Đề tài Đẩy mạnh hoạt động xúc tiến tại sở du lịch Hà Tây

Sở du lịch là cơ quan chuyên môn của uỷ ban nhân dân tỉnh, chịu trách nhiệm trước uỷ ban nhân dân tỉnh thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với các hoạt động du lịch trên địa bàn tỉnh, theo đường lối chính sách của Đảng, luật pháp nhà nước. Sở du lịch Hà Tây chịu lãnh đạo trực tiếp và toàn diện của uỷ ban nhân dân tỉnh Hà Tây, đồng thời chịu sự chỉ đạo, hướng dẫn , kiểm tra về chuyên môn, nghiệp vụ của tổng cục du lịch.

doc53 trang | Chia sẻ: haianh_nguyen | Lượt xem: 1090 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đẩy mạnh hoạt động xúc tiến tại sở du lịch Hà Tây, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ồn vốn này sẽ có hiệu quả vì nó liên quan trực tiếp đến doanh nghiệp. Nhưng mặt khác do sự hạn hẹp của kinh phí nên một số hoạt động bị rút ngắn và do đó không đạt được hiệu quả như mong muốn. Vì vậy các doanh nghiệp cần đánh giá đúng đắn vai trò của hoạt động nay hơn nữa trong xu thế phát triển của doanh nghiệp mình. b. Về nguồn nhân lực: Đánh giá chung cho thấy nguồn nhân lực của các doanh nghiệp du lịch trên địa bàn Hà Tây có trình độ chuyên môn không cao, lý giải cho vấn đề này có 2 nguyên nhân chủ yếu sau: - Do vị trí địa lý giáp với Hà nội, các doanh nghiệp du lịch trên địa bàn Hà nội có sức hút lớn hơn các doanh nghiệp trên địa bàn Hà Tây. - Môi trường hoạt động không thực sự hấp dẫn. Vì vậy các doanh nghiệp cần đánh giá đúng vai trò của nguồn nhân lực để có các chính sách có thể thu hút nguồn nhân lực về với doanh nghiệp mình. c. Về xu hướng phát triển Trong thời gian tới cùng với xu hướng phát triển chung, các doanh nghiệp du lịch tại Hà Tây đang cố gắng tìm những hướng đi mới để làm khác biệt sản phẩm của doanh nghiệp mình với các đối thủ cạnh tranh theo hướng: vừa rẻ vừa có chất lượng cao, hướng tới phát triển du lịch mang tính chất cộng đồng và toàn dân. Hy vọng rằng cùng với sự nỗ lực riêng của các doanh nghiệp và sự chỉ đạo chung của các Sở du lịch, cac doanh nghiệp nơi đây sẽ đạt được những thành quả to lớn. 2.2.3. Các tổ chức, cá nhân khác. Ngày nay với cơ chế mở cửa của nhà nước, bất kỳ tổ chức, các nhân nào cũng đều có thể tham gia vào các hoạt động cung ứng dịch vụ du lịch miễn sao có sự cho phép hoạt động theo đúng chủ trương, đường lối, chính sách của nhà nước và trong khuôn khổ của pháp luật. Điều đó đồng nghĩa với việc các tổ chức, cá nhân này cũng là một hình thứ cung ứng, được hoạt động độc lập và chịu trách nhiệm và không có cách thực hiện bài bản nên hầu hết các hoạt động đều mang tính chất nhỏ lẻ, không theo quy luật chung và đặt tính lợi nhuận lên hàng đầu. Điều đó vô hình chung đã ảnh hưởng ít nhiều đến sự phát triển du lịch tại đây, gây ảnh hưởng không tốt đến tâm lý du khác và người tiêu dùng. Tuy nhiên nắm bắt được điều đó, các ban ngành liên quan cùng sở du lịch Hà Tây đã có những điều chỉnh kịp thời góp phần làm lành mạnh hoá môi trường du lịch tại đây, góp phần nâng cao ý thức của các cá nhân và tổ chức tham gia cung ứng dịch vụ du lịch, để ngành du lịch tại đây phát triển xứng đáng với vị thế của mình. 2.2.4. Những mặt hạn chế và tồn đọng 2.2.4.1. Hạn chế chung Cùng với những thành quả đạt được hoạt động xúc tiến tại đây vẫn còn những tồn tại cố hữu chưa giải quyết được. - Thứ nhất: Sự không nhất quán giữa thực thi và đầu tư các dự án phát triển du lịch. - Thứ hai: khả năng đáp ứng và thích nghi với những thay đổi mới còn kém và hiệu quả đạt được không cao. - Thư ba: Chưa đề ra được những giải pháp dung hoà mối quan hệ giữa nhà đầu tư và nơi được đầu tư. - Thứ tư: Việc khai thác tiềm năng du lịch ở các địa bàn có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn và địa bàn có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn là không có hiệu quả. - Thứ năm: Việc sản xuất hàng lưu niệm, hàng thủ công mỹ nghệ, khôi phục và phát triển các ngành nghề truyền thống chưa cao được nhìn nhận đúng mức. Cuối cùng: hoạt động xúc tiến phát triển chưa tương xứng với tiềm năng và vị thế du lịch của Tỉnh. Mặt khác nếu nhìn nhận và phân tích sâu sắc trog hoạt động xúc tiến tại Sở nói riêng và toàn tỉnh nói chung còn cho thấy một số bất cập sau: - Một là: chưa có chính sách khuyến khích việc đóng góp tự nguyện bằng tiền của và công sức của các tổ chức cá nhân trong và ngoài nước vào việc xúc tiến du lịch, bảo vệ và tôn trong tài nguyên du lịch. - Hai là: Việc lập quỹ phát triển hoạt động xúc tiến du lịch bằng một phần nguồn thu hàng năm từ hoạt động kinh doanh du lịch và bằng nguồn góp của các tổ chức, cá nhân kinh doanh du lịch, các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước chưa được thực thi hiệu quả. - Ba là: Hoạt động xúc tiến chưa chú trọng giữa việc khai thác, sử dụng tài nguyên du lịch với việc bảo vệ, tôn tạo và phát triển. - Bốn là: chính sách thu hút nguồn nhân lực có tay nghề và trình độ đạt hiệu quả không cao, kéo theo sự yếu kém trong khâu quản lý, phát triển và cung ứng các dịch vụ du lịch. - Năm là: chưa có các chính sách đầu tư cho việc điều tra cơ bản về tài nguyên du lịch cũng như những ưu tiên cho các dự án bảo vệ tài nguyên du lịch tại các điểm du lịch, các khu du lịch cũng nhu những chính sách khuyến khích tổ chức, cá nhân đầu tư vào việc bảo vệ, tôn tạo và sử dụng tài nguyên du lịch. Ngoài ra các hoạt động xúc tiến khác như: hiện đại hoá các phương tiện giao thông, thông tin liên lạc, các trang thiết bị liên quan đến hoạt động du lịch: Việc quảng bá, tuyên truyền du lịch (bằng các phương tiện thông tin đại chúng; tham gia các hội chợ triển lãm…) cũng như việc nâng cao chất lượng các dịch vụ lữ hành, hướng dẫn, lưu trú, vận chuyển khách du lịch, chưa được trú trọng đúng mức và đạt hiệu quả không cao. Để lí giải cho thực trạng trên có thể thấy qua một số nguyên nhân cơ bản sau: Thứ nhất: vị trí địa lí đặc thù tiếp giáp với thủ đô Hà nội dẫn đến khả năng thu hút lao động và các nguồn đầu tư kém hiệu quả. Đây không chỉ là thực trạng riêng của Hà Tây mà là thực trạng chung của các tỉnh phụ cận với Hà nội. Sự không hấp dẫn của môi trường kinh doanh tại đây cộng với sự kém về lợi thế so sánh không thể tạo ra được sức hút mạnh đối với người lao động trong việc lựa chọn của họ. Mặt khác, mặc dù nắm rõ được điều đó nhưng lãnh đạo chuyên trách cùng các doanh nghiệp nơi đây không tìm ra được hướng đi mới để kéo nguồn nhân lực có trình độ cao, đôi khi đó chỉ là chỗ "trú chân" cho một số lao động