Đề tài Dạy học các nội dung kinh tế, văn hoá phần lịch sử Việt Nam ở lớp 7 trường trung học cơ sở

MỞ ĐẦU 1 I. Lý do chọn đề tài 1 II. Lịch sử vấn đề nghiên cứu 3 III. Mục đích nghiên cứu : 5 IV. Nhiệm vụ của đề tài : 5 V. Phương pháp nghiên cứu : 6 VI. Bố cục của đề tài : 6 NỘI DUNG 7 CHƯƠNG I : 7 VAI TRÒ, Ý NGHĨA CỦA VIỆC DẠY HỌC CÁC NỘI DUNG KINH TẾ, VĂN HOÁ Ở TRƯỜNG THCS. 7 1.1. Khái niệm kinh tế, văn hoá trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông 8 1.2. Vai trò, ý nghĩa của các nội dung kinh tế, văn hoá trong khoá trình lịch sử dân tộc ở trường THCS. 12 1.2.1. Đối với nhiệm vụ hình thành tri thức lịch sử cho học sinh. 13 1.2.2. Vấn đề bồi dường tư tưởng, đạo đức, tình cảm cho học sinh. 17 1.2.3. Đối với việc phát triển năng lực tư duy và hành động thực tiễn. 20 1.3 Tình hình dạy học các nội dung kinh tế, văn hoá trong khoá trình lịch sử dân tộc ở trường THCS hiện nay. 23 CHƯƠNG II 31 CÁC BIỆN PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ DẠY HỌC CÁC NỘI DUNG KINH TẾ, VĂN HOÁ PHẦN LỊCH SỬ VIỆT NAM Ở LỚP 7 TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ 31 2.1. Các kiến thức kinh tế, văn hoá trong chương trình, SGK cải cách giáo dục (phần Lịch sử Việt Nam ). 31 2.2. Xác định kiến thức cơ bản của nội dung kinh tế, văn hoá phần lịch sử Việt Nam ở lớp 7 cần truyền thu cho học sinh. 43 2.3. Các biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học nội dung kinh tế, văn hoá trong khoá trình lịch sử Việt Nam ở lớp 7 trường THCS. 50 2.3.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xác định các biện pháp dạy học nội dung kinh tế, văn hoá trong khoá trình lịch sử Việt Nam ở lớp 7 trường THCS. 50 2.3.3. Một số biện pháp nâng cao hiệu quả giảng dạy các nội dung kinh tế, văn hoá trong khoá trình lịch sử Việt Nam ở lớp 7 trường THCS. 60 CHƯƠNG III : THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM.KÊT LUẬNTÀI LIỆU THAM KHẢO 74 KÊT LUẬNTÀI LIỆU THAM KHẢO 75 TÀI LIỆU THAM KHẢO 76

doc92 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1971 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Dạy học các nội dung kinh tế, văn hoá phần lịch sử Việt Nam ở lớp 7 trường trung học cơ sở, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trong nội dung của bài có nhiều thành tựu nổi bật thể hiện được đặc trưng, bản chất của nền kinh tế, văn hoá ở mỗi thời kỳ, nên cần lựa chọn những thành tựu cơ bản tránh phân tích dàn trải, kể lể lan man các thành tựu kinh tế, văn hoá. Đồng thời, qua tìm hiểu sự hoàn thiện thể chế chính trị của các triều đại từ Ngô đến Nguyễn, từ quân chủ quí tộc lên quân chủ phong kiến quan liêu giúp học sinh thấy được mối liên hệ, tác động của tình hình chính trị tới các thành tựu kinh tế, văn hoá mà mỗi triều đại đạt được trong bước phát triển đi lên. Ví như, tìm hiểu thành tựu kinh tế, văn hoá thời Trần so với thời Lý và thời Hậu Lê. So với thời Lý, về kinh tế (chủ đạo là nông nghiệp) hình thức sử hữu ruộng đất tư nhân (có từ thời Lý) được xác lập ngày càng lớn với sự mở rộng không ngừng các điền trang, thái ấp của quí tộc vương hầu, thủ công nghiệp phát triển mạnh hơn thời Lý (so sánh hình 19 với hình 32, 33). Về văn hoá , tư tưởng Phật giáo được thể hiện qua hàng loạt các thành tựu văn hoá, văn học, nghệ thuật, đặc biệt là kiến trúc và điêu khắc : Tháp chùa Phổ Minh, hình rồng trên bệ tam thế. Những thành tựu to lớn của nền văn hoá Thăng Long thời Trần so với thời Lý đã khẳng định vị trí của triều Trần trong lịch sử dân tộc với “Hào khí Đông A” vang dội. Song so với thời Hậu Lê, những thành tựu kinh tế, văn hoá đạt được đã đánh dấu triều Lê ở đỉnh cao của các triều đại phong kiến dân tộc trên tất cả các mặt : kinh tế phong kiến hoàn chỉnh với sự xác lập của quan hệ sản xuất chủ đạo địa chủ với nông dân, văn hoá đặc sắc thể hiện tư tưởng cốt lõi phong kiến - tư tưởng Nho giáo, ảnh hưởng lớn tới các thành tựu văn hoá : văn học nghệ thuật, giáo dục, khoa học, kiến trúc, điều khắc… Ba là : Giúp học sinh thấy được mối liên hệ giữa phát triển kinh tế, văn hoá với việc xây dựng củng cố sự thống nhất quốc gia. Sự phát triển kinh tế, văn hoá của mỗi triều đại phong kiến dân tộc từ thế kỷ X - XIX góp phần quan trọng khẳng định chủ quyền độc lập của dân tộc. Chương trình, SGK Lịch sử THCS (phần Lịch sử Việt Nam) qua nhiều lần chỉnh lý, bổ xung, sửa đổi có nhiều tiến bộ trong việc xác định cấu trúc, nội dung khoa học, thể hiện tính hệ thống, toàn diện đóng góp ngày càng tốt hơn sự nghiệp giáo dục đào tạo thế hệ trẻ, đặc biệt việc đưa một tỷ lệ cân đối các nội dung kinh tế, văn hoá vào trong chương trình giúp học sinh có nhận thức toàn diện hơn về Lịch sử Việt Nam. Xác định đúng và khai thác có hiệu quả những kiến thức cơ bản của các nội dung kinh tế, văn hoá trong chương trình và SGK có ý nghĩa quan trọng nâng cao chất lượng dạy học bộ môn. Song kết quả dạy học sẽ bị hạn chế nếu chúng ta không tìm được những con đường vừa phù hợp với nội dung Lịch sử này, vừa có tính khả thi trong thực tế dạy học ở trường THCS hiện nay. 2.3. CÁC BIỆN PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ DẠY HỌC NỘI DUNG KINH TẾ, VĂN HOÁ TRONG KHOÁ TRÌNH LỊCH SỬ VIỆT NAM Ở LỚP 7 TRƯỜNG THCS. Để nâng cao hiệu quả dạy học nội dung kinh tế, văn hoá trong khoá trình Lịch sử Việt Nam, ngoài nhận thức vai trò, ý nghĩa và xác định kiến thức cơ bản thì việc lựa chọn phương pháp dạy học là một vấn đề quan trọng. Đổi mới phương pháp dạy học nội dung kinh tế, văn hoá trong khoá trình Lịch sử Việt Nam ở lớp 7 trường THCS cần phải dựa trên cơ sở khoa học và thực tiễn dạy học. 2.3.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xác định các biện pháp dạy học nội dung kinh tế, văn hoá trong khoá trình lịch sử Việt Nam ở lớp 7 trường THCS. a- Cơ sở lý luận của việc dạy học các nội dung kinh tế, văn hoá trong môn Lịch sử ở trường THCS. Quá trình dạy học Lịch sử ở trường THCS nói chung, dạy học các nội dung kinh tế, văn hoá nói riêng dựa trên những nguyên tắc có ý nghĩa phương pháp luận. Nguyên tắc đó thấu suốt trong tất cả các khâu của quá trình dạy học, từ công tác chuẩn bị của giáo viên đến việc xác định nội dung, phương pháp, các hình thức tổ chức dạy học. Khi dạy học các nội dung kinh tế, văn hoá trong khoá trình Lịch sử Việt Nam, giáo viên cần nhận thức đây là dạy học một sự kiện lịch sử chứ không phải tìm hiểu chuyên sâu về kinh tế, văn hoá. Vì vậy, việc dạy học nội dung này phải tuân thủ mục đích, nhiệm vụ, đặc trưng và phương pháp bộ môn. Học sinh nắm được kiến thức kinh tế, văn hoá thông qua nhận thức các sự kiện, hiện tượng lịch sử cụ thể, xuất phát từ sự vận