về số lượng cán bộ công nhân viên chức của Hoà Bình được thống kê đến ngày 31/12/ 2004 tổng cán bộ, công chức trong bộ máy chính quyền Đảng, Đoàn thể các cấp là 23.280 người. Trong đó: Cán bộ công chức trong các cơ quan Đảng, Đoàn thể: 1.055 người Cán bộ, công chức trong cơ quan hành chính, sự nghiệp: 18.129 người Cán bộ cơ sở: 3.963 người. Cán bộ quản lý Doanh nghiệp: 133 người Về chất lượng công chức của toàn tỉnh thì: 4.519 cán bộ có trình độ chuyên môn đại học trở lên là loại A, theo Nghị định 116/2003/NĐ-CP ngày 10/10/2003, Nghị định 117/2003/NĐ-CP ngày 10/10/2003 của Chính phủ quy định, chiếm tỷ lệ 19,1%; 14.055 cán bộ công chức có trình độ chuyên môn Cao đẳng, trung cấp loại B, theo Nghị định 116/2003/NĐ-CP ngày 10/10/2003, Nghị định 117/2003/NĐ-CP ngày 10/10/2003 của Chính phủ quy định, chiếm tỷ lệ 60,6%; 4.706 cán bộ, công chức có trình độ chuyên môn dưới trung cấp hoặc chưa qua đào tạo là loại C, theo theo Nghị định 116/2003/NĐ-CP ngày 10/10/2003, Nghị định 117/2003/NĐ-CP ngày 10/10/2003 của Chính phủ quy định, chiếm tỷ lệ 26,1%; Trong đó: Loại A % của A Loại B % của B Loại C % của C KV h/c Nhà nước 3.890 Người 21,4% 12.952 Người 71,4% 1.287 Người 7,1% Khu Vực Sự nghiệp 492 Người 46,6% 404 Người 38,3% 159 Người 15,1% Cán bộ Cơ sở (Trình độ Văn hóa) 37 Người TĐ cấp 1 0,9% 1.777 Người TĐ cấp 2 44,8% 2.149 Người TĐ cấp 3 54,2% Cán bộ cơ sở ( trình độ Chuyên Môn) 39 người 1% 664 người 16,7% 3.260 Người (TĐ sơ Cấp hoặc Chưa qua Đào tạo) 82,2% Nguồn: Kỷ yếu HĐND tỉnh Hòa Bình-kỳ họp 5. Khóa XIV nhiệm kỳ 2004-2009 Số liệu trên cho thấy đội ngũ cán bộ, công chức trong cơ quan hành chính, sự nghiệp của tỉnh Hòa Bình, xét về ssố lượng tuy đông nhưng chất lượng và cơ cấu còn nhiều mắt chưa ngang tầm với yêu cầu đòi hỏi của thời kỳ đổi mới như hiện nay. 2.3. Nguyên nhân hạn chế và yếu kém Bước vào thời kỳ đổi mới chúng ta chưa xây dựng mục tiêu, chiến lược công chức phù hợp với xu thế phát triển của giai đoạn, trình độ hiểu biết của đội ngũ cán bộ công chức chưa sâu, rộng so với yêu cầu thực tiến đòi hỏi, nhất là trong giai đoạn hiện nay đội ngũ công chức đang đứng trước thách thức mới của xu thế hội nhập, nền kinh tế tri thức và sự phát triển kỹ thuật, công nghệ như hiện nay. Từ việc chưa xác định mục tiêu tổng thể về chiến lược cán bộ, công chức dẫn đến chưa xác định được lộ trình thực hiện, từ việc quy hoạch đào tạo cán bộ, công chức chưa khoa học đến việc phân bổ và sử dụng còn mang tính chủ quan, áp đặt, chắp vá, có biểu hiện nể nang, cục bộ, khép kín...chưa gắn yêu cầu tiêu chuẩn vào quy hoạch sử dụng Chất lượng đào tạo cán bộ, bồi dưỡng chưa cao Hòa Bình là một tỉnh miền núi còn nhiều khó khăn về cơ sở vật chất, lương thu nhập còn thấp, xét về mặt địa lý lại rất gần thủ đô Hà Nội và các tỉnh đồng bằng có điều kiện phát triển kinh tế hơn, cán bộ , công chức đã được đào tạo, bồi dưỡng cơ bản, có kinh nghiệm trong thực tiễn nhất là các cán bộ công chức có trình độ cao có xu hướng chuyển đến vùng có điều kiện thuận lợi hơn. Từ những lý do trên có ảnh hưởng đến việc nâng cao chất lượng, công tác quy hoạch, cơ cấu chuyên môn của đội ngũ cán bộ, công chức hiện tại. Hộp 3: Ý kiến về tình hình theo dõi đánh giá các dự án ODA trên địa bàn tỉnh Hòa Bình Để quản lý, sử dụng, theo dõi, giám sát và báo cáo tình hình thực hiện nguồn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) trên địa bàn tỉnh Hòa Bình nói riêng và trên địa bàn cả nước nói chung thực hiện theo Nghị định số 131/2006/NĐ-CP ngày 09 tháng 11 năm 2006 của Thủ tướng Chính phủ Ban hành Quy chế quản lý và sử dụng Nguồn hỗ trợ phát triển chính thức và Quyết định số 803/2007/QĐ-BKH ngày 30 tháng 7 năm 2007 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư về chế độ báo cáo tình hình thực hiện các chương trình, dự án ODA. Một số dự án trọng điểm, dự án chậm tiến độ ngoài việc theo dõi giám sát qua báo cáo của các chủ đầu tư Sở Kế hoạch và Đầu tư (cơ quan đầu mối về ODA) thường xuyên tổ chức tham quan thực địa dự án để kịp thời nắm bắt và thúc đẩy triển khai dự án một cách hiệu quả, đúng tiến độ. Nhưng nhìn chung việc theo dõi, giám sát và quản lý ODA trên địa bàn còn gặp nhiều khó khăn, tồn tại như: - Một số Chủ đầu tư, BQL dự án chưa quan tâm đến việc nâng cao trình độ quản lý dự án, không tham dự các buổi tập huấn, trong trường hợp tham dự cử cán bộ tham gia tập huấn là những cán bộ không trực tiếp làm công tác theo dõi, đánh giá, giám sát và báo cáo ODA đi tập huấn do tỉnh, trung ương tổ chức về việc thực hiện báo cáo theo quyết định 803/2007/QĐ-BKH ngày 30 tháng 7 năm 2007. do vậy không nắm bắt được công cụ quản lý, theo dõi, đánh giá và báo cáo thống nhất (AMT) trong quyết định 803 để làm báo cáo cơ quan chủ quản. - Các Chủ đầu tư, Ban quản lý dự án vẫn còn lúng túng, chưa nghiêm túc trong việc thực hiện chế độ báo cáo theo quy định ban hành kèm theo Quyết định số 803/2007/QĐ-BKH ngày 30 tháng 7 năm 2007 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Thường xuyên báo cáo thiếu thông tin, báo cáo chậm, thậm chí không báo cáo mặc