Đề tài Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Hà Nội: Thực trạng và giải pháp

Số dự án công nghiệp được đầu tư nhiều trong giai đoạn 1989 -2000 (137 dự án) xong quy mô vốn đầu tư không lớn, mức vốn bình quân cho một dự án khoảng 3 triệu USD, nhỏ hơn nhiều so với các dự án bất động sản: khách sạn, văn phòng, căn hộ.(có mức bình quân khoảng 20 triệu USD). Tuy nhiên, tỷ trọng vốn đầu tư công nghiệp trong cơ cấu đầu tư trực tiếp nước ngoài qua các năm có tăng trưởng: 23% năm 1996, 27% năm 1997, 29% năm 1998, 33% năm 1999, 34% năm 2000. Cơ hội xúc tiến đầu tư trong các lĩnh vực đầu tư thu lợi nhận cao (khách sạn, văn phòng, căn hộ cho thuê,.) đang dần bị thu hẹp, giai đoạn 1990 - 1995 tỷ trọng vốn đầu tư cho các dự án bất động sản là 65%, giai đoạn 1996 - 2000 là 35%. Các dự án đầu tư ngành công nghiệp đang được phát triển nhưng phần lớn là các ngành dịch vụ và công nghiệp nhẹ với quy mô vốn rất nhỏ, tỷ trọng vốn pháp định trong vốn đầu tư đăng ký đạt khoảng 31%, trong đó tỷ trọng góp vốn pháp định của bên Việt Nam đạt khoảng 26 -30%.

doc68 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1440 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Hà Nội: Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nhu cầu lao động giản đơn. Cùng với sự tiếp nhận vốn đầu tư nước ngoài, Hà Nội có cơ hội học tập kinh nghiệm quản lý, trình độ khoa học công nghệ cao và các cơ hội đào tạo khác. Điều này sẽ góp phần nâng cao chất lượng, kỹ thuật và trình độ của lực lượng lao động tại Hà Nội. Tính đến quối năm 2000, Hà Nội đã thu hút được 23660 lao động tại khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đã được đào tạo và tiếp cận với trình độ kỹ thuật và quản lý tiên tiến (trong 23660 lao động có: 1,8% số người có học vị tiến sĩ, thạc sĩ; 15% số người đã tốt nghiệp đại học; 76% số công nhân lành nghề đã qua đào tạo). Do vậy, khu vực này không chỉ giải quyết được việc làm đối với một phần đáng kể lực lượng lao động có kỹ thuật mà còn tác động hình thành lên một đội ngũ lao động quản lý kỹ thuật có đủ năng lực và trình độ để điều hành, quản lý kinh doanh theo cơ chế thị trường và đáp ứng được những yêu cầu mới trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. 2.3. Đầu tư trực tiếp nước ngoài và thu nhập 2.3.1. thu nhập của doanh nghiệp và người lao động Khu vực kinh tế có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Hà Nội là một trong những lĩnh vực vô cùng hấp dẫn đối với lực lượng lao động, và đặc biệt là các lao động trẻ có trình độ, những thanh niên mới tốt nghiệp các trường đại học. Sự hấp dẫn đó trước hết là mức thu nhập cao, ngoài ra có thể kể đến môi trường, điều kiện lao động tốt, có khả năng trau dồi kinh nghiệm được học tập và đào tạo... tuy không có được những số liệu cụ thể, nhưng rõ ràng là những người làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hiện được hưởng mức lương trung bình cao hơn nhiều các doanh nghiệp nhà nước hay tư nhân khác ở Việt Nam. Tóm lại, có thể nói vốn đầu tư nước ngoài là một nhân tố quan trọng giúp tăng thu nhập của người dân lao động. Còn đối với bản thân các doanh nghiệp, trong 12 năm (1989-2000), giá trị doanh thu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sau khi vận hành đạt trên 3,99 tỷ USD - đây là một con số khả quan. Ta có thể xem xét bảng số liệu về doanh thu của họ như sau: Bảng 12: Doanh thu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại hà nội giai đoạn 1990-2000 Năm 1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 Doanh thu (triệu USD) 11 23 75 130 254 405 500 622 650 695 736 Tăng trưởng (lần) - 2,09 3,26 1,73 1,95 1,59 1,23 1,24 1,93 1,04 1,06 ( Nguồn:Báo cáo tổng hợp- sở kế hoạch và đầu tư hà nội). Doanh thu của các doanh nghiệp này liên tục tăng qua các năm với tốc độ tăng trưởng cao và tương đối ổn định cho dù một số năm vừa qua lượng vốn đầu tư vào Hà Nội có giảm sút so với trước đây. Như vậy, các doanh nghiệp không ngừng mở rộng quy mô doanh thu của mình, đây là tiêu đề căn bản cho việc thu lợi nhuận (hay nói cách khác là tăng thu nhập) của doanh nghiệp. 2.3.2. Thu ngân sách Một trong những lợi ích quan trọng của nhà nước Việt Nam đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là các khoản nộp thuế. Trong thời gian thực hiện luật đầu tư nước ngoài tại Hà Nội giai đoạn 1989 - 2000, số thuế đạt ngân sách 519,5 triệu USD, cụ thể phân theo các năm như sau: bảng 13: Thu ngân sách từ các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Hà Nội giai đoạn 1990-2000 Năm 1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 Thu ngân sách (triệu USD) 2,5 4 9 14 26 39 50 88 93 95 98,5 Tăng trưởng (%) - 60 125 55,56 85,71 50 28,21 76 5,68 1,02 3,68 (nguồn:Báo cáo tổng hợp- sở kế hoạch và đầu tư hà nội). Việc nộp thuế, tăng một lần nữa khẳng định các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có được thu nhập (lợi nhuận) ngày càng cao, nghĩa là lợi ích của các doanh nghiệp (cho dù vốn đầu tư không tăng) vẫn đạt được sự tăng trưởng. Tóm lại, cho dù số việc làm tạo ra chững lại trong vài năm gần đây, thì thu nhập của người lao động Việt Nam và của nhà nước vẫn tiếp tục tăng từ các hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Hà Nội. 3. Một số tồn tại của đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Hà Nội Trong thời gian qua, tình hình thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Hà Nội đã đạt được một số thành tựu đáng kể nhưng cũng còn một số tồn tại, hạn chế cần khắc phục như: Một là, đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Hà Nội chưa tương xứng với tầm vóc, vị trí, thế mạnh của Hà Nội; đầu tư nước ngoài chững lại trong những năm gần đây. Giai đoạn 1996 - 2000 vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài giảm mạnh: nhịp độ giảm trung bình của vốn đầu tư đăng ký qua các năm từ 15% - 22%, nhịp độ giảm trung bình của vốn đầu tư thực hiện là 28 - 35%. Đặc biệt trong năm 2000, vốn đầu tư đạt thấp nhất kể từ năm 1990 đến nay, vốn đăng ký giảm 72% so với năm 1999, vốn thực hiện của các dự án giảm 56%. Tình hình giảm xút của FDI tại Hà Nội thời gian qua cho thấy Thành phố chưa khai thác được những lợi thế của mình. Hai là, cơ cấu vốn đầu tư theo các lĩnh vực chưa hợp lý. Cơ cấu vốn đầu tư vào lĩnh vực công nghiệp còn thấp (trung bình chiếm 19,42%trong giai đoạn 1989 - 2000),trong khi đó, vốn đầu tư tập trung vào lĩnh vực bất động sản, du lịch khách sạn (trung bình chiếm 46% trong giai đoạn 1989 - 2000). Tỷ trọng đầu tư nhiều vào lĩnh vực bất động sản, ngoài một số điểm tốt còn có các vấn đề tiềm ẩn, cụ thể là:có thể gây biến động mạnh giá cả trên thị trường nhà đất không chính thức, gây sự khan hiếm