động, diễn biến của sự kiện, thông qua việc xác định thời gian, không gian xảy ra sự kiện. Để trang bị cho học sinh những kiến thức về kinh tế, văn hoá giáo viên phải sử dụng hệ thống phương pháp dạy học bộ môn. Nếu không tuân thủ các yếu tố đó sẽ không thực hiện được chức năng, nhiệm vụ cụ thể của môn học, không nâng cao nhận thức về các nội dung kinh tế, văn hoá cho học sinh. Đảm bảo tính cơ bản là một nguyên tắc của việc dạy học Lịch sử nói chung, dạy học các nội dung kinh tế, văn hoá nói riêng. Trong quá trình dạy học do nhiều nhân tố khác nhau qui định nên bộ môn Lịch sử “không thể cung cấp và tiếp thu mọi tri thức của khoa học lịch sử mà chỉ có thể làm cho học sinh nắm vững những kiến thức cơ bản”. Các nội dung kinh tế, văn hoá trong khoá trình Lịch sử Việt Nam đề cập tới nhiều sự kiện, hiện tượng, nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống kinh tế, văn hoá. Giáo viên chỉ cần lựa chọn một số lĩnh vực kinh tế, văn hoá tiêu biểu, cơ bản, cần thiết cho việc tìm hiểu đời sống kinh tế, văn hoá của các giai đoạn lịch sử khác nhau để học sinh nhận thức đúng sự phát triển kinh tế, văn hoá của từng thời kỳ, từng giai đoạn lịch sử. Tuy nhiên, không nên quan niệm một cách đơn giản rằng dạy học các nội dung kinh tế, văn hoá trong môn Lịch sử chỉ là sự liệt kê các ngành kinh tế, các lĩnh vực văn hoá, các thành tựu kinh tế văn hoá nổi bật nào đó. Như vậy, chẳng những không mang lại hiệu quả giáo dưỡng, giáo dục và phát triển của bài học mà còn không gây hứng thú học tập cho học sinh. Cho nên, khi giảng dạy các nội dung kinh tế, văn hoá giáo viên không dừng lại ở việc kể tê các ngành kinh tế, văn hoá mà phải đi sâu tìm hiểu điều kiện đưa đến sự phát triển của nền kinh tế, văn hoá và vai trò của nó đối với việc thúc đẩy sự ổn định, phát triển của xã hội. Có như thế, bộ môn Lịch sử mới thiết thực góp phần nâng cao nhận thức của học sinh về các vấn đề kinh tế, văn hoá mà không xa rời chức năng, nhiệm vụ, đặc trưng của bộ môn. Đảm bảo tính cụ thể, trực quan và truyền cảm là yêu cầu có tính nguyên tắc khi dạy học các nội dung kinh tế, văn hoá cũng như bất cứ nội dung nào của bộ môn Lịch sử. Lý luận và thực tiễn dạy học các nội dung kinh tế, văn hoá ở trường phổ thông đã khẳng định hiệu quả của việc đảm bảo tính cụ thể, trực quan, truyền cảm khi sử dụng các phương tiện trực quan để minh hoạ. Nguyên tắc này càng có ý nghĩa hơn đối với lứa tuổi học sinh THCS khi nhận thức của các em còn thiên về cảm giác, quan sát trực tiếp. Do tính phức tạp, nhiều mặt của các nội dung kinh tế, văn hoá đòi hỏi giáo viên phải tổ chức nhiều hoạt động ngoại khoá để hỗ trợ cho bài nội khoá. Đặc biệt, việc tổ chức cho các em tham quan các công trình kinh tế, các di tích lịch sử, văn hoá góp phần bổ xung, nâng cao hiểu biết, nhận thức của học sinh, đáp ứng tính đa dạng phức tạp của các nội dung kinh tế, văn hoá. Cùng với việc nắm vững các nguyên tắc chỉ đạo, vấn đề xác định phương pháp, biện pháp dạy học các nội dung kinh tế, văn hoá trong môn Lịch sử có ý nghĩa quan trọng, ảnh hưởng tới chất lượng dạy học “Sự thành công của việc dạy học phụ thuộc vào việc xác định đúng đắn mục đích và nội dung cũng như vào biện pháp đạt tới mục đích, nghĩa là vào phương pháp dạy học”. Lựa chọn phương pháp, biện pháp dạy học các nội dung kinh tế, văn hoá muốn đạt hiệu quả cần dựa trên các cơ sở sau : Một là , các biện pháp dạy học nội dung kinh tế, văn hoá phải là sự cụ thể hoá hệ thống phương pháp dạy học Lịch sử, là một nhân tố trong quá trình dạy học Lịch sử có mối quan hệ với các nhân tố khác. Các nhà giáo dục học sư phạm đã chỉ rõ : “Qúa trình dạy học với tư cách là một hệ thống gồm những nhân tố cơ bản sau đây : Mục đích, nhiệm vụ dạy học, nội dung dạy học, thầy và hoạt động dạy, trò và hoạt động học, các phương pháp và phương tiện dạy học, kết quả dạy học. Tất cả các nhân tố của cấu trúc của quá trình dạy học tồn tại trong mối liên hệ qua lại thống nhất với nhau”. Mục đích, nhiệm vụ của việc dạy học các nội dung kinh tế, văn hoá đã được khẳng định. Về giáo dưỡng, giúp học sinh nhận thức đúng, toàn diện, sâu sắc lịch sử xã hội loài người và dân tộc và ở một mức độ nào đó nâng cao vốn kiến thức kinh tế, văn hoá chung cho các em. Về giáo dục, giúp học sinh có quan điểm, thái độ, tình cảm đúng đắn đối với lao động và đối với các di sản văn hoá lịch sử của dân tộc. Về phát triển, rèn luyện cho các em thế giới quan duy vật khi xem xét, đánh giá các sự kiện, hiện tượng về lịch sử kinh tế, văn hoá rèn luyện khả năng thực hành của bộ môn. Phương pháp dạy học các nội dung kinh tế, văn hoá, do đó không nằm ngoài hệ thống phương pháp dạy học bộ môn, nhưng mang nét đặc trưng riêng của các nội dung kinh tế, văn hoá. Hai là, do mối quan hệ tương tác, ảnh hưởng lẫn nhau giữa các nhân tố của quá trình dạy học, ngoài mục đích nhiệm vụ cụ thể của bộ môn, nội dung dạy học có ảnh hưởng lớn tới việc lựa chọn và vận dụng phương pháp, biện pháp dạy học. Tuy nhiên, do sự phong phú của nội dung dạy học, do “tính chất của tài liệu khác nhau” được qui định bằng các loại bài học cụ thể về chính trị, quân sự, kinh tế, văn hoá…, cho nên việc lựa chọn phương pháp dạy học Lịch sử phải chú ý đến đặc điểm nội dung những lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội mà khoa học lịch sử nghiên cứu. Không thể lựa chọn cùng một phương pháp cho tất cả các loại bài có nội dung khác nhau mà trên cơ sở sử dụng kết hợp nhuần nhuyễn các phương pháp chung nên lựa chọn những phương pháp, biện pháp dạy học phù hợp khi dạy các loại bài chính trị, quân sự, kinh tế, văn hoá. Có nghĩa là khi dạy học các nội dung kinh tế, văn hoá giáo viên cần biết sử dụng kết hợp nhiều phương pháp khác nhau và dựa vào nội dung cụ thể để xác định, lựa chọn phương pháp, biện pháp nào là chủ đạo, phương pháp nào chỉ là bổ xung, hỗ trợ. Hai là, trong dạy học Lịch sử nói chung, dạy học các nội dung kinh tế, văn hoá nói riêng cần chú ý phát huy tính tích cực trong hoạt động tư duy độc lập, sáng tạo của học sinh. Bởi vì “sự phát triển trí tuệ của học sinh diễn ra có kết quả hơn nếu như đặt các em trước sự cần thiết phải tự mình thu nhập trị thức và áp dụng chúng trong thực tiễn”. Đây được coi là một nội dung trọng tâm đổi mới của việc dạy học Lịch sử nhằm giúp học sinh không chỉ “biết” lịch sử mà quan trọng hơn là phải “tường” lịch sử tức là hiểu lịch sử một cách sâu sắc. Bốn là, đảm bảo tính khả thi, phù hợp với thực tế dạy học Lịch sử ở trường phổ thông hiện nay. Các phương pháp, biện pháp đề xuất phải đảm bảo tính hiệu quả và những điều kiện để thực hiện nó trong quá trình dạy học. Không