Đề tài Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp

Ngày nay khoa học công nghệ và công nghệ thông tin đang biến đổi và phát triển từng giây từng phút, những áp dụng của nó có vai trò vô cùng quan trọng đối với kinh tế và trong hầu hết các lĩnh vực của cuộc sống. Khi thực hiện đầu tư trực tiếp ra nước ngoài ở các nước tiên tiến có khoa học công nghệ phát triển cao thì Việt Nam có cơ hội được tiếp cận trực tiếp với những ứng dụng khoa học công nghệ ở các nước này. Hơn nữa khi đầu tư trực tiếp ra nước ngoài thì các doanh nghiệp có thể đem những tiến bộ khoa học công nghệ cao mà trong nước chưa có điều kiện áp dụng để đầu tư trực tiếp ra nước ngoài, tạo ra những sảm phẩm mới, thị trường mới có sức cạnh tranh cao tại các nước phát triển. 1.3. Giúp các doanh nghiệp san sẻ rủi ro trong đầu tư và kinh doanh. Rủi ro luôn luôn là người bạn đồng hành của nhà đầu tư. Một trong những biện pháp để san sẻ, phòng tránh rủi ro là thực hiện đầu tư trực tiếp ra nước ngoài, đa dạng hóa các danh mục đầu tư nhằm thu được lợi nhuận, củng cố hoạt động kinh doanh bền vững, ổn định và sự phát triển của các doanh nghiệp: Nhằm giảm thiểu rủi ro về lạm phát, rủi ro về tỷ giá.Mặt khác đầu tư trực tiếp ra nước ngoài còn tạo ra các khoản thu bằng ngoại tệ cho các doanh nghiệp góp phần làm tăng ngoại tệ của đất nước, giúp cho cán cân thanh toán được ổn định và phát triển theo chiều hướng tốt.

doc43 trang | Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 998 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thời phải có các hoạt động để thúc đẩy hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư trực tiếp ra nước ngoài, như: Ký các hiệp định đầu tư song phương và đa biên; Hiệp định tránh đánh thuế hai lần, cung cấp các thông tin về môi trường đầu tư ở nước ngoài... Bên cạnh đó, chính phủ có thể khuyến khích hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài thông qua việc thành lập trung tâm xúc tiến đầu tư ở nước ngoài, phát triển các dịch vụ hỗ trợ nhà đầu tư, hỗ trợ về tiếp cận nguồn vốn... Đó là các hoạt động cung cấp thông tin thị trường, thông tin đối tác, cơ hội và kinh nghiệm kinh doanh, thông tin về môi trường đầu tư ở nước ngoài.... - Bên cạnh đó, các chính sách kinh tế vĩ mô trong nước ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài, như các chính sách về tiền tệ, xuất nhập khẩu, quản lý ngoại hối... Sự thay đổi chính sách tiền tệ từ thắt chặt sang nới lỏng hoặc ngược lại hoặc hồn hợp sẽ tác dộng mạnh mẽ đến lãi suất thực tế, từ đó làm tăng hoặc giảm khả năng tạo lợi nhuận của các nhà đầu tư. Chính sách nới lỏng hay thắt chặt quản lý ngoại hối ở các nước đầu tư có tác động mạnh đối với đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. Khi quản lý ngoại hối theo hướng tự do hoá thị trường vốn thì các nhà đầu tư được quyền tự do chuyển vốn ra nước ngoài, từ đó đẩy mạnh hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. Chương II. Thực trạng đầu tư trực tiếp ra nước ngoài ở Việt Nam trong giai đoạn từ năm 1989 đến nay. I. Quan điểm của Nhà nước Việt Nam đối với doanh nghiệp Việt Nam đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. - Nhà nước coi đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các doanh nghiệp là một hoạt động kinh tế đối ngoại quan trọng, thúc đẩy nền kinh tế phát triển và phù hợp với xu thế phát triển của nền kinh tế thế giới. - Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài chịu nhiều rủi ro đặc trưng mà hoạt động đầu tư trong nước không có hoặc không trực tiếp chịu tác động. Do đó Nhà nước có các biện pháp và chính sách để hỗ trợ và khuyến khích thích hợp với hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. - Bảo vệ lợi ích quốc gia trong việc đầu tư trực tiếp ra nước ngoài trong các lĩnh vực sản xuất kinh doanh. - Triệt để khai thác thế mạnh của đối tác đầu tư ở nước ngoài để tăng cường khả năng của doanh nghiệp Việt Nam trên trường quốc tế. Tận dụng cơ hội để nâng cao khả năng công nghệ, khoa học kỹ thuật của doanh nghiệp Việt Nam. II. Tình hình đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. 1. Tình hình chung của hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. Theo thống kê của Cục Đầu tư nước ngoài, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, dự án đầu tiên của các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài là vào năm 1989 với số vốn 563.380 triệu Đôla Mỹ nhưng đáng tiếc dự án này đã không được thực hiện.  Từ thời điểm năm 1989 - 1998, mỗi năm có vài ba dự án, năm nhiều nhất có năm dự án (1993) đầu tư ra nước ngoài nhưng vốn thực hiện còn thấp, có năm không giải ngân được đồng nào.  Có những năm không có dự án nào cả như các năm 1995, 1996, 1997. Điều này có thể lý giải là do trong giai đoạn này chúng ta tập trung tất cả nguồn lực trong nước để phát triển đất nước, đưa nước ta ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội, hơn nữa khi đó chúng ta vẫn chưa có một văn bản quy phạm pháp luật chính thức về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. Tính đến năm 1998 chúng ta đã có tổng số 18 dự án với tổng số vốn đăng ký khoảng 13,9 triệu USD, trong đó vốn điều lệ khoảng 13,3 triệu USD, bên Việt Nam đóng góp khoảng 7,2 triệu USD. Kể từ năm 1999, khi Chính phủ ban hành Nghị định 22 về một số biện pháp khuyến khích đầu tư ra nước ngoài, đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam bắt đầu có sự tăng trưởng ổn định. Đây được coi như là cú hích rất mạnh vào hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam. Năm 1999 có 10 dự án với quy mô vốn trung bình một dự án là 1.233.779 USD, năm 2000 tăng lên 15 dự án, năm 2001 là 13 dự án với tổng vốn đăng ký là 7.696.452 USD. Năm 2002 có 15 dự án đầu tư trực tiếp ra nước ngoài được cấp giấy phép với số vốn đăng ký đạt gần 172 triệu USD, vốn pháp định 134,5 triệu USD nhưng vốn thực hiện chỉ đạt 1,7 triệu USD. Năm 2003 là 25 dự án, năm 2004 là 17 dự án. Trong năm 2005 việc Luật đầu tư chung chính thức có hiệu lực, đồng thời năm 2006 Chính phủ cũng đã ban hành Nghị định 78/2006/NĐ-CP quy định về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài thay thế Nghị định 22/1999/NĐ-CP với nhiều điểm thông thoáng hơn trong hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài nên hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài năm 2005 và 2006 có những tăng trưởng mạnh mẽ. Trong năn 2005 có 37 dự án với tổng vốn đăng ký là 368.452.598 USD cao hơn tổng vốn đăng ký các năm trước cộng lại, quy mô vốn trung bình gần 10 triệu USD cao gấp 5 lần quy mô vốn của các năm trước. Sang năm 2006 chúng ta có 35 dự án với tổng vốn đăng ký là 349.006.156 USD, quy mô vốn trung bình một dự án là 9.971.604 