giả tạo, các cơn sốt giá đất nếu các doanh nghiệp có xu hướng đầu cơ bất động sản. Ngoài ra, với số lượng khách sạn, căn hộ cho thuê trong thành phố hiện nay, không cần tiếp nhận thêm đầu tư vào lĩnh vực này thì mặt cung đã lớn hơn nhiều mặt cầu. Do vậy, các khách sạn lớn nhỏ đều có hệ số sử dụng (thuê phòng) rất thấp, gây lãng phí một lượng lớn nguồn lực. Ba là, các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài đang thực hiện dở dang còn nhiều. Trên địa bàn Hà Nội, các dự án đang thưc hiện dở dang phải đình lại vì không có vốn để tiếp tục như các dự án: trung tâm thương mại PLAZA, LAKE VIEW, hà nội vàng, khu đô thị Nam Thăng Long, Bắc Thăng Long....Các đối tác hoặc đã rút về nước, đơn phương phá bỏ hợp đồng đầu tư hoặc không góp vốn đúng theo tiến độ quy định trong hợp đồng đã ký. Vì vậy, Hà Nội đang gặp rất nhiều khó khăn trong việc tìm ra các đối tác mới cho các dự án này. Bốn là, bên Việt Nam trong liên doanh gặp nhiều khó khăn và thường bị thua thiệt trong ra quyết định. Cán bộ là yếu tố quyết định nhưng đang là khâu yếu nhất, hầu hết các cán bộ việt nam được cử sang làm trong các liên doanh thiếu kinh nghiệm quản lý, kiến thức chuyên môn, chưa nắm vững pháp luật và thương trường, hạn chế về ngoại ngữ. Một số cán bộ chưa thấy hết trách nhiệm của mình trong vai trò đại diện sở hữu nhà nước trong liên doanh, còn kiêm nhiệm chức vụ của doanh nghiệp Việt Nam. Tổ chức công đoàn tại các liên doanh chưa phát huy tốt tác dụng, các tổ chức Đảng còn lúng túng trong việc tổ chức thành lập cũng như phương thức hoạt động. 4.Nguyên nhân Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Hà Nội thời gian qua có xu hướng giảm sút có thể lý giải do các nguyên nhân sau: 4.1.Nguyên nhân chủ quan Môi trường đầu tư còn một số thiếu sót nhất định (đây là nguyên nhân chủ yếu của sự giảm sút FDI tại Hà Nội) Thứ nhất, hiệu quả của các dự án FDI trước đây không gây được nhiều lòng tin cho các nhà đầu tư nước ngoài. Trong 452 dự án đã được cấp giấy phép đầu tư trên địa bàn thời gian qua thì có tới 91 dự án giải thể, rút giấy phép đầu tư trước thời hạn (chiếm 20% tổng số dự án). Với số vốn đầu tư giải thể khoảng 900 triệu USD. Một phần lý do của tình trạng này là do: quộc khủng hoảng tài chính tiền tệ châu á, công ty mẹ bị phá sản, mất cơ hội đầu tư, mất đoàn kết nội bộ. Nhưng nguyên nhân chính vẫn là: quá trình thẩm định các dự án không tốt (thẩm định về khả năng tài chính, của các chủ đầu tư và tính khả thi của dự án), dẫn tới tình trạng dự án đã được cấp giấy phép không có khả năng tài chính để thực hiện dự án (31 dự án). Trong 360 dự án đang hoạt động có 48% doanh nghiệp hoạt động có lãi, 24% doanh nghiệp hoạt động bình thường, 15% doanh nghiệp lỗ và 13% doanh nghiệp khó khăn về tài chính, chưa triển khai hoạt động, giãn tiến độ thực hiện (đặc biệt là một số dự án lớn như: khu đô thị Nam Thăng Long - Ciputra, Bắc Thăng Long, Sông Hồng - City, khu công nghiệp Sài Đồng A,...). Thứ hai, các thủ tục pháp lý để được cấp giấy phép đầu tư còn phức tạp, mất thời gian, đổi khi còn phát sinh nhiều chi phí bên ngoài. Các thủ tục hành chính: đăng ký trụ sở, đăng ký kinh doanh, mở tài khoản, đăng ký bưu chính viễn thông,... còn rườm rà, làm chậm tiến độ triển khai các dự án. Theo luật đầu tư nước ngoài năm 1996 thì giấy phép đầu tư có giá trị là giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, tuy nhiên, trong thời gian qua ở Hà Nội vẫn tồn tại tình trạng, đó là: sau khi xây dựng xong, chủ đầu tư muốn đưa vào khai thác kinh doanh các công trình như khách sạn, văn phòng, căn hộ cho thuê,... phải đăng ký giấy phép nhiều cơ quan liên quan, đặc biệt là các dự án trong lĩnh vực văn hoá thông tin, cụ thể: đăng ký giấy phép đủ điều kiện kinh doanh nghành nghề đặc biệt của cơ quan Công an; giấy kinh doanh vũ trường karaoke, của Sở Văn hóa Thông tin; giấy kinh doanh vật lý trị liệu của Sở Y tế; giấy kinh doanh hoạt động thể dục thể thao của Sở Thể dục - Thể thao; giấy kinh doanh vận chuyển của Sở Giao thông. Có nhiều loại giấy phép như: phòng cháy chữa cháy, đăng ký kinh doanh tàu, bến tàu,... cứ 6 tháng một lần phải đổi đăng ký kinh doanh, điều đó làm mất nhiều thời gian của chủ doanh nghiệp. Thêm vào đó, thủ tục đăng ký biểu diễn nghệ thuật tại khách sạn, khu căn hộ rất phức tạp: mỗi lần biểu diển phải xin giấy phép của Sở Văn hóa Thông tin, đăng ký danh sách diễn viên, các bài hát, bản nhạc, phải báo cáo với phường sở tại (mặc dù các đoàn diễn hoặc các diễn viên có giấy phép kinh doanh). Thứ ba, có sự phân biệt về cung cấp dịch vụ kỹ thuật giữa doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài với doanh nghiệp trong nước thông qua phí, lệ phí, thuế và các hình thức khác. Chẳng hạn như việc áp dụng cước phí điện, điện thọai: cước phí điện áp dụng đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài gấp 1,82 lần so với các doanh nghiệp trong nước, cước điện thọai gấp 2,75 lần. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cũng là một pháp nhân của Việt Nam mà lại có sự phân biệt đối xử như vậy sẽ tạo ra sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các loại hình doanh nghiệp trên thị trường. Thứ tư, vấn đề đền bù và giải phóng mặt bằng và tái định cư trên địa bàn Thành phố còn gặp nhiều khó khăn, chưa có định hướng cụ thể, chế độ chính sách thiếu đồng bộ, thiếu kiên quyết, còn giải quyết theo cảm tính ( giá đền bù giải phóng mặt bằng còn cao, gấp 3-5 lần so với các địa phương khác trong cả nước). Thứ năm, quy hoạch tổng thể của thủ đô đến năm 2020 đã được chính phủ phê duyệt nhưng quy hoạch chi tiết chưa được thông qua dẫn đến sự khó khăn trong việc lựa chọn khu vực đầu tư tại Hà Nội (đặc biệt là các dự án có quy mô xây dựng lớn, cao tầng). Thứ sáu, sức mua hàng hoá và dịch vụ trên thị trường Hà Nội giảm đáng kể, không tạo đủ cầu để kích thích sản xuất cũng như đầu tư. Đây là tình trạng chung của cả nước những năm gần đây chứ không riêng gì ở Hà Nội, Chính phủ đã phải thực hiện giải pháp kích cầu để nâng cao sức mua của hàng hoá và dịch vụ trên thị trường nhưng xem ra không mấy khả quan. Như chúng ta đã biết, lạm phát ngoài tác động tiêu cực còn thúc đẩy sự phát triển kinh tế của một quốc gia, phản ánh sức mua hàng hoá trên thị trường. Theo các nhà nghiên cứu kinh tế thì tốc độ lạm phát trên dưới 10% là tối ưu cho sự phát triển nền kinh tế, trong khi đó ở Việt Nam hai năm 1999, 2000 xẩy ra hiện tượng thiểu phát (lạm phát năm 2000 là -0,6%). Thứ bảy, luật đầu tư nước ngoài đang trong giai đoạn sửa đổi và hoàn thiện làm cho các chủ đầu tư nước ngoài nghiên cứu và cân nhắc kỹ lưỡng hơn trong việc đầu tư vốn để đạt lợi nhuận khả dĩ tại Hà Nội nói riêng và