thoả mãn những yêu cầu đó thì các phương pháp, biện pháp dạy học được đưa ra dù dựa trên cơ sở khoa học cũng chỉ là lý thuyết mà thôi. Cơ sở lý luận trên đã được quán triệt ở những mức độ khác nhau trong dạy học Lịch sử nói chung, dạy học các nội dung kinh tế, văn hoá nói riêng. Trên cơ sở đó, chúng tôi tìm hiểu thực tế việc sử dụng các biện pháp dạy học nội dung kinh tế, văn hoá ở trường THCS hiện nay để xác định các phương pháp dạy học những nội dung này đạt hiệu quả. b- Kinh nghiệm của những giáo viên dạy giỏi là một trong những cơ sở thực tiễn để cải tiến việc giảng dạy các nội dung kinh tế, văn hoá. Thực hiện chủ trương của Bộ giáo dục và đào tạo, hàng năm các Sở giáo dục và Phòng giáo dục trong cả nước đã tổ chức thường xuyên các cuộc thi chọn giáo viên giỏi các môn, trong đó có môn Lịch sử. Thông qua những cuộc thao giảng này, các Sở và Phòng giáo dục có thệ cơ sở để đánh giá thực trạng công tác giảng dạy ở các trường PTTH và THCS, rút ra được nhiều kinh nghiệm, bài học (cả thành công và thất bại) để góp phần nâng cao chất lượng dạy học, giáo dục ở trường phổ thông. Qua tổng kết, đánh giá kinh nghiệm của các phòng giáo dục (thuộc Sở Giáo dục - Đào tạo thành phố Hà Nội ) trong hai năm 2000 - 2001 và 2001 - 2002 về những cuộc thi giáo viên dạy giỏi môn Lịch sử, kết hợp với kết quả quan sát trực tiếp, chúng tôi rút ra một số kết luận khái quát về việc dạy học các nội dung kinh tế, văn hoá ở trường THCS hiện nay. Những kinh nghiệm của giáo viên dạy giỏi là một trong những cơ sở thực tế tin cậy để chúng tôi đề xuất các biện pháp dạy học. Thứ nhất : Nếu so với các loại chính trị, quân sự thì loại bài kinh tế, văn hoá ít được giáo viên lựa chọn để thao giảng vì loại bài này thường khó và khô khan. Song, do chuẩn bị kỹ và tổ chức tốt hoạt động nhận thức của học sinh từ đầu giờ cho đến cuối giờ học nên các tiết dạy được đánh giá là thành công đều tổ chức tốt hoạt động nhận thức của học sinh nhằm phát huy tính tích cực học tập trong giờ học đạt hiệu quả. Chúng tôi xin nêu ví dụ : Khi dạy bài 11, mở đầu bài học mới, cô giáo Nguyễn Thanh Bình (trường THCS Tân Trào) đã nêu nhiệm vụ nhận thức cho học sinh như sau : Các em đang tìm hiểu chương II : nước Đại Việt thời Lý (thế kỷ XI-XII). Tiếp nối các triều đại Ngô, Đinh, Tiền Lê sau khi giành được độc lập đều đặt lên hàng đầu nhiệm vụ thống nhất quốc gia, bên cạnh đó là chú ý đẩy mạnh phát triển kinh tế, văn hoá. Bởi vì, kinh tế, văn hoá chính là nền tảng chó sự phát triển và ổn định xã hội, khẳng định tính độc lập tự chủ của một dân tộc. Vậy nền kinh tế, văn hoá thời Lý phát triển như thế nào ? hôm nay, chúng ta sẽ tìm hiểu bài 11 chương II : Đời sống kinh tế, văn hoá. Bài này chúng ta sẽ tìm hiểu trong 2 tiết. Tuy tách biệt, nhưng 2 tiết này có mối quan hệ gắn bó với nhau. Có tìm hiểu sự phát triển kinh tế mới khẳng định được cơ sở nảy nở của những thành tựu văn hoá. Ở tiết đầu chúng ta sẽ giải quyết hai vấn đề : Một là : Những chính sách, biện pháp mà nhà Lý đã thực hiện để đẩy mạnh sự phát triển của các ngành kinh tế : nông nghiệp, thủ công nghiệp và thương nghiệp ; Hai là : Những thành tựu kinh tế mà triều Lý đã đạt được. Giải quyết được 2 vấn đề trên các em sẽ nắm được kiến thức cơ bản của bài học, tạo cơ sở để các em học tốt tiết 2 : “Sinh hoạt xã hội và văn hoá”. Việc nêu nhiệm vụ nhận thức ngay từ đầu giờ học như trên đã tạo cho các em một tâm thế làm việc, hứng thú học tập, mong muốn tìm hiểu giải quyết vấn đề, định hướng việc dạy học cho cả thầy và trò. Thực tế, giờ học đã diễn ra sinh động, sôi nổi. Trong suốt quá trình lên lớp, giáo viên đã khéo léo kết hợp nhiều phương pháp khác nhau để động viên học sinh tìm hiểu, giải quyết vấn đề đặt ra. Đặc biệt giáo viên đã biết kết hợp nhuần nhuyễn phương pháp trình bày miệng của giáo viên với phát vấn đàm thoại với học sinh để tìm câu hỏi trả lời đúng nhất. Ví như, khi nghiên cứu mục 1, sử dụng cách thông báo, giáo viên khẳng định trước học sinh : Trong các nhân tố để đẩy mạnh sự phát triển của sản xuất nông nghiệp thì đất đai và thuỷ lợi đóng vai trò quan trọng. Các em hãy nghiên cứu mục 1 của SGK và lần lượt trả lời các câu hỏi : Nhà lý đã có những chính sách, biện pháp nào để quản lý đất đai và thuỷ lợi ? Ngoài ra, nhà Lý còn có những chính sách, biện pháp nào để đẩy mạnh phát triển sản xuất nông nghiệp ? Thành tựu của sản xuất nông nghiệp nhà Lý đạt được những gì ? Kết thúc giờ học, cô giáo Nguyễn Thanh Bình tiếp tục động viên, phát huy tính tích cực của học sinh trong việc tổng kết kiến thức cơ bản của bài. Giáo viên nhắc lại vấn đề đã nêu lên ở đầu giờ học và yêu cầu học sinh dựa vào kiến thức mới học để trả lời ngắn gọn câu hỏi đó. Cuối cùng, giáo viên chốt lại và nhắc nhở các em chú ý ghi nhớ kiến thức cơ bản của bài. Từ kinh nghiệm thực tế của giáo viên giỏi, chúng tôi nhận thấy cần khai thác và sử dụng những phương pháp, biện pháp dạy học có tác dụng tổ chức tốt hoạt động nhận thức của học sinh trong suốt giờ học. Hiệu quả của biện pháp dạy học này là tạo nên không khí hào hứng, sôi nổi học tập, giúp học sinh năm chắc kiến thức cơ bản, học thuộc bài ngay tại lớp. Những bài học Lịch sử có nội dung phức tạp như loại bài kinh tế, văn hoá cần sử dụng biện pháp này. Thứ hai, khi giảng dạy các bài kinh tế, văn hoá giáo viên giỏi thường chú ý đến tạo biểu tượng cho học sinh bằng việc sử dụng nhiều phương pháp, biện pháp khác nhau để tạo biểu tượng. Kết hợp miêu tả hoàn cảnh hoặc miêu tả bộ phận (có phân tích) với các loại đồ dùng trực quan phù hợp để tạo biểu tượng được giáo viên sử dụng phổ biến và mang lại hiệu quả, gây hứng thú, tạo ấn tượng mạnh mẽ cho học sinh. Khi dạy bài 11 tiết 2 mục 2, để tạo biểu tượng cho học sinh về chùa Một cột (còn gọi là chùa Diên Hựu), có giáo Nguyễn Thị Túc (trường THCS Lê Ngọc Hân) đã có cách dạy học sáng tạo sử dụng bức ảnh hình 21 kết hợp với bài miêu tả để tạo biểu tượng cho học sinh. “Các em hãy quan sát hình 21 trong SGK, đây là Chùa Một cột - công trình kiến trúc Phật giáo tiêu biểu của thời Lý. Chùa được xây dựng năm 1049, tên chữ của chùa có nghĩa là “Phúc lành dài lâu”. Theo truyền tụng, sau khi vua Lý Thái Tông nằm mộng được Phật Bà dắt đi lên toà sen ngự toạ, quần thần cho là điềm gở, xin vua cho xây ngôi chùa như bông sen nở trên mặt nước để cầu phúc. Khi xây dựng xong, qui mô của chùa to lớn, lộng lẫy. Hiện nay, qua nhiều lần trùng tu chùa chỉ còn phảng phất hình bóng ngày xưa mà thôi. Sự độc đáo của chùa là toàn bộ ngôi chùa được đặt trên một đá cao 20 mét. Ở đây có sự kết hợp táo bạo của trí tưởng tượng lãng mạn đầy thi vị qua hình tượng bông sen