dù Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Sở Kế hoạch và Đầu tư thường xuyên đôn đốc, phát hành văn bản hướng dẫn và yêu cầu báo cáo. Do đó, việc theo dõi, giám sát, đánh giá và tổng hợp báo cáo Uỷ ban nhân dân tỉnh, Bộ Kế hoạch và Đầu tư gặp rất nhiều khó khăn. Ngoài ra sự phối hợp giữa các chủ đầu tư, BQL và cơ quan chủ quản chưa thực sự gắn kết trong việc phối hợp thực hiện dự án trừ khi có vấn đề khó khăn, vướng mắc xẩy ra khi thực hiện thì các Chủ đầu tư, BQL dự án mới chịubáo cáo và phối hợp để tháo gỡ khó khăn do vậy rất khó để phòng ngừa, giải quyết khó khăn, vướng mắc trước khi có thể xẩy ra. Nguồn: Đại diện của phòng Hợp tác đầu tư và tiếp nhân viện trợ nước ngoài- Sở Kế hoạch và đầu tư- tỉnh Hòa Bình Tỉnh HB xác định ODA là một nguồn lực quan trọng, chỉ đạo sát sao quản lý và sử dụng ODA nhằm phát huy được mức cao nhất hiệu quả nguồn vốn này và phòng tránh những hiệu quả tiêu cực có thể. Việc sử dụng ODA ở Hòa bình trong thời gian qua được đánh giá là có hiệu quả. Một trong những nguyên nhân góp phần vào việc sử dụng vốn ODA có hiệu quả là công tác theo dõi và đánh giá các chương trình, dự án ODA đã được đặt ra và đạt được kết quả quan trọng; song cũng còn tồn tại nhiều bất cập và yếu kém, chưa hỗ trợ tích cực cho công tác quản lý sử dụng vốn ODA để có thể đạt được hiệu quả như mong muốn. Những kết quả trong công tác theo dõi và đánh giá ODA: Thứ nhất, công tác theo dõi và đánh giá các chương trình, dự án ODA đã từng bước được thể chế hoá và hoàn thiện thông qua các Nghị định của Chính phủ về quản lý và sử dụng nguồn vốn ODA. Khung khổ pháp lý về quản lý và sử dụng ODA đã được hình thành và thường xuyên được bổ sung, sửa đổi phù hợp với các văn bản pháp quy hiện hành của Nhà nước. Trong vòng 12 năm (từ năm 1994 đến năm 2006), Chính phủ đã ban hành 4 Nghị định về Quy chế quản lý và sử dụng ODA. Nếu tại Nghị định đầu tiên của Chính phủ về Quy chế quản lý và sử dụng ODA - Nghị định số 20/CP ngày 15 tháng 3 năm 1994 - chỉ có một điều quy định Thủ trưởng các Bộ, ngành và địa phương và cơ quan Trung ương của các đoàn thể quần chúng chịu trách nhiệm trước Chính phủ về việc kiểm tra giám sát việc tiếp nhận và sử dụng ODA, thì tại Nghị định số 87/CP ngày 05/8/1997 đã quy định chế độ báo cáo ODA đối với các cấp, cũng như trách nhiệm của các Bộ, ngành trong công tác theo dõi, kiểm tra tình hình thực hiện dự án, xử lý các vấn đề liên quan thuộc thẩm quyền và kiến nghị Thủ tướng Chính phủ xem xét và xử lý những vấn đề liên quan đến chính sách, cơ chế. Nghị định số 17/2001/NĐ-CP và Nghị định số 131/2006/NĐ-CP có cả một Chương riêng về theo dõi và đánh giá chương trình, dự án ODA. Đặc biệt là tại Nghị định số 131/2006/NĐ-CP hiện hành, Chính phủ đã giao cho Bộ Kế hoạch và Đầu tư xây dựng, vận hành và hoàn thiện hệ thống quốc gia về theo dõi và đánh giá các chương trình, dự án ODA; chia sẻ thông tin với các cơ quan liên quan và các nhà tài trợ, khai thác có hiệu quả hệ thống này. Là một bộ phận cấu thành của Thông tư số 04/2007/TT-BKH ngày 30/7/2007 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư hướng dẫn thực hiện Nghị định số 131/2006/NĐ-CP, Bộ truởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã ra Quyết định số 803/2007/QĐ-BKH ngày 30/7/2007 ban hành Chế độ báo cáo và hệ thống mẫu biểu báo cáo tình hình thực hiện chương trình, dự án ODA hài hoà hoá với các nhà tài trợ. Thứ hai, thông qua việc thực hiện thí điểm công tác theo dõi và đánh giá các chương trình, dự án ODA tại 6 Bộ (Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Bộ Giao thông vận tải, Bộ Giáo dục và Đào tạo và Bộ Y tế) và 7 tỉnh, thành phố (Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Bắc Ninh, Nghệ An, Quảng Nam, Quảng Ngãi và Cần Thơ) trong khuôn khổ Dự án “Tăng cường năng lực theo dõi và đánh giá dự án Việt Nam-Ôxtrâylia”-Giai đoạn II (VAMESP II), đã xây dựng được phương pháp và kỹ năng theo dõi và đánh giá và thu được những kinh nghiệm và bài học cần thiết để triển khai công tác theo dõi và đánh giá các chương trình, dự án ODA trên diện rộng, tiến tới xây dựng một hệ thống quốc gia về theo dõi và đánh giá các chương trình, dự án ODA vận hành một cách chuyên nghiệp và ổn định lâu dài. Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã phát hành Cẩm nang Theo dõi và Đánh giá ODA như một tài liệu chuyên môn cung cấp những kiến thức cơ bản về theo dõi và đánh giá ODA cho cán bộ quản lý ODA ở các cấp. Hàng trăm lượt cán bộ các Ban quản lý dự án, cơ quan chủ quản, cơ quan quản lý nhà nước về ODA đã được đào tạo kiến thức cơ bản về theo dõi và đánh giá, thực hành về theo dõi và đánh giá các chương trình, dự án ODA, hướng dẫn sử dụng công cụ theo dõi thống nhất (AMT) và công cụ theo dõi danh mục (PMT). Công tác đánh giá chương trình, dự án ODA trong quá trình thực hiện (đánh giá ban đầu, đánh giá giữa kỳ, đánh giá kết thúc) cũng như đánh giá tác động sau khi dự án hoàn thành (đánh giá sau dự án) và các đánh giá chung (joined evaluation) với các nhà tài trợ bước đầu cũng đã được triển khai, nhất là đối với