trong thời gian ngắn, sau khi họ tích luỹ thêm được trình độ và kinh nghiệm họ lại chuyển sang những nơi hấp dẫn hơn. Thứ hai: tâm lí lo ngại của các nhà đầu tư làm ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động xúc tiến. Trong vài năm gần đây, Hà Tây nổi lên là tỉnh trọng điểm về tranh chấp giữa người dân với các nhà đầu tư. Chưa biết nguyên nhân do bên nào nhưng đã ảnh hưởng không nhỏ đến tâm lí của các nhà đầu tư trước khi đầu tư vào đây. Mặt khác các bạn ngành chức năng nơi đây lại không tìm ra phương hướng để giải quyết triệt để tình trạng đó. Vì vậy ảnh hưởng chung đến cả các hoạt động đầu tư du lịch, dẫn đến có việc một số dự án không có nguồn vốn đầu tư, gây ảnh hưởng lớn đến hoạt động xúc tiến. Thứ ba: thiếu kinh phí cho việc thực hiện các hoạt động xúc tiến mang tầm cỡ lớn. Lí giải cho điều này tại hội nghị tổng kết thường niên diễn ra vào trung tuần tháng 12/2004 lãnh đạo sở đã nêu 4 lí do sau: Việc phân bổ ngân sách giữa các phòng , ban chưa hợp lí và thiếu đồng bộ. Nguồn ngân sách phân bổ của nhà nước còn hạn chế. Nguồn thu từ các hoạt động kinh doanh du lịch của các doanh nghiệp, các địa phương có điểm du lịch đạt hiệu quả không cao. Chưa có chính sách giải ngân hợp lí cho các dự án kéo theo hệ quả tất yếu là kết quả đạt được không cao. Thứ tư: việc quy hoạch phát triển các dự án mang tính đồng bộ không cao. Đây là lí do rất quan trọng tạo ra nguy cơ đổ bể của nhiều dự án phát triển du lịch. Chính sự không rõ ràng trong các quy hoạch này, mà các hoạt động xúc tiến không được thực thi hiệu quả theo các kế hoạch đã đề ra. Thứ năm: sự phản ứng chậm trước sự biến động của tình hình thế giới. Cùng với những chiến lược và chính sách xây dựng trong dài hạn, hoạt động xúc tiến du lịch phải luôn xây dựng các phương án dự phòng để thay đổi với những tình huống bất lợi. Làm được điều đó sẽ giảm thiểu nguy cơ thiệt hại cho sự phát triển chung của toàn ngành rất lớn đến sự phát triển chung. Tuy nhiên việc xây dựng các phương án này phải có sự thống nhất giữa nhiều ban ngành và đòi hỏi phải cần những người có năng lực thực sự. Trong khi đó với nguồn kinh phí có hạn cùng sự thiếu thốn của nhiều trang thiết bị việc xây dựng các phương án đó hầu như còn chưa có mặt trên giấy tờ và đương nhiên gây ra những thiệt hại không nhỏ đến hoạt động kinh doanh du lịch tại đây. 2.2.4.2. Các doanh nghiệp và các tổ chức cá nhân hoạt động trong lĩnh vực du lịch. Về nguồn vốn. Hầu hết các doanh nghiệp du lịch đều có nguồn vốn riêng cho hoạt động xúc tiến. Mặc dù đều có sự đánh giá đúng đắn về vai trò của hoạt động này và có những chính sách chung cho sự phát triển nhưng phần lớn hoạt động xúc tiến thường mang tính chất nhỏ lẻ và "mạnh ai nấy làm" mà không có sự gắn kết chặt chẽ và theo sự hướng dẫn của lãnh đạo cấp trên. Chính vì vậy hiệu quả đạt được thường không cao và không gây được tiếng vang lớn. Nguồn nhân lực. Như trên đã nói nguồn nhân lực nói chung tại các doanh nghiệp có tay nghề và trình độ không cao do sự không hấp dẫn của môi trường xung quanh. Từ đó có thể hình dung ra được hệ quả tất yếu sẽ không được như mong muốn với những chiến lược phát triển hoạt động xúc tiến. Hy vọng rằng trong thời gian tới, các doanh nghiệp nơi đây sẽ tìm ra được hướng đi mới thu hút người lao động ngày càng nhiều. Hình thức và cách thức thực hiện. Cũng như nhiều hoạt động kinh tế khác, để quảng bá về sản phẩm của mình, các nhà thực hiện hoạt động xúc tiến cũng có thể đưa ra nhiều hình thức để lôi kéo người tiêu dùng cũng như để họ biết về sản phẩm của doanh nghiệp mình. Bằng nhiều hình thức khác nhau các doanh nghiệp nơi đây đã áp dụng trong các hoạt động xúc tiến và ít nhiều đã đem lại kết quả và thành công nhất định. Tuy rằng còn nhiều hạn chế, song với điều kiện như hiện nay đó cũng là những thành quả đáng được khích lệ và cần tiếp tục phát huy. 2.3. Xúc tiến hỗn hợp - Sự lựa chọn của Sở Du lịch. 2.3.1. Khái niệm về hệ thống xúc tiến: Hệ thống xúc tiến là hệ thống giúp cho việc kinh doanh của một doanh nghiệp có được một hiệu quả cao nhất. Hệ thống xúc tiến bao gồm bốn phương tiện chính đó là : Quảng cáo, bán hàng, trực tiếp, kích thích tiêu thụ và tuyên truyền. Mỗi một phương tiện lại có sự liên quan mật thiết với nhau. Hệ thống xúc tiến giúp cho khách hàng biết tới sản phẩm của doanh nghiệp và giúp cho doanh nghiệp có được khách hàng. 2.3.2. Lý do lựa chọn: Hệ thống xúc tiến làm giải pháp xúc tiến kinh doanh cho doanh nghiệp. Như ta đã biết ngày nay với sự phát triển như vũ bão của nền kinh tế cũng như khoa học. Con người phải làm việc hết sức căng thẳng với cường độ cao. Song song với đó là sự tồn tại của hai mặt đối lập tích cực và tiêu cực. Mặt tiêu cực đó là việc con người có thu nhập cao từ việc bỏ sức lao động của mình. Mặt tiêu cực là việc mọi người phải làm việc với cường độ cao, nặng nhọc đã gây cho họ sự mệt mỏi, chán nản, hơn nữa lại làm việc trong một khung cảnh quen thuộc đã gây sự nhàm chán. Chính những điều đó tạo nên nhu cầu đi du lịch thị trường. Từ đó việc xuất hiện các doanh nghiệp lữ hành là điều tất yếu. Các doanh nghiệp lữ hành nắm bắt được nhu cầu đó đã tổ chức được những tour du lịch giúp cho khách hàng xả hơi sau những ngày làm việc căng thẳng và mệt nhọc. Tuy nhiên gần một thập kỷ trở lại đây hào nhập với sự phát triển mạnh mẽ của các ngành công nghiệp trên toàn thế giới. Việt Nam đã trở thành một nước có ngành du lịch tiềm năng. Mặc dù vậy sự phát triển của ngành du lịch ở Việt Nam đã tăng trưởng với mức độ hạn chế. Hơn nữa sự xuất hiện nhiều doanh nghiệp lữ hành đã tạo nên sự bão hoà và mức cung du lịch đã vượt qua cầu du lịch. Chính vì thế việc sử dụng hệ thống xúc tiến làm giải pháp xúc tiến kinh doanh là hết sức quan trọng. Mỗi một sản phẩm du lịch đều không thoát khỏi quy luật về chu kỳ sống của sản phẩm đó là: xuất hiện, tăng trưởng, bão hoà và suy thoái. Chính vì lẽ đó việc tồn tại của mỗáip du lịch đều phụ thuộc vào việc sử dụng hệ thống xúc tiến của mỗi doanh nghiệp . Để đạt được hiệu quả cao, mỗi sản phẩm du lịch sau khi được xây dựng hoàn thiện thông qua nghiên cứu thị trường để có thể bán được cho khách hàng và để cho khách hàng biết đến sản phẩm của công ty thì các doanh nghiệp phải có chiến lược tuyên truyền quảng cáo phù hợp. Tuy nhiên khi sản phẩm du lịch đến giai đoạn bão hoà thì doanh nghiệp phải có những chiến lược kích thích tiêu thụ hợp lý. Trên đây là một số lý do để doanh nghiệp lựa chọn hệ thống xúc tiến làm