và những giải pháp hoàn hảo về kết cấu kiến trúc gỗ, bằng hệ thống mộng, giằng và đặc biệt là sử dụng các cột chồng chéo lớn từ cột đến sàn, vừa tạo thế vững chắc, vừa mang tính thẩm mỹ như đường lượn của cánh sen và sự hài hoà giữa mái và sàn. Phía dưới là ao hình vuông có thể biểu tượng cho đất (trời tròn, đất vuông), ngôi chùa vươn lên ý niệm cao cả : lòng nhân ái của Đức Phật soi tỏ thế gian. Khối kiến trúc được phù trợ bởi cảnh quan, có ao, có cây cối đã tạo nên sự gần gũi, tinh khiết mà vẫn thanh tịnh…” Bằng biện pháp này, giáo viên đã lôi cuốn sự chú ý của học sinh, gây ấn tượng mạnh, tạo hứng thú học tập. Vì vậy, hiệu quả bài học được nâng lên, khắc phục được tình trạng khá phổ biến hiện nay là dạy “chay” diễn giải nội dung SGK, không sử dụng đồ dùng trực quan dạy học. Những kinh nghiệm thực tế đó làm phong phú, cụ thể hoá lý luận về phương pháp dạy học Lịch sử, giúp chúng tôi đề xuất những biện pháp dạy học theo tinh thần đổi mới nhằm phát huy tính tích cực, độc lập sáng tạo của học sinh. Thực tế đó cũng cho thấy, muốn góp phần nâng cao hiệu quả dạy học Lịch sử nói chung, các nội dung kinh tế, văn hoá nói riêng cần đổi mới phương pháp, biện pháp dạy học theo hướng sau : Một là , phải chú trọng nhiều đến các biện pháp có tác dụng tích cực hoá hoạt động nhận thức của học sinh khi giảng dạy các nội dung kinh tế, văn hoá. Ví như các biện pháp yêu cầu học sinh tìm hiểu điều kiện, hoàn cảnh kinh tế, văn hoá làm này sinh các thành tựu kinh tế, văn hoá và vai trò của nó đối với sự phát triển của xã hội. Hai là, kết hợp nhuần nhuyễn nhiều phương pháp, cách thức dạy học khác nhau nhằm tăng cường tạo biểu tượng cho học sinh về kinh tế, văn hoá. Trong đó phương pháp trình bày miệng kết hợp với đồ dùng trực quan chú ý vận dụng. Những vấn đề lý luận và thực tiễn được trình bày trên đây là cơ sở vững chắc để chúng tôi mạnh dạn đề xuất một số biện pháp dạy học cụ thể nhằm nâng cao nhận thức của học sinh về các nội dung kinh tế, văn hoá trong khoá trình Lịch sử dân tộc ở trường THCS. 2.3.3. Một số biện pháp nâng cao hiệu quả giảng dạy các nội dung kinh tế, văn hoá trong khoá trình lịch sử Việt Nam ở lớp 7 trường THCS. Xuất phát từ vai trò, ý nghĩa và kiến thức cơ bản của khoá trình Lịch sử Việt Nam ở lớp 7 trường THCS, dựa vào cơ sở lý luận và thực tiễn chúng tôi đề xuất một số biện pháp dạy học nhằm nâng cao chất lượng dạy học. Những biện pháp này có ưu thế khi dạy học các nội dung kinh tế, văn hoá. Quá trình tổ chức thực nghiệm nhằm chứng minh cơ sở khoa học và tính khả thi của các biện pháp chứ không phải là một tài liệu hướng dẫn cụ thể. a- Kết hợp nêu đặc điểm hoặc miêu tả (toàn bộ hay bộ phận có phân tích) với sử dụng các loại đồ dùng trực quan phù hợp để tạo biểu tượng về kinh tế, văn hoá cho học sinh. Trong quá trình dạy học Lịch sử ở trường phổ thông việc tạo biểu tượng lịch sử cho học sinh có ý nghĩa, vai trò quan trọng về mặt giáo dưỡng, giáo dục và phát triển học sinh. Có thể tạo nhiều loại biểu tượng cho học sinh ở nhiều lĩnh vực, trong đó biểu tượng kinh tế, văn hoá là loại biểu tượng khá phổ biến, chiếm một tỷ lệ đáng kể. Đó là biểu tượng về công cụ lao động, công cụ sinh hoạt, các công trình kiến trúc, điều khắc, trang phục của con người, các tác phẩm nghệ thuật… nói lên thành tựu của con người trong công cuộc chinh phục thiên nhiên, trong lao động sáng tạo ra của cải vật chất và văn hoá tinh thần cho xã hội. Trong thực tế có nhiều cách, nhiều thủ pháp sư phạm để tạo biểu tượng cho học sinh. Song theo chúng tôi kết hợp nêu đặc điểm hoặc miêu tả (toàn bộ hay miêu tả chi tiết có phân tích) với phương tiện trực quan phù hợp là biện pháp tốt hơn cả và có hiệu quả cao khi dạy các loại bài kinh tế, văn hoá. Thông qua quá trình hình thành tri thức cho học sinh các loại biểu tượng được xây dựng nhanh chóng, bền vững hơn. Học sinh dễ nhận biết và ghi nhớ các biểu tượng, đồng thời có khả năng phân biệt các biểu tượng cùng loại, khắc phục được tình trạng lẫn lộn các loại biểu tượng của học sinh THCS. Ví như, khi tạo biểu tượng về thành tựu kinh tế thủ công nghiệp thời Hậu Lê, thông qua hiện vật đồ gốm Bát Tràng được sưu tầm cho học sinh quan sát trực tiếp, giáo viên giúp học sinh tìm hiểu đặc điểm trình độ chế tác đồ gốm ngày càng tinh xảo, có tính thẩm mỹ cao nhưng đa dạng phong phú về chủng loại đồ gốm chứng tỏ bước phát triển cao của nền kinh tế thời Lê. Về mặt giáo dục, với biện pháp này giáo viên đã gây được xúc cảm, ấn tượng mạnh mẽ cho học sinh. Sử dụng biện pháp nêu đặc điểm hoặc miêu tả kết hợp với các phương tiện trực quan để tạo biểu tượng về kinh tế, văn hoá cho học sinh cần lưu ý. Do có nhiều loại đồ dùng trực quan : Hiện vật, tạo hình và trực quan qui ước nên cần lựa chọn các loại đồ dùng trực quan tương ứng, phù hợp để tạo biểu tượng, chủ yếu là đồ dùng trực quan tạo hình : đồ phục chế, mô hình, tranh ảnh. Việc tạo biểu tượng về kinh tế, văn hoá cho học sinh cần được giáo viên hướng dẫn tiến hành theo những bước sau : Thứ nhất : Xác định đúng các biểu tượng cơ bản, tiêu biểu về kinh tế, văn hoá trong một bài cụ thể. Trong một bài học Lịch sử, SGK có thể giới thiệu nhiều sự kiện, hiện tượng về kinh tế, văn hoá. Cho nên, cần lựa chọn những nội dung chủ yếu để từ đó xác dịnh các biểu tưởng cơ bản quan trọng đối với học sinh. Thiếu những biểu tượng ấy, học sinh khó có thể nắm vững kiến thức cơ bản của bài. Nói cách khác, muốn học sinh nắm được kiến thức cơ bản của bài học phải bắt đầu từ việc nắm biểu tượng về các sự kiện, hiện tượng cơ bản của bài học. Ví như, giới thiệu thành tựu chủ yếu của kinh tế, văn hoá thời Trần, giáo viên phải biết lựa chọn và xác định những thành tựu tiêu biểu để tập trung tạo biểu tượng cho học sinh. Về kinh tế, chọn nền kinh tế thủ công nghiệp làm đồ gốm để tạo biểu tựơng. Bởi vì, nền kinh tế thủ công nghiệp làm đồ gốm thời Trần phát triển cao chỉ có thể dựa trên cơ sở vững chắc đó là nền kinh tế nông nghiệp phát triển mạnh, ổn định và sự quan tâm của nhà nước. Về văn hoá, chọn chùa Tháp Phổ Minh để tạo biểu tượng. Chùa Tháp Phổ Minh là một công trình kiến trúc tiêu biểu, độc đáo, phản ánh một cách tinh tế, sâu xa quan niệm về Phật giáo được tiếp nối từ thời Lý (với Chùa Một Cột là tiêu biểu) của dân gian. Sau khi xác định các biểu tượng về kinh tế, văn hoá cần tạo cho học sinh phải nắm vững nội dung của các biểu tượng ấy. Lấy ví dụ trên, để tạo biểu tượng về chùa Tháp Phổ Minh cần chú ý những điểm nổi bật của kiểu kiến trúc, cảnh quan xung quanh, cách trang trí, xây dựng tháp Phổ Minh thể hiện quan niệm Phật giáo của nhân dân, sự sáng tạo và óc thẩm mĩ của