USD. Bảng 1: Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Việt Nam trong giai đoạn 1989-2006 Năm Số dự án Vốn đăng ký (USD) Vốn bình quân/Dự án (USD) 1989 1 563.380 563.380 1990 1 - - 1991 3 4.000.000 1.333.333 1992 3 5.282.051 1.760.684 1993 5 690.831 138.166 1994 3 1.306.811 435.604 1998 2 1.850.000 925.000 1999 10 12.337.793 1.233.779 2000 15 6.865.370 457.691 2001 13 7.696.452 592.035 2002 15 171.959.576 11.463.972 2003 25 27.309.485 1.092.379 2004 17 12.463.114 733.124 2005 37 368.452.598 9.958.178 2006 35 349.006.156 9.971.604 Tổng số 185 969.783.617 5.242.074 Nguồn: Cục Đầu tư nước ngoài - Bộ Kế hoạch và Đầu tư Trong vòng từ năm 1999 đến năm 2006, chúng ta đã có tất cả khoảng 185 dự án đầu tư trực tiếp ra nước ngoài còn hiệu lực với tổng số vốn đăng ký vào khoảng 969 triệu USD, quy mô vốn trung bình một dự án vào khoảng 5 triệu USD. Trong Năm 2007, với việc Việt Nam đã là thành viên chính thức của WTO, và mới đây Cục Đầu tư nước ngoài đã xây dựng đề án khuyến khích đầu tư ra nước ngoài, một thông tin thu hút được sự quan tâm của các doanh nghiệp. Tính riêng trong 7 tháng đầu năm nay, có 32 dự án do các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài với tổng vốn đầu tư trên 200 triệu USD. Thống kê từ Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng cho thấy, các dự án đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam tập trung trong lĩnh vực công nghiệp (chiếm 39,6% số dự án và 64% tổng vốn đầu tư), tiếp theo là lĩnh vực nông nghiệp (chiếm 21,2% số dự án và 22,6% tổng vốn đầu tư), số còn lại là các dự án đầu tư trong lĩnh vực dịch vụ. Trong số 217 dự án đầu tư ra nước ngoài thì các doanh nghiệp Việt Nam tập trung đầu tư tại một số nước như Lào (76 dự án, tổng vốn đầu tư là hơn 555 triệu USD, chiếm tương ứng 35% số dự án và 47% vốn đầu tư). Angieri có 1 dự án với tổng vốn đầu tư là 243 triệu USD, chiếm 20,6% về vốn đầu tư. Campuchia có 22 dự án với tổng vốn đầu tư là 80,7 triệu USD (chiếm 10% số dự án và 6,9% tổng vốn đầu tư). Ta thấy tuy các dự án đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam có quy mô nhỏ, khối lượng vốn thực hiện ít. Một trong những nguyên nhân khiến dự án đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam khó thực hiện, nhất là những dự án do doanh nghiệp Nhà nước làm chủ đầu tư là do các dự án này được thành lập nhằm thực hiện cam kết của Chính phủ hai nước. Nhưng khi tình hình quốc tế thay đổi, những ưu đãi trước đây cho việc thực hiện dự án không còn, việc kinh doanh không thuận lợi như trước nên việc dự án không thực hiện được cũng là điều dễ hiểu. Trường hợp Iraq là một ví dụ điển hình. Tuy nhiên khối lượng vốn đăng ký và vốn thực hiện qua các năm lại có xu hướng tăng quy mô vốn trung bình của một dự án ngày càng lớn. 2. Đầu tư ra nước ngoài phân theo đối tác đầu tư chủ yếu. Hiện nay các dự án đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam được triển khai trên khoảng 32 nước và vùng lãnh thổ. Điều này thể hiện rõ những kết quả tích cực mà Việt Nam đạt được trong quan hệ quốc tế và hội nhập kinh tế thế giới. Đồng thời nó cũng thể hiện sức mạnh ngày càng to lớn của Việt Nam, và quyết tâm không bỏ qua những cơ hội đầu tư tốt trên thị trường thế giới của chúng ta. Các dự án đầu tư trực tiếp ra nước ngoài chủ yếu sang các nước: Lào, Campuchia, Hoa Kỳ, Malayxia và Singapore. Trong đó, có một số dự án có số vốn tương đối lớn như: Dự án đầu tư vào khai thác dầu khí ở Angiêri của Tổng công ty dầu khí Việt Nam (208 triệu USD), dự án Trung tâm Thương mại Việt Nam tại Nga (35 triệu USD), dự án thăm dò và khai thác dầu khí tại Singapore (22 triệu USD), dự án trồng cây tại Lào (13 triệu USD), dự án xây dựng Bệnh viện Chợ Rẫy tại Phnômpênh (Cămpuchia) (10,5 triệu USD) Lào là thị trường thu hút được nhiều dự án đầu tư nước ngoài của Việt Nam nhất với 63 dự án, thứ hai là Hoa Kỳ với 19 dự án. Về vốn đăng ký thì Lào là nước đứng đầu về vốn đăng ký với tổng số 420 triệu USD, thứ hai là Iraq với số vốn đăng ký là 100 triệu USD, thứ ba là CHLB Nga với số vốn đang ký là 73 triệu USD. Hiện tại, nhiều dự án đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Việt Nam đang chờ được cấp giấy phép đầu tư  tại Lào như: Thuỷ điện XEKAMAN 3 (273 triệu USD), dự án trồng 1000 ha cao su (24 triệu USD) Bảng 2: Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài được cấp giấy phép trong giai đoạn 1989 - 2006 phân theo đối tác đầu tư chủ yếu Số dự án Vốn đăng ký (Triệu đô la Mỹ) Tổng số Trong đó: Vốn điều lệ Tổng số Chia ra Nước ngoài góp Việt Nam góp An-giê-ri 1 243.0 243.0 208.0 35.0 Cô-oét 1 1.0 1.0 1.0 Căm-pu-chia 15 30.1 25.2 13.1 12.1 Cộng hòa Séc 2 1.9 0.3 0.3 CHLB Đức 4 4.8 3.5 2.5 0.9 Hàn Quốc 3 1.3 1.3 0.2 1.0 Đặc khu hành chính Hồng Công (TQ) 5 1.8 1.6 0.7 0.9 Hoa Kỳ 21 14.4 14.1 7.0 7.1 In-đô-nê-xi-a 2 9.4 9.4 9.4 I-rắc 1 100.0 100.0 100.0 Lào 64 422.2 182.6 49.0 133.6 Liên bang Nga 14 73.3 32.2 11.8 20.5 Ma-lai-xi-a 4 18.7 18.7 0.7 18.1 Nam Phi 1 1.0 1.0 1.0 Nhật Bản 5 2.1 1.6 0.6 1.0 Xin-ga-po 14 27.0 27.3 24.2 3.1 Tát-gi-ki-xtan 2 3.5 3.5 1.4 2.1 CHND Trung Hoa 3 3.5 2.6 0.6 1.9 U-crai-na 5 4.3 4.3 0.4 3.9 Nguồn: Tổng cục thống kê. Việc Lào trở thành điểm đến hàng đầu của các nhà đầu tư Việt Nam là điều hoàn toàn dễ hiểu, vì hai nước có vị trí địa lý gần nhau, hơn nữa thị trường Lào lại tương đối dễ tính. Nga cũng là thị trường ưa thích của các doanh nghiệp Việt Nam, với 14 dự án và tổng vốn đăng ký là 73,3 triệu USD (chiếm 7,3%về số dự án, và 75,6% về tổng vốn đầu tư) do chúng ta đã sớm có mối quan hệ kinh tế với Liên Bang Nga, hơn nữa cộng đồng người Việt ở Liên Bang Nga rất đông, đây là một lợi thế không nhỏ cho các doanh nghiệp Việt Nam. Việc đầu tư vào hai thị trường Lào và Nga là hướng đi đúng đắn cho của các doanh nghiệp Việt Nam, vì đây là hai thị trường quen thuộc với Việt Nam hơn nữa, hai thị trường này đã quen với hàng hóa Việt Nam. Ngoài rót vốn vào thị trường truyền thống như Lào, Campuchia, thời gian tới Việt Nam sẽ mở rộng sang nhiều thị trường tiềm năng như Trung Đông, châu Phi và Mỹ. Theo đó, trước hết các doanh nghiệp sẽ hướng đến một số nước SNG vốn có nhiều người Việt sinh sống và làm việc để tận dụng hiểu biết và mối làm ăn của cộng đồng này, doanh nghiệp Việt Nam có nhiều lợi thế khi đầu tư ở khu vực này, đặc biệt với các ngành hàng tiêu dùng, may mặc, giày da, dịch vụ thương mại... Khu vực Trung Đông với các quốc gia như Qatar, Kuwait, Các tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất (UAE) cũng là một điểm đầu tư quan trọng cho các doanh nghiệp Việt Nam. Đồng thời, châu Phi cũng được xác định là điểm đầu tư mới. Tuy nhiên, đến nay các doanh nghiệp Việt Nam và châu Phi đều thiếu thông tin về nhau và điều kiện vận tải tại khu vực này vẫn chưa thuận lợi. 3. Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài phân theo ngành kinh tế. Bảng 3: Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài được cấp giấy phép trong giai đoạn 1989 - 2006 phân theo ngành kinh tế Số dự án Vốn đăng ký (Triệu đô la Mỹ) Tổng số Trong đó: Vốn điều lệ Tổng số Chia ra Nước ngoài góp Việt Nam góp Nông nghiệp và lâm nghiệp 13 109.8 84.3 41.3 43.0 Thủy sản 4 8.7 8.7 4.6 4.0 Công nghiệp khai thác mỏ 15 379.0 376.3 210.8 165.5 Công nghiệp chế biến 69 102.2 80.8 37.6 43.1 Sản xuất và phân phối điện, khí đốt và nước 1 273.1 69.2 69.2 Xây dựng 5 7.8 4.8 1.9 2.9 Thương nghiệp; Sửa chữa xe có động cơ, mô tô, xe máy, đồ dùng cá nhân và gia đình 20 10.2 8.9 3.7 5.2 Khách sạn và nhà hàng 8 2.7 2.1 1.1 1.0 Vận tải; kho bãi và thông tin liên lạc 13 6.3 6.0 3.3 2.7 Các hoạt động liên quan đến kinh doanh tài sản và dịch vụ tư vấn 38 57.9 27.9 11.5 16.4 Y tế và hoạt động cứu trợ xã hội 1 10.5 10.5 7.4 3.2 Hoạt động phục vụ cá nhân và cộng đồng 3 1.5 1.5 1.2 0.2 Nguồn: Tổng cục Thống Kê Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam diễn ra trên cả ba lĩnh vực dịch vụ, công nghiệp và nông nghiệp. Tuy nhiên ngành công nghiệp dẫn đầu trong đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam với 90 dự án và tổng số vốn đăng ký là 762,1 triệu USD (chiếm 47,36% tổng số dự án và 78,6% vốn đăng ký). Trong ngành công nghiệp thì ngành thăm dò và khai thác dầu khí xây dựng nhà máy điện, sản xuất chế biến hàng gia dụng, vật liệu xây dựng chiếm tỷ trọng lớn nhất. Trong nganh công nghiệp đáng chú ý là lĩnh vực dầu khí, số dự án ít nhưng số vốn đăng ký lại chiếm tỷ trọng cao. Tuy nhiên, hai ngành công nghiệp nhẹ và xây dựng tuy vốn đăng ký ít nhưng lại có tỷ lệ thực hiện cao (công nghiệp nhẹ là 37,63% trên tổng vốn đăng ký). Có thể nói tỷ lệ thực hiện các dự án trong ngành công nghiệp và xây dựng là tương đối thấp. Quy mô trung bình mỗi dự án trong ngành công nghiệp và xây dựng là 8,47 triệu USD, cao hơn ngành nông nghiệp và dịch vụ. Tiếp đến là ngành nông nghiệp với 17 dự án và 118,5 triệu USD vốn đăng ký (chiếm 8,9% số dự án, và 12,22% tổng vốn đăng ký). Với 13 dự án vào ngành nông-lâm nghiệp còn lại 4 dự án là vào ngành thủy sản, nhưng ngành thủy sản số vốn và số dự án tuy chiếm tỷ lệ thấp nhưng lại là ngành có tỷ lệ thực hiện rất cao. Quy mô vốn trung bình mỗi dự án là 6,97 triệu USD. Nghành dịch vụ với 8 dự án và tổng vốn đăng ký là 56,9 triệu USD ( chiếm 43,68% số dự án và 5,86% tổng vốn đăng ký). Quy mô vốn trung bình mỗi dự án là 7,11 triệu USD Trong ngành dịch vụ thì các ngành giao thông vận tải, bưu điện là hai lĩnh vực đáng lưu tâm, điều này là hoàn toàn dễ hiểu bởi hai lĩnh vực này chủ yếu do các công ty Nhà nước có năng lực tài chính vững vàng thực hiện. 4. Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài phân theo hình thức đầu tư. Về hình thức đầu tư ra nước ngoài thì trong thời gian đầu, Việt Nam chủ yếu đầu tư dưới dạng hợp đồng hợp tác kinh doanh (BCC) trong các lĩnh vực thăm dò, khai thác dầu khí và dựa vào quan hệ với các quốc gia mà Chính phủ Việt Nam có quan hệ hữu hảo. Sau khi Chính phủ ban hành Nghị định 22/1999/NĐ - CP thì hoạt động ĐTTT ra nước ngoài của Việt Nam chuyển sang 2 hình thức chủ yếu là doanh nghiệp liên doanh và doanh nghiệp 100% vốn với số lượng các dự án ngày càng gia tăng nhưng tỷ lệ vốn đầu tư không lớn và chủ yếu là đầu tư sang các nước đang và kém phát triển như Lào, Campuchia Từ năm 2004, các doanh nghiệp Việt Nam đã bắt đầu đầu tư sang các nước phát triển như Hoa Kỳ, Đức, Nhật Bản, Anh, Pháp Tóm lại, trong thời gian qua, các doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu đầu tư ra nước ngoài dưới 3 hình thức và tỷ trọng như sau: 48% số dự án 100% vốn với 107,6 triệu USD; 34% số dự án liên doanh với 57 triệu USD và 16% số dự án BCC với số vốn đầu tư đạt trên 200 triệu USD. Đến 90% các doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam là các doanh nghiệp nhà nước, số lượng các doanh nghiệp tư nhân đầu tư trực tiếp ra nước ngoài còn rất hạn chế. II. Đánh giá tình hình hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam từ năm 1989 đến nay. 1. Những thành tựu đã đạt được. - Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài không ngừng gia tăng về vốn đăng ký. Theo đà tăng trưởng kinh tế của đất nước, hoạt động đầu tư ra nước ngoài đã và đang có xu hướng tăng mạnh. Năm 2004, cả nước có 17 dự án được cấp phép với tổng vốn đầu tư đăng ký 11 triệu USD. Tính đến đầu năm 2005, đầu tư ra nước ngoàicủa các doanh nghiệp Việt Nam đã và đang thực hiện 113 dự án tại 29 nước, vùng lãnh thổ với tổng vốn 225,9 triệu USD. Năm 2006, tính chung cả cấp mới và nâng vốn, các doanh nghiệp Việt Nam đã đầu tư ra nước ngoàivới tổng số vốn 347 triệu USD. Mức này chỉ xấp xỉ bằng năm 2005, nhưng được ghi nhận là rất tích cực vì trong năm 2005, vốn tăng đột biến là do có dự án thuỷ điện Xekaman 3 tại Lào với tổng đầu tư 273 triệu USD được cấp phép. Năm 2006, không có các dự án lớn nhưng số dự án lại tăng lên đáng kể. Trong tổng số dự án đầu tư ra nước ngoài, có 33 dự án được cấp mới với số vốn 136,5 triệu USD. Có 4 dự án điều chỉnh tăng vốn với tổng đầu tư là 211,2 triệu USD. Tính đến tháng 5/2007, có 15 dự án do DN Việt Nam đầu tư ra nước ngoài. Các lĩnh vực đầu tư chủ yếu là công nghiệp và xây dựng như thăm dò, khai thác dầu khí, sản xuất chế biến hàng gia dụng, vật liệu xây dựng, chiếm tới 41% dự án và 16,7% vốn đăng ký. So với một dự án duy nhất (vào năm 1989), con số trung bình mỗi năm tăng dần lên tới 36,37 dự án (2006) là những tín hiệu tích cực. - Thị trường của các doanh nghiệp Việt Nam được mở rộng, trải khắp trên 30 quốc gia và vùng lãnh thổ. Ngoài các đại bàn truyền thống như Lào, Capuchia, Liên Bang Nga... chúng ta đã mở rộng thị trường sang nhiều quốc gia khác như Mỹ, và khu vực Mỹ- Latinh .