giải pháp xúc tiến kinh doanh cho doanh nghiệp của mình. 2.3.3. Hình thành hệ thống xúc tiến Quá trình diễn biến tâm lý của người nhận tin do nhận được những thông điệp khác nhau và những kênh truyền thông khác nhau đã được nhiều nhà nghiên cứu phác thảo thành những mô hình khác nhau. Song dù có sự khác nhau đó thì kênh truyền thông tác động vào khách hàng mục tiêu đều thống nhất và thích nghi với diễn biến tâm lý. Ba giai đoạn diễn biến tâm lý mang tính quy luật của người nhận tin là giai đoạn liên hệ , giai đoạn tình cảm và giai đoạn hành vi. Đối với từng mô hình cần phải có những hoạt động truyền thông, kênh truyền thông và thông điệp riêng biệt phù hợp để đáp ứng yêu cầu ở từng giai đoạn diễn biến tâm lý đó. Vì vậy các công ty khác nhau sử dụng những hệ thống xúc tiến khác nhau. Các công ty cũng luôn tìm những phương cách mới để phối hợp giữa quảng cáo và bán hàng trực tiếp, kích thích tiêu thụ và tuyên truyền sao cho có hiệu quả. Các công ty có thể thay đổi phương tiện truyền thông này bằng phương tiện truyền thông khác nếu thấy kinh tế hơn. Khả năng chuyển hoán giữa các công cụ truyền thông đã giải thích tại sao các chức năng Marketing cần được hợp lại trong một bộ phận Marketing duy nhất. Việc xác lập hệ thống xúc tiến càng trở nên tinh tế hơn khi một công cụ này có thể dùng để tạo thêm sức mạnh và hiệu quả cho một công cụ khác. Ví dụ ta có thể tiến hành quảng cáo cho một chiến dịch xúc tiến bán hàng. Sự phối hợp các hoạt động truyền thông thường gắn với các chiến dịch truyền thông trong những thời gian cụ thể nhất định. Để sự phối hợp này đạt hiệu quả cao, công ty cần phải xây dựng hệ thống truyền thông của mình bằng việc lựa chọn các công cụ truyền thông phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh thực tế của công ty. Các công ty không ngừng tìm kiếm những phương cách nâng cao hiệu quả kinh doanh, thay đổi những phương tiện kích thích khi phát hiện ra rằng nó không đảm bảo đạt được những kết quả kinh tế tốt đẹp hơn. Nhiều công ty đã giảm được một phần khối lượng công việc của người bán hàng bằng cách sử dụng bán hàng qua điện thoại và gửi thư trực tiếp. Một số công ty khác thì đảm bảo tiêu thụ nhanh nhất bằng cách tăng chi phí cho việc kích thích tiêu thụ so với chi phí quảng cáo. Bởi vì các phương tiện kích thích có thể thay đổi cho nhau, nên cần phải phối hợp các chức năng Marketing trong khuôn khổ của bộ phận Marketing thống nhất. 2.3.3.1. Các phương tiện trong hệ thống xúc tiến và bản chất của các phương tiện xúc tiến. Mỗi phương tiện xúc tiến quảng cáo, bán hàng trực tiếp, kích thích tiêu thụ và tuyên truyền đều có những tính chất độc đáo, những loại hình chi phí của nó. Nhà hoạt động thị trường lựa chọn những phương tiện khuyến mãi cần biết cách tìm hiểu về những tính chất và đặc điểm này * Quảng cáo: Các hình thức và phương pháp sử dụng quảng cáo đa dạng đến mức độ là khó có thể đưa ra được những kết luận chung nào đó về chất lượng đặc thù của nó với tính cách là một phần tử cấu thành của hệ thống khuyến mãi. Nhưng dù sao thì cũng có thể nêu ra được những ưu điểm sau: a. Tính chất xã hội: Quảng cáo là một hình thức truyền thông thuần tuý xã hội. Bản chất xã hội của nó đòi hỏi hàng hoá phải hợp pháp và được mọi người chấp nhận. Bởi vì nhiều người nhận được cùng một thông tin nên người mua biết rằng mọi người cũng sẽ hiểu được nguyên cớ mà họ dựa vào đó khi mua hàng. b. Khả năng thuyết phục: Quảng cáo là một phương tiện thuyết phục cho phép người bán lập laị nhiều lần thông tin của mình. Đồng thời nó tạo cho người mua khả năng nhận được và so sánh thông tin của các đối thủ cạnh tranh. Quảng cáo với quy mô lớn do người bán tiến hành là một loại bằng chứng chứng tỏ quy, tính phổ biến và sự thành đạt của nó. c. Tính biểu cảm: Nhờ sử dụng khéo léo dạng chữ, âm thanh và màu sắc quảng cáo mở ra những khả năng giới thiệu công ty và hàng hoá của nó một cách có hiệu quả, đập vào mắt mọi người. Nhưng trong một số trường hợp chính đập vào mắt quảng cáo lại có thể làm mở nhạt thông tin và làm lạc hướng sự chú ý đến thực chất của nó d. Không có chủ thể hay khách thể: Quảng cáo không thể là hành vi của một chủ thể, như sự giao tiếp với người bán hàng của công ty. Khách hàng không cảm thấy cần thiết phải chú ý đến hay phải trả lời. Quảng cáo chỉ có thể là độc thoại chứ không phải là đối thoại với khách hàng. Một mặt có thể sử dụng quảng cáo để tạo ra một hình ảnh vững chắc lâu bền cho hàng hoá , mặt khác có thể sử dụng hàng hoá để kích thích tiêu thụ nhanh. Quảng cáo là một phương thức có hiệu quả để chiếm lĩnh nhiều người mua phân tán về mặt địa lý với chi phí nhỏ tính cho một cuộc tiếp xúc quảng cáo. Một số hình thức quảng cáo như quảng cáo trên truyền hình có thể đòi hỏi kinh phí lớn, nhưng các hình thức khác như quảng cáo trên báo chí có thể tốn kém ít hơn . * Bán hàng trực tiếp Trong một số giai đoạn của quá trình mua hàng, đặc biệt là trong những giai đoạn của quá trình hình thành sự ưa thích và niềm tin của người mua, cũng như trong giai đoạn trực tiếp thực hiện hành vi mua bán, phương tiện tác động có hiệu quả nhất là bán hàng trực tiếp. Nguyên do là so với quảng cáo, kỹ thuật bán hàng trực tiếp có ba đặc trưng là: a. Tính chất có chủ thể và khách thể: Bán hàng trực tiép đòi hỏi có sự giao tiếp sinh động, trực tiếp và qua lại giữa hai hay nhiều người. Mỗi người tham dự có thể nghiên cứu trực tiếp những nhu cầu và đặc điểm của những người khác và tức thời có những sự điều chỉnh cách giao tiếp một cách thích hợp . b. Sự hình thành mối quan hệ: Bán hàng trực tiếp góp phần thiết lập những mối quan hệ hết sức đa dạng- Từ những quan hệ hình thức giữa người bán người mua đến tính quen biết thân thiết. Một người bán chân chính luôn cố gắng thiết lập với khách hàng những mối quan hệ lâu bền, thường lo lắng đến lợi ích của người mua. c. Kích thích phản ứng đáp lại: Việc mua bán trực tiếp luôn buộc người mua cảm thấy mình trong một chừng mực nào đó chịu ơn người ta đã trao đổi nói chuyện với mình. Người mua cảm thấy cần phải lắng nghe và phản ứng lại, dù rằng phản ứng chỉ là một lời cảm ơn lịch sự. Nhưng tính chất đặc trưng này không tự nó bộc lộ ra. Bán hàng trực tiếp là một trong những phương tiện tác động đắt tiền nhất mà công ty sử dụng. Theo số liệu năm 1980 mỗi cuộc viếng thăm người mua của người chào hàng trung bình phải chi 128 USD. Năm 1997 các công ty Mỹ đã chi cho việc tô chức bán hàng trực tiếp trên 100 tỷ USD, còn cho