các nghệ nhân… Trên cơ sở đó, sưu tầm tư liệu để xây dựng cách nêu đặc điểm hoặc bài miêu tả. Thứ hai , Giáo viên tiến hành xây dựng cách miêu đặc điểm hoặc miêu tả (khái quát hay chi tiết có phân tích) kết hợp với các loại đồ dùng trực quan. Tuỳ vào nội dung của biểu tượng mà sử dụng cách nêu đặc điểm hoặc miêu tả. Thực tế, các biểu tượng kinh tế thường được xây dựng bằng bài nêu đặc điểm, các biểu tượng văn hoá thường được xây dựng bằng bài miêu tả đem lại hiệu quả dạy học cao hơn. Song, sử dụng cách miêu tả hoặc nêu đặc điểm đều phải đảm bảo tính khách quan, khoa học, phải dựa vào tài liệu chính xác và được trình bày rõ ràng thể hiện được thái độ của người xây dựng bài nêu đặc điểm hoặc miêu tả. Cấu trúc của cách nêu đặc điểm thường được tiến hành thông qua việc giới thiệu xuất xứ, hình dáng bên ngoài, cấu tạo bên trong để từ đó rút ra đặc điểm nổi bật của hiện vật. Ví như, nếu đặc điểm của đồ gốm thời Lý khi dạy bài 11 tiết 1như sau : “Các em hãy quan sát hình 19 trong SGK. Đây là bát men ngọc thời Lý - một trong những loại đồ gốm được các nghệ nhân thời Lý sáng tạo. Chiếc bát men ngọc có hình dáng rất cân đối thể hiện qua chiều cao và độ rộng của bát. Phần thân có miệng hình tròn, lòng bát được trang trí bằng hoa văn tuy đơn giản nhưng tinh tế thể hiện bàn tay tài hoa và óc thẩm mĩ tinh tế, độc đáo của các nghệ nhân đồ gốm thời Lý. Như vậy, đồ gốm thời Lý có đặc điểm tinh xảo về kỹ thuật, đường nét kiểu dáng đơn giản song vẫn mang tính thẩm mĩ cao”. Cấu trúc của một bài miêu tả gồm các phần sau : - Mở đầu : Giới thiệu tên gọi, địa điểm của loại văn hoá vật chất cần miêu tả. -Thân bài : Miêu tả loại văn hoá vật chất theo thứ tự hợp lý. Chú ý dừng lại và phân tích một số chi tiết tiêu biểu. -Kết luận : Sơ lược đánh giá hoặc bày tỏ thái độ của người miêu tả. Cấu trúc trên được thể hiện trong bài miêu tả chùa Tháp Phổ Minh thời Trần khi dạy bài 14 tiết 2 như sau : “Các em hãy quan sát hình 34 trong SGK. Đây là chùa Tháp Phổ Minh - một trong những công trình tiêu biểu của nghệ thuật kiến trúc Phật giáo thời Trần. Chùa Pháp Phổ Minh được xây dựng năm 1262 tại hương Tức Mạc phủ Thiên trường xưa, nay thuộc xã Lộc Vương ngoại thành Nam Định tên chữ của chùa có nghĩa là “ánh sáng của Đức Phật soi tỏ muôn nơi”. Chùa là nơi tu hành của nhiều tăng ni phật tử nổi tiếng. Nhiều vua Trần sau khi đánh giặc giữ nước, truyền ngôi cho con làm Thái Thượng hoàng đã về tu ở đây. Qui mô của Chùa rất to lớn, được kiến trúc theo kiểu “nội công, ngoại quốc” có tam quan, nhà bia, bái đường, nhà Thuỷ Tạ. Sự độc đáo, nổi tiếng chùa là ở chỗ trước cửa chùa có một cây tháp 14 tầng, cao 20m, đáy vuông mỗi cạnh 8,6m. Mỗi tầng tháp đều có cửa trông ra 4 hướng, nối với nhau bằng kiến trúc cong ở bên ngoài, tạo cho tháp Phổ Minh sự uy nghiêm, bề thế. Và theo truyền thuyết ở 3 tầng trên cùng của tháp có để xá lỵ vua Trần Nhân Tông. Chính sự uy nghiêm bề thế của tháp Phổ Minh đã thể hiện triết lý sâu xa của Phật giáo “ánh sáng của Đức phật soi tỏ muôn nơi”. Trước đây trong chùa có 120 pho tượng Phật rất đẹp, nay chỉ còn 50 pho. Lớn nhất là tượng Trần Nhân Tông niết bàn to hơn người thật được xem là một tác phẩm điêu khắc độc đáo thờ ở chính cung. Trước cửa chùa có một đỉnh đồng nặng trên 7 tấn, là một trong “Tứ đại khí” của nước Việt thời xưa. Chùa Tháp Phổ Minh là một công trình kiến trúc rất đặc sắc, còn giữ lại gần như nguyên vẹn đến ngày nay. Cùng với đền Trần, chùa Tháp Phổ Minh tạo thành một di tích lịch sử nổi tiếng, tiêu biểu của Nam Định, thu hút sự tham quan của du khách gần xa” Để kiểm chứng hiệu quả của biện pháp trên, chúng tôi đã tiến hành dạy thực nghiệm mục 2 bài 11 tiết 2, mục 3 bài 14 tiết 2 SGK Lịch sử lớp 7. Kết quả giờ học ở trên lớp sôi nổi thu hút được sự chú ý của học sinh, kiểm tra mức độ ghi nhớ và khả năng tái hiện của học sinh về bức tranh thủ công nghiệp thời Lý và công trình kiến trúc Phật giáo thời Trần chúng tôi thấy tỷ lệ học sinh khá giỏi ở lớp đối chứng thấp hơn lớp thực nghiệm, tỷ lệ học sinh yếu kém ở lớp đối chứng cũng cao hơn so với lớp thực nghiệm. Từ kết quả trên, chúng tôi rút ra nhận xét: khi dạy các nội dung kinh tế, văn hoá cần sử dụng biện pháp nêu đặc điểm hoặc miêu tả kết hợp với các loại đồ dùng trực quan phù hợp để tạo biểu tượng cho học sinh thì hiệu quả dạy học sẽ cao hơn. b- Sử dụng biện pháp thuyết trình và đàm thoại để hướng dẫn học sinh tìm hiểu sự nảy sinh và phát triển của các thành tựu kinh tế, văn hoá. Khi dạy học các nội dung kinh tế, văn hoá trong chương trình Lịch sử dân tộc ở trường THCS nói chung, lớp 7 nói riêng, yêu cầu đặt ra là phải giúp học sinh nắm được sự nảy sinh và phát triển của các thành tựu kinh tế, văn hoá - đây là những kiến thức cơ bản của bài học. Để thực hiện yêu cầu này chúng tôi sử dụng biện pháp thuyết trình và đàm thoại. Trong hệ thống phương pháp dạy học, thuyết trình và đàm thoại là những biện pháp dạy học chủ yếu có thể thực hiện tốt yêu cầu, nhiệm vụ của quá trình dạy học, đặc biệt đối với các loại bài kinh tế, văn hoá. Kinh tế, văn hoá là những loại bài khó, thông qua trình bày của giáo viên và quá trình đàm thoại giữa giáo viên và học sinh, giáo viên sẽ tổ chức tốt hoạt động nhận thức cho học sinh ở trên lớp góp phần hình thành tri thức lịch sử cho học sinh. Các thành tựu kinh tế, văn hoá bao giờ cũng đạt được trong điều kiện, cơ sở lịch sử nhất định. Nắm bắt được điều kiện nảy sinh các thành tựu kinh tế, văn hoá giúp học sinh hiểu đúng, hiểu sâu sắc hơn về lịch sử. Đồng thời, qua đó các em hiểu được mối liên hệ, phụ thuộc lẫn nhau giữa kinh tế, văn hoá, văn hoá với các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Trong SGK cấp PTTH, trước khi giới thiệu các thành tựu kinh tế, văn hoá trong các đề mục trước của SGK với các mức độ khác nhau đã đề cập tới điều kiện kinh tế, tức là thực trạng, cơ sở tự nhiên kinh tế, chính trị, xã hội… dẫn đến sự nảy sinh các thành tựu kinh tế, văn hoá, văn minh. Trong SGK Lịch sử cấp THCS, do nhận thức của học sinh còn ở mức độ cảm tính, nắm bắt các sự kiện, hiện tượng nên các loại bài, mục về kinh tế, văn hoá được cấu tạo hợp lý giới thiệu sơ lược điều kiện, biện pháp thúc đẩy nền kinh tế, văn hoá phát triển. Từ cấu trúc của SGK kết hợp với bài giảng, thông qua các sự kiện, hiện tượng cụ thể giáo viên hướng dẫn học sinh nắm được một cách khái quát điều kiện nảy sinh các thành tựu kinh tế, văn hoá. Thực hiện được nhiệm vụ này giáo viên đã kích thích sự phát triển tư duy của học sinh. Để đảm bảo kết hợp trình bày và đàm thoại trong bài lên lớp có hiệu quả, chúng tôi đề xuất một qui trình sư phạm gồm