Việt Nam nói chung. Trong thời gian 13 năm kể từ khi Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ban hành luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đến nay đã sửa đổi bổ xung 4 lần, làm cho môi trường luật pháp không ổn định dẫn tới tâm lý không yên tâm của các chủ đầu tư nước ngoài. Bên cạnh đó, nhận thức quan điểm liên quan đến đầu tư trực tiếp nước ngoài còn chưa thống nhất. Trên nhiều vấn đề liên quan đến đâu tư trực tiếp nước ngoài còn có sự khác nhau về nhận thức, quan điểm, như: về hiệu quả của FDI, về việc cho phép tư nhân hợp tác đầu tư nước ngoài, về tỷ lệ góp vốn của phía Việt Nam, về lựa chọn và cho phép các hình thức đầu tư, về quy mô phát triển các khu công nghiệp, về máy móc thiết bị đã qua sử dụng,... điều đó trong một số trường hợp dẫn đến lúng túng trong hoạch định chính sách và điều hành, làm chậm tiến độ xem xét dự án và lỡ cơ hội thu hút FDI, làm một trường đầu tư kém hấp dẫn. Ngoài ra, cùng với việc báo chí viết về các mặt tiêu cực của FDI dẫn đến sự chưa nhất trí về FDI trong dư luận xã hội. Khung pháp luật và hệ thống các văn bản dưới luật của các bộ, ngành chuyên môn nhìn chung chưa đủ hấp dẫn so với chính sách kêu gọi đầu tư của các nước xung quanh, các văn bản hướng dẫn thường ban hành chậm, chưa dõ ràng hoặc khó thực hiện, đặc biệt là chính sách thuế, giá dịch vụ, các chi phí quảng cáo..., chưa tạo “sân chơi” bình đẳng giữa các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài, giữa doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp trong nước. Ngoài ra, sự phố hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước của Hà Nội để thực hiện quyết định số 14/1999/QĐ-UB của Uỷ ban Nhân dân Thành phố Hà Nội về ban hành “Quy chế thống nhất một đầu mối về tổ chức thực hiện vệc hình thành hồ sơ, thẩm định dự án, xét duyệt cấp giây phép đầu tư và quản lý nhà nước các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài trên địa bàn Hà Nội” chưa chặt chẽ, giải quyết các thủ tục sau khi cấp giấy phép đầu tư còn chậm, đặc biệt các vấn đề về quy hoạch xây dựng, đất đai, xuất nhập khẩu, hải quan,... 4.2. Nguyên nhân khách quan 4.2.1. Do cuộc khủng hoảng tài chính- tiền tệ châu á Cuộc khủng hoảng này gây hậu quả nặng nề cho một số đông các nước trong khu vực trong đó có không ít các chủ đầu tư lớn của Hà Nội, nay họ buộc phải rút vốn hay cắt giảm dần vốn đầu tư để có tiềm lực đối phó với các khó khăn của mình ở trong nước. Đồng thời, thì trường xuất khẩu truyền thống của Hà Nội bị ảnh hưởng bởi tình trạng suy thoái và khủng hoảng về kinh tế (đặc biệt là các thị trường Đông Nam á, Hàn Quốc, ấn Độ...) đó cũng là nhân tố tác động tới tình hình đầu tư nước ngoài. 4.2.2.Sự cạnh tranh mạnh mẽ trong thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của các nước trong khu vực Trong quan hệ quốc tế xuất hiện sự cạnh tranh của nhiều thị trường đầu tư lớn và mới như: Trung Quốc, ấn Độ, Indonesia, Miến Điện, Pakistan, Srilanca, Phillipin... các nước này đều có chính sách đầu tư hấp dẫn và luôn cải thiện tốt các điểu kiện để cạnh tranh thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trên thế giới từ các nước phát triển và đang phát triển bị hạn chế, không tăng. Sự cạnh tranh trong thu hút vốn FDI hiện nay trên thế giới, Việt Nam tỏ ra yếu thế mặc dù Việt Nam nói chung và Hà Nội nói riêng có lợi thế về lao động rẻ. Một số quy định chưa mang tính hấp dẫn đối với nhà đầu tư nước ngoài như: chương trình nội địa hoá đối với các dự án công nghiệp nặng (điểm xuất phát phải đạt 25%, quy định xuất khẩu trên 80% đối với lĩnh vực đầu tư vào Việt Nam) các quy định về chi phí trong sản xuất khinh doanh cao hơn so với các nước trong khu vực, cụ thể như: cước điện thoại cao gấp 5,5 lần, giá điện cao hơn gấp 1,5 lần, giá nước sạch cao hơn gấp 1,2 lần,... các chi phí trong sản xuất cao dẫn tới giá thành sản phẩm cao, giảm sức cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường quốc tế. 4.2.3. Sự cạnh tranh thu hút đầu tư của địa phương trong nước diễn ra mạnh mẽ Trong nước, thời gian qua, đã và đang hình thành các khu vực, thị trường đầu tư nội địa, các địa phương cố gắng tạo ra những chính sách ưu đãi, những điều kiện đầu tư thuận lợi nhất để lôi kéo thu hút các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vốn vào thị trường của mình như: Thành phố Hồ Chí Minh, Quảng Ninh, Bình Dương, Đồng Nai... phần lớn các nhà đầu tư sản xuất công nghiệp tập trung đầu tư vốn vào khu vực phía Nam, là khu vực có điều kiện địa lý, kinh tế, hạ tầng thuận lợi hơn, tạo ra sự mất cân đối trong cơ cấu đầu tư nước ngoài trên phương diện cả nước. Cơ cấu vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Đồng Nai và Bình Dương là một minh chứng cụ thể: tại Đồng Nai, vốn FDI đầu tư vào lĩnh vực công nghiệp chiếm 95% tổng vốn đầu tư, 79% số dự án đầu tư vào các khu công nghiệp quy hoạch; tại bình dương, vốn FDI chủ yếu vào ngành công nghiệp với tỷ trọng 97% tổng số dự án và 88% tổng vốn đầu tư, riêng hai tháng đầu năm 2001, Bình Dương đã có 14 dự án được cấp giấy phép đầu tư với tổng vốn đăng ký là 36,99 triệu USD. Một kinh nghiệm của hai tỉnh đồng nai và bình dương đã được Hà Nội áp dụng, đó là: xây dựng các khu công nghiệp tập trung, nhưng tình hình thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các khu công nghiệp tập trung thời gian ở Hà Nội không mấy khả quan. Chương III một số giải pháp và kiến nghị nhằm tăng cường thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại hà nội đến năm 2010 I. phương hướng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào hà nội đến năm 2010 1. Quan điểm thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài Thành phố Hà Nội là địa bàn có nhiều khả năng, lợi thế lớn để phát huy các nguồn lực để phát triển kinh tế, là nơi tập chung các ngành nghề, các đầu mối giao thông, các cơ quan nghiên cứu khoa học và nguồn nhân lực. Hà Nội có vai trò quan trọng trong chiến lược phát triển vùng tam giác kinh tế vùng đồng bằng Bắc Bộ (Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh) và chiến lược phát triển kinh tế của cả nước. Thành phố đang trong quá trình cải tạo và xây dựng các khu đô thị, khu công nghiệp mới. Một số lĩnh vực kinh doanh dịch vụ như: du lịch, thị trường chứng khoán, tiền tệ, môi giới, giao dịch thương mại, tư vấn đầu tư, tài chính,... có khả năng phát triển mạnh. Tuy nhiên, nhiều tiềm năng về lao động, đất đai chưa được khai thác triệt để, nhất là khu vực ngoại thành. Vì vậy, trong thời gian tới Thành phố cần có kế hoạch thu hút và phân bổ vốn FDI nhằm khai thác triệt để tiềm năng về đất đai, lao động và những lợi thế sẵn có của Hà Nội. Để phát huy tiềm năng, Thành phố