quảng cáo chỉ có 38 tỷ USD. Số tiền đó là nguồn sinh sống của 5,4 triệu người Mỹ làm nhiệm vụ bán hàng trực tiếp hồi đó. * Kích thích tiêu thụ : Mặc dù kích thích tiêu thụ alf một hoạt động trong đó sử dụng nhiều phương tiện tác động. Phiếu mua hàng, thi , thưởng … tất cả các phương tiện đó có ba tính chất đặc trưng sau: a. Tính hấp dẫn và chứa đựng thông tin: Chúng thu hút sự chú ý thường bao hàm thông tin có thể đưa người mua đến với sản phẩm hàng hoá. b. Thúc đẩy hoạt độngmua hàng: Chúng đưa ra một sự nhượng bộ ưu đãi hay hỗ trợ nào đó có gía trị đối với người tiêu dùng. c. Mời chào mua hàng: Chúng chứa đựng những lời mời chào thực hiện ngay thương vụ. Công ty sử dụng các phương tiện kích thích tiêu thụ để tạo ra phản ứng đáp ứng lại mạnh mẽ và linh hoạt hơn. Có thể sử dụng các phương tiện kích thích tiêu thụ để chào hàng có hiệu quả và phục hồi mức tiêu thụ đang sa sút. Nhưng hiệu quả của việc tiêu thụ thường mang tính ngắn hạn và để hình thành sự ưa thích bền vững đối với nhãn hiệu thì những thủ thuật này không thích hợp. * Tuyên truyền: Sức hấp dẫn của tuyên truyền bắt nguồn từ ba tính chất đặc trưng sau: a. Tính chuẩn xác: Tư liệu thông tin, bài viết hay phóng sự đối với người đọc có vẻ trung thực hơn và chuẩn xác hơn so với những bài quảng cáo. b. Bao quát đông đảo người mua: Tuyên truyền có thể đến với đông đảo người mua tiềm ẩn mà họ thường né tránh tiếp xúc với những người bán hàng và quảng cáo. Thông tin đến với người mua rất đưới dạng tin sốt dẻo chứ không phải truyền thông mang tính chất thương mại c. Đập vào mắt : Tương tự như quảng cáo tuyên truyền có những khả năng giới thiệu công ty hay sản phẩm một cách có hiệu quả và đập vào mắt. Những người hoạt động thị trường đều có khuynh hướng đánh giá thấp việc tuyên truyền sản phẩm hay nghĩ đến nó sau cùng. Tuy vậy một chiến dịch tuyên truyền có suy tính kỹ lưỡng, kết hợp với các phần tử khác của hệ thống xúc tiến, có thể dành được hiệu quả hêtư sức to lớn. Những yếu tố quyết định cấu trúc của hệ thống xúc tiến khi xây dựng hệ thống xúc tiến của mình , công ty thường chú ý đến một số yếu tố sau: * Kiểu hàng hoá hay thị trường: Hiệu quả của công việc xúc tiến trên thị trường người tiêu dùng và trên thị trường tư liệu rất khác nhau. Các công ty bán hàng tiêu dùng thường chi tiêu chủ yếu cho việc quảng cáo sau rồi mới đến kích thích tiêu thụ, tổ chức bán hàng trực tiếp sau đó mới đến tuyên truyền. Các công ty bán hàng tư liêụ sản xuất thì chi tiêu chủ yếu cho việc bán hàng trực tiếp rồi sau đó mới đến kích thích tiêu thụ , quảng cáo và tuyên truyền. Nhìn chung bán hàng trực tiếp được áp dụng nhiều hơn trong khu vực buôn bán những hàng hoá đắt tiền và những hàng hoá có rủi ro lớn, cũng như trên các thị trường có ít người bán quy mô lớn ( thị trường tư liệu sản xuất ) Mặc dù gía trị của hàng hoá trên thị trường tiêu thụ sản xuất thua kém những cuộc viếng thăm của các nhân viên chào hàng nhưng quảng cáo vẫn giữ vai trò quan trọng. Quảng cáo có thể làm cho mọi người biết đến sản phẩm và am hiểu những đặc điểm của nó, định hướng cho những người tiêu dùng tiềm ẩn, hợp pháp hoá sản phẩm và tạo cho người mua niềm tin tưởng. Vai trò của quảng cáo trong Marketing công nghiệp rất quan trọng. Nó có thể cung cấp nhiều thông tin cho người mua trong một công trình nghiên cứu Marketing cho hãng tư liệu sản xuất Moorill đã chứng tỏ rằng khi kết hợp giữa bán hàng trực tiếp và quảng cáo mức tiêu thụ đã tăng 23% so với thời kỳ không quảng cáo. Kết quả là chi phí chung cho xúc tiến so với tổng doanh số bán đã giảm 20%. Bán hàng trực tiếp trong Marketing hàng tiêu dùng cũng có thể có mức đóng góp như vậy. Đó không phải là trường hợp khi người bán hàng bán hàng lên giá, và như vậy là quảng cáo. Những người chào hàng được huấn luyện tốt khi đi bán hàng tiêu dùng có thể thu hút được nhiều đại lý kinh doanh có nhẵn hiệu, thuyết phục họ dành nhiều diện tích hơn để trình bày hàng và gơị ý hợp tác trong việc tiến hành những biện pháp kích thích đặc biệt. * Chiến lược thúc đẩy hàng hoá và chiến lược thu hút người tiêu dùng đến với hàng hoá : Thành phần của hệ thống xúc tiến phụ thuộc rất nhiều vào chiến lược đảm bảo hàng hoá của công ty . Chiến lược thúc đẩy hàng hoá hay chiến lược thúc đẩy người tiêu dùng đến với hàng hoá sơ đồ 1.4 đã so sánh hai chiến lược này. Chiến lược thúc đẩy hàng hoá đã đòi hỏi nhân viên bán hàng và kích thích khu vực buôn bán để thúc đẩy hàng hoá theo các kênh lưu thông hàng hoá . Người sản xuất nài ép hàng của mình cho người bán sỉ, người bán sỉ ép hàng cho người bán lẻ và người bán lẻ ép hàng cho người mua. Chiến lược thu hút người tiêu dùng đến với hàng hoá đòi hỏi chi phí nhiều cho quảng cáo và kích thích người tiêu dùng nhằm mục đích hình thành nhu cầu từ phía họ. Nếu phương cách naỳ thành công thì người tiêu dùng bắt đầu yêu cầu hàng hoá cho người bán lẻ, người bán lẻ lại yêu cầu hàng hoá cho người bán sỉ và người bán sỉ lại yêu cầu hàng hoá cuả người sản xuất . Các công ty có các quan điểm khác nhau về sử dụng các chiến lược thúc đẩy hàng hoá hay thu hút. * Mức độ sẵn sàng của người mua :Mức độ sinh lời của các phương thức xúc tiến khác nhau tuỳ theo mức độ sẵn sàng của người mua. Trong giai đoạn hay biết quảng cáo và tuyên truyền giữ vai trò quan trọng. Sự hiểu biết của người tiêu dùng trước hết chịu sự ảnh hưởng của trình độ học vấn của họ và ở đây quảng cáo và bán trực tiếp chỉ giữ vai trò hỗ trợ. Niềm tin của người tiêu dùng chịu ảnh hưởng trước tiên là của kỹ thuật bán hàng trực tiếp rồi đến quảng cáo. Cuối cùng việc hoàn tất thường vụ chủ yếu là chức năng của việc bán hàng trực tiếp. Rõ ràng là việc bán trực tiếp với sự tốn kém của nó phải tập trung nỗ lực vào những giai đoạn kết thúc của quá trình mua hàng mà người mua đang trải qua. * Giai đoạn trong chu kỳ sống của hàng hoá: Hiệu quả của công việc xúc tiến cũng khác nhau tuỳ theo giai đoạn trong chu kỳ sống của hàng hoá. Trong giai đoạn tung hàng ra thị trường , quảng cáo và tuyên truyền có hiệu quả lớn nhất xét theo giác độ mức hay biết rộng rãi, trong khi đó kích thích tiêu thụ có ích theo nghĩa thúc đẩy người tiêu dùng dùng thử hàng hoá. Bán trực tiếp thường tương đối tốn kém, nhưng vẫn phải sử dụng để kích thích những người bán lẻ kinh doanh mặt hàng này. Trong giai đoạn phát triển , quảng cáo và tuyên truyền vẫn giữ nguyên giá trị của nó, còn hoạt động kích thích tiêu thụ , có thể giảm bớt bởi trong giai đoạn này ít cần kích