một số chương trình, dự án có quy mô lớn trong lĩnh vực giao thông vận tải, cấp nước đô thị, điện nông thôn, y tế,... Những cuộc đánh giá này đã cung cấp cho các cơ quan quản lý ODA những hình ảnh toàn diện và chính xác về thực trạng của dự án ở thời điểm đánh giá được đối chiếu với nguyên mẫu theo văn kiện thiết kế dự án đã được phê duyệt cùng với các bài học kinh nghiệm hữu ích và các khuyến nghị đích thực. Đây cũng là cơ hội để đào tạo, chuyển giao kỹ năng đánh giá cho các cán bộ quản lý ODA và các chuyên gia tư vấn trong nước. Công tác theo dõi và đánh giá các chương trình, dự án ODA trong thời gian qua đã từng bước gắn vào hoạt động quản lý dự án, góp phần cải thiện tình hình thực hiện dự án, thúc đẩy giải ngân vốn ODA, nâng cao chất lượng và hiệu quả của hoạt động quản lý, cung cấp các bài học kinh nghiệm có giá trị đối với quá trình vận động, thu hút, quản lý và sử dụng vốn ODA. Thứ ba, quan hệ hợp tác với các nhà tài trợ đã được đẩy mạnh trong lĩnh vực theo dõi và đánh giá các chương trình, dự án ODA thông qua việc thực hiện nhiều sáng kiến như tổ chức các cuộc hội thảo trong nước và quốc tế để trao đổi và chia sẻ kinh nghiệm về kỹ năng theo dõi và đánh giá, thực hiện đánh giá hỗn hợp một số các chương trình, dự án ODA đang thực hiện cũng như đã kết thúc; hài hoà hoá hệ thống báo cáo theo dõi tiến độ thực hiện chương trình, dự án ODA để sử dụng chung giữa các nhà tài trợ và Việt Nam. Thứ tư, trên bình diện toàn cầu, trong khuôn khổ hoạt động của Uỷ ban Hỗ trợ phát triển (DAC) thuộc Tổ chức Hợp tác Kinh tế và Phát triển (OECD) và trên bình diện khu vực, Việt Nam đã tích cực tham gia vào các hoạt động liên quan đến theo dõi và đánh giá các chương trình, dự án ODA nói chung, đánh giá tình hình thực hiện Tuyên bố Pari và Cam kết Hà Nội về hiệu quả viện trợ nói riêng. Những bất cập và yếu kém trong công tác theo dõi và đánh giá ODA: Một là, một hệ thống quốc gia đồng bộ về theo dõi và đánh giá các chương trình, dự án ODA chưa được thiết lập và vận hành trên các nguyên lý, phương pháp luận và thể chế thống nhất. Chức năng, nhiệm vụ và trách nhiệm theo dõi, đánh giá các chương trình, dự án ODA của các cơ quan tham gia vào quá trình quản lý và sử dụng ODA chưa được phân định rõ ràng. Hai là, thiếu một cơ cấu tổ chức có tính hệ thống xuyên suốt từ Trung ương đến cơ sở chuyên trách về theo dõi và và đánh giá các chương trình, dự án ODA với chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm rõ ràng trong việc theo dõi và đánh giá các chương trình, dự án ODA. Ba là, đội ngũ cán bộ làm công tác theo dõi và đánh giá các chương trình, dự án ODA ở các cấp còn thiếu về số lượng, hạn chế về năng lực và kỹ năng chuyên môn, kể cả chuyên gia độc lập về theo dõi và đánh giá dự án. Bốn là, chưa có một cơ sở dữ liệu quốc gia về ODA để phục vụ công tác theo dõi và đánh giá các chương trình, dự án ODA cũng như phục vụ nhu cầu thông tin về nguồn vốn này, kể cả để phản ánh nguồn và sử dụng vốn ODA trong Hệ thống Thống kê quốc gia về tình hình phát triển kinh tế - xã hội. Khung theo dõi và đánh giá chương trình, dự án ODA thời kỳ 2006-2010 Tại Quyết định số 150/2006/QĐ-TTg ngày 23 tháng 6 năm 2006, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện “Chiến lược quốc gia về vay và trả nợ nước ngoài đến năm 2010”, trong đó Thủ tướng Chính phủ giao cho Bộ Kế hoạch và Đầu tư xây dựng “Khung theo dõi và đánh giá các chương trình, dự án ODA thời kỳ 2006-2010” (gọi tắt là Khung theo dõi và đánh giá ODA). Thực hiện nhiệm vụ Thủ tướng Chính phủ giao; trên cơ sở các quy chế hiện hành về quản lý và sử dụng ODA, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã xây dựng và ban hành Khung theo dõi và đánh giá các chương trình, dự án ODA thời kỳ 2006-2010 kèm theo Chương trình hành động thực hiện (Quyết định số 1248/2007/QĐ-BKH ngày 30 tháng 10 năm 2007 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư). Mục tiêu của Khung theo dõi và đánh giá các chương trình, dự án ODA thời kỳ 2006-2010 là xác định những định hướng ưu tiên chiến lược của công tác theo dõi và đánh giá các chương trình, dự án ODA và những hoạt động chủ yếu cần thực hiện để xây dựng, vận hành và hoàn thiện hệ thống quốc gia về theo dõi và đánh giá các chương trình, dự án ODA. Định hướng chiến lược của công tác theo dõi và đánh giá các chương trình, dự án ODA thời kỳ 2006-2010 nhằm xác định các mục tiêu và nội dung có tính chiến lược làm cơ sở để xây dựng và vận hành hệ thống quốc gia về theo dõi và đánh giá các chương trình, dự án ODA trong thời kỳ này và từng bước hỗ trợ phát triển hệ thống theo dõi và đánh giá đầu tư công. Chương trình hành động thực hiện Khung theo dõi và đánh giá các chương trình, dự án ODA thời kỳ 2006-2010 tập trung vào những nội dung ưu tiên xác định trong Định hướng chiến lược nêu trên nhằm xúc tiến trên quy mô toàn quốc việc thiết lập và vận hành hệ thống quốc gia về theo dõi và đánh giá các chương trình, dự án ODA đã được thể chế hoá tại Nghị định 131/2006/NĐ-CP và được cụ thể hoá tại Thông tư số 04/2007/TT-BKH. 3.3. Nhận thức của