cần có một nguồn vốn rất lớn mà nếu chỉ huy động nguồn vốn trong nước thì chưa đủ, phải có các nguồn vốn hỗ trợ từ bên ngoài, trong đó có đầu tư trực tiếp nước ngoài. Trong giai đoạn từ nay đến năm 2010, đối với Thành phố Hà Nội việc huy động vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vẫn là một động lực quan trọng để đẩy mạnh phát triển kinh tế xã hội, tạo đà cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá thủ đô trong thế kỷ XXI. Công tác tiếp nhận vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài rất phức tạp, đa dạng và liên quan đến nhiều ngành, nhiều cấp, đòi hỏi Thành phố phải có các bước đi thích hợp trong từng giai đoạn. Đồng thời phải có sự lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ của Đảng bộ, Thành phố, tạo lên sự thống nhất trong hành động của các cấp uỷ, chính quyền và đơn vị. Bên cạnh đó, Thành phố cần phát huy nội lực của mình thông qua việc huy động các nguồn vốn dư thừa trên địa bàn nhằm tăng cường liên doanh và hợp tác đầu tư với nước ngoài. Từ quan điểm “coi vốn đầu tư trong nước là quyết định, vốn bên ngoài là quan trọng” đến “phát huy nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, cần kiệm để công nghiệp hoá - hiện đại hoá” là một bước tiến lớn trong đường lối chỉ đạo phát triển kinh tế của Đảng và nhà nước ta. Khi tiến hành khai thác và sử dụng nguồn vốn đầu tư nước ngoài, chúng ta cần có những nhìn nhận đúng về nguồn vốn này, đặc biệt cần xem xét vai trò và ảnh hưởng của nó đối với nền kinh tế nước ta nói chung và Hà Nội nói riêng. Như chúng ta đã biết, FDI cũng như ODA đều là nguồn tài chính từ bên ngoài, là ngoại lực. Nhưng rõ ràng, FDI khác ODA ở điểm là không gây ra tình trạng nợ nần cho thế hệ mai sau và việc tiếp nhận FDI của nước nhận đầu tư không bị bất kỳ một điều kiện nào về chính trị ràng buộc. 2. Mục tiêu thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài Trong giai đoạn hiện nay cũng như những năm sắp tới, nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vẫn giữ vai trò quan trọng góp phần chuyển biến cơ cấu kinh tế quốc dân. Nguồn vốn này chiếm tỷ trọng đáng kể trong GDP của cả nước nói chung và Hà Nội nói riêng. Hiện nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài chiếm 54% tổng số vốn đầu tư của Thành phố. Các dự án đầu tư nước ngoài đi vào hoạt động trở thành một bộ phận không thể tách rời trong chỉnh thể nền kinh tế nước ta và đem lại những hiệu quả kinh tế- xã hội, tạo việc làm cho người lao động, làm ra sản phẩm tiêu dùng trong nước và xuất khẩu,... Trong thời gian gần đây, số dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài vào vốn đăng ký vào Hà Nội và cả nước có giảm sút. Nhưng đó không thể coi là căn cứ xác đáng để đánh giá bi quan tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài vào nước ta. Quan trọng hơn cả là chúng ta phải chuẩn bị đủ thế và lực, phải có sự tỉnh táo để lựa chọn đối tác, đem lại hiệu quả cao nhất cho sự phát triển kinh tế đất nước. Trước tình hình như vậy và triển vọng trong tương lai, nghị quyết Đại hội Đảng bộ Thành phố lần thứ 13 đã xác định mục tiêu cơ bản của Thành phố Hà Nội đến năm 2005 và các năm tiếp theo với các chỉ tiêu chủ yếu sau: Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm là 10-11%. GDP bình quân đầu người tăng 11%/năm. Tốc độ tăng giá trị sản xuất công nghiệp là 14,5-15,5%. Tốc độ tăng giá trị cung cấp dịch vụ là 9-10%/năm. Tốc độ tăng giá trị sản xuất nông nghiệp là 3,5-4%/năm. Tốc độ kim ngạch xuất khẩu hàng năm là 16-18%. Định hướng đến năm 2010, tổng sản phẩm xã hội (GDP) của Hà Nội tăng 2.7 lần, thu nhập bình quân của nhân dân tăng 2 lần so với năm 2000. Tốc độ tăng trưởng GDP hàng năm khoảng 10 - 11%, tốc độ tăng giá trị sản xuất công nghiệp bình quân đạt 14 - 15%/năm, dịch vụ đạt 10-10,5%/năm, nông nghiệp đạt 2,5 - 3%/năm, xuất khẩu đạt 16 - 18%/năm. Nghị quyết của Đảng bộ Thành phố cũng đã nhấn mạnh nhiệm vụ hàng đầu là phát triển kinh tế theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hoá. Những nội dung cơ bản của nhiệm vụ này là căn cứ quan trọng, định hướng cho mục tiêu, nhiệm vụ phát triển các hoạt động kinh tế đối ngoại của Thành phố nói chung và đầu tư trực tiếp nước ngoài nói riêng. Để thực hiện những mục tiêu kinh tế xã hội đã đề ra đầu thế kỷ XXI, Thành phố hà nội định hướng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào hà nội đến năm 2010 sẽ là 13,4 tỷ USD với việc phân chia giai đoạn như sau: * Giai đoạn 5 năm (2001 - 2005) thu hút vốn đầutư trực tiếp nước ngoài tăng trưởng hơn so với giai đoạn 1996 - 2000, cụ thể: vốn đầu tư đăng ký đạt 4800 triệu USD (tăng trưởng 4,5% so với giai đoạn 1996 - 2000), nhịp độ tăng trung bình qua các năm từ 12 -18%. Vốn đầu tư thực hiện đạt 2350 triệu USD (tăng trưởng 9% so với giai đoạn 1996 - 2000), nhịp độ tăng trung bình qua các năm từ 16 -25%. * Giai đoạn 5 năm (2006-2010) thu hút vốn đầu tư tăng trưởng hơn nhiều so với giai đoạn 2001 - 2005, cụ thể: Vốn đầu tư đăng ký đạt 8600 triệu USD (tăng trưởng 56% so với giai đoạn 2001 - 2005), nhịp độ tăng trung bình qua các năm từ 15 -22%. Vốn đầu tư thực hiện đạt 3280 triệu USD (tăng trưởng 43% so với giai đoạn 2001 - 2005), nhịp độ tăng trung bình qua các năm từ 12 -18%. Cơ cấu đầu tư chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá đô thị. Việc thu hút và sử dụng các nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài được tấp chung vào lĩnh vực: công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu, thay thế nhập khẩu; du lịch, dịch vụ nhằm tăng thu ngoại tệ. ưu tiên cho những dự án sản xuất có công nghệ và kỹ thuật tiên tiến, thu hút nhiều lao động, những dự án lớn đầu tư tập trung như các trung tâm thương mại, các khu vui chơi giải trí cũng như các dự án kinh doanh dịch vụ có hiệu quả cao; những dự án giao thông công cộng; xây mới, cải tạo nâng cấp cơ sở hạ tầng đô thị như: đường xá, cầu vượt, bến cảng hoặc những dự án góp phần nâng cao đời sống văn hoá, tinh thần của nhân dân thủ đô. Thành phố hà nội tập chung khuyến khích phát triển các dự án lớn, có tầm cỡ chiến lược. Hiện tại thành phố khuyến khích đầu tư vào các khu công nghiệp tập chung như: Khu công nghiệp nội bài có diện tích 100 ha. Khu công nghiệp sài đồng A có diện tích 420 ha. Khu công nghiệp sài đồng B có diện tích 96 ha. Khu công nghiệp đài tư có diện tích 40 ha. Khu công nghiệp thăng long có diện tích 128 ha. Và ba khu đô thị mới là: - Khu đô thị bắc thăng long có diện tích 273 ha. Khu đô thị nam thăng long có diện tích 392 ha. Khu đô thị sông hồng có diện tích 6 ha. Và nhiều khu vui chơi giải trí sẽ được hình thành như: công viên lênin, công viên mễ trì, các trung tâm thi đấu thể thao như đua ô tô, mô tô, đua ngựa,... Bảng 14: Cơ cấu phân bổ vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Hà nội đến năm 2010 Ngành Tỷ trọng đến năm 2010 (%) Công nghiệp 41 Phát triển đô thị 9 Giao thông - bưu điện 18 Bất động sản 15 Nông lâm nghiệp 4 Tài chính - ngân hàng 6 Các ngành khác 7 ( Nguồn: uỷ ban nhân dân thàn phố hà nội). Trong những năm tới, hà nội khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài vào một số dự án trọng điểm như: Tuyến đường cầu vượt đô thị xuyên tâm (BOT):500 triệu USD. M-POWER (BOT) :150 triệu USD. Trường đua xe máy sóc sơn :100 triệu USD . Tổ hợp vui chơi du lịch sóc sơn :65 triệu USD . Trung tâm giao dịch chứng khoán thương mại : 35 triệu USD . Tổ hợp sản xuất đĩa CD ,CD-ROM và VCD :60 triệu USD. Xử lý rác thải công nghiệp :50 triệu USD . Học viện đại học quốc tế :25 triệu USD . Mạng lưới xe buýt công cộng :150 triệu USD . đường vành đai (BOT) :200 triệu USD . 