các bước sau : Bước 1 : Giáo viên gợi mở vấn đề cần tìm hiểu cho học sinh bằng một thông báo ngắn gọn. Ví dụ : Khi dạy bài 11 tiết 1 SGK Lịch sử lớp 7, trước khi tìm hiểu các nội dung cụ thể, giáo viên sử dụng một thông báo ngấn gọn “Sau khi lên ngôi, nhà Lý đã có nhiều chủ trương, biện pháp đúng đắn để duy trì và phát triển Nhà nước phong kiến như củng cố chính quyền, phát triển quân đội, luật pháp đánh thắng giặc ngoại xâm bảo vệ đất nước. Bên cạnh đó, nhà Lý còn lo đẩy mạnh phát triển, văn hoá trên tất cả các mặt nhằm tiếp tục khẳng định chủ quyền của dân tộc. Nền kinh tế thời Lý đã phát triển mạnh đạt được những thành tựu to lớn các em lần lượt tìm hiểu trong các đề mục của bài”. Thông báo của giáo viên giúp học sinh định hướng được những kiến thức cơ bản của bài học cần tìm hiểu để học sinh suy nghĩ học tốt các đề mục trong bài. Bước 2 : Nêu nội dung cần tìm hiểu bằng một câu hỏi chúng có tính chất nhận thức cho học sinh. Để trả lời câu hỏi chung đó giáo viên gợi mở, yêu cầu học sinh tìm hiểu trả lời các yếu tố về điều kiện lịch sử hoặc thực trạng sự phát triển của nền kinh tế, văn hoá và những chủ trương, biện pháp của Nhà nước nhằm thúc đẩy nền kinh tế, văn hoá phát triển. Ví du : Khi dạy mục 1 tiết 1 bài 19 SGK Lịch sử lớp 7 để học sinh nắm được thành tựu kinh tế nông nghiệp mà nhà Lê đạt được giáo viên nêu một câu hỏi nhận thức chung : “Thành tựu sản xuất nông nghiệp nhà lê đạt được như thế nào ? Để trả lời câu hỏi này các em hãy tìm hiểu xem : Thực trạng nền kinh tế nông nghiệp nước ta sau 20 năm bị nhà Minh đô hộ như thế nào ? Chủ trương biện pháp của nhà Lê để phục hồi và phát triển kinh tế ra sao ? Trả lời được những câu hỏi đó các em sẽ thấy được thành tựu kinh tế nông nghiệp nhà Lê đạt được là hết sức to lớn. Bước 3 : Gợi ý cho học sinh giải quyết vấn đề bằng một hệ thống câu hỏi phụ có tính chất gợi mở. Với một câu hỏi lớn hàm chứa kiến thức cơ bản của bài, mục, học sinh khônbg thể trả lời một cách đầy đủ nhanh chóng được mặc dù có sự định hướng của giáo viên. Để trả lời câu hỏi lớn đó, cách tốt nhất là tách thành những câu hỏi nhỏ hơn để tiến hành đàm thoại. Việc trả lời các câu hỏi phụ này là để dẫn đến sự giải quyết toàn bộ vấn đề đặt ra. Vì vậy hệ thống các câu hỏi phụ phải nhất quán, có mục đích rõ ràng và phù hợp với lôgic của quá trình nhận thức. Ví dụ : Vấn đề mà chúng tôi nêu trong bài 14 tiết 2 SGK Lịch sử lớp 7 : “Văn hoá thời Trần đạt được những thành tựu như thế nào trên tất cả các mặt” được chia thành nhiều câu hỏi phụ tiến hành đàm thoại như : -Nhân dân thời Trần ưa chuộng những sinh hoạt văn hoá nào ? Những biểu hiện văn hoá trong ăn, ở, mặc và đời sống tinh thần như thế nào ? -Giáo dục, văn học và khoa học kỹ thuật phát triển như thế nào? -Hãy kể tên các công trình nghệ thuật lớn của thời Trần ? Qua đó em có nhận xét gì ? Bước 4 : Trên cơ sở những vấn đề được giải quyết trong quá trình đàm thoại, giáo viên tổng kết, khái quát lại cho học sinh hiểu, nhớ, dễ thuộc. Quy trình kết hợp thuyết trình và đàm thoại trong dạy học các nội dung kinh tế, văn hoá được thể hiện qua sơ đồ sau : Giáo viên gợi mở vấn đề bằng một thông báo Nêu nội dung tìm hiểu bằng mộtcâu hỏi chung có tính chất nhận thức Đàm thoại, hướng dẫn học sinh giải quyết vấn đề bằng hệ thống câu hỏi phụ Giáo viên tổng kết khái quát. Vấn đề được giài quyết Sử dụng biện pháp thuyết trình kết hợp với đàm thoại trong dạy học các nội dung kinh tế, văn hoá, nhất là tìm hiểu sự nảy sinh và phát triển của các thành tựu kinh tế, văn hoá thực sự có nhiều ưu điểm. -Không thay đổi cấu trúc SGK, bài giảng, không đảo lộn các bước lên lớp vừa tiết kiệm thời gian vừa nâng cao chất lượng dạy học. -Học sinh nắm chắc kiến thức cơ bản vì các em được tự mình khám phá những kiến thức cơ bản vì các em được tự mình khám phá những kiến thức đó với sự hỗ trợ của giáo viên. -Góp phần phát triển tư duy học sinh vì đàm thoại vừa tái hiện kiến thức đã học vừa có thể phân tích, khái quát hoá để bước đầu đánh giá các sự kiện hiện tượng kinh tế, văn hoá. -Gây hứng thú học tập cho học sinh. Để sử dụng có hiệu quả biện pháp này đòi hỏi sự chuẩn bị chu đáo của giáo viên và nghệ thuật sư phạm cao khi tổ chức hoạt động nhận thức cho học sinh, hiệu quả của biện pháp mà chúng tôi đề xuất trên được kiểm chứng qua thực nghiệm từng phần ở trường THCS Lê Ngọc Hân với bài 14 tiết 2 SGK Lịch sử lớp 7, ở nhóm thực nghiệm, chúng tôi hướng dẫn học sinh tìm hiểu những thành tựu chủ yếu của nền văn hoá thời Trần bằng biện pháp kết hợp thuyết trình và đàm thoại theo các bước trên. Nhóm đối chứng dạy theo phương pháp cũ của giáo viên. Quan sát trực tiếp các giờ dạy ở nhóm thực nghiệm và đối chứng, chúng tôi nhận thấy ở nhóm thực nghiệm, học sinh có hứng thú thi học tập rõ rệt, không khí lớp học hào hững, sôi nổi, giáo viên đã lôi cuốn được các em tích cực tham gia hoạt động nhận thức. Kiểm tra kết quả cuối giờ với câu hỏi “Kể tên những thành tựu chủ yếu của văn hoá thời Trần ?” kết quả nhóm thực nghiệm đạt được số học sinh khá giỏi cao hơn lớp đối chứng. Từ kết quả trên cho phép chúng tôi đi đến kết luận : biện pháp mà chúng tôi để xuất thực sự đem lại hiệu qủa và có tính khả thi trong thực tế dạy học Lịch sử hiện nay. c- Tổ chức và tiến hành các hoạt động ngoại khoá về những vấn đề kinh tế, văn hoá. Trong dạy học Lịch sử, bên cạnh các bài nội khoá, các hình thức hoạt động ngoại khoá Lịch sử có tác dụng to lớn đối với việc thực hiện các nhiệm vụ của bộ môn. Các hoạt động ngoại khoá với chủ đề linh hoạt, đa dạng có tác dụng gây hứng thú, phát huy tính tích cực học tập của học sinh trong việc tiếp nhận, làm phong phú, sâu sắc tri thức lịch sử thu nhận trên lớp. Tuỳ vào mục đích, nhiệm vụ và nội dung dạy học để lựa chọn hình thức ngoại khoá thích hợp. Dạy học các nội dung kinh tế, văn hoá yêu cầu lựa chọn, tổ chức và tiến hành các hình thức ngoại khoá được đặt ra cấp thiết. Bởi vì , “tính phức tạp, đa dạng, nhiều mặt của vấn đề văn hoá đòi hỏi phải có các hình thức ngoại khoá hỗ trợ cho bài nội khoá”. Căn cứ vào mục đích, nhiệm vụ, nội dung dạy học, trên cơ sở vận dụng các hình thức hoạt động ngoại khoá Lịch sử, chúng tôi đề xuất một số hoạt động ngoại khoá có tác dụng nâng cao hiệu quả dạy học các nội dung kinh tế, văn hoá trong khoá trình Lịch sử Việt Nam ở lớp 7 trường THCS. Một là : Tổ chức cho học sinh sưu tầm tài liệu (thành văn và hiện vật) của địa phương theo chủ đề về sản xuất kinh tế, truyền thống văn hoá. Sưu tầm nghiên cứu lịch sử địa phương là một hình thức hoạt động ngoại khoá quan trọng với nhiều nội dung khác nhau. Để mở rộng, nâng cao kiến