Đề tài Đấu thầu trong đầu tư xây dựng cơ bản của Việt Nam

Một thực tế là hầu hết các dự án có vốn đầu tư nước ngoài đều do phía nước ngoài đứng ra đầu thầu hoặc chọn nhà thầu từ tư vấn đến thi công xây lắp. Các nhà thầu Việt nam khi được chọn thường chỉ là những nhà thầu phụ, thậm trí phụ của phụ ở những hạng mục công trình khó khăn nhất. Nhà nước đã qui định các dự án đầu tư có vốn nước ngoài phải thực hiện đấu thầu tại Việt nam và các nhà thầu tham dự đấu thầu quốc tế tại Việt nam phải cam kết liên doanh với một nhà thầu Việt nam hoặc sử dụng thầu phụ là các nhà thầu Việt nam nhưng do nguồn gốc của các loại vốn đầu tư phụ thuộc nhiều vào nước ngoài nên việc đấu thầu xây dựng bị chi phối bởi phía nước ngoài. Cụ thể: - Công trình 100 % vốn nước ngoài : chủ đầu tư thường chỉ định thầu của chính nước mình. Riêng công trình thuộc vốn nhà nước của nước ngoài thì đấu thầu tại nước đó và do cơ quan quản lý nguồn vốn của nước đó chủ trì và chỉ gọi thầu các công ty của nước có vốn đầu tư. - Các công trình viện trợ không hoàn lại: nguồn vốn viện trợ không hoàn lại của nước ngoài được nhà nước ta xếp vào nguồn vốn ngân sách nhà nước nhưng việc chi tiêu theo qui định của nước ngoài viển trợ và như vậy các nhà thầu nước đó sẽ nắm lợi thế tuyệt đối để thắng thầu.

doc37 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1434 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đấu thầu trong đầu tư xây dựng cơ bản của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đấu thầu trong đầu tư xây dựng cơ bản của Việt Nam mở đầu Là một trong những ngành kinh tế được Đảng và Nhà nước phân công trách nhiệm việc xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật tạo tiền đề cho các ngành kinh tế xã hội phát triển, ngành xây dựng đã vượt qua khó khăn thử thách để phát triển và trưởng thành, đạt được những thành rựu to lớn. Một trong những lĩnh vực quan trọng hàng đầu mà ngành xây dựng quan tâm là lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản. Chúng ta đã được chứng kiến công tác đầu tư xây dựng cơ bản đã đóng góp to lớn, góp phần tăng trưởng nền kinh tế quốc dân. Hành năm có không ít dự án đầu tư quốc tế đầu tư vào nước ta, công tác đầu tư vào lĩnh vực xây dựng đã tạo cho chúng ta một cơ sở hạ tàng vững chắc, đó là một trong những điều kiện to lớn góp phần thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Để công tác đầu tư xây dựng cơ bản ngày càng hoàn thiện và phát triển, với em hiện nay đang là sinh viên thực tập tại bộ xây dựng, em chọn đề tài về nâng cao hiệu quả đấu thầu quốc tế trong đầu tư xây dựng cơ bản để một phần nào đó đóng góp ý kiến của mình vào công việc đấu thầu quốc tế trong đầu tư xây dựng của ngành xây dựng là một công việc quan trọng trong đầu tư xây dựng cơ bản nói riêng và ngành kinh tế nói chung. Với kiến thức học hỏi chưa nhiều và thời gian thực tập ngắn cho nên bài viết này của em không tránh khỏi những sai sót, vì vậy, em mong cô giáo hướng dẫn và toàn thể các thầy cô giáo khoa kinh tế và kinh doanh quốc tế nhận xét, chữa bài cho em để em rút được kinh nghiệm cho các bài viết tiếp theo. Với sự cố gắng nỗ lực của bản thân cùng với sự giúp đỡ của cô giáo- Thạc Sỹ Ngô Thị Tuyết Mai và các cô chú, anh chị ở vụ Kế hoạch và đầu tư thuộc Bộ Xây dựng, em đã hoàn thành chuyên đề thực tập của mình với các phần sau: Phầu I: Khài quát chung về đấu thầu. Phần II: Tình hình thực hiện đấu thầu quốc tế trong đầu tư xây dựng cơ bản những năm gần đây ở Việt Nam. Phần III: Một số kiến nghị và biẹn pháp để nâng cao hiệu quả đấu thầu trong đầu tư xây dựng cơ bản của Việt Nam. phần i: khái quát chung về đấu thầu. i/khái niệm và vai trò của đấu thầu quốc tế. 1/Khái niệm: Đấu thầu quốc tế trước hết là phương thức cạnh tranh giữa các công ty ở tất cả các quốc gia quan tâm đến tài liệu đấu thầu mà chủ đầu tư biên soạn và thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng mà họ biết, nhằm lựa chọn đơn vị nhận thầu đáp ứng đầy đủ các yêu cầu đặt ra trong tài liệu thầu với chi phí hợp lý nhất. Đấu thầu quốc tế trong xây dựng là hình thức cạnh tranh trong ngành xây dựng cơ bản giữa các công ty ở các quốc gia khác nhau nhằm lựa chọn đơn vị đấu thàu đáp ứng đầy đủ các yêu cầu đặt ra trong tài liệu thầu. 2/Vai trò của đấu thầu quốc tế. +Đối với Nhà nước: Thu hút được những đầu tư mới về công nghệ, trang thiết bị, máy móc hiện đại, học hỏi được những kinh nghiệm quản lý tiên tiến phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước, tạo cơ sở để đánh giá của Tổng công ty – Công ty xây dựng trong nước cũng như nước ngoài, ngăn chặn được những tiêu cực xảy ra, tránh được thiên vị, móc ngoặc, cấu kết. Thông qua chế độ đấu thầu quốc tế, mặt tích cực nhất là tạo được biện pháp quy luật tài chính có hiệu quả và tăng cường lợi ích kinh tế xã hội khác. +Đối với chủ đầu tư: Chọn được nhà thầu có năng lực đáp ứng được yêu cầu của mình về mặt kỹ thuật, đảm bảo chất lượng và tiến độ kế hoạch đặt ra, đồng thời lựa chọn được giá thành hợp lý nhất. Chống tình trạng độc quyền về giá cả của các nhà thầu, kích thích cạnh tranh giữa các nhà thầu. +Đối với nhà thầu: Đảm bảo tính công bằng đối với các công ty, không phân biệt đối xử giữa các nhà thầu. Kích thích các nhà thầu nâng cao trình độ kỹ thuật, áp dụng công nghệ và các giải pháp để sản xuất hàng hoá tốt nhất với giá thành hợp lý nhất nhằm đảm bảo phần thắng. Có trách nhiệm cao với công việc nhận thầu nhằm giữ vững được uy tín đối với chủ đầu tư và nâng cao uy tín của mình trên thương trường. *Chính hoạt động đấu thầu quốc tế về xây dựng cơ bản có vai trò quan trọng như vậy cho nên đấu thầu quốc tế ra đời là mộ tất yếu khách quan của quy luật phát triển. Hiện nay, nước ta đang tích cực tiến lên con đường xã hội chủ nghĩa, cho nên hầu hết các nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào đều là các nguồn tài trợ hoặc các nguồn cho vay ưu đãi, cho nên các chủ đầu tư nước ngoài đều tiến hành phương thức đấu thầu quốc tế trong đầu tư xây dựng cơ bản. Vì vậy, đấu thầu quốc tế là công việc không thể thiếu được cho nên các nhà đầu tư trong nước phải cố gắng nâng cao trình độ trong đấu thầu dể thắng thầu là công việc cần làm. II/CáC LOạI HìNH Và PHƯƠNG THứC áP DụNG TRONG ĐấU THầU QUốC Tế 1/Các loại đấu thầu chủ yếu. a/Đấu thầu mở rộng: Là loại hình thức đấu thầu không hạn chế số lượng nhà thầu tham gia. Bên nhà thầu thông báo công khai về điều kiện, thời gian dự thầu trên các phương tiện thông tin đại chúng. Đây là hình thức được áp dụng chủ yếu trong đấu thầu. Loại hình này nó có ưu điểm là mở rộng được số lượng nhà thầu, cho phép các nhà thầu được cạnh tranh tự do và chọn được đúng nhà thầu đáp ứng được yêu cầu mời thầu (nhiều lúc còn đáp ứng cao hơn). Các nhà thầu không phải băn khoăn vì sao mình không được tham gia dự thầu,...Nhưng nó cũng có nhược diểm là tốn thời gian, tiền của của các nhà mời thầu cúng như các nhà dự thầu. Nhà thầu mất công sức mời thầu, xét thầu,... Một số lượng lớn các nhà dự thầu sẽ mất thời gian, tiền của để hoàn thành đơn dự thầu nhưng không trúng thầu. b/Đấu thầu hạn chế: Là loại hình thức đấu thầu mà bên mời thầu mời một số nhà thầu có đủ khả năng. Danh sách nhà thầu tham dự phải được người chính sách thẩm quyền hoặc cấp có thẩm quyền chấp thuận. Loại hình này có ưu điểm đỡ tốn kém về các loại tư vấn để lập hồ sơ mời thầu với số lượng lớn, đồng thời số nhà thầu không trúng thầu là rất ít cho nên khồn chi phí tốn kém cho hồ sơ dự thầu. Trong quá trình xét duyệt đỡ tốn thời gian hơn. Nhưng do hạn chế số lượng dự thầu nên nhiều khi trúng thầu vẫn chưa được khách quan, cơ hội cho các nhà thầu đủ năng lực hơn không được mời tham dự,..., nhiều lức chất lượng công trình mang lại không được như ý muốn. c/Chỉ định thầu: Là hình thức chọn trực tiếp nhà thầu đáp ứng yêu cầu của gói thầu để thương thảo hợp đòng. Hình thức này được áp dụng khi có những điều kiện sau: +Trường hợp bất khả kháng do thiên tai địch hoạ, được phép chỉ định ngay đơn vị có đủ năng lực để thực hiện công việc kịp thời, sau đó báo cáo thủ tướng chính phủ về nội dung chỉ định thầu để xem xét phê duyệt. +Gói thầu có tính chất nghiên cứu thử nghiệm, bí mật quốc gia, bí mật an ninh, quốc phòng do thủ tướng chính phủ quyết định. +Gói thầu đặc biệt do Thủ tướng Chính phủ quyết định trên cơ sở báo cáo thẩm định của Ban Kế hoạch đầu tư, ý kiến bằng văn bản của cơ quan tài trợ vốn và các cơ quan có liên quan. Trong báo cáo đề nghị chỉ định thầu phải xác định rõ hai nội dung sau: óLý do chỉ định thầu. óKinh nghiệm và năng lực về mặt kỹ thuật, tài chính của nhà thầu được đề nghị chỉ định thầu bằng giá trị khối lượng đã được người có thẩm quyền hoặc cấp có thẩm quyền phê duyệt, làm căn cứ cho chỉ định thầu. Loại hình này có ưu điểm: Không phải mời thầu, không phải xét thầu nên không tốn thời gian cũng như tiền của dù ít nhất của các nhà mời thầu cũng như dự thầu. Nhiều khi gói thầu được chỉ định đúng người đúng việc nó lại trở nên có nhiều thuận lợi. Nhưng thường loại đấu thầu này không khách quan làm cho một số nhà thầu khác không thoả mãn. Trong điều kiện năng lực hạn chế cả trình độ lẫn tài chính vẫn không có mốc so sánh. Vì vậy, nhiền khi thực hiện công việc sau khi nhận thầu chưa đúng như tiến độ và yêu cầu đặt ra. 2/Các phương thức đấu thầu: a/Đấu thầu 1 túi hồ sơ: Là phương thức mà nhà thầu nộp hồ sơ dự thầu trong một túi hồ sơ. Phương thức này thường được áp dụng trong trong thầu hàng hoá và xây lắp. b/Đấu thầu 2 túi hồ sơ: Là phương thức mà nhầ thầu đề xuất về kỹ thuật và giá trong từng túi hồ sơ riêng vào cùng một thời điểm. Túi hồ sơ về kỹ thuật sẽ được xem xét trước để đánh giá, nhà thầu đạt được số điểm từ 70% trở lên sẽ được mở tiếp túi hồ sơ đề xuất vể giá để đánh giá. Nó được áp dụng trong tuyển chọn tư vấn. c/Đấu thầu 2 giai đoạn: +Qua trình thực hiện phương thức này như sau: óGiai đoạn 1: Các nhà thầu nộp hồ sơ dự thầu sơ bộ gồm đề xuất về kỹ thuật và phương án tài chính (chưa có giá) để xem xét và thảo luận cụ thể với từng nhà thầu nhằm thống nhất về yêu cầu, tài chính và kỹ thuật để nhà thầu chuẩn bị và nộp hồ sơ dự thầu chính thức của mình. óGia đoạn 2: Bên mời thầu mời các nhà thầu tham gia trong giai đoạn thứ nhất nộp hồ sơ dự thầu chính thức với đề xuất kỹ thuật đã được bổ sung hoàn chỉnh trong cùng một mặt bằng kỹ thuật và đề xuất chi tiết về mặt tài chính với đầy đủ nội dung và tiến độ thực hiện điều kiện hợp đồng, giá dự thầu. +Loại đấu thầu này được áp dụng trong các trường hợp: óCác gói thầu mua sắm hàng hoá và xây lắp có giá trị lớn, đối với việt nam thì phải lớn hơn 500 tỷ đồng trở lên. óCác gói thầu mua sắm hàng hoá có tính chất lựa chọn công nghệ , thiết bị toàn bộ, phức tạp về công nghệ và kỹ thuật hoặc gói thầu xây lắp đặc biệt phức tạp. óPhản ánh thực hiện theo hợp đồng chìa khoá trao tay. iii/CáC LĩNH VựC Và THể THứC TRìNH Tự ĐấU THầU QUốC Tế. 1/Các lĩnh vực đấu thầu quốc tế. a/ở thế giới: Có 2 lĩnh cực đấu thầu: +Đấu thầu mua sắm thiết bị vật tư để lắp đặt: Là loại hình đấu thầu mang tính chất mua sắm hàng hoá thiết bị mang tính kỹ thuật công nghệ nhằm đáp ứng các yêu cầu của nhà mời thầu. Về thể thức, điều kiện của phương thức này về cơ bản giống như đấu thầu xây dựng công trình. +Đấu thầu xây dựng công trình: Là những đấu thầu mang tính chất xây dựng các công trình nhằm đáp ứng những yêu cầu về xây dựng của xã hội. Cũng như đấu thầu mua sắm thiết bị, hàng hoá, vật tư kỹ thuật, toàn bộ thể thức trình tự đấu thầu có thể chia ra làm 3 giai đoạn: óGiai đoạn sơ tuyển Là giai đoạn có mục đích lọc các nhà thầu về sơ bộ đã được đánh giá là đủ năng lực ứng thầu. Giai đoạn này trong một số trường hợp khả dĩ về nhà thầu có thể bỏ qua. óGiai đoạn nhận (và nộp) đơn thầu: Bao gồm các bước: +Chủ công trình, thông thường thuê một hãng tư vấn, chuẩn bị một tài liệu đấu thầu, với nội dung: -Thư mời thầu. -Bản hướng dẫn, chỉ thị cho các ứng thầu. -Điều kiện hợp đồng (chung và riêng). -Thuyết minh, đặc điểm kỹ thuật. -Lịch, biểu các thông tin bổ sung. -Các bản vẽ. -Bản kê số lượng. -Mẫu đơn ứng thầu. -Mẫu bảo lãnh ứng thầu. óGiai đoạn mở và đánh giá các đơn thầu///; Là vòng cuối cùng của quá trình đấu thầu, để chọn ra người trúng thầu, ký hợp đồng giao nhận. Người trúng thầu nộp một khoản bảo lãnh hợp