3. Phương hướng thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài Bên cạnh những tiến bộ đạt được, công tác đầu tư thực tế còn chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển ngày càng cao của thủ đô, mũi nhọn trong các lĩnh vực đầu tư nước ngoài chưa được phát triển rõ nét. Các hoạt động như: xuất nhập khẩu, hợp tác đầu tư, du lịch, tiếp nhận viện trợ,...vẫn còn tình trạng manh múm, chưa thực sự là động lực quan trọng trong việc phát triển kinh tế xã hội của thủ đô. Do đó, trong công tác chỉ đạo, điều hành hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài hiện nay, Đảng bộ thành phố hướng vào những vấn đề trọng tâm sau: 3.1. Thành phố phải hoàn thiện chiến lược phát triển kinh tế xã hội, quy hoạch sử dụng đất để có căn cứ chủ động trong xây dựng kế hoạch và các dự án thu hút vốn đầu tư và tại trợ nước ngoài, đẩy mạnh xuất nhập khẩu hàng hoá hàng năm Trước đây, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trong các niên độ để làm cơ sở cho việc chủ động xây dựng các dự án kêu gọi đầu tư tài trợ nước ngoài chưa được hoạch định rõ ràng, nên phần lớn các dự án được triển khai do các nhà đầu tư đề xuất, còn quy hoạch mặt bằng toàn thành phố và chi tiết các khu vực thì lại triển khai sau khi có đề xuất đó. Bởi vậy, những cơ quan tham mưu của thành phố thường phải chạy theo để thực hiện dự định của các nhà đầu tư. Tình trạng đó hiện nay tuy đã từng bước được chấn chỉnh nhưng thành phố vẫn cần thiết phải tiếp tục hoàn thiện chiến lược phát triển trung về kinh tế - xã hội trong các giai đoạn 5 năm đến năm 2010 và quy hoạch sử dụng đất thì mới có thể thực sự trong việc chuẩn bị mặt bằng, cung ứng các dịch vụ hạ tầng kỹ thuật, chuẩn bị cán bộ, huy động vốn đối ứng và sử lý các vấn đề kinh tế - xã hội có liên quan đến tổ chức triển khai dự án có vốn đầu tư nước ngoài. 3.2. Công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động xuất nhập khẩu, đầu tư và tiếp nhận tài trợ từ nước ngoài trên địa bàn thành phố phải có một cơ chế điều hành đảm bảo tính tập trung, thống nhất Tình trạnh hoạt động xuất khẩu, đầu tư và tiếp nhận tài trợ nước ngoài trên địa bàn thành phố phân tán, không tập trung theo một định hướng và mục tiêu thống nhất đang là vấn đề phức tạp, liên quan đến trách nhiệm chỉ đạo nhiều ngành, nhiều cấp từng trung ương đến địa phương. Do đó, cần phải có một cơ chế điều hành rõ ràng đảm bảo cho sự thống nhất hành động trong chỉ đạo điều hành giữa các cơ quan ở trung ương và Thành phố, giữa các cơ quan quản lý nhà nước ở các lĩnh vực. Các đơn vị kinh tế đóng trên địa bàn phải quán triệt những chương trình mục tiêu, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội hàng năm của Thành phố, đồng thời cần có những biện pháp để vừa hỗ trợ cho các đơn vị thực hiện các nhiệm vụ kinh doanh xuất nhập khẩu, triển khai các dự án đầu tư trực tiếp nhận viện trợ từ nước ngoài, mặt khác, tạo điều kiện cho công tác quản lý của Thành phố chặt chẽ và xây dựng được kế hoạch đầu tư phát triển vững chắc, sát với yêu cầu của công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở thủ đô trong những năm tới. 3.3. cải cách các thủ tục hành chính, hình thành cơ chế, chính sách đồng bộ nhằm phát huy tiềm năng hỗ trợ và khuyết khích các thành phần kinh tế tham gia vào các lĩnh vực kinh tế đối ngoại Mặc dù Thành phố đã có những đổi mới bước đầu theo tinh thần nghị quyết 38/CP nhưng các thủ tục hành chính để triển khai một dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài vẫn còn rườm rà, qua nhiều khâu, làm phí tổn nhiều thời gian công sức của nhà đầu tư và giảm sức hấp dẫn của môi trường đầu tư. Khi nhược điểm này được phát hiện thì sự khắc phục chậm và kém hiệu quả. Bên cạnh đó, các chính sách phát huy năng lực của đội ngũ chuyên gia giàu kinh nghiệm ở các cấp, các ngành trên địa bàn chưa được cụ thể hoá. Nhưng vấn đề này nếu không được quan tâm giải quyết tốt cũng gây trở ngại không ít đến môi trường đầu tư, làm tăng thêm những rủi ro, hạn chế trong quá trình hợp tác đầu tư, kinh doanh đối với các đối tác nước ngoài. 3.4. xây dựng các biện pháp, chính sách cụ thể để từng bước đào tạo, đào tạo lại đội ngũ công chức, viên chức làm công tác kinh tế đối ngoại; nâng cao năng lực xây dựng tổ chức và thực hiện dự án hợp tác đầu tư kinh doanh với nước ngoài ở các cấp, các ngành có liên quan của thành phố II. một số giải pháp và kiến nghị nhăm tăng cường thu hút vốn FDI vào hà nội đến năm 2010. Để đạt được mục tiêu thu hút 13,4 tỷ USD trong giai đoạn 2001 - 2010 và ngăn trặn được xu thế giảm vốn FDI vào Hà Nội trong thời gian tới, uỷ ban nhân dân thành phố, các cơ quan, ban ngành, các doanh nghiệp trên địa bàn hà nội cần thực hiện các giải pháp sau: 1.giải pháp từ phía Thành phố và các cơ quan pháp lý Thứ nhất, thực hiện tốt luật đầu tư nước ngoài mới sửa đổi, tiếp tục cải cách thủ tục hành chính, giảm bớt phiền hà cho nhà đầu tư, luật đầu tư nước ngoài sửa và đổi bổ sung đã được áp dụng từ tháng 7 năm 2000 có một số quy định mới, vì vậy, thành phố cần tuyên truyền rộng rãi đến các cơ quan, ban ngành, đoàn thể trên địa bàn nhằm rút họ tìm hiểu sâu và áp dụng đúng trong các hoạt động liên quan đến đầu tư nước ngoài. Một thực trạng hiện nay ở hà nội nói riêng và các nước nói chung, các cán bộ có thẩm quyền chưa am hiểu sâu về luật pháp đã dẫn tới sự sử lý, chỉ đạo sai lệch, có khi ngược với những quy định trong luật. Vì vậy, việc mở các cuộc thi tìm hiểu và tập huấn luật đầu tư nước ngoài tại thành phố sẽ góp phần không nhỏ trong việc xúc tiến mở rộng thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại hà nội. Về thủ tục hành chính, thành phố cần tinh giảm các thủ tục hành chính, các thủ tục cấp giấy phép hiện quy về một mối, giảm