các bên hữu quan về vai trò của HĐND và UBND các cấp, cũng như các đoàn thể quần chúng trong việc theo dõi, đánh giá “Việc công tác theo dõi, đánh giá thuộc về các ngành chuyên môn là chính nên các bên liên quan chưa hiểu rõ về vai trò của Hội Đồng nhân dân, nhưng thực chất HĐND cũng có đi giám sát, công việc này nằm trong hệ thống Theo dõi, đánh giá”- Ông Nguyễn Ngọc Điệp- SKHĐT- HB. Các cấp HĐND chưa thực sự nắm bắt được nội dung vai trò thực sự của công tác theo dõi đánh giá. Thông tin được thu thập nhiều kênh nên sự thống nhất về số liệu chưa cao, mặt khắc khi có số liệu TD ĐG các cấp lãnh đạo chưa kịp thời có giả pháp và các chính sách giải quyết ngay các vấn đề còn tồn đọng chưa cao. Trong khi hoạt động Theo dõi là một hoạt động quan trọng của HĐND, thực tế cho ta thấy vai trò và hiệu quả của HĐND phụ thuộc chặt chẽ vào hoạt động theo dõi của nó. Trong những năm qua hoạt động theo dõi đánh giá của HHĐND ở tỉnh Hoà Bình theo dõi việc triển khai thực hiện các nghị quyết của HĐND về tình hình KTXH, an ninh quốc phòng ở các cấp. Việc kiểm tra đôn đốc đã được thựuc hiện thường xuyên và ngày càng sâu sát hơn, do đó thường trực HĐND tỉnh đã nắm bắt được những thiếu xót và những vướng mắc của các ngành, các cấp để kịp thời phối hợp chỉ đạo và điều chỉnh cho phù hợp với tình hình thực tế địa phương Tuy nhiên trên thực tế công tác theo dõi, đánh giá của HĐND của tỉnh còn nhiều hạn chế, chưa thực sự đáp ứng được các yêu cầu thực tiễn đặt ra, làm ảnh hưởng đến niềm tin của cử tri và hoạt động của HĐND. Vì vậy HĐND cần thiết phải tăng cường hình thức theo dõi hoạt động kinh tế xã hội, gắn liền với các chỉ tiêu trong bản kế hoạch đã đưa ra, hơn nữa cũng rất cần có đội ngũ cán bộ am hiểu về từng lĩnh vực để tiện theo dõi, đánh giá. HĐND cần lập kế hoạch theo dõi đánh giá, đào tạo bồi dưỡng, nâng cao trình độ, kỹ năng theo dõi đánh giá và những hiểu biết về kinh tế, xã hội. Chương III: Kiến nghị tăng cường công tác theo dõi và đánh giá thực hiện KH 5 năm ở tỉnh Hòa Bình Bối cảnh đổi mới công tác theo dõi, đánh giá nói chung Tỉnh Hòa Bình cũng đã sớm xác định đổi mới công tác lập kế hoạch là một trọng tâm trong công tác cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước tại địa phương. Cụ thể, trong bốn năm qua (2005-2008), với sự hỗ trợ tích cực của một số nhà tài trợ, tỉnh đã thực hiện được một số hoạt động có liên quan đến đổi mới kế hoạch như: tổ chức hàng loạt các đợt tập huấn cho nhiều lượt cán bộ của địa phương, từ cán bộ lãnh đạo HĐND, UBND các cấp (tỉnh/huyện/xã) đến chuyên viên kế hoạch của các bộ phận kế hoạch thuộc Sở Kế hoạch và Đầu tư (KHĐT), Sở Tài chính, các sở ngành cấp tỉnh và các phòng ban một số huyện; tổ chức rà soát, tham vấn KHPT KTXH 5 năm 2006-2010 của tỉnh và kế hoạch hàng năm của một số ngành và huyện, lập kế hoạch thôn/xã theo phương pháp từ dưới lên và có sự tham gia của cộng đồng v.v Tác dụng thiết thực của những hoạt động đó càng chứng minh cho sự cần thiết phải đổi mới triệt để công tác kế hoạch tại địa phương. Bên cạnh đó, với nội dung của Kế hoạch được đổi mới thì công tác theo dõi và đánh giá cũng cần thiết phải đổi mới cho phù hợp với những nhu cầu cần thiết. Thực trạng trên đòi hỏi phải có dự án chuyên sâu tập trung vào vấn đề đổi mới triệt để, toàn diện công tác TDĐG tình tình thực hiện kế hoạch các cấp để khắc phục các yếu kém hiện nay trong hệ thống. Hệ thống theo dõi và đánh giá dựa trên kết quả sẽ khắc phục được những điểm yếu thường thấy trong các hệ thống theo dõi đánh giá trước đây là thiếu những thông tin phản hồi về các kết quả hoặc hậu quả của các hoạt động của Chính phủ hay chính quyền địa phương. Mục đích chính của việc theo dõi đánh giá dựa trên kết quả là nhằm cung cấp thông tin của việc triển khai và thực hiện kế hoạch phát triển. Chúng ta thực hiện việc theo dõi và đánh giá kế hoạch phát triển không chỉ trông chờ các thông tin tốt, mà điều quan trọng là phải phát hiện các vấn đề nảy sinh trong quá trình thực hiện kế hoạch, phát hiện được các vấn đề xấu, hay tốt là một yếu tố hết sức quan trọng, từ đó ta có thể nắm bắt được sự thành công hay thất bại của bản kế hoạch đã đề ra. Nếu không phân biệt được sẽ không biết đâu là kết quả, đâu là thất bại, chính vè thế một hệ thống theo dõi đánh giá hoạt động tốt sẽ giúp cho các nhà quản lý nắm bắt được các vấn đề phát sinh. Cụ thể trong việc báo cáo về công tác theo dõi đánh giá nhằm cung cấp các thông tin tổng hợp và phát hiện được rút ra từ trong hoạt động theo dõi đánh giá. Xu hướng tăng cường phân cấp và nâng cao tính trách nhiệm của chính quyền trong việc tổ chức thực hiện theo dõi và đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch. Để thu hút sự chú ý của người dân và cộng đồng địa phương đối với việc đo lường kết quả hoạt động của bộ máy chính quyền địa phương. Hiện tại chưa có dự án, chương trình hay hoạt động nào trên địa bàn tỉnh nhằm đổi mới công tác theo dõi đánh giá kế hoạch 5 năm Do yêu cầu của hội nhập quốc tế, chính quyền các cấp có nhiệm vụ cải tạo sân chơi bình đẳng cho mọi thành phần