đồng có giá trị từ 10 đến 30% giá trị hợp đồng do một ngân hàng (được chủ công trình chấp thuận) cấp. Chủ công trình trả bảo lãnh đấu thầu cho các nhà thầu không trúng thầu. Ba mươi ngày sau khi hoàn thành bàn giao công trình, chủ công trình sẽ tháo khoán bão lãnh thực hiện hợp đồng cho nhà thầu. b/ ở Việt Nam: Có bốn lĩnh vực đấu thầu quốc tế đang tồn tại như sau: +Đấu thầu về tư vấn: Là đấu thầu về tổ chức đấu thầu tuyển chọn tư vấn để thực hiện công tác tư vấn như tư vấn chuẩn bị dự án, tư vấn thực hiện dự án,... +Đấu thầu về mua sắm thiết bị máy móc: Là dạng đấu thầu theo nội dung đấu thầu hàng hoá. +Đấu thầu xây, lắp: Là đấu thầu về các công trình mang tính chất xây dựng cơ sở hạ tầng. Đây là loại đấu thầu được sử dụng nhiều nhất ở Việt Nam.Do tính chất xây dựng ở Việt Nam còn non kém, cơ sở hạ tầng chưa đầy đủ, vấn đề xây lắp là tất yếu cho nên có rất nhiều công trình để xây dựng. Trong quá trình này, nhiều công ty trong nước cúng như nước ngoài muốn mình đứng ra làm chủ công trình cho nên sản sinh ra việc đấu thầu trong xây lắp là công việc cần làm. Hơn thế nữa ở Việt Nam, các lính vực về đấu thầu khác như tư vấn, mua sắm hàng hoá hoặc dự án và nó quá mới mẻ với nhà thầu Việt Nam hoặc là quá ít, việc đấu thầu chưa phải là cấp thiết, sống còn đối với nhà thầu ở Việt Nam. Cho nên, họ chỉ tập trung vào lĩnh vực đấu thầu xây lắp. +Đấu thầu dự án: Là loại đấu thầu các dự án mà các chủ đầu tư muốn nhà thầu quản lý dự án đó theo tiến độ công việc được giao cho nhà thầu mà chủ dự án mong muốn. Tất cả các lĩnh vực trên đều có trình tự thực hiện là: 1.Lập hồ sơ mời thầu bao gồm: 1.1.Thư mời thầu. 1.2.Điều kiện tham chiếu (mục đích, phạm vi công việc, tiến độ, nhiệm vụ,...). 1.3.Các thông tin cơ bản có liên quan. 1.4.Tiêu chuẩn đánh giá. 1.5.Tiêu chuẩn ưu đãi (nếu có). 1.6.Các phụ lục chi tiết kèm theo. 2.Thông báo đăng ký dự thầu: Được thực hiện trên các phương tiện thông tin thích hợp hoặc gửi trực tiếp cho các nhà thầu do các cơ quan hoặc tổ chức có liên quan cung cấp thông tin giá, tài liệu. 3.Mời thầu: Mời các nhà thầu có đủ khả năng ứng thầu. 4.Nhận và quản lý hồ sơ dự thầu: Bên mời thầu chỉ nhận hồ sơ nộp đúng hạn theo quy định của hồ sơ mời thầu và quản lý theo chế độ quản lý hồ sơ “mật”. 5.Mở túi hồ sơ đề xuất kỹ thuật. 6.Đánh giá hồ sơ đề xuất kỹ thuật: Thực hiện theo các tiêu chuẩn trong đánh giá được quy định trong hồ sơ mời thầu và tiêu chuẩn đánh giá chi tiết được người có thẩm quyền phê duyệt trước thời điểm mở túi hồ sơ đề xuất kỹ thuật. 7.Mở túi hồ sơ đề xuất tài chính: Chỉ mở hồ sơ đề xuất tài chính của các nhà thầu dạt từ 70% tổng số điểm trở lên theo quy định của đấu thầu quốc tế. 8.Đánh giá tổng hợp: Việc cho điểm và xếp hạng phải căn cứ vào cơ cấu điểm giữa kỹ thuật và giá trên cùng một mặt bằng đã nêu trong hồ sơ mời thầu, tỷ trọng điểm về giá không được vượt quá 30% tổng số điểm. 9. Trình danh sách xếp hạng các nhà thầu: Công bố kết quả đấu thầu, công bố trúng thầu, thương thảo hiệp đồng. 10.Trình duyệt nội dung và ký kết hợp đồng. 2/Thể thức, trình tự đấu thầu. Thể thức này được chia thành 12 bước theo 3 giai đoạn: +Dự sơ tuyển cho người ứng thầu, gồm các bước: óMời các nhà thầu dự sơ tuyển. óPhát và nộp các tài liệu phê sơ tuyển. óPhân tích các số liệu dự sơ tuyển, lựa chọn và thông báo danh sách các ứng thầu. +Nhận đơn thầu theo 6 bước sau: óSoạn thảo tài liệu đấu thầu. óCác ứng thầu đó thăm công trường. óPhát tài liệu đấu thầu. óSữa đổi, bổ sung tài liệu ứng thầu. óThắc mắc của các ứng thầu và cách xử lý. óNộp và nhận đơn thầu. +Mở và đánh giá các đơn thầu, có 3 bước: óMở đơn thầu. óĐánh giá đơn thầu. óKý kết hợp đồng giao thầu. iv/các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động đấu thầu. 1/Cơ chế quản lý. Cơ chế quản lý của một quốc gia nói chung nó có ảnh hưởng to lớn đến hoạt động đầu tư nói chung và đấu thầu nói riêng. Cơ chế quản lý thông thoáng, đúng quy luật khách quan thì hoạt động đấu thầu càng mang lại hiệu quả cao và ngược lại. Riêng ở Việt Nam, cơ chế quản lý nhìn chung đã đáp ứng được một số yêu cầu cơ bản nhưng vẫn còn một số thiếu sót như quản lý chưa khách quan, thiếu đồng bộ, lơi lỏng trong công tác quản lý hoạt động đấu thầu, xét thầu để nhà thầu nước ngoài lợi dụng sơ hở để chiếm đoạt, ép giá làm thệt hại đến nền kinh tế quốc dân. Vì vậy, tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý cần được tăng cường đầu tư cơ bản, các đầu mối giao lưu với nước ngoài là cần thiết. Ngành xây dựng luôn tạo cho mình một cơ chế quản lý vững mạnh để đảm đương nhiệm vụ , Trước mắt và trong tương lai,, cơ chế đòi hỏi phải thúc đẩy việc thực hiện đấu thầu trong ngành xây dựng đạt hiệu quả và khẳng định được đấu thầu là công cụ, phương tiện để hoàn thiện cơ chế quản lý của mình. 2/Thị trường và cơ chế cạnh tranh. Chúng ta biết đấu thầu quốc tế là một hình thức cạnh tranh công khai trên thị trường, nếu không có cơ chế thị trường thì chắc hẳn không cần phải đấu thầu. Vì vậy, thị trường là là nơi kiểm nghiệm tính phù hợp của việc đấu thầu quốc tế, nó sẽ đào thải những mặt không hợp lý, yếu kém và kích thích đổi mới nâng cao hiệu quả của những mặt tích cực trong đấu thầu quốc tế ngành xây dựng. Do vậy, thị trường là động lực, điều kiện khẳng định cho việc thực hiện đấu thầu quốc tế. Mặt khác, có thị trường là có cạnh tranh, đó là hiện tượng tự nhiên của thị trường, nó thúc đẩy, kích thích phát triển thị trường. Nhờ cạnh tranh, nhà thầu mới chọn được nhà thầu thích hợp đạt được những yêu cầu đã đặt ra. Mặt khác nó cũng sinh ra nhiều hiện tượng tiêu cực làm ảnh hưởng xấu đến đấu thầu. Vì vậy, vấn đề đặt ra là tìm được cách giải quyết làm sao để cạnh tranh luôn luôn là lành mạnh. 3/Nhân tố khoa học kỹ thuật. Trong thực trạng phát triển của nền kinh tế hiện nay, việc sử dụng khoa học kỹ thuật vào lĩnh vực xây dựng có nghĩa là giảm được đáng kể khối lượng lao động thủ công, nâng cao được năng suất và chất lượng công trình, đặc biệt là giảm giá thành. Như vậy tính ảnh hưởng của nhân tố khoa học kỹ thuật tạo khả năng cạnh tranh cho nhà thầu một cách đắc lực, nhằm dẫn nhà thầu đến gần với thắng thầu