“Tham vọng” mở rộng thị trường sang Mỹ La-tinh đang được hiện thực hoá thông qua các hợp đồng  thăm dò, khai thác dầu khí trên cơ sở các thoả thuận khung về hợp tác đầu tư với Venezuela, Cuba trong chuyến thăm của Tổng bí thư Nông Đức Mạnh. - Các dự án đầu tư đã thu được những kết quả khả quan ban đầu và hứa hẹn triển vọng phát triển (tiêu biểu là dự án thăm dò và khai thác dầu khí tại Algieria của Tổng công ty Dầu khí Việt Nam). - Các dự án đã không còn tập trung vào một số lĩnh vực như trước đây mà đã trải rộng ra trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt là tập trung vào ngành công nghiệp và xây dựng. 2. Những khó khăn vướng mắc còn gặp phải. Nhìn chung, số lượng dự án và quy mô vốn đầu tư của các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài đã tăng lên theo thời gian, do ngày càng có thêm các doanh nghiệp Việt Nam có khả năng tài chính và quan tâm mở rộng địa bàn hoạt động sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các doanh nghiệp còn nhiều hạn chế: - Số liệu tính đến hết năm 2006 về lượng dự án và quy mô vốn cho thấy đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp Việt Nam vẫn còn nhỏ, do năng lực tài chính và kinh nghiệm đầu tư còn hạn chế. Quy mô vốn đầu tư trung bình của một dự án cấp mới trong năm nay là 4,12 triệu USD, trong khi đó con số này của FDI vào Việt Nam là 9,4 triệu USD, cao gấp đôi. Chẳng hạn, riêng năm 2005 Trung Quốc đã ĐTTT ra nước ngoài khoảng 5 tỷ USD. Con số này lớn hơn tổng số vốn ĐTTT ra nước ngoài của Việt Nam từ năm 1999 đến nay. - Cùng đó, vốn đầu tư của Việt Nam mới chảy sang trên 30 quốc gia và vùng lãnh thổ, song lại tập trung sang Lào (63 dự án với tổng vốn đầu tư là 420 triệu USD tương ứng chiếm 34% số dự án và 43% về vốn đầu tư), và Liên bang Nga (11 dự án với 73 triệu USD). Còn hoạt động đầu tư sang các nước khác còn khá hạn chế. - Lĩnh vực đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Việt Nam còn khá hạn hẹp, mới tập trung chủ yếu vào một số ngành công nghiệp, xây dựng, thăm dò và khai thác dầu khí, sản xuất hàng gia dụng, nông nghiệp và một số loại hình dịch vụ qui mô nhỏ. - Tỷ lệ vốn thực hiện trên tổng vốn đăng ký rất thấp.Tuy nhiên, có một thực tế là mặc dù số dự án đầu tư trực tiếp ra nước ngoài và tổng số vốn đăng ký ngày càng tăng lên, nhưng tỷ lệ vốn giải ngân cho hầu hết các dự án đều rất thấp. Trong số 185 dự án đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam còn hiệu lực, với tổng số vốn đăng ký là 969,8 triệu USD, vốn pháp định khoảng 414 triệu USD nhưng vốn thực hiện chỉ đạt khoảng 15,3 triệu USD. Từ năm 1989 - 1998, mỗi năm chỉ có vài ba dự án được giải ngân, năm nhiều nhất có 5 dự án (1993), thậm chí có năm không giải ngân được đồng nào. Năm 2002 có tới 15 dự án được cấp phép ra nước ngoài với số vốn đăng ký 151,8 triệu Đôla Mỹ, vốn pháp định 134,5 triệu Đôla Mỹ nhưng vốn thực hiện chỉ đạt 1,7 triệu Đôla Mỹ.  Trong danh sách 127 dự án đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam còn hiệu lực tính từ thời điểm năm 1989 đến ngày 30/6/2005, tổng số vốn đầu tư đăng ký khoảng 296,8 triệu Đôla Mỹ, vốn pháp định 263,1 triệu Đôla Mỹ nhưng vốn thực hiện chỉ đạt khoảng 12,6 triệu Đôla Mỹ (chỉ chiếm 4,24% tổng vốn đăng ký). Trong khi nếu tính đến hết năm 2006 thì vốn thực hiện chỉ chiếm có 2,2% vốn đầu tư. - Kết quả kinh doanh chưa cao. Hầu hết các dự án đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của doanh nghiệp Việt Nam đều là những dự án mới được thực hiện, đang trong giai đoạn đầu của quá trình đầu tư nên cần nguồn vốn lớn để xây dựng nhà xưởng, mua sắm máy móc thiết bị,... do đó hoạt động sản xuất kinh doanh, khai thác thị trường chưa thực sự được tiến hành. Cũng vì thế nên số vốn đầu tư thu hồi từ hoạt động đầu tư còn hạn chế, lợi nhuận chuyển về nước chưa nhiều và chỉ đủ bù đắp phần nào vốn đầu tư bỏ ra. Nhiều dự án đang trong giai đoạn đầu nên gặp nhiều khó khăn về thị trường nên công suất khai thác chưa cao và đang trong tình trạng bị thua lỗ. 3. Nguyên nhân của những hạn chế. 3.1. Do bản thân các doanh nghiệp. - Do các dự đoán về chi phí sản xuất không đúng với thực tế ở thị trường nước ngoài nên khi triển khai dự án bị lỗ, dẫn đến các dự án bị giải thể, hay không thể triển khai được. Điển hình như của công ty Đức Hạnh có 2 dự án đầu tư vào Campuchia được cấp phép từ năm 1999 nhưng đến nay vẫn chưa triển khai được, nguyên nhân là do công ty đã không khảo sát kỹ thị trường Campuchia cũng như tình hình lao động của mình... nên khi định triển khai dự án thì công nhân không chịu sang Campuchia làm việc, công ty thì không dám thuê người Campuchia do không hiểu rõ họ... - Do khả năng tài chính của các doanh nghiệp Việt Nam nói chung còn yếu kém. Nên các dự án khi đầu tư trực tiếp ra nước ngoài có số vốn khá nhỏ bé và khó triển khai do thiếu vốn. Hơn nữa hiện nay các dự án đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Việt Nam chủ yếu là do các công ty Nhà nước làm chủ đầu tư được thành lập qua các cam kết của chính phủ 2 nước. Nhưng khi tình hình quốc tế thay đổi thì các ưu đãi không còn do đó việc kinh doanh không còn thuận lợi. Dẫn đến dự án có nguy cơ bị giải thể trước thời hạn, hay kết quả kinh doanh không cao, hay không thể triển khai.... - Do năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam là khá yếu kém. Theo xếp hạng của Diễn đàn Kinh tế thế giới, năm 2007 Việt Nam đứng thứ 68 trong số 131 nền kinh tế được xếp hạng về Chỉ số năng lực cạnh tranh tổng hợp và thứ 76 trong số 127 nền kinh tế được xếp hạng về Chỉ số năng lực cạnh tranh doanh nghiệp, so với năm 2006, thứ hạng của Việt Nam về năng lực cạnh tranh chung của nền kinh tế đã tụt 4 hạng, mặc dù năng lực cạnh tranh doanh nghiệp đã tăng 4 hạng. Tuy nhiên Chỉ số Năng lực cạnh tranh doanh nghiệp (được xây dựng trực tiếp từ hai chỉ số bộ phận là chỉ số về chiến lược và hoạt động của doanh nghiệp và Chỉ số về môi trường kinh doanh), chỉ số chiến lược và hoạt động của doanh nghiệp lại giảm 3 hạng, từ hạng 76 năm 2006 xuống hạng 79 năm 2007, chỉ số môi trường kinh doanh có ảnh hưởng quyết định tới chỉ số năng lực cạnh tranh doanh nghiệp được nâng được 1 bậc, từ hạng 79 năm 2006 lên hạng 78 năm 2007. Như vậy ta có thể thấy các doanh nghiệp Việt Nam có năng lực vạch ra chiến lược kinh doanh khá yếu, nên khi đầu tư trực tiếp ra nước ngoài thường gặp nhiều khó khăn trong công tác dự đoán đúng chi phí và dự toán doanh thu... 3.2. Do quy định của Nhà nước. - Trước khi có Luật đầu tư chung 2005, thì hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài được quy định bởi Nghị định số 22/1999/NĐ-CP. Nghị định này chứa nhiều bất cập đã hạn chế việc đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. Như: Quy định về đối tượng tham gia đầu tư trực tiếp ra nước ngoài, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và các bên tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh không được tham gia đầu tư trực tiếp ra nước ngoài, chỉ các doanh nghiệp do Nhà nước thành lập mới được phép đầu tư trực tiếp ra nước ngoài... Quy định về thủ tục cấp giấy phép đầu tư là khá rườm rà, gây rất nhiều cản trở. Doanh nghiệp nước ngoài vào Việt Nam đầu tư được cố gắng cấp phép trong vòng 30-45 ngày, còn doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài thủ tục lại lòng vòng thậm chí còn bị cản trở, mặc dù nghị định đã quy định thời gian cấp phép đầu tư ra nước ngoài không quá 30 ngày, nhưng với thủ tục rườm rà thì có nhiều dự án kéo dài nhiều tháng, đôi khi cả năm, khiến cho doanh nghiệp lỡ mất cơ hội đầu tư. - Hiện nay tuy đã có Luật đầu tư chung và Nghị định số 78/2006/NĐ-CP để thay thế Nghị định số 22/1999/NĐ-CP, tuy nhiên Nghị định 78/2006/NĐ-CP vẫn còn nhiều cản trở. Hơn nữa nhiều cơ quan quản lý còn mang nặng tâm lý trong nước còn thiếu vốn, không nên đầu tư ra nước ngoài, bởi đầu tư ra nước ngoài làm giảm nguồn vốn đầu tư trong nước.    