kinh tế, cải tạo lại hệ thống theo dõi đánh giá theo phương pháp mới, và có những kế hoạch rõ ràng cho việc theo dõi, đánh giá đó. Lập kế hoạch đánh giá theo dõi cũng cần xác định thời gian theo dõi, đánh giá báo cáo tình hình thực hiện kế hoạch, chương trình, chính sách, dự án, đồng thời quy định rõ các nguồn thông tin và sự phân công các cơ quan, tổ chức chịu trách nhiệm trong từng khâu công việc. Để làm tốt cho khâu lập kế hoạch theo dõi đánh giá, Tỉnh Hòa Bình cần thiết phải lập kế hoạch cho việc tuyên truyền định kỳ trong địa bàn Tỉnh để xem xét các phản ứng và nâng cao nhận thức về sự tham gia hỗ trợ các hoạt động trong việc điều hành kế hoạch phát triển kinh tế xã hội. Vì một vấn đề quan trọng để việc theo dõi, đánh giá theo kết quả có kết quả là phải xem xét các thành phần tham gia, ngoài những người có tham gia vào quá trình lập kế hoạch, điều hành và những người chịu trách nhiệm báo cáo đánh giá các kết quả hoạt động cho lãnh đạo địa phương thì sự tham gia của công đồng dân cư cũng rất quan trọng. Các nhà quản lý của Tỉnh chịu trách nhiệm về thực hiện kế hoạch và chịu trách nhiệm về kết quả theo dõi, đánh giá và báo cáo các kết quả, còn việc tham gia của người dân trong Tỉnh trong quá trình theo dõi, đánh giá đảm bảo tính khách quan, minh bạch và tăng cường hiệu quả của công tác theo dõi, đánh giá. Điều kiện để xây dựng hệ thống theo dõi đánh giá ở tỉnh Hòa Bình Về việc đổi mới công tác theo dõi đánh giá thực hiện kế hoạch kinh tế xã hội. Với những lợi ích của việc theo dõi đánh giá theo phương pháp mới- phương pháp theo dõi đánh giá dựa vào kết quả. Với những lợi ích của hệ thống theo dõi đánh giá dựa vào kết quả được nêu ở phần chương 1 ta thấy hệ thống TDĐG dựa vào kết quả được sử dụng như một công cụ quản lý thiết yếu và hiệu quả cho các cán bộ quản lý khu vực nhà nước. Để xây dựng công tác theo dõi đánh giá KHPT KTXH có hiệu quả, tỉnh Hoà Bình cần có những điều kiện như sau: Cần sự quan tâm chỉ đạo của các cấp Lãnh đạo, phải có sự quyết tâm trong việc đổi mới phương pháp TDĐG và đưa phương pháp mới vào áp dụng trên địa bàn tỉnh. Các nhà lãnh đạo, đứng đầu phải thể hiện sự quyết tâm cao đối với công tác theo dõi đánh giá dựa vào kết quả thì việc triển khai mới có thể đem lại kết quả khả quan. Cần phải rà soát lại năng lực bộ máy và cán bộ so với yêu cầu của công tác theo dõi đánh giá. Từ đó xem xét xem có cần bổ sung các hoạt động nhằm nâng cao năng lực theo dõi, đánh giá không. Có đội ngũ cán bộ có năng lực, hiểu sâu những lợi ích của việc áp dụng phương pháp đánh giá mới. Tạo điều kiện cho các cán bộ thực hiện đi học tập kinh nghiệm tại các nơi đã thực hiện phương pháp mới. Để việc theo dõi, đánh giá được kết quả ngày càng cao phải thu hút được sự quan tâm của người dân và cộng đồng địa phương đối với việc đo lường kết quả hoạt động của chính quyền địa phương vì khi người dân địa phương mong muốn tìm hiểu các thông tin về các kết quả hoạt động địa phương, sẽ đòi hỏi các cơ quan chuyên môn phải có trách nhiệm hơn trong việc thực hiện nhiệm vụ và cung cấp thông tin một cách minh bạch, chính xác. Bố trí nguồn ngân sách để đáp ứng việc điều tra, thu thập số liệu để phân tích đánh giá, phải xem xét đến cả khía cạnh về mặt công nghệ, kỹ thuật quản lý của tỉnh. Trên cơ sở đó để xác định các mức độ từ tiềm lực kinh tế, điểm mạnh điểm yếu của tỉnh, từ đó áp dụng phương pháp theo dõi đánh giá dựa trên kết quả, xây dựng phương pháp thực hiện cụ thể phù hợp với các điều kiện của tỉnh. Về việc báo cáo tiến độ kịp thời, chính xác vì một trọng những nhiệm vụ quan trọng của theo dõi đánh giá là lập báo cáo. Việc báo cáo nhằm cung cấp thông tin tổng hợp và phát hiện được rút ra từ trong hoạt động theo dõi đánh giá. Để nâng cao chất lượng và ý nghĩa thông tin, báo cáo cần phải có sự so sánh số liệu, dữ liệu về kết quả hoạt động của các giai đoạn trước, có thể theo định kỳ: tháng trước, quý trước, năm trước hoặc cùng kỳ năm trước, hoặc kỳ gốc có ý nghĩa so sánh. Việc so sánh dữ liệu là rất quan trọng, nếu chỉ cung cấp số liệu định kỳ hàng tháng, hàng quý hoặc hàng năm sẽ không có nhiều ý nghĩa. Để phân biệt được xu thế và các kết quả, cần phải so sánh với tình trạng ban đầu và các thước đo trung gian để xác định xem những tiến bộ đạt được có bền vững hay không. Về việc thực hiện công tác theo dõi, đánh giá kế hoạch, muốn theo dõi và đánh giá kế hoạch phát triển theo kết quả thì kế hoạch trước hết phải xây dựng theo một cấu trúc rõ ràng hợp lý, từ đó bám sát các mục tiêu kết quả của bản kế hoạch đề ra để thực hiện các mục tiêu như mong muốn. Việc xác định các mục tiêu, chỉ số đầu vào, đầu ra được thực hiện đồng thời với việc xây dựng kế hoạch, nếu việc xây dựng khung theo dõi đánh giá được thực hiện sau khi kế hoạch đã được thông qua, đôi khi có trường hợp là không thực hiện được. do các mục tiêu và các chỉ số trong kế hoạch không phù hợp, không thể đo lường kết quả đầu ra. 3. Phương hướng đổi mới công tác theo dõi đánh gía KH 5 năm ở tỉnh Hòa Bình Đổi mới công tác theo dõi, đánh giá cần phải phù hợp với