thích hơn. Trong giai đoạn chín muồi giá trị của kích thích tiêu thụ tăng so với quảng cáo. Người mua đã quen với nhãn hiệu chỉ cần dùng quảng cáo để nhắc nhở đến nhãn hiệu thôi. Trong giai đoạn suy thoái chỉ số sử dụng quảng cáo để nhắc nhở còn tuyên truyền thì hoàn toàn loại bỏ, nhân viên bán hàng chỉ quan tâm tối thiểu đối với hàng hoá. Nhưng kích thích tiêu thụ vẫn tiếp tục có tác dụng. 2.3.4 Xây dựng ngân sách xúc tiến: Một trong những vấn đề Marketing hóc búa nhất công ty là việc thông qua quyết định về kinh phí dành cho việc xúc tiến. Không có gì ngạc nhiên khi các công ty khác nhau , các ngành nghề khác nhau chi cho mục đích xúc tiến những khoản tiền rất khác nhau về số lượng. Chi phí cho xúc tiếncó thể chiếm từ 30% đến 50% trong sản xuất mỹ phẩm và chỉ bằng 10% đến 20% trong chế tạo cơ khí nặng. Các công ty xác định mức kinh phí chi cho xúc tiến trong ngân sách của mình như thế nào. Ta sẽ xét 4 phương pháp phổ biến nhất được sử dụng khi lên tổng dự toán chi phí cho bất kỳ loại hình hoạt động nào trong hệ thống xúc tiến. * Phương pháp xác định theo tỷ lệ % trên doanh số bán. Phương pháp này yêu cầu công ty phải ấn định ngân sách cho xúc tiến bằng một mức tỷ lệ phần trăm nào đó so với doanh số bán dự kiến. Các công ty lấy doanh số bán của năm trước hoặc chu kỳ kinh doanh để ấn định tỷ lệ. Phương pháp này có ưu điểm là: a. Thứ nhất: Ngân sách có thể thay đổi theo chừng mực mà công ty có thể chịu đựng được làm cho các nhà quản lý yên tâm vì chi phí truyền thông gắn liền với sự tăng giảm doanh số bán của công ty trong chu kỳ kinh doanh. b. Thứ hai: Phương pháp này khuyến khích các nhà quản lý làm quyết định trong khuôn khổ của mối quan hệ giữa chi phí xúc tiến, giá bán và lợi nhuận cảu mỗi đơn vị sản phẩm. c. Thứ ba: Phương pháp ổn định cạnh tranh trong tình thế của các công ty cũng xác định ngân sách trên doanh số theo một quan hệ tỉ lệ đã hình thành. Tuy nhiên cơ sở của phương pháp này chưa thoả đáng, chưa có luận điểm vững chắc để bảo vệ cho nó và trong một chừng mực nào đó còn luẩn quẩn, coi kết quả doanh thu là nguyên nhân của mức độ hoạt động xúc tiến. Từ đó dẫn đến việc ngân sách tuỳ thuộc và khả năng ngân quỹ hiện có hơn là việc tranh các cơ hội tăng cường các hoạt động tuyên truyền hoặc tiêu thụ . Sự phụ thuộc của ngân sách xúc tiến vào sự thay đổi của doanh số bán hàng năm cũng tác động xấu và gây khó khăn cho việc lập kế hoạch xúc tiến dài hạn. Việc xác định một mức tỷ lệ cụ thể nào đó còn hoàn toàn có thể theo tiền lệ hoặc do các đối thủ cạnh tranh chi phối rõ ràng là không hợp lý. * Phương pháp căn cứ vào quỹ tiền mặt : Nhiều công ty tính cho ngân sách xúc tiến một khoản tiền nhất định mà theo ý kiến mình họ có thể cho phép mình chi . Một người lãnh đạo đã giải thích thực chất của phương pháp này là như sau :” Rất đơn giản , việc đầu tiên là tôi lên gặp kế toán trưởng và hỏi trong năm nay có thể trích cho tôi bao nhiêu tiền. Kế toán trưởng trả lời rằng có thể cho một triệu rưỡi. ít lâu sau thủ trưởng gặp tôi và hỏi trong năm nay ta cần chi bao nhiêu tiền, tôi trả lời:” khoảng một triệu rưỡi gì đó” Phương pháp này không hề ảnh hưởng gì đến công việc của việc xúc tiến đến khối lượng tiêu thụ. Kết quả là từ năm này qua năm khác mức ngân sách vẫn không được xác định, gây trở ngại cho việc lập kế hoạch kinh doanh dài hạn. * Phương pháp cân bằng cạnh tranh : Một số công ty xác định mức ngân sách xúc tiến ngang bằng với mức chi phí của các đối thủ cạnh tranh. Minh hoạ cho vấn đề này là việc đề ra một người lãnh đạo đặt ra cho cơ quan in ấn của ngành: “Các anh có những con số nào mà các công ty sản xuất các cấu kiện xây dựng đã sử dụng làm chuẩn để quyết định trích bao nhiêu phần trăm tổng doanh số bán cho việc quảng cáo khổng? “ Có hai lý do biện hộ cho phương pháp này: Thứ nhất là mức chi phí của các đối thủ cạnh tranh thể hiện sự sáng suốt tập thể của ngành. Thứ hai là việc duy trì cân bằng cạnh tranh giúp tránh được những đấu tranh quyết liệt trong lĩnh vực xúc tiến. Nhưng không có lý nào có sức mạnh thực sự, không có căn cứ nào để cho rằng các đối thủ cạnh tranh có cái nhìn tỉnh táo hơn đối với việc cần phải chi bao nhiêu cho công việc xúc tiến. Các công ty khác nhau rất nhiều về tiếng tăm, nguồn vốn, khả năng và mục tiêu đến mức độ là không chắc gì có thể lấy mức ngân sách xúc tiến của họ làm mức chuẩn đáng tin cậy. Ngoài ra không có một bằng chứng nào chứng minh cho việc khẳng định là ngân sách hình thành theo phương pháp cân bằng cạnh tranh sẽ ngăn cản được sự lan rộng của cuộc đấu tranh gay gắt trong lĩnh vực xúc tiến. * Phương pháp tính căn cứ vào mục tiêu và nhiệm vụ : Phương pháp tính căn cứ vào mục tiêu và nhiệm vụ đòi hỏi những người hoạt động thị trường phải hình thành ngân sách xúc tiến của mình trên cơ sở: a. Xác định những mục tiêu cụ thể b. Xác định những nhiệm vụ cần phải giải quyết để đạt được những mục tiêu đó. c. Đánh giá chi phí cho việc giải quyết những nhiệm vụ đó Tổng tất cả những chi phí đó là con số định hướng cho kinh phí dành cho xúc tiến. Chương 3: Giải pháp và những kiến nghị Trên cơ sở phân tích thực trạng của hoạt động xúc tiến tại Sở du lịch. Để hoạt động này thực sự phát triển và mang lại hiệu quả cao. Sinh viên thực tập phạm hữu tuyến xin được đề xuất một số giải pháp sau: 3.1. Tăng cường tuyên truyền sâu rộng đến mọi tầng lớp nhân dân nhằm mục đích xã hội hoá du lịch. Để thực hiện hoạt động này có hiệu quả, các ban ngành thực hiện cần nắm vững chủ trương, đường lối, chính sách của đảng và nhà nước, huy động các nguồn lực để việc thực hiện được rộng khắp đến nhiều người dân qua đó làm tăng sự hiểu biết của người dân đến hoạt động du lịch nói chung và hoạt động xúc tiến nói riêng tạo đà phát triển cho các hoạt động sau này. Mặt khác việc tuyên truyền phải đến được các cá nhân và tổ chức nước ngoài qua đó để họ hiểu về đất nước, con người Việt Nam , những bản sắc truyền thống, danh làm thắng cảnh, di tích lịch sử, di tích cách mạng, di sản văn hoá, các công trình sáng tạo của con người….