Chương III. Các giải pháp để thúc đẩy hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài trong thời gian tới. I. Những thuận lợi và thách thức trong hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam hậu WTO. 1. Những thuận lợi. - Thành tựu 20 năm đổi mới. Đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế- xã hội. Kinh tế tăng trưởng nhanh, sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa, phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa đang được đẩy mạnh. Vị thế nước ta trên trường quốc tế không ngừng được nâng cao. Thành tựu của quá trình đổi mới đã “đẻ” ra nhiều doanh nghiệp với nhu cầu đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. Số lượng các doanh nghiệp Việt Nam với quy mô vốn lớn, đủ khả năng cạnh tranh trên trường quốc tế không ngừng tăng lên. - Các quy định về đầu tư ra nước ngoài đã khá rõ ràng. Trước hết, Luật Đầu tư đã đưa các quy định cụ thể hoá đầu tư ra nước ngoài. Chính phủ đã có nghị định 78 hướng dẫn về vấn đề này. Năm 2005, chúng ta đã ban hành Lật đầu tư chung, trong năm 2006, ban hành nghị định số 78/2006/NĐ-CP quy định về hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài thay thế cho nghị định số 22/1999/ND-CP, nghị định này đã thực sự là một làn gió mới cho hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài, Ngân hang Nhà nước Việt Nam cũng ban hành Thông tư số 10/2006/TT- NHNN hướng dẫn việc các tổ chức tín dụng cho khách hàng vay tiền để đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. Có thể nói nghị định 78 và Thông tư số 10 đã có những bước cởi bỏ phần nào những trói chân các doanh nghiệp Việt Nam trong đầu tư trực tiếp ra nước ngoài, đồng thời Chính phủ cũng đang xây dựng một đề án để thúc đẩy các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. - Hiện nay Việt Nam đã thành viên của tổ chức Thương mại thế giới WTO, điều đó đồng nghĩa với việc các doanh nghiệp Việt Nam khi đầu tư trực tiếp ra nước ngoài sẽ được hưởng các quy chế ưu đãi về đầu tư dành cho thành viên của WTO, khi đầu tư trực tiếp ra nước ngoài được đối xử theo nguyên tắc Tối huệ quốc- MFN, khi có tranh chấp được giải quyết thông qua tài phán của WTO, hay được áp dụng các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại của WTO (Hiệp định TRIMPs)... Các hiệp định kinh tế, thương mại song phương thường được sử dụng như “mũi chủ công” tạo đột phá và mở “cửa chính” cho doanh nhân và doanh nghiệp nước này xâm nhập vào thị trường một nước khác. Việc Việt Nam đã là thành viên của WTO sẽ tạo thuận lợi rất lớn cho việc này. Như vậy có thể nói sự kiện Việt Nam trở thành thành viên của WTO, đã tạo điều kiện cho doanh nghiệp Việt Nam đầu tư trực tiếp ra nước ngoài, tham gia đấu thầu hoặc liên doanh đầu tư vào các dự án quốc tế. - Sau hơn một thập kỷ đầu tư trực tiếp ra nước ngoài các doanh nghiệp Việt Nam cũng đã tiếp thu được những kinh nghiệm về đầu tư quốc tế của thế giới, như trình độ tổ chức, kinh nghiệm quản lý sản xuất,... sức cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam đã được tăng lên đáng kể. 2. Những thách thức đối với đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. - Xuất phát điểm và trình độ phát triển của nền kinh tế trong nước còn quá thấp, ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực, cơ chế tập trung quan liêu bao cấp vẫn còn ảnh hưởng khá nặng nề - Quan niệm sai lầm nghĩ rằng khi nào nền Kinh tế thừa vốn mới tiến hành đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. Tư duy phiến diện một chiều, nghĩ rằng đầu tư trực tiếp ra nước ngoài gia tăng sẽ khiến đầu tư trong nước bị giảm sút, chảy máu ngoại tệ, giảm việc làm trong nước - Năng lực tài chính, kinh nghiệm đầu tư quốc tế còn non kém, năng lực cạnh tranh tổng hợp của các doanh nghiệp Việt Nam còn thấp... khiến khả năng đầu tư trực tiếp ra nước ngoài chưa cao. - Hiện nay hệ thống luật pháp về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của chúng ta tuy đã có nhưng thay đổi nhưng nó chưa thực sự tạo ra động lực cho các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. Việc ban hành các văn bản pháp luật hướng dẫn các doanh nghiệp tiến hành đầu tư trực tiếp ra nước ngoài còn chậm, thủ tục còn rườm rà không có tác dụng khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. Khó khăn lớn nhất của các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp ra nước ngoài hiện nay là vấn đề thủ tục: Quy trình thẩm định và đăng ký cấp giấy phép đầu tư ra nước ngoài còn một số bất cập như thời gian kéo dài, qua nhiều đầu mối, thiếu các qui định và chế tài cụ thể về quản lý dự án sau giấy phép dẫn đến việc quản lý các dự án sau giấy phép gặp nhiều khó khăn, thông tin không chính xác Một số dự án thuộc diện đăng ký cấp phép đầu tư nhưng trong quá trình xử lý vẫn gửi lấy ý kiến của các bộ, ngành làm kéo dài thời gian cấp phép. Mặc dù Nghị định đã qui định thời gian cấp phép đầu tư ra nước ngoài không quá 30 ngày, nhưng vẫn có dự án phải kéo dài đến cả năm, khiến cho doanh nghiệp lỡ mất cơ hội đầu tư. - Hiện nay các nguồn vốn đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam vẫn chưa nhận được những khuyến khích thích đáng từ phía Nhà nước: Theo NĐ 78/2006/NĐ-CP hiện nay đầu tư ra nước ngoàicòn bị những hạn chế về tài chính: Theo điều 9 NĐ 78, dự án đầu tư thuộc lĩnh vực ngân hàng, kinh doanh bảo hiểm, tài chính, tín dụng, báo chí, phát thanh, truyền hình, viễn thông có sử dụng vốn nhà nước từ 150 tỷ đồng trở lên hoặc vốn của các thành phần kinh tế từ 300 tỷ đồng trở lên phải được Thủ tướng chấp nhận; ... Việc vay ngoại tệ của ngân hàng thương mại để đầu tư ra nước ngoài gặp khó khăn. Ngoài ra cơ chế quản lý ngoại hối của Ngân hàng Nhà nước hiện nay chưa quy định về quản lý đồng tiền đầu tư ra nước ngoài, mặc dù việc vay ngoại tệ đã được quy định trong Nghị định 78/2006/NĐ-CP và trong thông tư Số 10/2006/TT-NHNN. Sự thiếu hụt vốn đã khiến cho một số dự án chỉ tồn tại được một thời gian ngắn. - Hiện nay chúng ta vẫn chưa có bộ phận chuyên trách về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài, sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng của Chính phủ (Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Bộ Tài chính) trong việc quản lý các dự án đầu tư ra nước ngoài còn hạn chế; chưa