các quy định hiện hành, các thể chế liên quan Nghiên cứu và xây dựng được một hệ thống các cơ chế cần thiết để đảm bảo tính hiệu lực và tác dụng thực tiễn của hệ thống theo dõi dựa vào kết quả như: cơ chế và trách nhiệm của các bên về phối hợp và cung cấp thông tin, cơ chế phân bổ ngân sách công khai, minh bạch và được biết trước giữa các cấp, cơ chế thu hút sự tham gia của các thành phần kinh tế v.v... trong TDĐG. Xây dựng và ban hành được một hệ thống các văn bản hướng dẫn, sổ tay công tác TDĐG các cấp làm cơ sở thống nhất về quan điểm, cách làm và các kỹ năng, công cụ được áp dụng trong TDĐG dựa trên kết quả Các đối tượng liên quan ở các cấp quản lý chính quyền địa phương phải quan tâm nhiều hơn đến những kết quả đạt được và hiệu quả của mục tiêu đề ra. Sở Kế hoạch và Đầu tư cần thiết phải bố trí cán bộ chuyên trách, theo sát các hoạt động TD ĐG của các huyện, các sở ban ngành để công tác TD ĐG được phối hợp tốt, chia sẻ thông tin và quan trọng là nơi nối kết các hoạt động giữa các đơn vị trên địa bàn tỉnh với nhau một cách nhịp nhàng hơn Bổ sung thêm khung giám sát đánh giá vào bản kế hoạch 5 năm. Sau khi sắp xếp các mục tiêu và chỉ số để hình thành khung theo dõi đánh giá dựa trên kết quả kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của tỉnh. Thông thường các KHPT KTCH ở địa phương có nhiều các mục tiêu khác nhau, nên khung theo dõi đánh giá xây dựng theo chuỗi logic hoặc chuỗi kết quả các chỉ số, chỉ tiêu theo chiều ngang. Bảng 7: KHUNG THEO DÕI VÀ ĐÁNH GIÁ DỰA THEO KẾT QUẢ Chỉ số/ Chỉ tiêu Mục tiêu Đầu vào Đầu ra Kết quả Tác động Mục tiêu tổng thể 1 Mục tiêu Chỉ số/c tiêu Chỉ số/ c tiêu Chỉ số/ c tiêu Chỉ số/ c tiêu chính 1 đầu vào đầu ra kết quả tác động Mục tiêu Chỉ số/ c tiêu Chỉ số/ c tiêu Chỉ số/ c tiêu Chỉ số/ c tiêu cụ thể 1 đầu vào đầu ra kết quả tác động Mục tiêu Chỉ số/ c tiêu Chỉ số/ c tiêu Chỉ số/ c tiêu Chỉ số/ c tiêu cụ thể 2 đầu vào đầu ra kết quả tác động Các địa phương khi xây dựng khung theo dõi và đánh giá không nhất thiết phải thiết kế theo danh mục về chỉ tiêu, chỉ số. Tùy theo vị trí và các lợi thế so sánh, có giá trị truyền thống và triển vọng phát triển mà lựa chọn các mục tiêu quan trọng và đi theo đó là các chỉ số, chỉ tiêu tương ứng để theo dõi đánh giá, phân công trách nhiệm cụ thể từng đơn vị, tăng cường vai trò của HĐND trong hoạt động TD ĐG tình hình thực hiện kế hoạch. Có thể đổi mới từ cấp xã, huyện rồi mới đến cấp tỉnh vì các thông tin được phân cấp từ dưới lên. Tăng cường sự tham gia của người dân đối với những hoạt động nói chung và công tác TD ĐG tình hình thực hiện kế hoạch nói riêng. Khi người dân địa phương mong muốn tìm hiểu các thông tin hiểu các thông tin về các kết quả hoạt động của chính quyền địa phương, sẽ đòi hỏi các cơ quan chuyên môn phải có trách nhiệm hơn trong việc thực hiện nhiệm vụ và cung cấp thông tin một cách chính xác, minh bạch. Nghiên cứu xây dựng cơ chế thiết lập dòng tài chính thường xuyên để phục vụ công tác TD ĐG, thực hiện TD ĐG bản kế hoạch tại các cấp, các đơn vị. Lồng ghép các nội dung về kế hoạch vào chương trình giảng dạy của các trường chuyên ngành tại tỉnh, xây dựng lộ trình để tiến tới thể chế hóa phương pháp TD ĐG kế hoạch tại các đơn vị. 4. Kiến nghị nhằm tăng cường công tác theo dõi, đánh giá thực hiện KH 5 năm tại tỉnh HB Hệ thống theo dõi đánh giá dựa trên kết quả không những chỉ dựa vào đầu ra hay đầu vào nghĩa là việc đánh giá tập chung chí ý đến việc đạt đựợc các kết quả quan trọng của việc thực hiện kế haọch đối với sự phát triển của kinh tế Hòa Bình, từ đó nâng cao đời sống vật chất tinh thần của người dân, xóa đói giảm nghèo, như vậy hệ thống theo dõi đánh giá dựa vào kết quả được sử dụng như một công cụ quản lý rất cần thiết đối với cán bộ lập kế hoạch nói riêng và công tác kế hoạch của tỉnh Hòa Bình nói chung. Để tăng cường công tác theo dõi, đánh giá tình hình thực hiện KH 5 năm tại tỉnh Hòa Bình, trước hết cần phải phân công rõ ai sẽ chịu trách nhiệm thu thập và phân tích thông tin ở từng khâu vào thời gian cụ thể và thực hiện chế độ báo cáo theo định kỳ. Phạm vi đánh giá được xác định rõ ràng bởi việc chỉ rõ vấn đề cần kiểm soát, các khoản chi tiêu cụ thể, thời gian, loại hình của chính sách,kế hoạch, giới hạn địa lý, các chỉ tiêu cũng nhưn các chỉ tiêu khác của các kế hoạch cần được đánh giá. Đối với kế hoạch phát triển của Hòa Bình việc đánh giá cần tập trung vào các mục tiêu quan trọng nhất của tỉnh, các chính sách cũng như các chương trình đã được áp dụng để thực hiện các mục tiêu đó. Để đánh giá có hiệu quả các kế hoạch đặt ra thì cần phải xây dựng một cơ chế đồng bộ, đặc biệt cần một hệ thống chỉ tiêu thống kê phù hợp để hỗ trợ cho công tác theo dõi đánh giá, một cơ chế theo dõi đồng bộ có hiệu quả cần chỉ rõ những câu hỏi như: Các cơ quan hay tổ chức nào thực hiện Các cơ quan cần những thông tin gì để theo dõi? Những đầu ra nào sẽ được cung cấp thường xuyên? Kết quả của tình hình theo dõi, và việc đưa các kết quả theo dõi đó vào quy trình đưa ra các quyết định, các chính sách ra sao? Đối với