lớn nhất. 4/Nhân tố thông tin. Thông tin là cần thiết cho mọi hoạt động xã hội, trong đấu thầu quốc tế thì lượng thông tin phải xử lý nhiều. Thông tin giúp cho nhà thầu một phần nào “biết mình biết người”, dự thầu một cách đầy đủ các thủ tục liên quan mà chủ thàu đưa ra. Đồng thời thông tin giúp chủ đầu tư chọn nhà thầu có đủ điều kiện thực hiện hợp đồng, do đó lượng thông tin quốc tế ohải đảm bảo kịp thời trong công tác đấu thầu. 5/Nhân tố tiền tệ: Tiền tệ chính là phương tiện cần thiết cho hoạt động đầu tư, đấu thầu. Tiền tệ ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả dự thầu cũng như đấu thầu của nhà thầu và là điều kiện để chủ đầu tư xem xét với mức độ tài chính, như vậy đã đáp ứng được những nhu cầu của đấu thầu hay chưa, đồng thời, khi thị trường tài chính tiền tệ ổn định, lạm phát được giữ nguyên, đồng tiền của một quốc gia có gía hơn. Lúc đó, khả năng về tài chính của các nhà thầu cao hơn, dễ dàng thắng thầu hơn và ngược lại. 6/Các nhân tố khác. Ngoài các nhân tố cơ bản trên thì các nhân tố như trình độ quản lý, trình độ cán bộ công nhân viên chức,... nó cũng ảnh hưởng to lớn đến chế độ đấu thầu. Song không quản lý thì khó mang lại hiệu quả và hơn nữa trình độ quản lý và trình độ chuyên môn là điều kiện để xét thầu. V/CáC NGUYÊN TắC THựC HIệN ĐấU THầU QUốC Tế. 1/Nguyên tắc cạnh tranh với điều kiện ngang bằng. Đấu thầu phải được thực hiện với sự tham gia của một số nhà thầu có đù năng lực để hình thành một cuộc cạnh tranh mạnh mẽ. Điều kiện đặt ra với các đơn vị thầu phải ngang nhau, nhất thiết không phân biệt đối xử. 2/Nguyên tắc dữ liệu đầy đủ. Các nhà thầu được nhận đủ các tư liệu đấu thầu và thông tin chi tiết, rõ ràng, có hệ thống về quy mô khối lượng, quy cách chất lượng của công trình, về tiến độ thi công và các điều kiện khác có liên quan mà chủ đầu tư đưa ra. 3/Nguyên tắc đánh giá công bằng. Các hồ sơ phải được đánh giá công bằng, chuẩn mực bởi một hội đồng xét thầu có đầy đủ năng lực và phẩm chất để từ đó người được chọn cũng như không được chọn tránh nghi ngờ. 4/Nguyên tắc trách nhiệm phân minh. Trách nhiệm của mỗi bên phải được chi tiết hoá trong hợp đồng một cách rạch ròi để không sai sót nào không có người chịu trách nhiệm. Mỗi bên có liên quan hiểu được việc làm của mình để tránh sai sót bất trắc xảy ra. 5/Nguyên tắc 3 chủ thể. Chủ công trình, nhà thầu và kỹ sư tư vấn hiện diện như một nhân tố đảm bảo cho hợp đồng thực hiện một cách nghiêm túc, mọi bất cập phải giải quyết kịp thời. Kỹ sư tư vấn tránh thông đồng, thoả hiệp bên nhà thầu gây thiệt hại cho chủ dự án. 6/Nguyên tắc bảo lãnh, bảo hành, bảo hiểm. Các nhà thầu được bảo lãnh, bảo hành phần tiền đóng góp khi đấu thầu từ 10 đến 30%. Nếu không trúng trúng thầu thì được trả lại. Bảo hiểm hồ sơ mời thầu sẽ được quy định hình thức và điều khoản bảo hiểm. vi/điều kiện đấu thầu, mở thầu, xét thầu, trình duyệt và công bố kết quả đấu thầu quốc tế. 1/Điều kiện đấu thầu quốc tế. Tuỳ theo các nước khác nhau mà điều kiện đấu thầu được quy định ở mỗi nước là khác nhau. Riêng Việt Nam, theo quy chế đấu thầu, chỉ được tổ chức đấu thầu quốc tế trong những tường hợp sau: a/Đối với gói thầu mà không có nhà thầu nào trong nước có khả năng đáp ứng yêu cầu của gói thầu. b/Đối với dự án sử dụng nguồn vốn tài trợ của các tổ chức quốc tế hoặc của nước ngoài có quy định trong điều ước là phải đấu thầu quốc tế. 2/Mở thầu. Sau khi tiếp nhận nguyên trạng các hồ sơ dự thầu nộp đúng thời hạn và được quản lý theo chế độ quản lý hồ sơ “mật”, việc mở thầu được tiến hành công khai theo ngày giờ và địa điểm ghi trong hồ sơ mời thầu và không được quá 48 giờ kể từ thời điểm đấu thầu. Biên bản mở thầu gồm có những nội dụng sau: a/Tên gói thầu. b/Ngày, giờ, địa điểm mời thầu. c/Tên và địa chỉ của các nhà thầu. d/Gía dự thầu, bảo lãnh dự thầu và tiến độ thực hiện. đ/Các nội dung liên quan khác. Đại diện bên mời thầu và các nhà thầu tham dự phải ký vào biên bản mở thầu. Bản gốc hồ sơ dự thấu sau khi mở thầu phải được bên mời thầu ký xác nhận. 3/Xét thầu, phê duyệt và công bố kết quả. Bên mời thầu tiến hành nghiên cứu, đánh giá chi tiết và xếp hạng các hồ sơ dự thầu đã được mở căn cứ theo yêu cầu của hồ sơ mời thầu và tiêu chuẩn đánh giá được người có thẩm quyền hoặc cấp có thẩm quyền phê duyệt trước khi mở thầu. Việc đánh giá hồ sơ dự thầu được thực hiện theo nguyên tắc sau: a/Sử dụng phương pháp chẩm điểm đối với việc đánh giá hồ sơ thầu của các gói thầu tư vấn, gói thầu đấu thầu lựa chọn đối tác đánh giá hồ sơ dự tuyển, đánh giá về mặt kỹ thuật đối với các gói thầu mua sắm hàng hoá và xây lắp. b/Đánh giá gói thầu mua sắm hàng hoá và xây lắp: tiến hành qua 2 bước: +Bước 1: Sử dụng thang điểm đánh giá về mặt kỹ thuật để chọn danh sách ngắn (là danh sách các nhà thầu đáp ứng được cơ bản hồ sơ mời thầu căn cứ theo tiêu chuẩn đánh giá). +Bước 2: Xác định đánh giá đối với các hồ sơ dự thầu thuộc danh sách ngắn để xếp hạng. c/Không sử dụng giá xét thầu, giá sàn mà sử dụng giá gói thầu trong kế hoạch đấu thầu được phê duyệt. +Phê duyệt và công bố kết quả: Kết quả đấu thầu phải được cấp có thẩm quyền hoặc người có thẩm quyền phê duyệt, bên mời thầu chỉ được phép công bố kết quả đấu thầu sau khi người hoặc cấp có thẩm quyền phê duyệt. 