thức về kinh tế, văn hoá cho học sinh, giáo viên hướng dẫn học sinh chú ý sưu tầm các loại tài liệu sau : -Tài liệu hiện vật : Các công trình kiến trục, nghệ thuật, điêu khắc, sưu tầm các di vật khảo cổ phản ánh văn hoá vật chất của địa phương . -Tài liệu dân tộc học : ghi chép các phong tục, tập quán, nghi lễ phản ánh đời sống kinh tế, văn hoá tinh thần. -Tài liệu truyền miệng : Sưu tầm ca dao, tục ngữ, thơ ca, hò vè, truyện cổ tích, truyện cưới… của địa phương. Ngoài các loại tài liệu kể trên giáo viên cần hướng dẫn học sinh tìm hiểu các chủ đề sau : -Các nghề thủ công mĩ nghệ truyền thống của địa phương. -Các lễ hội truyền thống. -Những phong tục, tập quán tốt đẹp của địa phương. -Các sinh hoạt văn hoá dân gian. -Những thành tựu kinh tế, văn hoá giáo dục của địa phương. Sau khi thu thập tài liệu giáo viên hướng dẫn học sinh sắp xếp và phân loại theo mục đích sử dụng dùng để minh hoạ hoặc mở rộng nội dung cơ bản của bài nội khoá hoặc để phục vụ cho việc biên soạn giảng dạy các bài Lịch sử địa phương. Đối với loại tài liệu dùng để phục vụ cho việc học tập các nội dung kinh tế, văn hoá trong bài nội khoá, giáo viên hướng dẫn cho học sinh lập bảng thống kê theo mẫu sau : Bài, mục Nội dung Kinh tế văn hoá thời Lý Những hiện vật thủ công thời Lý, Những tác phẩm, công trình kiến trúc văn hoá. Kinh tế, văn hoá thời Trần Các tài liệu về kinh tế, văn hoá của địa phương có liên quan. Những công trình kiến trúc, điều khắc ảnh địa phương từ thế kỷ XIII - XIV. Kinh tế, văn hoá thời Lê Những hiện vật thủ công Những tác phẩm văn hoá, công trình kiến trúc. Kinh tế, văn hoá thời Nguyễn Những hiện vật thủ công Những tác phẩm công trình kiến trúc, văn hoá tiêu biểu. Hai là : Tổ chức cho học sinh trao đổi, thảo luận nghe báo cáo về tình hinh sản xuất kinh tế - xã hội . Đây là hình thức ngoại khoá hỗ trợ quan trọng và có nhiều tác dụng giúp học sinh củng cố và mở rộng kiến thức đã học và tạo thói quen suy nghĩ độc lập cho học sinh. Có thể trao đổi, thảo luận nghe báo cáo ngắn về các nội dung kinh tế, văn hoá theo nhiều cách nhiều mức độ khác nhau. -Tổ chức trao đổi, nghe báo cáo theo tổ, nhóm hoặc khối lớp. -Tiến hành sau khi học xong các bài kinh tế, văn hoá. Ba là : Tổ chức cho học sinh tham quan, học tập các di tích lịch sử, văn hoá, các viện bảo tàng, các làng nghề thủ công truyền thống hoặc tham quan các công trình kinh tế lớn… Những cuộc tham quan này có tính chất của hoạt động ngoại khoá. Để bổ xung, hỗ trợ cho việc dạy các nội dung kinh tế, văn hoá trong bài nội khoá cho học sinh lớp 7 trường THCS, giáo viên cần lựa chọn địa điểm tham quan và tổ chức tốt quá trình tham quan. Địa điểm thăm quan có thể là : -Các công trình kiến trúc, văn hoá lịch sử như đình, chùa, miếu mạo … -Các viện bảo tàng lịch sử, bảo tàng, mĩ thuật. -Các công trình kinh tế, làng nghề thủ công, nơi phát sinh các loại hình nghệ thuật dân gian, quê hương của các danh nhân văn hoá. Ở các địa phương trong cả nước nơi nào cũng có các di tích lịch sử văn hoá hay các làng nghề thủ công truyền thống, các danh nhân văn hoá. Đây là điều kiện thuận lợi để giáo viên tổ chức tham quan cho học sinh. Tuy nhiên, để đạt được hiệu quả, cần xác định rõ mục đích tham quan, chuẩn bị chu đáo và cách thức tiến hành tổ chức tham quan hợp lý. Trên đây là một số biện pháp chúng tôi đề xuất có tác dụng nâng cao hiệu quả dạy học các nội dung kinh tế, văn hoá trong môn Lịch sử ở trường THCS nói chung, trong khoá trình Lịch sử Việt Nam ở lớp 7 nói riêng. Các biện pháp được đề xuất dựa trên cơ sở lý luận và thực tiễn, được tiến hành thực nghiệm đối chứng để xác định tính khả thi. Trong khuôn khổ mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu mà đề tài đặt ra, chúng tôi không đề cập tới tất cả các phương pháp, hình thức tổ chức dạy học mà chỉ trình bày những biện pháp có tính đặc trưng, phù hợp với tính chất của nội dung dạy học về các sự kiện kinh tế, văn hoá trong môn Lịch sử để nâng cao chất lượng dạy học nội dung này. CHƯƠNG III : THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM. KÊT LUẬN TÀI LIỆU THAM KHẢO Nguyễn Hưu Chí : Hướng dẫn cải tiến phương pháp dạy học Lịch sử. Tạp chí thông tin khoa học xã hội. số 45, trang 42. Đanilop - M.A.Xcatkin M.N (chủ biên) : Lý luận dạy học ở trường phổ thông. Một số vấn đề dạy học hiện đại, Nxb Giáo dục, Hà Nội 1980. Đairi.N.G : Chuẩn bị giờ học Lịch sử như thế nào. Nxb Giáo dục, Hà Nội 1973. Đặng Vũ Hoạt : Những quan điểm phương pháp luận của việc nghiên cứu và sử dụng các phương pháp dạy học. Tạp chí nghiên cứu giáo dục số 2 năm 1991, trang 4. Lê VănHồng : Tâm lý sư phạm. Nxb Giáo dục, Hà Nội 1996 Hội Giáo dục Lịch sử : Đổi mới việc dạy học Lịch sử lấy học sinh làm trung tâm. Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội 1996. Kinh nghiệm giảng dạy theo chủ đề gây hứng thú học tập Lịch sử. Nxb Giáo dục, Hà Nội 1983. Lịch sử lớp 6, Nxb Giáo dục 1998, 2002. Lịch sử lớp 7. Nxb Giáo dục 1998, 2003. 10. Lịch sử lớp 8, tập 1,2Nxb Giáo dục 1998. 11. Lịch sử lớp 9. Nxb Giáo dục 1998. 12. Phan Ngọc Liên - Trần Văn Trị - Nguyễn Phan Quang : Công tác ngoại khoá Lịch sử ở trường phổ thông cấp II, III, Nxb Giáo dục, Hà Nội 1968. 13. Phan Ngọc Liên - Trần Văn Trị, Phương pháp dạy học Lịch sử. Nxb Giáo dục, Hà Nội 1998. 14. Phan Ngọc Liên - Nguyễn Thị Côi : Những vấn đề trong dạy học Lịch sử ở trường phổ thông hiện nay. Tạp chí nghiên cứu lịch sử số 3/1993, trang 17-20. 15. Hà Thế Ngữ - Đặng Vũ Hoạt : Giáo dục học tập I, Nxb Giáo dục, Hà Nội 1987. 16. Lương Ninh - Nguyễn Thị Côi : Kinh nghiệm Đairi với việc dạy học Lịch sử. Tạp chí nghiên cứu giáo dục số 8, 1998, trang 19-20. 17. quan niệm về xu thế phát triển phương pháp dạy học trên thế giới. Viện Khoa học giáo dục, Trung tâm thông tin khoa học giáo dục. Hà Nội 1994, trang 44-45. 18. Phan Ngọc : Văn hoá là gì ? Tạp chí nghiên cứu Đông Nam Á, 2/1992, trang 72-76. 19. Phát huy tính tích cực học tập của học sinh trong dạy học lịch sử ở trường THCS. Sách bồi dưỡng thường xuyên chu kỳ 1997-2002 cho giáo viên THCS. Bộ Giáo dục và đào tạo, 1998. 20. Phan Ngọc Liên - Trịnh Đình Tùng : Hệ thống phương pháp dạy học Lịch sử ở trường phổ thông. Tạp chí nghiên cứu giáo dục, 1/1992. 21. Lương Ninh : Học Lịch sử để làm gì và học như thế nào. Tạp chí thông tin khoa học giáo dục, số 23/1990, trang 41-43. 22. N.V. Savin : Giáo dục học tập I, Nxb Giáo dục, Hà Nội 1983. 