những mục tiêu trong bản kế hoạch 5 năm phải rõ ràng để định hướng các chương trình, chính sách phù hợp với nguồn lực để đạt được mục tiêu. Theo dõi đánh giá liên tục, các kết quả theo dõi được phản hồi trực tiếp trong kế hoạch, hoặc gây những ảnh hưởng đến nội dung và các phương hướng của kế hoạch trong tương lai, có nghĩa là cần phải phát hiện các nguyên nhân kịp thời để các nhà lãnh đạo xem xét lại nhằm đảm bảo mục tiêu đề ra. Vì vậy trước khi bắt đầu công tác đánh giá thì cần phải có kế hoạch theo dõi, đánh giá rõ ràng, phải xác định thời gian theo dõi, đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch đồng thời quy định rõ nguồn thông tin và sự phân công các cơ quan, tổ chức chịu trách nhiệm. Sau khi thu thập được số liệu tình trạng ban đầu cho các chỉ số, việc xác định các chỉ tiêu cụ thể là rất quan trọng. Trong các bản KH 5 năm thường có sẵn những chỉ tiêu cụ thể như tốc độ tăng trưởng đạt được 12- 14%, tổng mức bán lẻ hàng hóa doanh thu dịch vụ tiêu dùng 2010 đạt 3,754 tỷ đồngtuy nhiên đối với công tác theo dõi đánh giá dựa vào kết quả thì nếu chỉ có các chỉ tiêu cụ thể này thì chưa đủ mà còn cần thiết có những chỉ tiêu kết quả trong đó. Vì vậy khi áp dụng phương pháp mới thì cần phải chỉ tiêu phản ánh kết quả trên cơ sở mức độ tình trạng ban đầu và mức cải thiện mà tỉnh mong muốn. VD như bảng 2 dưới đây về sự khác nhau giữa các chỉ tiêu giữa phương pháp TDĐG cũ và mới trong lĩnh vực giáo dục. Bảng 8: Ví dụ về chỉ tiêu trong 2 phương pháp cũ và mới Phương pháp TDĐG cũ Phương pháp TDĐG mới Đầu vào Đầu ra Đầu vào Đầu ra Đầu tư cho giáo dục Số trường học được xây dựng Số giáo viên được đào tạo Tỷ lệ học sinh đi học tăng Tỷ lệ học sinh trên một lớp giảm Trình độ giáo viên được nâng lên Chất lượng giáo được cải thiện: - tỷ lệ học sinh tốt nghiệp các cấp tăng lên tỷ lệ học sinh tốt nghiệp loại khá tăng Đối với việc tập huấn kiến thức, kỹ năng trong việc theo dõi, đánh giá theo kết quả cho các cán bộ, để đảm bảo cho việc nâng cao năng lực cán bộ, cấp chính quyền thì tỉnh nên tạo điều kiện để khuyến kích cán bộ trong đơn vị và các cấp các ngành được học hỏi các phương pháp quản lý mới, lựa chọn được các cán bộ có trình độ thực hiện công tác theo dõi đánh giá. Việc phân công rõ nhiệm vụ như ở trên cũng sẽ giúp cho việc đào tạo đúng chuyên môn, đúng với những yếu cầu của từng đơn vị cơ quan tại các cấp trong tỉnh. Vì việc áp dụng theo phương pháp TDĐG theo kết quả là một phương pháp mới, lần đầu được sử dụng, chắc chắn sẽ gặp nhiều khó khăn nên việc xây dựng kế hoạch đào tạo cán bộ phải được ưu tiên hàng đầu, là nhiệm vụ quan trọng nhất. Bên cạnh đó ở tỉnh đang có hoạt động của dự án Jica về đổi mới công tác lập kế hoạch, dựa án này cũng mở các lớp tập huấn cho các cán bộ cấp, nếu việc áp dụng TDĐG được tiến hành thì sẽ đỡ hơn nhưng việc đào tạo xong cần phải đưa vào thực tế vì theo dự án đổi mới KH thì các cán bộ mới được đào tạo chứ chưa đưa vào làm thực tế. Việc xây dựng trọng tâm của việc đánh giá cũng rất cần thiết, trước khi tiến hành thu thập số liệu và xây dựng báo cáo đánh giá cuối kỳ và cuối kỳ kế hoạch cần xây dựng những nội dung chủ yếu hay trọng tâm về việc đánh giá để từ đó phân công thu thập số liệu viết báo cáo và phân tích tình hình thựchiện kế hoạch ra sao. Trong các chỉ số trung gian được đưa ra, ngoài việc chú ý đến các chỉ tiêu hoạt động, đầu ra thì phương pháp đánh giá kế hoạch tập trung vào các chỉ số cuối cùng đó là chỉ số kết quả tác động. Hai loại chỉ số này có hai phương pháp thu thập số liệu khác nhau. Điều khác biệt giữa đánh giá kế hoạch truyền thống với đánh giá dựa trên kết quả là đánh giá theo phương pháp truyền thống chủ yếu của xem xét các hoạt động và đầu ra, còn đánh giá dựa vào kết quả là việc đánh giá phải lấy trrọng tâm là các chỉ số tác động nghĩa là xem việc thực hiện các hoạt động kế hoạch, các giải pháp và chính sách mang lại kết quả ra sao, bao nhiêu người dân được hưởng các phúc lợi, và những tiện dụng khac của việc thực hiện jế hoạch mang lại cho nhân dân, và giúp nhân dân cải thiện được cuộc sống cả về vật chất lẫn tinh thần. Trong giảm nghèo cần thiết phải phân tích tính bền vững, tính công bằng xã hội, nghĩa là phải tính đến các chỉ tiêu phản ánh tình trạng công bằng trong phân phối thu nhập. Trong quá trình đánh giá, dù là giữa kỳ hay cuối kỳ kế hoạch thì chúng ta cần phân tích đánh giá theo định lượng vừa quan tâm đánh giá theo định tính, phải lấy ý kiến của người dân về việc tự đánh giá đời sống vật chất tinh thần của họ trong những năm thực hiện kế hoạch vừa qua so voéi trước đó là kém đi, bằng hay tốt hơn so với kỳ trước. Để các kết quả theo dõi và đánh giá được một cách khách quan và chính xác công tác trao đổi thông tin cũng đóng vai trò hết sức quan trọng. Việc trao đổi thông tin các kết quả TDĐG được thực hiện tốt sẽ giúp các đơn vị có đầy đủ các thông tin đa chiều. Từ đó việc điều hành kế hoạch, đưa ra những chính sách sẽ được phối hợp chặt chẽ giữa các đơn vị, các cấp kế hoạch sẽ được thực hiện tốt hơn. Ngoài ra việc trao đổi thông tin với