4.2 Trình tự đấu thầu quốc tế Trong xu thế hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới các dự án thực hiện bằng nguồn vốn nước ngoài ngày càng tăng cùng với nhiều nhà đầu tư nước ngoài nên hoạt động đấu thầu quốc tế đã và đang trở nên sôi động ở nước ta. Theo qui định tại khoản một điều 10 của qui chế đấu thầu ban hành ngày 1/9/1999 thì chủ đầu tư chỉ được tổ chức đấu thầu quốc tế trong trường hợp sau: - Đối với gói thầu mà không có nhà thầu nào trong nước có khả năng đáp ứng yêu cầu của gói thầu. - Đối với các dự án sử dụng nguồn vốn tài trợ của các tổ chức quốc tế hoặc ở nước ngoài có qui định trong điều ước phải là đấu thầu quốc tế. Hoạt động đấu thầu quốc tế được tiến hành theo trình tự gần giống như trình tự hoạt động đấu thầu trong nước nhưng có điều các đơn vị tham gia trong đấu thầu phải trải qua giai đoạn sơ tuyển. Giai đoạn sơ tuyển là một yêu cầu bắt buộc. Mục tiêu của sơ tuyển là chọn các ứng thầu có đủ tư cách và năng lực tham gia đấu thầu và bên mơì thầu phải lập ra được danh sách sơ tuyển có từ 7 ứng thầu trở lại. Giai đoạn này gồm ba phần việc sau: - Mời dự sơ tuyển. - Phát và nộp hồ sơ tuyển. - Phân tích, đánh giá sơ tuyển và chọn ứng thầu. Có thể khái quát trình tự đấu thầu quốc tế qua sơ đồ sau: (1) Mời dự sơ tuyển (2) Phát và nhận đơn xin dự sơ tuyển (3) Phân tích đánh giáđơn sơ tuyển (4) Lập hồ sơ mời thầu (5) Gửi thư mời thầu hoặc thông báo mời thầu (6) Nhận và quản lý hồ sơ dự thầu (7) Mở thầu (8) Đánh giá và xếp hạng nhà thầu (10) Công bố trúng thầu và kí hợp đồng (9) Trình duyệt kết quả đấu thầu Sơ đồ 2: Trình tự đấu thầu quốc tế Phần hai: Thực trạng của công tác đấu thầu tại công ty xây dựng công trình giao thông 889. I. Công ty xây dựng công trình giao thông, quá trình hình thành và phát triển. Công ty xây dựng công trình giao thông 889 là một doanh nghiệp của nhà nước, hoạt động trong lĩnh vực xây dựng các công trình giao thông và các công trình xây dựng khác. Công ty do bộ trưởng Bộ giao thông vận tải thành lập tại quyết định số 1034 QĐ/TCCB-LĐ ngày 27/3/1993. Giấy phép hành nghề kinh doanh xây dựng số 472/BXD-CSXD ngày 04/11/97. Công ty chịu sự quản lý trực tiếp của Công ty xây dựng Công trình giao thông 889 đồng thời chịu sự quản lý của Bộ giao thông vận tải và các cơ quan quản lý nhà nước khác với tư cách là chủ sở hữu đối với doanh nghiệp nhà nứơc theo luật doanh nghiệp. Công ty xây dựng Công trình giao thông 889 có nhiệm vụ chuyên xây dựng các công trình giao thông, xây dựng các công trình công nghiệp, dân dụng, xây dựng các công trình thuỷ lợi, sân bay, bến cảng, sản xuất vật liệu xây dựng, các cấu kiện bê tông đúc sẵn. Là một doanh nghiệp nhà nước, hạch toán kinh tế độc lập, có đầy đủ tư cách pháp nhân. Từ khi thành lập đến nay hoạt động xây dựng của công ty không ngừng vươn lên đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế và dân cư. Công ty đã tiến hành thi công và bàn giao nhiều công trình xây dựng dân dụng nhà ở, công trình công cộng... với chất lược cao, thi công và bàn giao nhiều công trình đúng tiến độ và đang ngày càng tạo uy tín cao đối với khách hàng trên thị trườn. Đóng góp một phần không nhỏ cho ngân sách nhà nước và tạo công ăn việc làm cho người lao động. Trải qua qúa trình hoạt động, phát triển đến nay công ty đã hoàn thiện tổ chức với đội ngũ cán bộ , công nhân lành nghề, trang thiết bị hiện đại. Sản lượng hàng năm của công ty đều tăng so với năm trước, đời sống cán bộ công nhân viên ngày càng được cải thiện. Ta có thể thấy được sự phát triển của công ty qua kết quả sản xuất kinh doanh của công ty trong 3 năm gẩn đây. Bảng số 1 (Đơn vị: triêu đồng.) Chỉ tiêu Năm 97 Năm 98 Năm 99 1. Sản lượng 26.331 28.056 35.066 2. Doanh thu 15.674 27.154 34.474 3. Chi phí 15.221 26.350 33.754 4. Lợi nhuận 373 804 720 5. Vốn 0,540 0,684 0,950 6. Thu nhập bình quân(người/tháng) 4.526,9 7.528,6 8.213 Qua số liệu trong bảng ta thấy tình hình sản xuất kinh doanh của công ty trong 3 năm : 97, 98, 99. Trong ba năm sản lược và doanh thu của công ty đã liên tục tăng lên với tốc độ ngày một cao. Doanh thu của công ty năm sau cao hơn năm trước với tốc độ tăng liên hoàn năm 98/97 là 173,24% năm 99/98 là 126,95 % còn tốc độ tăng định gốc năm 99 so với năm 98 là 219,9 %. Với tốc độ tăng này chứng tỏ công ty đã có sự phát triển mạnh cả về chất và lược. Về mặt công ty đã tạo được uy tín trên thị trường đầu tư xây dựng cơ bản khẳng định được năng lực kĩ thuật, công nghệ, tổ chức tài chính nên đã thắng thầu được nhiều công trình. Về mặt lượng công ty đã có sự tăng trưởng, vốn của công ty đã tăng với tốc độ như sau: năm 98/97 là 166,3 %, năm 99/98 là 109 %, năm 99/97 là 181,4 %. Công ty đã đầu tư vào máy móc thiết bị, trang bị thêm nhiều máy móc thiết bị hiện đại để nâng cao năng lực thi công. Vôn và công nghệ-Kĩ thuật chính là một trong những điều kiện không thể thiếu mà công ty rất quan tâm để có thể tham gia đấu thầu và thắng thầu. Với hoạt động sản xuất ngày một phát triển, đạt được hiệu quả cao đã giúp cho đời sống cán bộ công nhân viên của công ty ngày càng được cải thiện, thu nhập bình quân qua các năm tăng mạnh với tỷ lệ như sau: năm 98/97 là 126,7 %, năm 98/99 là 138,8 %, năm 99/97 là 175,9 %. Điều này chứng tỏ năng suất lao động của công nhân viên đã được nâng cao. Lợi nhuận của công ty có tăng nhưng chưa tương xứng với khả năng của các nguồn lực của công ty. Riêng năm 99 lợi nhuận của công ty có giảm so với năm 98 nhưng nhìn chung vẫn tăng so với các năm trước đó. Năm 99 lợi nhuận của công ty giảm là do công ty đã nhận một số công trình, dự án mà lợi nhuận thu được là không cao nhưng để đảm bảo thúc đẩy hoạt động của công ty, để đảm bảo tiến độ công việc doanh nghiệp vẫn nhận những công trình này. Ngoài ra do sự biến động của giá nguyên vật liệu trên thị trường, năm 99 giá nguyên vật liệu phục vụ cho xây dựng tăng lên điều này đã làm cho chi phí sản xuất cuả công ty cao dẫn đến giảm lợi nhuận. Năm 97 tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu là 2,38 %, năm 98 là 2,96 %, năm 99 là 2,09 % còn tỷ suất lợi nhuận/vốn năm 97 là 8,24 %, năm 98 là 10,68 %, năm 99 là 8,75 %. Với số năm hoạt động chưa lớn nhưng Công ty xây dựng Công trình giao thông 889 đã góp phần vào sự phát triển chung của đất nước, đã góp phần tạo ra tài sản cố định cho nền kinh tế quốc dân. Bằng những kết quả đã đạt được trong những năm vừa qua công ty đã chứng tỏ sự đi lên của mình mặc dù vẫn còn nhiều khó khăn. Công ty đang tiếp tục đầu tư cho nguồn nhân lực và hệ thống máy móc thiết bị để có thể phát triển sản xuất, cạnh tranh mạnh mẽ trên thị (10) Công bố trúng thầu và kí hợp đồng (9) Trình duyệt kết quả đấu thầu trường. Công ty đang hoạt động trong một thị trường xây dựng khá sôi động, phát triển với nhu cầu xây dựng ngày một cao và vốn đề đặt ra với công ty là để có thể tham gia vào thị trường đó công ty phải cạnh tranh với rất nhiều doanh nghiệp xây dựng khác, công ty đã cạnh tranh thông qua phương thức chủ yếu là đấu thầu. Bởi hiện nay để có được các