bớt các thủ tục không cần thiết. Thành phố nên áp dụng thủ tục “một cửa, một dấu” trong việc cấp giấy phép đầu tư nhằm đem lại thuận lợi cho các chủ đầu tư. Tại các khu công nghiệp tập chung, nên áp dụng theo cơ chế “một cửa, tại chỗ” để hỗ trợ nhà đầu tư giảm thiểu thời gian, công sức và chi phí đi lại liên hệ công tác với cơ quan, ban ngành ở địa phương cũng như ở trung ương; nhà đầu tư chỉ cần liên hệ với một cơ quan là ban quản lý khu công nghiệp còn các việc xin ý kiến các sở, ngành ở tỉnh, các bộ ở Trung ương là do ban quản lý chủ động liên hệ, thực hiện (cơ chế này đã được áp dụng và tỏ ra có hiệu quả tại bình dương và đồng nai). Cải cách hành chính trong công tác hướng dẫn, xét duyệt, thẩm định cấp giấy phép đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi để các nhà đầu tư nhận được giấy phép đầu tư trong thời gian hợp lý (quy định trong luật đầu tư nước ngoài). Tuy nhiên, việc tinh giảm thủ tục hành chính trong cấp giấy phép đầu tư không có nghĩa là giảm tới mức ngắn nhất khi cấp giấy phép (tại bình dương, quý I vừa qua đã áp dụng cơ chế cấp giấy phép cho các nhà đầu tư chỉ có một ngày kể từ khi nhận được hồ sơ hợp lệ), bởi vì: với một thời gian quá ngắn sẽ làm cho công tác thẩm định phải tiến hành nhiều công việc, không đánh giá được hết những tác động của dự án đối với kinh tế - xã hội của địa phương cũng như hiệu quả của dự án. bên cạnh đó, khi nhận được giấy phép trong thời gian quá ngắn các chủ đầu tư sẽ có tâm lý chủ quan và đánh giá không tốt về hoạt động thẩm định. Vì vậy, thời gian ngắn nhất chưa hẳn đã là giải pháp tối ưu mà vấn đề mấy chốt ở đây là phải đề cao tính hiệu quả của hội đồng thẩm định cấp giấy phép đầu tư. Ngoài ra, thành phố cũng cần cải thiện các thủ tục về thuế đất, giải phóng mặt bằng và bồi thường... để tạo điều kiện thuận lợi cho các dự án FDI đây nhanh tiến độ triển khai dự án. thành phố cần soát xét lại giá cho thuê đất, giải quyết dứt điểm vấn đề đền bù, giải phóng mặt bằng đang gây ách tắc đối với việc triển khai dự án, xem xét việc chấm dứt cơ chế góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất; chuyển sang chế độ cho thuê đất, cho phép doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được vay tín dụng tại các tổ chức tín dụng hoạt động tại việt nam; xây dựng quy chế hoạt động tài chính của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Thứ hai, khai thác hơn nữa lợi thế của Hà Nội để tạo nhiều cơ hội thuận lợn kêo gọi đầu tư trực tiếp nước ngoài. Trong thời gian tới, thành phố cần xem xét một cách kỹ lưỡng, phân tích những lợi thế và bất lợi của mình để từ đó tìm ra những biện pháp hữu hiệu phát huy lợi thế, giảm thiểu bất lợi trong thu hút FDI. Thành phố cần có kế hoạch, xây dựng các dự án kết hợp với các địa phương phụ cận nhằm phát huy lợi thế trung tâm của mình và giúp các địa phương khác có kế hoạch hợp lý tạo thị trường cung cấp các yếu tố đầu vào cũng như tiêu thụ sản phẩm của các dự án FDI tại Hà Nội; nguồn nhân lực của địa phương có trình độ cao, vì vậy, Hà Nội cần xây dựng danh mục các dự án kêu gọi đầu tư đòi hỏi kỹ thuật công nghệ cao nhằm triệt để khai thác tiềm lực “chất xám” của mình; Uỷ ban nhân dân Thành phố cần có chính sách khuyến khích và có kế hoạch phối hợp với các trường đại học, các viện nghiên cứu tham gia vào hoạt động xúc tiến đầu tư, xây dựng quy hoạch chi tiết Thành phố, lập các dự án kêu gọi vốn FDI và đào tạo nguồn nhân lực cho các dự án FDI tại Hà Nội. Thành phố nên xây dựng trang Web và sử dụng mạng Internet trong công tác truy cập, giới thiệu, tuyên truyền, vận động đầu tư đến tất cả các quốc gia trên toàn cầu. Thứ ba, cần xúc tiến công tác quy hoạch thành phố về giao thông, cấp nước, môi trường, cây xanh và các khu phố cổ, khu phụ cận, khu côngnghiệp khu đô thị mới, khu trung tâm văn hoá thể thao, khu vui chơi giải trí,... đặt trong quy hoạch tổng thể, đồng bộ và toàn diện. Công tác quy hoạch Thành phố phải có định hướng, chiến lược lâu dài, phù hợp, rõ ràng nhằm định hướng hoạt động đầu tư nước ngoài. Bên cạnh đó, Thành phố cần quy hoạch và có định hướng cụ thể ngành, lĩnh vực đầu tư nhằm hướng các luồng vốn vào một cơ cầu kinh tế phù hợp với chiến lược của Thành phố. Việc quy hoạch và định hướng chi tiết, cụ thể sẽ giúp cho thành phố có những chính sách và chiến lược phù hợp khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực trọng tâm. Thứ tư, thành phố cần có kế hoạch cân đối nguồn vốn ngân sách để xây dựng hoàn thiện các công trình hạ tầng kỹ thuật đến tận nơi dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài. Cơ sở hạ tầng kỹ thuật là một phần của quá trình triển khai của một dự án đầu tư quốc tế. Những năm trước đây, hầu như các dự án đầu tư nước ngoài trên địa bàn muốn đi vào triển khai và hoạt động đều phải tự tiến hành xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật, vì vậy, chi phí triển khai lớn sẽ làm cho lợi nhuận của dự án giảm đi các chủ đầu tư hạn chế đầu tư. Thành phố cần tập chung chỉ đạo thực hiện các dự án đầu tư phát triển hệ thống hạ tầng đô thị, các khu công nghiệp các hệ thống giao thông nối mạng liên hoàn giữa các khu công nghiệp và các khu đô thị, xây dựng khu vui chơi giải trí hấp dẫn khách du lịch để cải thiện môi trường đầu tư, nâng khả năng sản xuất. Bên cạnh đó, Thành phố cần thực hiện tốt công tác cải tạo, nâng cấp và xây dựng hoàn thiện hạ tầng cơ sở bên ngoài hàng rào đối với khu vực thu hút dự án đầu tư nước ngoài bằng nguồn ngân sách nhà nước. phố hợp với bộ Tài chính, Bộ Công nghiệp có kế hoạch hoàn trả lại số tiền chi phí ứng trước để xây dựng hạ tầng cơ sở của nhà đầu tư. Thứ năm, thành phố cần có chính sách ưu đãi hơn đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và các bên hợp doanh về các loại hình dịch vụ, thuế, phí, lệ phí,... tạo môi tường cạnh tranh và hoạt động sản xuất kinh doanh bình đẳng với các doanh nghiệp trong nước. sự phân biệt đối xử của thành phố giữa các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài với các doanh nghiệp trong nước thông qua việc cung cấp dịch vụ, phí, lệ phí,... sẽ tạo khó khăn cho doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài do chi phí đầu vào tăng sẽ dẫn đến nâng giá thành sản phẩm, giảm lợi nhuận, giảm tính cạnh tranh của hàng hoá. Một môi trường chính sách không phù hợp sẽ tác động rất lớn đến hoạt động kinh doanh quốc tế nói chung và đầu tư nước ngoài nói riêng. Vì vậy, khi không có sự phân biệt đối xử giữa hai loại hình doanh nghiệp sẽ tạo một “sân chơi” bình đẳng, tạo sự cạnh tranh lành mạnh thúc đẩy hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài. Trong thời gian tới, thành phố cần tiếp tục lộ trình điều chỉnh