các địa phương khác cũng góp phần xây dựng tốt công tác TDĐG dựa trên kết quả càng ngày càng tốt hơn nhờ việc học tập trao đổi kinh nghiệm, tránh được những vướng mắc nếu có. Việc đánh giá thực hiện kế hoạch giữa kỳ và cuối kỳ là việc làm phải có tính khoa học, khách quan và có sự tham gia của các bên liên quan nhằm khẳng định những mặt được, chưa được trong việc thực hiện các giải pháp, chính sách từ đó đưa ra những bài học kinh nghiệm cần cải tiến cho kỳ kế hoạch sau, nhằm tập trung nguồn lực, giải quyết đúng khâu quan trọng nhằm khắc phục thách thức, tranh thủ thời cơ để kế hoạch đạt được những kết quả tốt đẹp, có hiệu quả cao nhấ, cùng với nguồn lực như vậy nhưng sản xuất tăng trưởng nhanh và tỷ lệ giảm nghèo nhanh và bền vững. Tổ chức tham gia đánh giá được thực hiện theo nguyên tắc là độc lập nghiên cứu nhưng cần thiết phải trao đổi thông tin với nhau nhằm đưa ra sự thống nhất các thông tin, số liệu điều tra và khảo sát. Tùy theo năng lực và tính chuyên nghiệp của các cơ quan, tổ chức để phân công thực hiện các hoạt động của công tác đánh giá như: cơ quan thống kê thực hiện điều tra, cung cấp số liệu và tham gia phân tích đánh giá về tăng trưởng kinh tế bền vững, các vấn đề xã hội, các trường đại học, các viện nghiên cứu, các tổ chức phi chính phủ tham gia đánh giá các mảng về đời sống dân cư, về giáo dục, y tế, bình đẳng giới Việc báo cáo đánh giá là một hoạt động rất cần thiết, vì các báo cáo đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch là một tài liệu rất có ý nghĩa đối với các nhà quản lý, các nhà lập chính sách và đặc biệt là đối với các nhà làm kế hoạch, ngoài ra còn quan trọng đối với những người dân những người trực tiếp đón nhận những thành quả từ sự thành công của công tác kế hoạch. Bởi vậy khi báo cáo đánh giá kế hoạch hoàn thành cần phải đựợc gửi cho các đối tượng sau: UBND HĐND Sở kế hoạch và đầu tư của tỉnh Các cơ quan quản lý điều hành có liên quan của tỉnh Các cơ quan làm nhiệm vụ thanh tra kiểm tra Cung cấp cho thông tin cho người dân Sau khi báo cáo đánh giá đựợc gửi tới các cơ quan hữu quan thì điều quan trọng là phải tổ chức họp các ban ngành có liên quan xây dựng quy trình tiếp thu để đưa những ý kiến, kiến nghị của đánh giá gửi tới các cơ quan liên quan yêu cầu góp ý bằng văn bản sau đó sẽ tổ chức họp và thống nhất các ý kiến đánh giá. Đối với người dân, có thể họp đại diện nhân dân để lấy ý kiến trực tiếp của họ về các vấn đề có liên quan đến cải thiện đời sống dân cư. Thực hiện đầy đủ quy trình đánh giá cũng là một cách để tăng cường sự tham gia của cộng đồng trong khâu thực hiện và giám sát thực hiện kế hoạch Tóm lại , công tác theo dõi đánh giá việc thực hiện kế hoạch 5 năm của tỉnh Hòa Bình giai đoạn 2006- 2010 là một công việc, một nhiệm vụ mới đặt ra rất nhiều khó khăn phúc tạp, cả về kỹ thuật lẫn các yêu cầu sắp xếp về tổ chức kinh phí, nhân sự. Tuy nhiên đó là xu thế không bao giờ đảo ngược để bản kế hoạch lập ra thực sự có ý nghĩa và trở thành một công cụ hết sức hữu ích giúp các cơ quan quản lý nhà nước các cấp huy động được sưc mạnh tổng hợp của địa phương để góp phần thúc đẩy tăng trưởng và giảm nghèo ở Hòa Bình KẾT LUẬN Qua quá trình tìm hiểu thực tế tại tỉnh Hòa Bình tôi nhận thấy được vai trò quan trọng của công tác theo dõi, đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch 5 năm của tỉnh .Càng bước vào một thời kỳ hội nhập như hiện nay thi công tác theo dõi đánh giá theo kết quả càng khẳng định được vai trò của mình. Với những tình hình thực hiện công tác theo dõi đánh giá của Hòa Bình theo phương pháp truyền thống ở trên, và những điều kiện để xây dựng một hệ thống theo dõi đánh giá dựa vào kết quả. Thì việc đổi mới hệ thống theo dõi đánh giá dựa theo kết quả ở Hòa Bình là rất cần thiết. Do tình hình theo dõi đánh giá ở Hòa Bình có những bất cập, nên tôi xin đóng góp một số ý kiến của riêng mình để hoàn thiện công tác theo dõi đánh giá của tỉnh. Một lần nữa tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ tận tình của các thầy giáo, cô giáo đặc biệt là Ths. Vũ Cương đã giúp em hoàn thành bài viết này. Em cũng xin chân thành cảm ơn các cô chú, anh chị tại sở Kế hoạch và đầu tư Hòa Bình đã tạo điều kiện cho em hoàn thành thời gian thực tập của mình./. Tài liệu tham khảo “Kế hoạch phát triển KTXH 5 năm tỉnh Hòa Bình 2006- 2010”, Hòa Bình, tháng 5/2007 “ Bộ tài liệu đào tạo: Lập kế hoạch có tính chiến lược phát triển kinh tế địa phương”, Hà Nội, 2007 “Quyết định 555/2007/ QĐ- BKH ngày 30/05/2007 của Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và đầu tư về ban hành khung theo dõi và đánh giá dựa trên kết quả tình hình thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2006- 2010 ”, 2007. www.worldbank.org/oed/ecd www.mpi.org www.vietbao.vn Mười bước tiến tới hệ thống giám sát và đánh giá dựa trên kết quả” Ngân hàng Thế giới, 2005 Bộ tài liệu đào tạo “Theo dõi và đánh giá dựa trên kết quả kế hoạch phát triển địa phương”, Hà nội, tháng 8 năm 2008

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc1996.doc
Tài liệu liên quan