công trình, dự án thì ngoài các công trình, dự án do tổng công ty giao xuống thì hầu hết công ty phải đầu thầu để có được. Đấu thầu là một trong những yêu cầu để công ty có thể nhận được các công trình khi thắng thầu. Công ty đã xác định: Tích cực tham gia đấu thầu là cơ hội để công ty có thể tăng sản lược và tự nâng cao,hoàn thiện các mặt hoạt động của mình. Đối với công ty, hiện nay đấu thầu là một k=hình thức không thể thiếu và vấn đề đặt ra là tìm cách để cho hoạt đông này đạt được hiệu quả cao hơn nữa. II. Những đặc điểm kinh tế – kỹ thuật chủ yếu ảnh hưởng đến công tác đấu thầu của công ty. 1. Đặc điểm sản phẩm: Công ty xây dựng Công trình giao thông 889 là một doanh nghiệp thuộc lĩnh vực xây dựng cơ bản, sản phẩm của công ty là các công trình giao thông và các công trình xây dựng khác như: các công trình công nghiệp, dân dụng, thuỷ lợi, sân bay, bến cảng. Các sản phẩm xây dựng của công ty có đặc điểm: - Là sản phẩm đơn chiếc, có kết cấu phức tạp, được thực hiện theo yêu cầu cụ thể của chủ đầu tư. - Là sản phẩm được sản xuất và sử dụng trên mọi địa điểm có tính cố định. - Là sản phẩm phục vụ cho các hoạt động giao thông của nền kinh tế hoặc là các sản phẩm phục vụ cho các nghành sản xuất như nhà làm việc nhà xưởng. - Sản phẩm sản xuất có tính mùa vụ vì phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên. Địa bàn sản xuất rộng, kéo dài khắp đất nước. - Sản phẩm sản xuất đòi hỏi yêu cầu chất lượng cao chi phí nhiều, lượng vốn lớn. Với đặc điểm sản phẩm như vậy đòi hỏi qui trình sản xuất được thực hiện qua các bước sau: khảo sát thiết kế lập dự án khả thi – tổ chức thi công – tổ chức nghiệm thu và bàn giao công trình. Do đặc điểm sản phẩm của công ty là các công trình xây dựng ở các địa bàn khác nhau nên về nguyên vật liệu sử dụng để sản xuất công ty phải huy động ở nhiều địa phương khác nhau nơi có công trình. Những nguyên vật liệu chủ yếu mà công ty sử dụng để sản xuất sản phẩm tức là để phục vụ cho thi công ở công trừơng gồm: các loại đá, bê tông nhựa afflat, sắt thép, xi măng. Cũng do đặc điểm riêng của sản phẩm mà các loại vật liệu này sẽ tuỳ thuộc vào từng công trình thông thường có khối lượng rất lớn. Đối với công ty nguyên vật liệu phục vụ cho xây dựng là một trong những yếu tố quan trọng của quá trình thi công, có ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng và tiến độ thi công công trình. Nguyên vật liệu chính là một yếu tố hình thành đơn giá dự thầu, chiếm từ 60% đến 80% giá trị công trình. Do đó nó cũng tác động đến cơ hội thắng thầu của công ty. Hiện nay nguồn cung cấp nguyên vật liệu cho công ty được khai thác tại địa điểm có công trường thi công. Còn một số nguyên vật không thông dụng trên thị trường như nhựa đường các loại vật liệu phụ gia được tổng công ty nhập khẩu trực tiếp từ nước ngoài và bán theo giá nội bộ . Ngoài ra để chủ động trong việc cung ứng nguyên vật liệu công ty còn sản xuất các cấu kiện bê tông đúc sẵn cung cấp cho các công trình do công ty thi công từ đó tiết kiệm được chi phí, kiểm soát được chất lượng đây là một yếu tố thuận lợi đóng góp vào công tác đấu thầu của công ty. 2. Thị trường: Trong giai đoạn hiện nay thì thị trường xây dựng cơ bản đang có sự cạnh tranh mạnh. Các công ty xây dựng đã không ngừng phát triển cả về chất lượng và lượng, hoạt động rất đa dạng trên tất cả các lĩnh vực xây dựng cơ bản từ giao thông, nhà cửa, thuỷ lợi... Do yêu cầu đổi mới, phát triển của đất nước nên nhu cầu về xây dựng là rất phong phú, có nhiều cơ hội để các doanh nghiệp xây dựng tham gia. Tuy nhiên, thị trường xây dựng giờ đây cũng đòi hỏi rất khắt khe về chi phí, chất lượng và thời gian thi công đòi hỏi các công ty xây dựng không ngừng nâng cao đổi mới. Đối với Công ty xây dựng Công trình giao thông 889 thì trong bối cảnh hiện nay công ty sẽ còn rất nhiều điều kiện để có thể tiếp tục phát triển bởi sản phẩm chủ yếu của công ty là các công trình giao thông mà trong xu thế công nghiệp hóa hiện đại hoá của đất nước việc đầu tư và phát triển cơ sở hạ tầng là một yêu cầu cấp bách, nhất là việc phát triển mạng lưới giao thông. Nhà nước đang tập trung vào mở rộng liên kết kinh tế giữa các vùng khác nhau trong cả nước và ra nước bạn. Bên cạnh những thuận lợi thì công ty sẽ gặp phải những khó khăn do nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ bản trong giai đoạn hiện nay vẫn chưa tăng mấy vì ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế những năm trước và do chính sách của nhà nước quản lý chặt chẽ hơn vốn đầu tư xây dựng cơ bản. Hơn nữa thị trường đòi hỏi sản phẩm của công ty phải có chất lượng ngày càng cao trong lúc yêu cầu về chi phí lại giảm để đảm bảo tính cạnh tranh trong đấu thầu là một sức ép mạnh mẽ đòi hỏi công ty phải cố gắng đổi mới để thích nghi. 3. Đặc điểm về công nghệ thiết bị là lao động: Công ty xây dựng Công trình giao thông được thành lập năm 1993 nền hệ thống máy móc thiết bị của công ty chưa thật lớn nhưng công ty đã có sự đầu tư đổi mới thiết bị đặc biệt là đầu tư theo chiều sâu, nâng cao năng lực thi công thực tế đối với một số thiết bị đồng bộ cho dây chuyền thi công. Hàng năm hệ thống máy móc thiết bị của công ty đã không ngừng được nâng lên về số lượng và chất lượng, đáp ứng được yêu cầu cao của công trình. Tính đến năm 1999 toàn bộ hệ thông máy móc thiết bị của công ty có giá trị là 4.409 triệu đồng và sang năm 2000 công ty đang tiếp tục mua sắm thêm một số thiết bị công nghệ hiện đại để đáp ứng kịp thời với nhu cầu xây dựng. Bảng số 2 Thiết bị hiện có đến 31/12/1999 của công ty CTGT 889 Số tt Danh mục thiết bị Công xuất Nước sản xuất Năm sản xuất Chất lượng % hiện nay Ước tính đơn giá Số lượng Tổng giá trị (triệu đồng) Tổng số 4.409 1 Máy hàn tự phát ĐK 231 Tiệp 1972 hỏng 5 01 5 2 Máy xúc EO 3323 0,6 m3/gầu Nga 1992 60% 180 02 360 3 Lu 3 bánh SAKAI 8-10 tấn Nhật 1982 65 290 03 870 4 Lu 2 bánh SAKAI 8-10 tấn Nhật 1982 50 80 01 80 5 Lu R 12 8-10 tấn Rumani 1970 60 45 01 45 6 Lu rung DY 62A 13 tấn Nga 1994 75 290 02 580 7 Máy ủi C100 100 CV Nga 1964 50 20 01 20 8 Máy ủi TZ 171 180 CV Nga 1994 80 260 01 260 9 Lu bánh lốp KAWASAKI 8-10 tấn Nhật 