thành lập được các đoàn khảo sát tại chỗ để đánh giá sâu hiệu quả hoạt động đầu tư ra nước ngoài. Mối quan hệ giữa cơ quan đại diện ngoại giao và thương vụ Việt Nam ở nước ngoài với các doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài còn lỏng lẻo nên khi có vụ việc tranh chấp xảy ra sẽ không tranh thủ được tối đa sự hỗ trợ của nhà nước. - Chưa có một website nối mạng quốc tế và các tổ chức tư vấn chuyên nghiệp hoạt động trên phạm vi toàn quốc và toàn cầu để cung cấp các dịch vụ hỗ trợ đầu tư ra nước ngoài như: cung cấp thông tin thị trường; thông tin đối tác, cơ hội và kinh nghiệm kinh doanh; thông tin về môi trường đầu tư; các dịch vụ xúc tiến thương mại; các dịch vụ hỗ trợ tư pháp về đăng ký và xử lý tranh chấp thương hiệu, tư vấn kế toán, thuế... - Việc Việt Nam trở thành thành viên của WTO về mặt lý thuyêt là giúp cho các doanh nghiệp tiếp cận được các thị trường được dễ dàng hơn qua các Hiệp định Song phương và đa phương mà Việt Nam đã ký kết. Nhưng trên thực tế thì Việt Nam chưa có quan hệ pháp lý trực tiếp cần thiết để triển khai các hoạt động đầu tư trực tiếp song phương thuận lợi theo các tiêu chuẩn nguyên tắc và thông lệ quốc tế hiện hành; còn nhiều tổ chức và định chế pháp lý kinh doanh quốc tế mà Việt Nam chưa phải là thành viên; ngay cả các chủ trương và quy định chính thức mang tính pháp lý cần thiết nhằm định hướng và hỗ trợ các doanh nhân, doanh nghiệp trong nước đầu tư ra nước ngoài cũng còn chưa đầy đủ, nhất quán và cụ thể... Nghĩa là, chúng ta đang đứng trước yêu cầu bức bách phải nhanh chóng “lấp đầy” những “khoảng trống” pháp lý trong nước và quốc tế để tạo ra môi trường đầu tư ngày càng “đồng chất” hơn theo yêu cầu phát triển nền kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế. Cần khẳng định rằng nhu cầu đầu tư ra nước ngoài là khách quan và ngày càng gia tăng, do đó nếu không được định hướng và bảo hộ bằng luật pháp nhà nước thì các hoạt động “đầu tư lậu”, tự phát, đầy rủi ro sẽ càng nhiều hơn... II. Các giải pháp nhằm tăng cường hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam. Cùng với sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế trong nước sẽ là sự gia tăng năng lực tài chính của các doanh nghiệp trong bối cảnh Việt Nam đã là thành viên chính thức của WTO thì đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam trong thời gian tới nhất định sẽ được tăng cường đáng kể. Dự báo năm 2007, vốn đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Việt Nam đạt 350 – 360 triệu USD, tăng gấp 3 lần so với năm 2006. Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng cũng đã xác định: “Khuyến khích và hỗ trợ cho các doanh nghiệp và cá nhân Việt nam đầu tư ra nước ngoài”. Theo ước tính của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, trong vòng 5 năm tới các doanh nghiệp Việt Nam sẽ đầu tư khoảng 1,0 đến 1,2 tỷ USD ra nước ngoài, bình quân mỗi năm 200 triệu USD. Đây có lẽ là một tín hiệu khả quan đối với hoạt động đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam. Để thực hiện được mục tiêu này thì một số giải pháp sau cần được áp dụng, đó là: 1. Cần có sự "nhận thức lại" của các cấp các ngành và bản thân các DN, doanh nhân Việt Nam về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. Hiện nay còn nhất nhiều người cho rằng Việt Nam đang là nước đang phát triển cho nên chỉ cần quan tâm đến dòng vốn chảy vào nền kinh tế, mà ít quan tâm đến dòng vốn chảy ra, nhất là dòng vốn đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các doanh nghiệp. Đây là một quan điểm phiến diện, vì thực tế đất nước nào mà đầu tư trực tiếp ra nước ngoài càng mạnh thì càng có cơ hội mở rộng thị trường hợp tác kinh doanh, tăng cường thu hút vốn đầu tư nước ngoài... Do đó cần phải thay đổi nhận thức của các cấp chính quyền, của các doanh nghiệp... trong vấn đề đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. Phải nâng cao trình độ của cán bộ trong lĩnh vực đầu tư trực tiếp ra nước ngoài, phải tuyên truyền, giải thích cho các doanh nghiệp thấy được lợi ích nhiều mặt của hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. - Xây dựng danh mục các dự án khuyến khích đầu tư trực tiếp ra nước ngoài với những ưu đãi cụ thể về tín dụng, thuế, cơ chế chính sách... Cần đi vào cụ thể không nên để chung chung, chỉ nêu danh mục các dự án... - Phân cấp lại thẩm quyền quyết định cấp phép đầu tư trực tiếp ra nước ngoài theo hướng trao nhiều quyền hơn cho các địa phương để rút ngắn thời gian chờ đợi cấp phép đầu tư. 2. Nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam. * Về phía Nhà nước Cần cân nhắc kỹ khi lựa chọn chính sách ưu đãi, hỗ trợ dưới dạng bao cấp hoặc bảo hộ và nếu có, cần tính toán thời gian và phương pháp hợp lý. Cần tập trung xây dựng chính sách tạo thuận lợi cho sản xuất, kinh doanh, tạo môi trường phù hợp, tự chủ, minh bạch cho hoạt động của doanh nghiệp. Thực tế chứng minh trong quá trình đổi mới, những chính sách thành công nhất không phải là ưu tiên, ưu đãi mà là tạo môi trường, điều kiện thuận lợi cho sản xuất kinh doanh phát triển. Khẩn trương tiến hành tháo gỡ khó khăn, vướng mắc đang cản trở hoạt động bình thường của doanh nghiệp nói chung, tập trung chủ yếu trên các nội dung sau: - Khắc phục tình trạng thiếu nhất quán, không đồng bộ, chồng chéo, mâu thuẫn trong các chính sách và việc thực hiện không thống nhất giữa các cấp, các ngành. Cho đến nay, chính sách vẫn còn nhiều thay đổi bất thường, khó dự đoán, làm đảo lộn các tính toán chiến lược của doanh nghiệp, chuyển lãi thành lỗ, rủi ro đầu tư cao. - Các lĩnh vực tài chính, thuế, tín dụng chậm được đổi mới, việc thực thi còn gây nhiều phiền hà, cản trở. - Những can thiệp phi kinh tế ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp. Để đối phó với tình hình đó các doanh nghiệp phải luồn lách, trốn tránh, khai báo thiếu trung thực để trang trải nhiều chi phí phát sinh. Với môi trường như vậy không thể có cạnh tranh lành mạnh. Doanh nghiệp “chiến thắng” chưa chắc là doanh nghiệp kinh doanh giỏi, tuân thủ luật pháp. Khắc phục tình trạng này cần tiếp tục cải cách hành chính triệt để, mạnh mẽ, được tiến hành một cách đồng bộ, kiên quyết. - Từng bước giảm giá các hàng hoá và dịch vụ công, ổn định giá các hàng hoá đầu vào có tác động làm tăng chi phí sản xuất như giá điện, nước, bưu chính viễn thông, năng lượng, cước phí vận tải, phí dịch vụ bến cảng, sân bay, dịch vụ hành chính. * Về phía Doanh nghiệp - Tiếp tục chuyển đổi sở hữu, tái cơ cấu bằng nhiều biện pháp: cổ phần hoá, bán, khoán, cho thuê hoặc giải thể. Cần xác định phạm vi và tiêu chí cụ thể các doanh nghiệp 100% vốn nhà nước, Nhà nước chiếm cổ phần chi phối. - Xây dựng các liên kết kinh tế, kỹ thuật giữa các doanh nghiệp Nhà nước với các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế nhằm phát huy sức mạnh, khai thác lợi thế, khắc phục yếu kém trong hội nhập kinh tế quốc tế. - Xây dựng chiến lược kinh doanh, chiến lược sản phẩm, thương hiệu từng bước nâng cao năng lực quản trị trong các doanh nghiệp. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp cũng cần đầu tư nghiên cứu phát triển sản phẩm mới, đổi mới công nghệ, áp dụng hệ thống quản lý chất lượng tiên tiến. - Nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm đi đôi với cắt giảm chi phí nhằm hạ giá thành, nâng cao chất lượng sản phẩm bằng nhiều biện pháp là một trong những yếu tố “quyết định” khả năng cạnh tranh của mỗi doanh nghiệp. - Đổi mới tổ chức quản lý, áp dụng các phương pháp quản lý tiên tiến, tăng cường kỹ năng kinh doanh hiện đại, khả năng tiếp cận và phát triển thị trường, khả năng bán hàng Để làm được điều này cần có lộ trình đào tạo, thu hút, sử dụng nhân tài trong kinh doanh. Đội ngũ cán bộ quản lý, kinh doanh trong các doanh nghiệp, các tập đoàn kinh tế phải thực sự nhà nghề, vừa đảm bảo yêu cầu đạo đức, văn hoá truyền thống của con người Việt Nam, vừa có đủ kỹ năng, trình độ hội nhập với thị trường thế giới. Họ không chỉ làm giàu cho bản thân, cho đơn vị mà còn biết chăm lo lợi ích cộng đồng 3. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách trong lĩnh vực đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. Đẩy nhanh tiến độ thẩm định cấp phép cho các dự án đầu tư ra nước ngoài, giảm thiểu các thủ tục hành chính, điều chỉnh lại thủ tục xin phép đầu tư. Về lâu dài, việc đăng ký đầu tư và chấp nhận đầu tư cần được diễn ra trên mạng thông tin trực tuyến giữa Chính phủ và doanh nghiệp theo mô hình chính phủ điện tử. Mặc dù hiện nay các văn bản liên quan đến đầu tư trực tiếp ra nước ngoài quy định thời gian cấp phép tối đa là 30 ngày, nhưng rất hiếm khi có dự án được cấp phép đúng theo luật quy định. Về lâu dài, việc đăng ký đầu tư và chấp nhận đầu tư cần được diễn ra trên mạng thông tin trực tuyến giữa Chính phủ và doanh nghiệp theo mô hình chính phủ điện tử. - Xây dựng danh mục các dự án đặc biệt khuyến khích và khuyến khích đầu tư trực tiếp ra nước ngoài với những hình thức ưu đãi phù hợp về tín dụng, mua ngoại tệ, thuế...xây dựng đề án về các cơ chế hỗ trợ khuyến khích để thúc đẩy hoạt động Đầu tư ra nước ngoàinăm 2007-2010 theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ nhằm khuyến khích, thúc đẩy DN Việt Nam Đầu tư ra nước ngoàivào những lĩnh vực, ngành nghề mà Việt Nam muốn khai thác nguyên liệu, chuyển dịch ra nước ngoài như dệt, may, giày, dép... 4. Tăng cường các hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài. Việc tổ chức hỗ trợ các doanh nhân và doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài không thể thực hiện tự phát, nhất thời và khoán trắng cho một vài đơn vị, tổ chức, cá nhân nào, mà ngược lại, cần được tiến hành có chỉ đạo tập trung, thống nhất, liên tục trong sự phối hợp nhịp nhàng, ăn khớp của một hệ thống các cơ cấu tổ chức, các cấp, ngành, đơn vị và cá nhân hữu quan. Trước hết, cần có những bộ phận cơ cấu mang tính liên ngành và chuyên ngành, cùng các cán bộ chức năng chuyên trách, đủ trình độ và trách nhiệm cao, đảm nhận việc quản lý nhà nước các hoạt động đầu tư của Việt Nam ở nước ngoài, đồng thời có trách nhiệm và quyền lực cần thiết để nghiên cứu, đề xuất xây dựng, điều chỉnh và thông qua những văn bản, quy định pháp lý trực tiếp liên quan đến các hoạt động này. Các đại sứ quán, lãnh sự quán và phòng thương vụ Việt Nam ở nước ngoài phải tạo điều kiện cao nhất, hỗ trợ toàn diện các doanh nhân và doanh nghiệp Việt Nam đang và sẽ hoạt động tại quốc gia, vùng lãnh thổ do mình phụ trách, đặc biệt là hỗ trợ về cung cấp hộ chiếu, xin visa; hỗ trợ về đảm bảo an ninh tài sản và an toàn cá nhân; hỗ trợ về thủ tục, thậm chí bảo lãnh pháp lý, xin nước sở tại cho phép thành lập các hiệp hội doanh nghiệp, các trung tâm thương mại, các doanh nghiệp và tổ hợp sản xuất kinh doanh của người Việt Nam ở những địa điểm thích hợp trên nước, vùng lãnh thổ sở tại. Các ngân hàng thương mại nhà nước Việt Nam cần có những chi nhánh, văn phòng đại diện ở nước ngoài, ưu tiên đặt tại các trung tâm lớn có cộng đồng đông đảo doanh nhân, doanh nghiệp Việt Nam hoặc ở những trung tâm thị trường tài chính quốc tế lớn để trực tiếp cung cấp các dịch vụ thanh toán, chuyển tiền và bảo lãnh cần thiết cho hoạt động đầu tư của Việt Nam ở nước ngoài. Cần nghiên cứu thành lập các Công ty đầu tư tài chính quốc tế thích hợp có chức năng huy động vốn đầu tư trong và ngoài nước để thực hiện đầu tư tài chính quốc tế, nhằm đa dạng hoá các công cụ đầu tư ra nước ngoài của doanh nhân và doanh nghiệp Việt Nam... Khuyến khích và hỗ trợ việc thành lập các hiệp hội doanh nghiệp Việt Nam ở từng nước, các hiệp hội ngành hàng đặt trụ sở trong nước và nhiều chi nhánh đại diện ở nước ngoài; chủ động tham gia và tích cực hoạt động trong các tổ chức hiệp hội ngành hàng khu vực và quốc tế. Bên cạnh đó, Chính phủ cần quan tâm tổ chức các đường dây nóng, các cuộc gặp gỡ, tiếp xúc định kỳ và không định kỳ giữa Chính phủ - các doanh nhân, doanh nghiệp Việt Nam – các đại sứ quán, lãnh sự quán, thương vụ nước ngoài trên lãnh thổ Việt Nam và của Việt Nam ở các nước thị trường tiềm năng hay nơi có đông đảo cộng đồng doanh nhân, doanh nghiệp Việt Nam đang hoạt động... để nắm bắt và xử lý nhanh, kịp thời, chính xác, hiệu quả hơn các nhu cầu, vấn đề bức xúc đặt ra trong quá trình hoạt động đầu tư ra nước ngoài của doanh nhân, doanh nghiệp Việt Nam. Đặc biệt, việc bảo hộ và hỗ trợ về pháp lý của nhà nước nhằm thành lập những trung tâm kinh tế thương mại của người Việt Nam ở nước ngoài, nhất là ở những thị trường đã và đang phát triển, truyền thống và mới (Mỹ, Nhật, Đức, Nga và một số nước Mỹ la tinh, kể cả ở châu Phi) đang và sẽ tiếp tục là một hướng quan trọng nhằm thúc đẩy và nâng cao hiệu quả dòng đầu tư trực tiếp của Việt Nam ra nước ngoài. Ban hành một số quy định cụ thể về chính sách ưu đãi, hỗ trợ doanh nghiệp Việt Nam đầu tư trực tiếp ra nước ngoài; tổ chức các chương trình xúc tiến đầu tư trực tiếp ra nước ngoài kết hợp với đầu tư vào Việt Nam; xây dựng đề án về các cơ chế hỗ trợ khuyến khích để thúc đẩy hoạt động Đầu tư ra nước ngoàinăm 2007-2010 theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ nhằm khuyến khích, thúc đẩy doanh nghiệp Việt Nam đầu tư trực tiếp ra nước ngoài vào những lĩnh vực, ngành nghề mà Việt Nam muốn khai thác nguyên liệu, chuyển dịch ra nước ngoài như dệt, may, giày, dép... 5. Tăng cường mở rộng hợp tác quốc tế trong lĩnh vực FDI. - Tham gia ký kết