đồng thời cũng qua đó kêu gọi sự đầu tư và hợp tác giữa hai bên nhằm góp phần cho sự phát triển chung của ngành du lịch. Trong thời đại ngày nay việc thực hiện giải pháp này có thể thông qua nhiều hình thức, tuỳ theo mục đích có thể lựa chọn các phương tiện thông tin để tuyên truyền (đài, báo, truyền hình, internet…) và trong từng trường hợp cụ thể việc lựa chọn các phương tiện thông tin đòi hỏi cần có sự chọn lựa kỹ càng và các thông tin chính xác, tạo niềm tin đối với người tiêu dùng cũng như các cá nhân, tổ chức có liên quan. Hoạt động này nếu đạt được hiệu ứng tích cực sẽ là cơ hội to lớn cho sự phát triển toàn ngành, nhưng ngược lại cũng mang lại những rủi ro khó có thể lường trước nếu có những hệ quả tiêu cực trong công tác tổ chức thực hiện và nhận các thông tin phản hồi. Nói chung hoạt động tuyên truyền trong một phạm vi nào đó sẽ mang lại kết quả cao. Tuy nhiên hoạt động này cần được đảm bảo các yếu tố sau: Xác định rõ đối tượng và phạm vi tuyên truyền sẽ là cơ hội để tuyên truyền một cách sâu rộng và hoàn chỉnh. Nguồn kinh phí thực hiện cần được đảm bảo trong thời gian tương đối dài vì rất cần phải có thời gian để triển khai trên địa bàn rộng. Theo sát các chủ trương, đường lối, chính sách của đảng và nhà nước, để việc thực hiện không làm trái với các quy định, chủ trương của các đường lối và chính sách đó. Cần áp dụng các biện pháp cần thiết để phòng ngừa rủi ro, và ngăn chặn các hoạt động lợi dụng việc tuyên truyền nhằm mục đích bất chính. 3.2. Đẩy mạnh các hoạt động nhằm kích thích tiêu dùng. Trong giai đoạn hiện nay mức sống của người dân trên thế giới nói chung và người Việt Nam nói riêng đang ngày được nâng cao. Đối với người dân nước ta việc tri trả các chi phí cho một chuyến du lịch là hoàn toàn nằm trong khả năng cho phép. Tuy nhiên với sự hiểu biết còn hạn chế và những tư tưởng cố hữu đã ăn sâu, du lịch dường như vẫn là cái gì đó xa xỉ, vì vậy đòi hỏi các nhà thực hiện chiến lược phải đánh thức thói quen tiêu dùng của người dân để họ có cái nhìn đúng đắn về hoạt động này nhằm tăng khả năng tiêu dùng các sản phẩm du lịch. Vì vậy việc kích thích tiêu dùng nếu thành công sẽ là cơ hội lớn cho sự phát triển của ngành du lịch nói riêng và các ngành kinh tế khác nói chung. Để làm được điều này hoạt động xúc tiến cần đưa ra những biện pháp và chính sách cụ thể trong dài hạn vì việc kích thích này không thể đạt ngay kết quả trong một sớm một chiều, đồng thời việc thực hiện phải đảm bảo tính nhất quán giữa các ban ngành và các doanh nghiệp , tỏo chức cá nhân có liên quan đến du lịch. Do vậy cần đảm bảo được các yêu cầu sau: Thứ nhất: cần cung cấp thông tin một cách đầy đủ và chính xác theo yêu cầu của du khách về chương trình và các dịch vụ du lịch. Thứ hai: tăng cường khả năng đáp ứng và cung cấp các sản phẩm du lịch có chất lượng cao nhưng đồng thời phải có sự hợp lý trong giá cả cũng như sự phong phú về chủng loại tạo ra sự ưa thích của người tiêu dùng đối với sản phẩm du lịch. Thứ ba: Việc thực hiện các dịch vụ trong quá trình cung cấp phải đảm bảo các điều kiện và theo những phương thức nhất định, các cá nhân tham gia trong quá trình cung ứng phải được bồi dưỡng về nghiệp vụ, chuyên môn. Đồng thời phải thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ theo hợp đồng đã cam kết với khách du lịch; chịu trách nhiệm về chất lượng dịch vụ hàng hoá bán cho khách; công khai giá dịch vụ và hàng hoá có biện pháp đảm bảo an toàn và tài sản, tính mạng và cung cấp các thông tin cần thiết về chuyển đi du lịch cho khách du lịch; hướng dẫn cho khách về nội quy, quy chế du lịch cũng như có trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp gây thiệt hại cho du khách. Cuối cùng cần tạo ra môi trường du lịch văn minh lành mạnh và đảm bảo các biện pháp về an ninh trật tự an toàn vệ sinh môi trường tại các khu du lịch, các điểm du lịch các điểm tham quan. Đồng thời cần giữ gìn, bảo vệ tài nguyên du lịch và tài nguyên khác có liên quan đến du lịch cũng như thực hiện các nhiệm vụ, các quyền hạn theo quy định của nhà nước và pháp luật. 3.3. Đẩy mạnh quảng cáo. Ngày nay quảng cáo là phương tiện truyền thông mang tính chất đại chúng và đạt được hiệu quả tương đối cao cùng với các hình thức : tờ rơi, tờ bướm, áp phích…hoạt động du lịch có thể ứng dụng quảng cáo bằng các phương tiện hiện đại và dễ truyền tải hình ảnh đến với người tiêu dùng. Tuy nhiên do đặc thù riêng, sản phẩm du lịchkhông thể trưng bày và mang tính chất vô hình nên rất khó khăn khi thực hiện quảng cáo cộng với các chi phí nên rất cao cho mỗi lần quảng cáo tạo ra hiệu quả không cao lắm. Chính vì vậy cũng là việc quảng cáo, nhưng lựa chọn theo hình thức và phương thức nào để có thể vừa đạt được mục đích truyền tải nội dung đồng thời mang được tối đa thông tin đến với người tiêu dùng đòi hỏi có sự nghiên cứu kĩ lưỡng và lâu dài. Mặt khác mỗi hình thức quảng cáo lại có ưu nhược điểm riêng, việc lựa chọn bất kì hình thức quảng cáo nào cũng cần đảm bảo các yêu cầu sau: Một là: có thông tin đầy đủ và dễ nhờ đối với du khách cũng như cần tạo ra những ấn tượng riêng. Hai là: có sự chính xác giữa quảng cáo và các dịch vụ cung ứng đến du khách . Điều đó đồng nghĩa với việc sản phẩm dịch vụ phải tương ứng như những gì đã quảng cáo, có như vậy mới tạo được vị thế và niềm tin đói với khách hàng. Ba là: đa dạng về nội dung và hình thức thể hiện cũng là một yêu cầu rất quan trọng, tạo ra lợi thế đối với các đối thủ cạnh tranh. Bốn là: cần nắm bắt xu thế phát triển của ngành kinh tế nói chung và du lịch nói riêng để có sự điều chỉnh kịp thời trong các hoạt động quảng cáo nhằm thích nghi nó với từng điều kiện và hoàn cảnh cụ thể sao cho người tiêu dùng luôn cảm thấy mới mẻ và gần gũi làm tăng khả năng tiêu dùng sản phẩm. 3.4. Tăng cường kích thích tiêu thụ. Kích thích tiêu thụ là hoạt động mang tính chất chiến lược đối với các hoạt động kinh tế nói chung và ngành du lịch nói riêng. Người tiêu dùng luôn có tâm lí có được những sản phẩm, dịch vụ có chất lượng cao nhưng giá cả phải hợp lí, ngược lại các nhà cung ứng lại luôn có mong muốn tiêu thụ được các sản phẩm có giá cao. Việc trung hoà giữa các mong muốn đó đòi hỏi các nhà xúc tiến cần phải đưa ra các chính sách hợp lí để đảm bảo lợi ích cho cả hai bên và vừa kích thích được tiêu dùng lại vừa kích thích được tiêu thụ. Tuy nhiên do có sự liên quan đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực khác nên việc thực thi các chính sách này cần có sự đảm bảo bởi các yếu tố dưới đây. Nhà nước cần có các chính sách khuyến khích, hỗ trợ việc phát triển kinh doanh các sản phẩm và dịch vụ du lịch, đảm bảo quyền lợi cho các doanh nghiệp và có các chính sách và biện pháp quy hoạch phát triển du lịch, có sự đầu tư thoả đáng để xây dựng kết cấu hạ tầng du lịch và cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch. Các tổ chức, cá nhân tham gia cung ứng cơ sở lưu trú và các dịch vụ khác liên quan đến du lịch phải có cơ sở lưu trú có điều kiện, tiêu chuẩn do cơ quan quản lí nhà nước về du lịch có thẩm quyền quy định đồng thời phải được phân hạng theo quy định của cơ quan quản lí nhà nước về du lịch có thẩm quyền. Tăng cường hoạt động quản lí, giám sát việc thực hiện các hoạt động kinh doanh nhằm đảm bảo chất lượng phục vụ cho du khách. Đồng thời có sự phát triển cân đối giữa hai ngành du lịch và khách sạn, tránh tình trạng chênh lệch dễ dẫn đến việc thiếu hụt trong việc cung cấp dịch vụ cho du khách, tăng khả năng thu hút khách tham quan lưu trú dài ngày, góp phần voà sự phát triển chung. 3.5.Tăng cường khả năng đào tạo và hợp tác quốc tế về du lịch Đây là hoạt động đòi hỏi có sự tham gia mạnh mẽ của nhà nước, nhà nước cần áp dụng các chính sách và biện pháp đẩy mạnh hợp tác quốc tế về du lịch với các nước, các tổ chức quốc tế trên cơ sở bình đẳng, hai bên cùng có lợi, phù hợp với pháp luật mỗi bên, pháp luật và thông lệ quốc tế nhằm phát triển du lịch góp phần tăng cường quan hệ hợp tác, hữu nghị và hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc. Mặt khác nhà nước cần tạo điều kiện thuận lợi cho việc hợp tác về du lịch của các cá nhân, tổ chức nước ngoài nhằm đẩy mạnh xây dựng kết cấu hạ tầng tại các điểm du lịch, khu du lịch và trong khu du lịch, phát triển nguồn nhân lực du lịch, bảo vệ tôn tạo, phát triển tài nguyên du lịch; cải thiện môi trường sinh thái và thực hiện các nội dung sau: - Tuyên truyền quảng bá du lịch. - Điều tra cơ bản, bảo vệ khai thác và sử dụng tài nguyên du lịch hợp lý và có hiệu quả. - Xây dựng việc thực hiện các dự án phát triển du lịch trung dài hạn với quy mô và tầm cỡ mang chiến lược quốc gia. - Bảo vệ môi trường ở các điểm du lịch, các khu du lịch. - Nghiên cứu khoa học công nghệ và triển khai áp dụng vào các hoạt động du lịch cũng như phát triển ứng dụng và chuyển giao công nghệ tiên tiến trong lĩnh vực du lịch. Với những nội dung như trên hoạt động hợp tác quốc tế về du lịch sẽ mang lại những cơ hội và thách thức mới cho sự phát triển của du lịch và trong một tương lai không xa khi các chính sách đối ngoại được mở rộng, khả năng giao lưu, hợp tác giữa các quốc gia sẽ thực sự góp phần cho sự phát triển của du lịch. 3.6. Dự báo xu hướng phát triển của hoạt động xúc tiến tại sở du lịch Hà Tây trong tương lai. Như trên đã nói hoạt động xúc tiến tại đây đã đạt được những thành công nhất định và vẫn tồn tại những nhược điểm mang tính chất cố hữu. Làm thế nào để phát huy những mặt mạnh và hạn chế những nhược điểm là điều cần thiết và nên thực hiện nhanh chóng. Dự báo trong tương lai gần, hoạt động xúc tiến du lịch tại đây đang hướng tới việc phát triển cân đối giữa 2 ngành du lịch và khách sạn để tránh tình trạng thiếu hụt trong các dịch vụ cung cấp cho du khách và tăng cường các nguồn thu cũng như xây dựng một ngành dịch vụ đầy đủ và hoàn chỉnh. Vì vậy nắm bắt được các yếu tố đó cũng những dự báo về phát triển của du lịch trong tương lai các nhà hoạch định chính sách tại đây cùng các ban ngành có liên quan đến lĩnh vực du lịch cần có những chính sách cụ thể nhằm thu hút lượng khách lớn đồng thời đảm bảo cho việc thực hiện các dịch vụ phục vụ cho các hoạt động này được đầy đủ, hoàn hảo và đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của du khách. Do vậy việc thay đổi về cả chất và lượng là chính sách chung của các dự án tại đây và hy vọng rằng các chính sách đó sẽ đạt được những thành công mới. 3.7. Những nhận xét chung về một số kiến nghị chính. Đứng trên góc độ cá nhân, sinh viên viết báo cáo qua việc nghiên cứu một số tài liệu của sở trong thời gian qua, các bài viết và quá trình bám sát tại các doanh nghiệp cơ sở đã rút ra một số nhận xét sau: Thứ nhất: Hoạt động xúc tiến tại sở dưới sự chỉ đạo của sở du lịch Hà Tây chưa thực sự đồng bộ và hiệu quả đạt được trong thời gian qua chưa được như mong muốn. Thứ hai: Hoạt động xúc tiến chưa lấp được khoảng cách về sự mất cân đối giữa hai ngành du lịch và khách sạn. Trong khi kinh doanh du lịch khai thác có hiệu quả các nguồn tài nguyên thì kinh doanh khách sạn chưa thực sự phát triển và chưa có những dự án lớn và hiệu quả thu được còn rất thấp. Thứ ba: Hoạt động xúc tiến còn bị động và phản ứng chậm trước sự biến động của xu hướng thế giới cũng như sự thay đổi nhu cầu và thị hiếu của du khách. Điều đó dễ dẫn đến tình trạng cung cấp các sản phẩm và dịch vụ không đạt hiệu quả. Thứ tư: Hoạt động quản lí và giám sát các hoạt động xúc tiến của các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh chưa được đầu tư và trú trọng thích đáng, chưa gây được áp lực lớn để đảm bảo chất lượng dịch vụ cho khách nhằm tạo vị thế và uy tín trên thị trường. Thứ năm: Việc nắm bắt các chủ trương, đường lối chính sách của Đảng và nhà nước và phổ biến đến các đơn vị kinh doanh để có những phản ứng và điều chỉnh kịp thời tạo ra sự thay đổi phù hợp với các chủ trương và chính sách đó. Cuối cùng: nâng cao vai trò và vị thế của hoạt động kinh doanh khách sạn và du lịch tại đây đang là mục tiêu chung của các cấp lãnh đạo và các doanh nghiệp tại đây. Điều đó đồng nghĩa coi đây là một trong những ngành kinh tế quan trọng, mang tính chất tổng hợp quan trọng, mang nội dung văn hoá sâu sắc, có tính liên ngành, liên vùng và xã hội hoá cao, phát triển du lịch nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, giải trí, nghỉ dưỡng của nhân dân và du khách quốc tế, góp phần nâng cao dân trí, tạo việc làm và phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Trên cơ sở phân tích thực trạng cùng việc đưa ra các giải pháp và những nhận xét trên, để hoạt động xúc tiến tại sở du lịch Hà Tây phát triển và đạt hiệu quả cao hơn nữa, sinh viên viết báo cáo có một số kiến nghị sau: Với nhà nước: Một là: Cần xây dựng khung pháp lí hoàn chỉnh và kịp thời nhằm mục đích tạo ra một môi trường du lịch hoàn chỉnh làm cơ sở cho mọi hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp và làm cơ sở cho việc điều chỉnh các hoạt động du lịch, xác định quyền và nghĩa vụ của khách du lịch, quyền và nghĩa vụ của tổ chức cá nhân kinh doanh du lịch cũng như việc thống nhất quản lí hoạt động du lịch; bảo đảm phát triển du lịch theo hướng du lịch văn hoá, du lịch sinh thái, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc và thể hiện việc tôn trọng, bảo hộ quyền và lợi ích hợp pháp của khách du lịch, khuyến khích tạo điều kiện thuận lợi cho người