1980 65 170 01 170 10 Lu KC-02 8-10 tấn Nga 1994 75 160 01 160 11 Máy rải thảm NIGATA Nhật 1988 65 180 01 180 12 Máy lu rung DYNAPAC 4 Tấn Đức 1988 65 70 01 70 13 Đầm cóc Mtr60 Nhật 1994 60 8 02 16 14 Máy cao đạc Đức 1994 75 8 02 16 15 Máy san gạt KAMASU Nhật 1969 70 130 01 130 16 Lu rung Y2 –14 JA 14 tấn TQ 1995 90 370 01 370 17 Trạm trộn BASE 40-60 tấn/m Việt nam 1997 80 400 01 400 18 Xe ô tô tưới nước cũ 6 tấn Nga 1994 70 17 01 17 19 Xe ô tô Mazben 8 tấn Nga 1994 75 220 03 660 Nhìn chung, mặc dù đã cố gắng đổi mới bổ sung máy móc thiêt bị nhưng công ty vẫn chưa thể tự đáp ứng được hết nhu cầu sử dụng cho thi công của mình. Với số máy móc hiện có công ty cần có kế hoạch tích luỹ vốn khấu hao để đầu tư đổi mới dần dần nếu không sẽ có lúc lâm vào tình trạng phải đổi mới trang thiết bị đồng loạt yêu cầu vốn rất lớn. Tuy nhiên với hệ thống máy móc hiện có trên Công ty xây dựng Công trình giao thông 889 đã tạo ra nhiều công trình với chất lượng cao, tạo được uy tín trên thị trường. Về lao động thì công ty hiện có một lực lượng lao động gổm 330 ngươì trong đó: trong danh sách là 112 người, lao động thuê mướn là 218 người. Đội ngũ cán bộ công nhân viên của công ty về cơ bản đã đáp ứng được các yêu cầu của công ty, giúp cho hoạt động sản xuất và quản trị doanh nghiệp trong những năm gần đây đạt hiệu quả ngày càng cao. Hiện tại công ty đang quan tâm đến công tác đào tạo nâng cao tay nghề cho cán bộ, công nhân viên thông qua hình thức đào tạo tại chỗ. Chúng ta có thể đánh giá tình hình lao động của công ty qua biểu về cán bộ chuyên môn và công nhân kỹ thuật của công ty. Bảng số 3 STT Cán bộ quản lý kỹ thuật và công nhân kỹ thuật Số lượng I. Cán bộ quản lý kỹ thuật 70 - Kỹ sư 57 - Trung cấp 13 II. Công nhân kỹ thuật 35 - Bậc 5 trở lên 3 - Bậc 4 2 - Bậc 3 10 - Dưới bậc 3 19 Nhìn vào bảng trên ta thấy về cán bộ quản lý, kỹ thuật thì tỷ lệ kỹ sư là khá cao như vậy công ty đã có một đội ngũ cán bộ, nhân viên có đủ trình độ tay nghề. Hiện đội ngũ này đảm bảo đủ năng lực tổ chức, năng lực kỹ thuật để hoàn thành nhiệm vụ hoạt động sản xuất của công ty. Về công nhân kỹ thuật thì chúng ta thấy tỷ lệ công nhân tay nghề cao còn chưa nhiều điều này đòi hỏi công ty cần phải tiếp tục tăng cường, bồi dưỡng đào tạo để nâng cao hơn nữa tay nghề cho đội ngũ công nhân kỹ thuật. Trong điều kiện cạnh tranh như hiện nay thì việc trang bị một hệ thống máy móc - công nghệ hiện đại, sử dụng đội ngũ lao động tay nghề cao, trình độ quản lý tốt là một vấn đề mà công ty quan tâm. Nhất là khi tham gia các cuộc đấu thầu thì đây là vấn đề được các chủ đầu tư quan tâm bởi nó ảnh hưởng được đến chất lượng thời gian, tiến độ thi công của công trình. 4. Đặc điểm về tài chính Công ty xây dựng Công trình giao thông 889 là một doanh nghiệp nhà nước có quyền tự huy động vốn để hoạt động kinh doanh nhưng không được làm thay đổi hình thức sở hữu của công ty. Được thế chấp giá trị quyền sử dụng đất gắn liền với tài sản thuộc quyền quản lý của công ty tại Ngân hàng Việt nam để vay vốn kinh doanh theo qui chế tài chính của công ty, đồng thời chịu trách nhiệm trước cấp trên về bảo toàn và phát triển vốn. Đối với công ty việc phát triển vốn là một trong những yêu cầu cần thiết để có thể tăng lượng vốn hiện có ngày một cao hơn nữa là một doanh nghiệp có qui mô vừa công ty gặp rất nhiều khó khăn về vốn lưu động cũng như vốn cố định. Để có đủ vốn đáp ứng yêu cầu sản xuất kinh doanh thì công ty đã huy động từ nhiều nguồn khác nhau nhưng chủ yếu là ba nguồn chính sau: - Nguồn ngân sách cấp - Nguồn tự bổ sung - Nguồn vốn vay Trong ba nguồn trên thì nguồn vốn vay chiếm tỉ trọng lớn bởi với đặc điểm của công ty xây dựng thì vốn vay đòi hỏi phí tổn tương đối thấp, nguồn vốn này lại đáp ứng nhu cầu nhanh nhất về đầu tư xây dựng của công ty. Trong khi nguồn nguồn ngân sách thì chậm giải ngân, còn thuận lợi để lại có qui mô nhỏ nhu cầu vốn lưu động rất lớn của công ty. Tình hình và đặc điểm về vốn của công ty được thể hiện qua các số liệu sau: - Theo số liệu trong bảng cân đối kế toán năm 1999 dư nợ tài khoản 131 (phải thu của khách hàng) lên đến 21.924.000.000 đồng. Hiện nguồn vốn của công ty thường bị chủ đầu tư chiếm dụng do thanh quyết toán công trình muộn. - Tổng số vốn huy động của công ty đến 31/12/99 là Trong đó: +Nợ phải trả: 23.131 triệu đồng *Nợ ngắn hạn: 17.858 *Nợ dài hạn: 3.217 *Nợ khác: 2.056 +Nguồn vốn chủ sở hữu 8.213 triệu đồng Như vậy, nguồn vốn vay của công ty chiếm tỉ trọng tương đối lớn ảnh hưởng đến kết quả sản xuất kinh doanh bởi khoản vay càng lớn lãi suất càng cao và khả năng thanh toán sẽ kém. Đặc điểm về vốn còn thể hiện qua cơ cấu tài chính của công ty qua đó ta có thể thấy tỷ lệ tài sản lưu động trong tổng tài sản của công ty rất lớn chứng tỏ công ty đầu tư chưa tương xứng cho tài sản cố định hơn nữa tỷ lệ này cao là do các khoản phải thu cao. Ngoài ra tỉ lệ nợ phải trả trên tổng tài sản chiếm tỉ trọng cao là một gánh nặng cho công ty dẫn đến lợi nhuận giảm. Mặc dù vậy công ty vẫn cố gắng duy trì, đảm bảo khả năng thanh toán. Các chỉ tiêu phân tích tài chính của công ty được cho trong bảng sau đây. Bảng số 4 Một số chỉ tiêu phân tích tài chính của công ty Chỉ tiêu 1997 1998 1999 1. Cơ cấu -TSCĐ/Tổng tài sản 20,60% 22,67% 16,2% -TSLĐ/Tổng tài sản 79,40% 77,33% 83,8% -Nợ phaỉ trả/Tổng tài sản 80,67% 70,58% 74,1% 2 Chỉ tiêu về lợi nhuận -Tỷ suất lợi nhuận/Doanh thu 2,38% 2,96% 2,09% -Tỷ suất lợi nhuận/vốn 8,24% 10,68% 8,75% 3 Tình hình, khả năng thanh toán -TSCĐ/Nợ ngắn hạn 109,37% 131,94% 146,6% III. Tình hình thực hiện công tác đấu thầu tại công ty 1. Thực trạng hoạt động đấu thầu xây dựng ở nước ta hiện nay Là một nước đang trong quá trình hiện đại hoá, công nghiệp hoá, đang phát triển với tốc độ tăng trưởng khá cao vì vậy kéo theo nhu cầu rất lớn về đầu tư xây dựng cơ bản, nguồn vốn nhà nước dành cho xây dựng cơ bản ngày một tăng lên. Hiện nay để thực hiện các dự án đầu tư xây dựng người ta thường chọn phương thức đấu thầu để tìm đối tác. Như vậy tình hình thị trường mở ra rất nhiều cơ hôị cho các nhà thầu xây dựng. Nhà nước đã ban hành qui chế đấu thầu và đang tiếp