các hiệp định đầu tư đa phương và song phương. Hiện nay Việt Nam đã tham gia ký kết vào các hiệp định đầu tư đa phương, như Hiệp định về các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại (TRIM), Hiệp định về vấn đề thương mại liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ, cùng một số quy định về vấn đề FDI, ta cần tiếp tục tham gia vào các hiệp định đa phương để gỡ bỏ những rào cản cho doanh nghiệp Việt Nam khi đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. Bên cạnh đó ta cần tích cực thúc đẩy việc ký kết các hiệp định về đầu tư với từng nước cụ thể, hiện nay Việt Nam đã ký kết được với một số đối tác chủ yếu. Việc ký kết được các hiệp định về đầu tư song phương sẽ bảo vệ các doanh nghiệp Việt Nam khi đầu tư sang nước đã ký kết và nâng cao khả năng tạo ra lợi nhuận của các doanh nghiệp khi triển khai dự án ở nước ngoài. - Tích cực đàm phán các hiệp định tránh đánh thuế hai lần và nâng cao hiệu quả của các hiệp định đã ký. Với các biệp pháp cụ thể sau: Xác định rõ nước cần ký kết. Tập trung với nước đã có quan hệ kinh tế-đầu tư với Việt Nam, hoặc có tiềm năng phát triển mạnh trong thời gian tới. Nâng cao trình độ chuyên môn của cán bộ tham gia đàm phán. Những người tham gia đàm phán phải hiểu biết kỹ cang về các mẫu hiệp định, các điều khoản và các khía cạnh pháp lý. Ngoài ra còn hiểu rõ quan hệ kinh tế-đầu tư hiện tại giữa hai nước... Tăng cường triển khai các hiêp định đã ký kết. Nâng cao năng lực cuả bộ máy quản lý và thực hiện Hiệp định, ban hành kịp thời các văn bản hướng dẫn thực hiện Hiệp định đã ký. Đông thời tăng cường trao đổi thông tin giữa Việt Nam và các nước ký kết để nâng cao hiệu quả thi hành của Hiệp định. Đồng thời phải tuyên truyền cho các doanh nghiệp để họ hiểu rõ về các Hiệp định tránh đánh thuế trùng để doanh nghiệp có cơ hội tận dụng các ưu đãi đã được ký kết. III. Một số kiến nghị nhằm thúc đẩy các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. 1. Về phía Nhà nước. - Thay đổi nhận thức về việc tiến hành đầu tư trực tiếp ra nước ngoài trên phạm vi cả nước. Thông qua nhiều hình thức tuyên truyền, vận động ở cả trên các cơ quan quản lý Nhà nước và dưới các doanh nghiệp về lợi ích của hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài, tạo tâm lý an tâm và hưởng ứng tích cực cả từ phía Nhà nước và các nhà đầu tư. - Bổ sung các văn bản hướng dẫn các doanh nghiệp và cá nhân thực hiện đầu tư trực tiếp ra nước ngoài theo hướng đơn giản, thuận tiện nhằm khuyến khích hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. - Nhà nước phải tăng cường hỗ trợ và tư vấn cho các cá nhân và doanh nghiệp tiến hành đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. Chẳng hạn như ký kết nhiều văn bản pháp luật song phương và đa phương để tạo môi trường đầu tư thuận lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam và bảo vệ được lợi ích của các doanh nghiệp Việt Nam ở nước ngoài. - Nên thành lập một số cơ quan chuyên môn có nhiệm vụ hỗ trợ các doanh nghiệp và cá nhân đầu tư ra nước ngoài. Thành lập Hiệp hội các doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài để bảo vệ quyền lợi và giúp đỡ các doanh nghiệp Việt Nam trong quá trình kinh doanh ở nước ngoài. - Thành lập quỹ hỗ trợ đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam nhằm hỗ trợ tài chính cho các dự án đầu tư trực tiếp ra nước ngoài hỗ trợ các doanh nghiệp Việt Nam khi họ gặp những rủi ro trong quá trình kinh doanh ở nước ngoài. - Tăng cường hoạt động xúc tiến đầu tư trên tầm vĩ mô, trước hết ở các lĩnh vực mà Việt Nam có lợi thế so sánh, có thể kết hợp với việc tổ chức các hội chợ triển lãm quốc tế tạo điều kiện cho các nhà đầu tư Việt Nam được tiếp xúc với các đối tác tiềm năng.     - Nhà nước giao cho các cơ quan Đại sứ quán, Phòng Thương vụ của Việt nam ở nước ngoài hỗ trợ, giúp đỡ các doanh nghiệp Việt Nam trong việc tiến hành đầu tư trực tiếp ra nước ngoài và bảo vệ các doanh nghiệp khi có tranh chấp xảy ra. Đồng thời phải coi đó như là một nhiệm vụ bắt buộc đối với các cơ quan này. - Tăng cường cung cấp các dịch vụ hỗ trợ cho các nhà đầu tư có nguyện vọng đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.... 2. Về phía doanh nghiệp. Thứ nhất, tìm hiểu kỹ thị trường, môi trường đầu tư của nước sở tại để lựa chọn các cơ hội đầu tư phù hợp với mình. Thứ hai, liên hệ chặt chẽ với các Đại sứ quán, Cơ quan Thương vụ của Việt Nam ở nước ngoài để xin cung cấp thông tin và tư vấn trước khi quyết định đầu tư trực tiếp tại một nước. Thứ ba, liên hệ với Việt kiều ở các nước để thu thấp thông tin và xin tư vấn để đầu tư vào lĩnh vực và sản phẩm phù hợp KẾT LUẬN Việt Nam hiện nay đã là thành viên của WTO, và chúng ta đang tham gia mạnh mẽ vào quá trinh hội nhập kinh tế quốc tế. Đối với hoạt động đầu tư quốc tế Việt Nam hiện nay vẫn chủ yếu đứng trên góc độ của nước tiếp nhận đầu tư. Tuy nhiên trong thời gian qua thì các doanh nghiệp Việt Nam đã bắt đầu có hoạt động tích cực đó là đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. Hoạt động này đã được bắt đầu từ khá sớm tuy nhiên nó chỉ được chính thức luật hoá vào năm 1999 với Nghị định số 22/1999/NĐ-CP. Tuy nhiên do đây là hoạt động mới nên các doanh nghiệp Việt Nam còn bộc lộ nhiều hạn chế trong quá trình đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. Qua việc phân tích thực trạng hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài thời gian qua, đánh giá những mặt đạt được cũng như những yếu kém còn tồn tại,... thấy rõ được tầm quan trọng của dòng vốn đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. Qua đề tài em xin góp một phần nhỏ bé để thúc đẩy doanh nghiệp Việt Nam đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. Tuy nhiên để hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài được khởi sắc cần có sự nỗ lực của chính phủ, của các ban ngành, các địa phương và của mỗi doanh nghiệp. Tài liệu tham khảo 1. Luật đầu tư chung năm 2005. 2. Làn sóng mới đầu tư ra nước ngoài. Báo Sài Gòn Giải phóng, ngày 10/01/2006. 3. Tăng tốc đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp. www.dddn.com.vn 4. Đầu tư ra nước ngoài – hướng đi mang tính hấp dẫn cao. www.irv.moi.gov.vn 5. Thực trạng đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam hiện nay. www.mofa.gov.vn 6. Chưa có cơ quan chuyên môn hỗ trợ đầu tư ra nước ngoài. www.vovnews.vn 7. Xây dựng đề án đầu tư ra nước ngoài. www.vnn.vn 8. Doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài: Còn nhiều vướng mắc! www.mof.gov.vn 9. Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam. Tạp chí Kinh tế và Dự báo, số 9/2007. MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc5997.doc
Tài liệu liên quan