giá, phí các hàng hóa, dịch vụ để cơ bản áp dụng một mặt bằng thống nhất cho các doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Thứ sáu, đối với các dự án tồn đọng lâu, khả năng thực hiện kém, Thành phố có thể áp dụng các biện phát như chuyển nhượng cho các nhà đầu tư nước ngoài khác hoặc cho các công ty cổ phần của việt nam có khả năng tài chính để đền bù và xây dựng dự án đó với tiến độ nhanh hơn. với các dự án đang thực hiện dở dang, thành phố cần phân tích một cách kỹ lưỡng khả năng tài chính của chủ đầu tư để xác định khả năng thực hiện của dự án như thế nào nhằm đưa ra giải pháp thích hợp nhằm hoàn thiện các dự án còn dở dang đó. Ngoài ra, thành phố có thể cho phép các dự án được chuyển mục tiêu hoạt động phù hợp với điểu kiện kinh doanh đã thay đổi. Thứ bảy, thành phố cần có kế hoạch đào tạo và nâng cao kỹ năng nghề nghiệp của cán bộ tham gia hội đồng tư vấn nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động thẩm định, đảm bảo cho dự án đi vào hoạt động có hiệu quả. Theo quyết định số 14/1999/ QĐ-UB của ủy ban nhân dân thành phố về ban hành “quy định thống nhất một đầu mối về tổ chức thực hiện việc hình thành hồ sơ, thẩm định dự án, xét duyệt cấp giây phép đầu tư và quản lý nhà nước các dự án đầu tư nước ngoài trên điạ bàn hà nội” thì hội đồng tư vấn của Thành phố bao gồm: chủ tịch uỷ ban nhân dân thành phố, phó chủ tịch thường trực uỷ ban nhân dân thành phố, phó chủ tịch hội đồng nhân dân thành phố, giám đốc sở kế hoạch và đầu tư, giám đốc sở ( ban, ngành) chủ quản của chủ đầu tư việt nam và thủ trưởng các cơ quan liên quan - một hội đồng có kinh nghiệm và có trình độ cao. tuy nhiên, do chưa thấy được tầm quan trọng của hoạt động thẩm định cho nên thời gian qua một số dự án đã được cấp giấy phép rút giấy phép quá thời hạn quá nhiều do chủ đầu tư không có khả năng tài chính, dự án hoạt động không có hiệu quả. Vì vậy, thành phố cần mở các lớp tập huấn cho các cơ quan có liên quan đến đầu tư trực tiếp nước ngoài nhằm làm cho họ thấy được trách nhiệm quan trọng của mình khi tham gia hội đồng tư vấn, nâng cao hiệu quả hoạt động thẩm định, tạo hiệu quả cao cho các dự án. Bên cạnh những giải pháp trên, thành phố cần phố hợp với các tổ chức quốc tế, công ty tư vấn, công ty luật nước ngoài tổ chức các diễn đàn quốc tế nhằm tư vấn, xúc tiến, vận động các nhà đầu tư, các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào Hà Nội, đặc biệt là các dự án: BOT, BTO, BT và các dự án FDI có quy mô lớn. 2. giải pháp từ phía các doanh nghiệp đứng trên góc độ vi mô, các doanh nghiệp trên địa bàn hà nội đóng góp một phần không nhỏ đẩy mạnh thu hút FDI. Vì vậy, trong thời gian tới các doanh nghiệp trên địa bàn cần: Một là, thay đổi cung cách quản lý phù hợp với điều kiện của kinh tế thị trường, phù hợp với cung cách quản lý hiện đại để khi liên doanh không bị bỡ ngỡ. đất nước ta mới chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập chung sang nền kinh tế thị trường, cho nên cung cách quản lý lạc hậu vẫn ăn sâu trong tiềm thức của mọi người tạo sự “không ăn nhập” trong phương thức quản lý các doanh nghiệp lên doanh. Vì vậy, việc thay đổi cung cách quản lý của các doanh nghiệp sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp tiến hành liên doanh có hiệu quả, thu hút vốn liên doanh với nước ngoài. đặc biệt, các doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực tài chính- ngân hàng cần thực hiện các biện pháp: đơn giản hóa các khâu trung gian, tạo sự thông thông thoáng trong hoạt động quản lý vốn... nhằm tạo uy tín, cải thiện hình ảnh của mình trước các nhà đầu tư, thúc đẩy hoạt động liên doanh trong lĩnh vực này để tiếp thu kinh nghiệm quản lý và điều hành. hai là, đổi mới công tác bố trí cán bộ việt nam tham gia vào các cương vị lãnh đạo trong công ty liên doanh phải qua tuyển chọn, đủ năng lực quản lý, có sức khoẻ, ngoại ngữ tốt, trình độ học vấn, bằng cấp tương đương với các nhà đầu tư nước ngoài. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp cần đào tạo và đào tạo lại độ ngũ lao động hiện có của doanh nghiệp nhằm mục tiêu: khi liên doanh các lao động này có thể tiếp thu, nắm bắt nhanh với khoa học công nghệ mới; tạo điều kiện cho liên doanh tuyển dụng, đẩy nhanh tốc độ triển khai dự án trên địa bàn. ba là, năng động và tự chủ trong tìm kiếm đối tác liên doanh. Trong thời gian qua, hầu hết các doanh nghiệp trên địa bàn thành phố đều thụ động trong việc tìm kiếm đối tác liên doanh với nước ngoài, do đó, việc tìm hiểu, đánh giá khả năng của đối tác không đúng dẫn đến việc liên doanh đổ vỡ hoặc không hiệu quả. Vì vậy, trong thời gian tới các doanh nghiệp trên địa bàn thành phố cần phải năng động hơn trong việc tìm kiếm đối tác, thúc đẩy hoạt động liên doanh có hiệu quả. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp trên địa bàn cần tiến hành quản lý kinh doanh có hiệu quả nhằm tạo sự sôi động trong nền kinh tế, đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế trên địa bàn nhằm tạo môi trường kinh tế hấp dẫn đối với vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. đặc biệt, các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và các bên hợp doanh cần có những biện pháp cụ thể nâng cao hiệu quả hoạt động của mình nhằm tạo lòng tin cho các nhà đầu tư nước ngoài khi tiến hành đầu tư ở hà nội. 3. kiến nghị với nhà nước 3.1. hoàn thiện pháp luật Nhà nước nên sửa đổi bổ sung một số điều khoản trong các văn bản pháp luật liên quan đến đầu tư nước ngoài để tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp như: các vấn đề về quyền được thế chấp tài sản gắn với giá trị quyền sử dụng đất tại các ngân hàng hoạt động tại việt nam, miễn giảm thuế giá trị gia tăng đối với các thiết bị máy móc để tạo tài sản cố định, sửa đổi thuế thu nhập cá nhân đối với người lao việt nam làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. 3.2.