tục hoàn thiện bổ sung đã giúp cho công tác đấu thầu diễn ra tốt hơn,các công trình xây dựng có chi phí hợp lý, tiết kiệm đồng thời đạt yêu cầu cao về chất lượng, mỹ quan, tính năng sử dụng. Các nhà thầu đã nắm bắt và hiểu rõ hơn về trình tự tham gia đấu thầu. Giá trúng thầu công trình sát hơn với giá dự toán đề ra. Cho đến nay hiệu quả các cuộc đấu thầu nghiêm túc đem lại trong việc thực hiện các dự án đầu tư là không thể phủ nhận mà 561 triệu USD giảm được qua thẩm định 222 gói thầu thỉ trong vòng 18 tháng do bộ kế hoạch và đầu tư tiến hành là một minh chứng đầy sức thuyết phục. Mặt khác dù chưa có số liệu tổng kết cụ thể trong lĩnh vực đấu thầu, nhưng theo cách đánh giá của cơ quan chức năng thì từ cuối năm 1997 trở lại đây tỷ lệ các nhà thầu Việt nam thắng trong các cuộc đấu thầu quốc tế đã tăng lên rõ rệt. Tuy nhiên công tác đấu thầu và giao thầu các công trình xây dựng ở nước ta vốn còn rất nhiều vẫn đề bất hợp lý gây không ít bức xúc cho các nhà đầu tư lẫn các nhà thầu và là một đề tài được dư luận xã hội quan tâm. Đối với các dự án tiến hành đấu thầu trong nước vẫn còn tình trạng một số công trình tiến hành chịn thầu, chỉ định thầu hoặc đấu thầu chỉ mang tính chất chiếu lệ hoặc tình trạng liên kết giữa các nhà thầu chỉ để một nhà thầu có đủ tiêu chuẩn thắng thầu còn các nhà thầu còn lại sẽ cố tình thua và sẽ được nhận phần trăm. Tình trạng đấu thầu mang tính chiếu lệ gây tốn kém không ít cho các nhà thầu cũng như vốn đầu tư cuả nhà nước đặc biệt là chứng tỏ môi trường cạnh tranh không lành mạnh. Mặc dù chưa có trường hợp nào bị phát hiện là có sự móc ngoặc giữa các nhà thầu và cơ quan tư vấn của chủ đầu tư hoặc sự liên kết giữa các nhà thầu nhưng đây là một thực trạng đáng buồn trong công tác đấu thầu ở nước ta hiện nay. Nhà nước cần phải có sự quản lý , giám sát chặt chẽ hơn nữa với các công trình xây dựng cần đấu thầu để quá trình đấu thầu diễn ra nghiêm túc, công bằng hơn, thực hiện đúng mục đích của qui chế đấu thầu khi ban hành. Tình trạng nữa mà chúng ta cần thấy là hiện tượng có những nhà thầu tham gia đấu thầu với giá cực thấp làm bất ngờ các đối thủ khác. Hiện nay tiềm lực kinh tế,kỹ thuật kinh nghiệm của các tổ chức xây dựng không còn sự chênh lệch quá lớn mức điểm cho giá dự thầu chiếm tỷ trọng khoảng 50% tổng số điểm, bởi vậy việc đưa ra giá dự thầu thấp hơn hẳn so với các đối thủ khác sẽ đảm bảo 60 % thắng thầu. Thực trạng này tồn tại bởi nguyên nhân sau: Thứ nhất các nhà thầu cố gắng trúng thầu để sau khi trúng thầu thì tìm cách xoay sở để được chủ đầu tư nâng giá dự toán lên bằng các biện pháp như phát sinh công việc,thay đổi thiết kế. Thứ hai là khi trúng thầu với giá thấp nhà thầu sẽ cho ra sản phẩm kém chất lượng, không đảm bảo các yêu cầu kĩ thuật rồi lại dùng các hoạt động tiêu cực khi nhiệm thu công trình để được chủ đầu tư chấp nhận. Đây là lý do tại sao có những công trình vừa bàn giao hoàn thành chưa được bao lâu đã xuống cấp cần phải sửa chữa cải tạo gây tốn kém. Ngoài ra tình trạng đưa ra giá dự thầu thấp để tăng thầu bởi các nhà thầu này chấp nhận hoà vốn (có thể lỗ) để có việc làm cho lao động của họ. Đối với các dự án tiến hành đấu thầu quốc tế như công trình 100 % vốn nước ngoài, công trình viện trợ không hoàn lại, công trình bằng vốn viện trợ cho vay dài hạn ưu đãi, công trình có vốn liên doanh. Việc xuất hiện các nhà đầu tư nước ngoài và các nhà thầu nước ngoài đã làm cho thị trường sôi động hơn và tạo ra sự cạnh tranh gay gắt cần thiết cho sự vươn lên của các nhà thầu trong nước. Theo nhận xét của một số nhà thầu có uy tín thì chính nhờ việc tham gia đấu thầu cùng với các nhà thầu nước ngoài đã giúp cho các nhà thầu Việt nam từng bước trưởng thành, năng lực được tăng lên rõ rệt, hiểu hơn về cơ chế thầu và chính sự tiến bộ về kỹ thuật, cải tiến công nghệ lại quản lý tốt nên các nhà thầu đã bỏ được giá thấp và thắng thầu trong một số cuộc đấu thầu quốc tế. Tuy nhiên các nhà thầu Việt nam đã gặp phải rất nhiều khó khăn khi tham gia các dự án có vốn đầu tư nước ngoài. Một thực tế là hầu hết các dự án có vốn đầu tư nước ngoài đều do phía nước ngoài đứng ra đầu thầu hoặc chọn nhà thầu từ tư vấn đến thi công xây lắp. Các nhà thầu Việt nam khi được chọn thường chỉ là những nhà thầu phụ, thậm trí phụ của phụ ở những hạng mục công trình khó khăn nhất. Nhà nước đã qui định các dự án đầu tư có vốn nước ngoài phải thực hiện đấu thầu tại Việt nam và các nhà thầu tham dự đấu thầu quốc tế tại Việt nam phải cam kết liên doanh với một nhà thầu Việt nam hoặc sử dụng thầu phụ là các nhà thầu Việt nam nhưng do nguồn gốc của các loại vốn đầu tư phụ thuộc nhiều vào nước ngoài nên việc đấu thầu xây dựng bị chi phối bởi phía nước ngoài. Cụ thể: - Công trình 100 % vốn nước ngoài : chủ đầu tư thường chỉ định thầu của chính nước mình. Riêng công trình thuộc vốn nhà nước của nước ngoài thì đấu thầu tại nước đó và do cơ quan quản lý nguồn vốn của nước đó chủ trì và chỉ gọi thầu các công ty của nước có vốn đầu tư. - Các công trình viện trợ không hoàn lại: nguồn vốn viện trợ không hoàn lại của nước ngoài được nhà nước ta xếp vào nguồn vốn ngân sách nhà nước nhưng việc chi tiêu theo qui định của nước ngoài viển trợ và như vậy các nhà thầu nước đó sẽ nắm lợi thế tuyệt đối để thắng thầu. - Các công trình bằng vốn viện trợ cho vay lãi suất thấp: Phương thức đấu thầu của các công trình này cũng bị các điều kiện của bên cho vay khống chế. Các điều kiện này rất bất lợi cho các nhà thầu trong nước. - Với các công trình có vốn liên doanh theo luật đầu tư phải tổ chức đấu thầu. Các liên doanh ở nước ta quyền lực thường nghiêng về phía nước ngoài do tỷ lệ vốn của họ cao hơn. Đa số các liên doanh đều tổ chức đấu thầu hạn chế và đa số các nhà thầu được gọi là từ nước ngoài, nếu các nhà thầu Việt nam tham dự thì ngay trong giai đoạn sơ tuyển họ đã tìm cách loại bỏ. Khó khăn nữa mà các nhà thầu trong nước gặp phải khó khăn đó là các nhà thầu nước ngoài vào Việt nam với một sức mạnh nổi trội về năng lực tài chính, về năng lực quản lý, trang thiết bị ...Họ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc28880.doc
Tài liệu liên quan