Việt Nam đi du lịch trong và ngoài nước và khuyến khích các thành phần kinh tế tham quan phát triển du lịch. Hai là: có kế hoạch, chiến lược chỉ đạo rõ ràng, cụ thể đối với hoạt động xúc tiến. Điều này đồng nghĩa với các chính sách và biện pháp thực hiện quy hoạch phát triển du lịch và xúc tiến du lịch; đầu tư thoả đáng để xây dựng kết cấu hạ tầng, cơ sở vật chất kĩ thuật cho khu du lịch và điểm du lịch trọng điểm. Đồng thời cần có biện pháp bảo vệ, tôn tạo, khai thác và sử dụng hợp lí tài nguyên du lịch để phát triển du lịch bền vững. Ba là: tổ chức thực hiện xúc tiến và hợp tác quốc tế về du lịch. Nhà nước cần có các chính sách và biện pháp đẩy mạnh hợp tác quốc tế về du lịch với các nước, các tổ chức quốc tế trên cơ sở bình đẳng, hợp tác và trên các nội dung sau: Tuyên truyền, quảng bá du lịch Phát triển nguồn khách du lịch Tham gia các tổ chức du lịch quốc tế và khu vực Xây dựng thực hiện các dự án phát triển du lịch Bốn là: đào tạo đội ngũ chuyên trách về hoạt động xúc tiến có chuyên môn, trình độ. Đây là việc gắn liền với quá trình tổ chức và quản lí công tác đào tạo, bồi dưỡng phát triển nguồn nhân lực du lịch, nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ vào việc bảo vệ tài nguyên. Năm là: quản lí nhà nước về du lịch đòi hỏi có sự thống nhất về nhiệm vụ, quyền hạn dựa trên những nội dung sau: Ban hành văn bản quy định về tiêu chuẩn của khu du lịch, tuyến du lịch, điểm du lịch quốc gia và địa phương, các văn bản quy phạm về du lịch. Xây dựng và chỉ đạo việc thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và chính sách phát triển du lịch. Quy định về tổ chức bộ máy quản lí nhà nước về du lịch, về phối hợp giữa các cơ quan nhà nước. -Sáu là: Thực hiện giám sát chặt chẽ các hoạt động xúc tiến. Đây là hoạt động không thể thiếu trong sự phát triển chung của du lịch và hoạt động xúc tiến cũng nằm trong phạm vi đó. Theo xu hướng phát triển chung, hoạt động xúc tiến ngày càng đa dạng và phong phú kéo theo nhiều vấn đề phát sinh rất phức tạp và đòi hỏi các cơ quan chức năng cần có các chính sách cụ thể và hợp lí trong các vấn đề giám sát thực thi. Việc thực hiện giám sát một mặt tạo ra sự liên kết giữa nhà nước với các sở, ban ngành và các doanh nghiệp để các cơ quan quản lí có thể nắm bắt, quản lí các hoạt động đó; mặt khác nhằm ngăn chặn và xử lí các hoạt động làm ảnh hưởng xấu đến môi trường, bản sắc văn hoá và thuần phong mỹ tục của dân tộc, làm phương hại đến độc lập, chủ quyền quốc gia, quốc phòng, an ninh và trật tự an toàn xã hội. Cuối cùng: kích thích các hoạt động đầu tư và tiêu dùng. Trên góc độ là cơ quan quản lí cao nhất mọi chính sách của nhà nước đều có ảnh hưởng lớn đến hoạt động xúc tiến. Với cơ chế mở như hiện nay hoạt động xúc tiến được phát triển trong môi trường rộng và mang lại cơ hội lớn cho du lịch . Tuy nhiên trên giác độ vĩ mô, việc kích thích đầu tư trong và ngoài nước là thực sự cần thiết và cần phát triển trên các phương diện sau: Kêu gọi hợp tác phát triển cơ sở vật chất kĩ thuật du lịch Ban hành cơ chế và chính sách thông thoáng trong các hoạt động xúc tiến và đầu tư. ưu tiên phát triển các dự án bảo vệ, tôn tạo và có chính sách khuyến khích các tổ chức, cá nhân đầu tư vào hoạt động này. Giám sát hoạt động hợp tác đầu tư nhằm ngăn ngừa những rủi ro làm phương hại đến quan hệ giữa các bên cũng như việc sử dụng các nguồn đầu tư đạt hiệu quả cao nhất. 4.2. Với các doanh nghiệp Các doanh nghiệp du lịch là một bộ phận quan trọng cấu thành hoạt động du lịch nói chung. Sự phát triển của các doanh nghiệp này sẽ cho thấy hai vấn đề hết sức quan trọng. Những chủ trương , chính sách đúng đắn của nhà nước và doanh nghiệp Tăng các nguồn thu cho ngân sách cũng như nâng cao chất lượng, các dịch vụ du lịch. Vì vậy để có sự phát triển bền vững, các doanh nghiệp cần thực hiện tốt các điều sau: Có giấy phép đăng kí kinh doanh theo quy định của nhà nước. có chính sách hợp lí trong các hoạt động xúc tiến cũng như nâng cao vai trò quản lí và trình độ chuyên môn nguồn nhân lực. thực hiện đúng các yêu cầu do các cơ quan chủ quản và nhà nước đặt ra. Nắm bắt kịp thời xu hướng phát triển chung của thế giới 4.3. Với các cá nhân và tổ chức khác. Ngày nay mọi tổ chức, cá nhân đều có thể tham gia cung ứng các dịch vụ du lịch. Tuy nhiên cần xác định đúng đắn mục tiêu để định hướng cho mọi hoạt động đầu tư và phát triển - trong đó có hoạt động xúc tiến. Tuy hoạt động mang tính chất nhỏ lẻ nhưng vẫn phải đảm bảo các yêu cầu sau: Mọi hoạt động đều nằm trong khuôn khổ cho phép và cần tích cực tham gia vào công cuộc xây dựng, tôn tạo và phát triển du lịch. Nộp phí và lệ phí đầy đủ theo quy định của nhà nước, cũng như chấp hành quy định của nhà nước về các chế độ báo cáo, kế toán, thống kê, tuyên truyền quảng cáo. Tích cực tham gia xây dựng, nghiên cứu các loại hình du lịch mới, cũng như việc nắm bắt kịp thời xu hướng phát triển chung của du lịch trong tương lai để có sự điều chỉnh kịp thời, thích nghi với sự thay đổi đó. Phần kết luận Qua việc phân tích trên đã cho thấy thực trạng của hoạt động xúc tiến Du lịch tại Sở du lịch Hà Tây. Bên cạnh những thành công đã đạt được cũng còn nhiều thiếu xót cần khắc phục trong một tương lai gần. Mặt khác việc xây dựng , phát triển hoạt động xúc tíên tại đây là mục tiêu chung và cũng là nhiệm vụ của các cấp, ban ngành liên quan tại Hà Tây. Quá trình đó không thể thực hiện được trong một sớm một chiều mà cần có những chính sách đúng đắn, những mục tiêu và đường lối cụ thể trong các hoạt động quy hoạch và phát triển. Tuy nhiên để đạt được điều đó cũng phải nhờ đén nỗ lực cũng như sự đóng góp, tham gia của các tổ chức, cá nhân và các ban ngành liên quan với ý thức và tinh thần trách nhiệm cao. Tất cả những hoạt động động đónhằm mục đích cuối cùng là nâng cao khả năng thu hút khách, tăng khả năng cạnh tranh,tăng vị thế cũng như góp phần phát triển kinh tế xã hội của tỉnh nói riêng và kinh tế đất nước nói chung. Chính vì vậy trong thời gian tới hoạt động xúc tiến nói riêng và các hoạt động khác có liên quan đến du lịch nói chung sẽ có nhiều thay đổi đáng kể về cả chất và lượng nhằm đáp ứng tối đa nhu cầu của du khách và hi vọng rằng với sự nỗ lực không ngừng của chính quyền và người dân nơi đây Hà Tây sẽ trở thành điểm du lịch hấp dẫn, thu hút ngày càng nhiều du khách, phát triển tương xứng với tiềm năng sẵn có. mục lục

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docH0074.doc
Tài liệu liên quan