Đổi mới, đẩy nhanh công tác vận động xúc tiến đầu tư Chính phủ nên thành lập bộ phần xúc tiến đầu tư tại các bộ, ngành, tổng công ty, các cơ quan đại diện của nước ta tại một số địa bàn trọng điểm ở nước ngoài để chủ động thu hút đầu tư nước ngoài. Ngân sách nhà nước cần dành một khoản kinh phí thoả đáng cho công tác vận động, xúc tiến đầu tư. Chuyển hướng xúc tiến đầu tư sang các đối tác tây âu, bắc mỹ, bắc âu nhằm tranh thủ tiềm lực vốn, công nghệ, kỹ thuật hiện đại để nâng cao năng lực cạnh trạnh của nền kinh tế. 3.3. nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài Nhà nước nên xây dựng quy chế phố hợp chặt chẽ giữa các bộ, uỷ ban nhân dân tỉnh trong việc quản lý hoạt động đầu tư nước ngoài theo đúng thẩm quyền trách nhiệm của từng cơ quan quản lý nhà nước. các bộ, ban ngành và địa phương cần thực hiện quản lý nhà nước về đầu tư theo đúng chức năng, thẩm quyền đã quy định theo luật. Triệt để và kiên quyết trong việc quy định rõ ràng, minh bạch các thủ tục hành chính ở mọi khâu, mọi cấp; công khai các quy trình, thời hạn, chách nhiệm xử lý các thủ tục hành chính, duy trì thường xuyên các quộc gặp gỡ với cộng đồng các nhà đầu tư. Thường xuyên tổ chức các đoàn khảo sát, nghiên cứu thị trường, có mục tiêu, hiệu quả thích thực, tích cực vận động và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tham gia các hội chợ triển lãm quốc tế trong và ngoài nước, làm phong phú và đa dạng hoá các loại hình dịch vụ. Với những giải pháp và kiến nghị đưa ra trên đây, hy vọng hà nội với vị thế là thủ đô nước việt nam và là trung tâm chính trị - kinh tế - văn hoá của cả nước trong thời gian tới sẽ là địa phương thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đứng đầu cả nước, khắc phục được tình trạng suy giảm vốn đầu tư, đồng thời cải thiện môi trường đầu tư nước ngoài để thu hút dòng vốn FDI vào Thành phố. Kết luận đầu tư trực tiếp nước ngoài ngày càng đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế của cả nước đi đầu tư và nước tiếp nhận đầu tư, nó trở thành một bộ phận không thể thiếu của nền kinh tế đất nước. hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài thời gian qua diễn ra khá sôi động và mạnh mẽ tham gia vào hầu hết các ngành kinh tế mà hà nội có thế mạnh như: công nghiệp điện tử, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, công nghiệp chế biến... các hoạt động này góp phần đổi mới nền kinh tế của hà nội, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá, nâng cao năng lực vốn đầu tư cho phát triển kinh tế, trang bị công nghệ mới, hiện đại nâng cao trình độ quản lý kinh tế, phát triển các ngành nghề mới. Tuy nhiên, trong thời gian gần đây, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào hà nội liên tục xút giảm, chưa tương xứng với vị trí và khả năng của Thành phố mà nguyên nhân chủ yếu là do môi trường đầu tư tại hà nội còn có một số thiếu sót nhất định. việc mở rộng huy động nguồn lực nước ngoài thông qua khuyến khích đầu tư trực tiếp sẽ góp phần đáng kể tới sự phát triển kinh tế - xã hội của thành phố. để mở rộng thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong thời gian tới, hà nội cần nghiêm túc đánh giá hoạt động thu hút vốn FDI trong thời gian qua, từ đó đưa ra giải pháp và định hướng trong thời gian tới. Xu hướng FDI vào hà nội trong thời gian tới tuỳ thuộc rất nhiều vào việc cải thiện môi trường đầu tư của thành phố, môi trường đầu tư có được cải thiện hay không còn tuỳ thuộc vào những hành động cụ thể từ phía Thành phố và từ phía các doanh nghiệp trên địa bàn. với phương châm “vốn đầu tư trong nước là chủ yếu, vốn đầu tư nước ngoài là quan trọng”, trong thời gian tới, nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ được huy động và sử dụng có hiệu quả, phù hợp nhằm đạt được mục tiêu kinh tế - xã hội của thành phố. Bài viết đã đi phân tích thực trạng và tìm ra nguyên nhân của sự xuy giảm vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại hà nội thời gian qua, từ đó đưa ra một số giải pháp từ phía Thành phố và từ phía các doanh nghiệp trên địa bàn và đưa ra một số kiến nghị với nhà nước nhằm tăng cường thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại hà nội trong thời gian tới. do chưa hề tham gia quản lý nhà nước về đầu tư trực tiếp nước ngoài và thời gian tiếp xúc với đầu tư trực tiếp nước ngoài còn hạn chế cho nên bài viết không tránh khỏi những sai sót về cách tiếp cận vấn đề. người viết rất mong nhận được sự tham gia đóng góp ý kiến của các thầy cô, các cô, các chú trên sở kế hoạch và đầu tư hà nội và tất cả các bạn. để đi tìm hiểu sâu hơn về vấn đề này, tác giả mong muốn được sự giúp đỡ của các thầy cô, các cô, các chú trên sở kế hoạch và đầu tư hà nội để thực hiện đề tài mới nhằm cải tạo môi trường đầu tư trực tiếp nước ngoài tại hà nội. Danh mục tài liệu tham khảo TS. Đỗ Đức Bình, Giáo trình kinh doanh quốc tế, Nhà xuất bản giáo dục, năm 1997. GS.TS. Tô Xuân Dân, Giáo trình kinh tế học quốc tế, Nhà xuất bản Thống kê, năm 1998. GS.TS. Tô Xuân Dân, TS. Nguyễn Thị Hường, TS. Nguyễn Thường Lạng, Giáo trình quản trị dự án đầu tư quốc tế và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, Nhà xuất bản Thống kê, năm 1998. TS. Vũ Chí Lộc, Giáo trình đầu tư nước ngoài, Nhà xuất bản Giáo dục, Năm 1997. Võ Đại Lược, Đầu tư nước ngoài và phát triển kinh tế, Nhà xuất bản Thống kê, năm 1997. PGS. TS. Võ Thanh Thu, Quản trị dự án đầu tư trong nước và quốc tế, Nhà xuất bản Thống kê, năm 1996. TS. Bùi Anh Tuấn, Tạo việc làm cho người lao động qua đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam, Nhà xuất bản Thống kê, Năm 2000. Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, năm 2000. Văn kiện đại hội Đảng Thành phố Hà Nội lần thứ XIII, Nhà xuất bản Hà Nội, năm 2001. Uỷ ban nhân dân Thành phố Hà Nội- Hà Nội tiềm năng và cơ hội đầu tư nước ngoài, Nhà xuất bản Hà Nội, năm 1998. Viện nghiên cứu thế giới, Việt Nam chính sách thương mại và đầu tư, Nhà xuất bản thế giới, năm 1997. Vũ Văn Lý, Báo Đầu tư số 44 (684) ra ngày 12/4/2001- Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Hà Nội: Cần những giải pháp mạnh. Nguyễn Thu Thuỷ, Tạp chí Kinh tế và Phát triển số 31 tháng 7- 8/1999, Tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Hà Nội: thách thức và giải pháp. Phạm Mạnh Dũng, Tạp chí Kinh tế và Dự báo số 7/2000, Những nội dung chủ yếu của luật sửa đổi, bổ xung một số điều của luật đầu tư nước ngoài năm 2000. Nguyễn Thu Thuỷ, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế số 258, tháng 11/2000, Tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Hà Nội: thách thức và giải pháp. Lê Minh Tuấn, Tạp chí tài chính số 7/2000, Luật sửa đổi, bổ sung luật đầu tư nước ngoài năm 2000. Uỷ ban nhân dân Thành phố Hà Nội, Quyết định về việc ban hành “Quy định thống nhất một đầu mối về tổ chức thực hiện việc hình thành hồ sơ, thẩm định dự án, xét duyệt cấp giấy phép đầu tư và quản lý nhà nước các dự án đầu tư nước ngoài trên địa bàn Thành phố Hà Nội”- 23/03/1999. Báo cáo tổng kết, Phòng đầu tư nước ngoài và Quản lý dự án, Sở Kế hoạch và Đầu tư Hà Nội, Năm 1998, 1999, 2000. Đánh giá kết quả đầu tư trực tiếp nước ngoài của Hà Nội (1989- 2000), Sở Kế hoạch và Đầu tư Hà Nội - 03/2001. Tài liệu của “ Hội thảo về xúc tiến và triển khai dự án đầu tư nước ngoài cho các tỉnh phía Bắc tại Hà Nội” ESCAP/Bộ Kế hoạch và Đầu tư/ Uỷ ban nhân dân Thành phố Hà Nội- 03/2001.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docB0024.doc
Tài liệu liên quan