23. M.N.Sacđacop : Tư duy học sinh - tập I, Nxb Giáo dục 1970 24. Sách giáo viên lớp 6. Bộ Giáo dục-đào tạo, Nxb Giáo dục 1998, 2002 25. Sách giáo viên lớp 7. Bộ giáo dục-đào tạo, Nxb Giáo dục 1998, 2003 26. Sách giáo viên lớp 8. Bộ giáo dục-đào tạo, Nxb Giáo dục 1998 27. Sách giáo viên lớp 9. Bộ giáo dục-đào tạo, Nxb Giáo dục 1998 28. Vài suy nghĩ về quan hệ giữa nghiên cứu Lịch sửvà giáo dục lịch sử. Phan Ngọc Liên, Tạp chí nghiên cứu Lịch sử số 2/1986, trang 61-64. PHỤ LỤC 1 : DANH SÁCH CÁC TRƯƠNG THCS VÀ SỐ LƯỢNG GIÁO VIÊN ĐƯỢC HỎI Ý KIẾN. TT TRƯỜNG THCS SỐ LƯỢNG GIÁO VIÊN ĐƯỢC HỎI Ý KIẾN 1 Trường THCS Cát Linh - Đống Đa 4 2 Trường THCS Đông Thái - Ba Đình 4 3 Trường THCS Hà Huy Tập-Hai Bà 4 4 Trường THCS Hoàn Kiếm-Hoàn Kiếm 4 5 Trường THCS Lê Ngọc Hân - Hai Bà 3 6 Trường THCS Liên Mạc - Từ Liêm 4 7 Trường THCS Nhật Tân - Tây Hồ 4 8 Trường THCS Yên Hoà - Cầu Giấy 5 9 Trường THCS Tân Trào - Hoàn Kiếm 4 10 Trường THCS Phương Liệt - Đống Đa 4 PHIẾU ĐIỀU TRA GIÁO VIÊN (Mâu số 1) Họ và tên Tuổi Giáo viên trường THCS Năm công tác Để góp phần nâng cao chất lượng dạy học Lịch sử ở trường phổ thông theo tinh thần đổi mới, xin đồng chí cho biết ý kiến về một số vấn đề sau : (Nếu đồng ý đánh dấu (+) vào ô bên cạnh, nếu không đồng ý bỏ trống). Các nội dung kinh tế, văn hoá được đưa vào chương trình SGK ở trường THPT hiện nay được quan niệm : *Là sự liệt kê, giới thiệu những kiến thức về kinh tế, văn hoá, nghệ thuật, khoa học, giáo dục một cách chung chung. *Là tìm hiểu về sự phát triển của những nền kinh tế, văn hoá cụ thể giúp học sinh có những kiến thức cần thiết về lĩnh vực này. Đồng chí đồng ý với ý kiến nào ? Tại sao ? Đồng chí có nhận xét gì về lượng kiến thức kinh tế, văn hoá đã được đưa vào chương trình, SGK ở trường phổ thông (cải cách giáo dục) so với các nội dung Lịch sử khác. Rất ít ít Vừa đủ Nhiều Quá nhiều Đồng chí cho biết quan niệm của đồng chí về việc giảng dạy các nội dung kinh tế, văn hoá trong môn Lịch sử ở trường phổ thông THCS. *Hướng dẫn học sinh tìm hiểu về sự phát triển của các nền kinh tế, văn hoá cụ thể, cung cấp cho học sinh những kiến thức cần thiết về lĩnh vực ấy … *Chỉ giới thiệu, liệt kê sự kiện kinh tế, văn hoá và những thành tựu của nó mà không cần phân tích lý giải. *ý kiến khác. Có giáo viên khẳng định giảng dạy tốt các nội dung kinh tế, văn hoá sẽ nâng cao hiệu quả giáo dưỡng, giáo dục và phát triển của bộ môn ? ý kiến của đông chí ? Đồng ý Không đồng ý Phân vân Một số ý kiễn cho rằng dạy học những vấn đề này gặp nhiều khó khăn ? ý kiến của đồng chí ? Đồng ý Không đồng ý Nếu đồng ý với ý kiến trên, theo đồng chí là do nguyên nhân nào? *Nội dung chưa hấp dẫn *Chưa có phương pháp dạy học thích hợp *Thiếu phương tiện, tài liệu giảng dạy. Một số giáo viên cho rằng học sinh không hứng thú học tập các nội dung kinh tế, văn hoá. Ý kiến của đồng chí ? Đồng ý Không đồng ý Nếu đồng ý với ý kiến trên, theo đồng chí là do nguyên nhân nào? *Học sinh coi nội dung này không quan trọng. *Giáo viên dạy không hấp dẫn *Cả hai ý kiến trên Đồng chí thường sử dụng những phương pháp nào khi giảng dạy các nội dung kinh tế, văn hoá. *Thuyết trình thông báo, tường thuật, miêu tả, giải thích đàm thoại, phỏng vấn. *Sử dụng đồ dùng trực quan qui ước. *Hướng dẫn học sinh sưu tầm, nghiên cứu các tài liệu kinh tế, văn hoá ngoài SGK. *Tổ chức các hoạt động thực hành bộ môn (sưu tầm tài liệu kinh tế, văn hoá, vẽ bản đồ, phục chế các hiện vật, kinh tế, văn hoá). *Tham quan các công trình kinh tế, các di tích lịch sử - văn hoá. *Kết hợp tất cả các biện pháp trên. Xin chân thành cảm ơn đồng chí ! Ngày tháng năm 2003 PHIẾU ĐIỀU TRA GIÁO VIÊN (Mâu số 2) Họ và tên Tuổi Giáo viên trường THCS Năm công tác Để góp phần nâng cao chất lượng dạy học Lịch sử ở trường phổ thông theo tinh thần đổi mới, xin đồng chí cho biết ý kiến về một số vấn đề sau : Đồng chí quan niệm như thế nào về những nội dung kinh tế, văn hoá trong chương trình SGK Lịch sử THCS ? Đồng chí cho biết vài nét về tình hình giảng dạy, học tập những nội dung này ở trường THCS ? Đồng chi chó biết quan niệm của mình về việc giảng dạy các nội dung kinh tế, văn hoá trong môn Lịch sử trường THCS ? Những khó khăn mà đồng thường gặp (tài liệu, phương pháp, phương tiện dạy học…) khi dạy học các nội dung kinh tế, văn hoá ? Đồng chí thường áp dụng những phương pháp, biện pháp này để giảng dạy những nội dung này ? (Hãy nêu những phương pháp cụ thể). a. b. c. d. e. Trong những biện pháp, phương pháp kể trên thì biện pháp nào, phương pháp nào có hiệu quả nhất? Vì sao? Những kiến nghị của đồng chí để dạy học có hiệu quả hơn các nội dung kinh tế, văn hoá trong môn Lịch sử. Xin chân thành cảm ơn đồng chí ! Ngày tháng năm 2003 BẢNG TỔNG HỢP KẾT QUẢ ĐIỀU TRA GIÁO VIÊN TT NỘI DUNG ĐIỀU TRA SỐ GIÁO VIÊN TRẢ LỜI TỶ LỆ % 1 Khái niệm kinh tế, văn hoá được sử dụng trong môn lịch sử ở trường THCS * Là sự liệt kê, giới thiệu nhứng kiến thức về kinh tế, văn hoá, nghệ thuật, giáo dục… 32 70 * Là sự liệt kê các thành tựu kinh tế, văn hoá tiêu biểu 6 28,5 2 Lượng kiến thức kinh tế, văn hoá được đưa vào chương trình, SXG trường THCS * Ít * Vừa đủ 40 100 * Nhiều 3 Giảng dạy tốt các nội dung văn hoá sẽ góp phần nâng cao hiệu quả giáo dưỡng, giáo dục và phát triển bộ môn 36 90 4 Các phương pháp được sử dụng khi dạy học các nội dung kinh tế, văn hoá : * Thông báo 34 85 * Nêu đặc điểm * Miêu tả * Trực quan * Đàm thoại PHỤ LỤC II PHIẾU ĐIỀU TRA HỌC SINH Họ và tên Tuổi Học sinh trường THCS Xin em vui lòng cho biết về tình hình học tập Lịch sử của mình (đánh dấu (+) vào ô trống bên cạnh câu trả lời mà em cho là đúng). Em có thích học những nội dung kinh tế, văn hoá trong môn học Lịch sử không ? *Rất thích *Thích *Bình thường *Không Nếu em thích học, có thể do : *Nội dung kinh tế, văn hoá rất hay *Thầy cô giáo giảng hấp dẫn lôi cuốn *Do em thích tìm hiểu tiếp thu nhanh để đạt kết quả học tập cao *Bố mẹ là giáo viên dạy lịch sử Nếu em không thích, có thể do *Nội dung kinh tế, văn hoá chưa hay *Thầy cô giáo giảng chưa hấp dẫn *Nhiều lần bị điểm kém vì không thuộc bài *Không có SGK và tài liệu học tập. Tinh thần, thái độ học tập của em trên lớp. *Chăm chú nghe thầy cô giảng bài, hăng hái phát biểu *Không thích học, mất trật tự *Trật tự, không làm ồn *Bình thường Thầy cô giáo có tổ chức cho các em đi thăm quan, học tập tại các cơ sở kinh tế , các di tích lịch sử - Văn hoá không? *Thường xuyên *Bình thường *Ít *Không Em thường được thầy cô giáo cho làm bài tập thực hành ở nhà như : *Vẽ bản đồ lịch sử *Sưu tầm tài liệu, tranh ảnh lịch sử *Phục chế các hiện vật lịch sử đơn giản Điều kiện học tập ở nhà (bàn ghế, ánh sáng, tủ sách, sự quan tâm của bố mẹ). * Đầy đủ * Bình thường * Thiếu Xin cám ơn em Ngày tháng năm 2003

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docBC1671.doc
Tài liệu liên quan