Đề tài Dịch vụ ngân hàng quốc tế – giải pháp hoàn thiện và phát triển trong hệ thống các ngân hàng thương mại quốc doanh Việt Nam

Lời mởđầu Trong thời đại toàn cầu hoá hoạt động kinh tế như hiện nay, yêu cầu cấp bách được đặt ra là mọi lĩnh vực, ngành nghề kinh tế phải được cải tổ cho phù hợp với đời sống kinh tế mới. Trong nền kinh tế phát triển, hoạt động và dịch vụ ngân hàng thương mại đi vào tận cùng những ngõ ngách của nền kinh tế và đời sống con người. Ngược lại, một nền kinh tế muốn phát triển thì phải có một hệ thống ngân hàng mạnh. Chính vì vậy, ưu tiên hàng đầu là nghiên cứu và phát triển các dịch vụ ngân hàng. Trong những năm gần đây, các nền kinh tế trên thế giới thường phải đối mặt với nhiều biến động trên thị trường tài chính dẫn đến suy thoái kinh tế nghiêm trọng. Các nhà kinh tế cũng như các nhà quản lý trên thế giới trên thế giới đặc biệt quan tâm, nghiên cứu đến lĩnh vực tài chính nói chung và hệ thống ngân hàng nói riêng.Việt Nam hiện nay đang trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế tiến tới công nghiệp hoá,hiện đại hoá. Đảng và nhà nước ta luôn có chủ trương huy động mọi nguồn lực, nguồn vốn phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội trong đó nguồn vốn trong nước là quyết định, nguồn vốn ngoài nước là rất quan trọng, nguồn vốn hỗ trơ phát triển ODA cần được sự quan tâm đặc biệt. Đảng và nhà nước cũng chủ trương phát triển kinh tế hướng vào xuất khẩu. Tất cả cho thấy mối quan hệ kinh tế với nước ngoài là đặc biệt quan trọng trong phát triển kinh ở nước ta. Mà mối quan hệ này muốn tồn tại và phát triển thì phải nhờ vào các dịch vụ ngân hàng quốc tế. Do vậy việc nghiên cứu về dịch vụ ngân hàng quốc tếở các ngân hàng quốc doanh ở Việt nam là rất cần thiết. Khoá luận tốt nghiệp này tập trung vào hệ thống hoá vấn đề lý luận, làm rõ bản chất vai trò và lợi ích của dịch vụ ngân hàng quốc tế. Từ lý luận dẫn đến đánh giá khách quan hoạt động ngân hàng quốc tếở các ngân hàng thương mại quốc doanh Việt nam. Khoá luận này không tập trung vào việc mô tả qui trình nghiệp vụ, mà chủ yếu phân tích dữ liệu nhằm mục đích giải thích được vấn đề: Tại sao một số dịch vụ có tồn tại nhưng chưa phát triển, một số khác có phát triển nhưng chưa đạt được trình độ quốc tế, từđó đưa ra những giải pháp kiến nghị nhằm hoàn thiện và phát triển hoạt động ngân hàng quốc tếở các ngân hàng thương mại quốc doanh Việt Nam. Do hạn chế về khả năng và giới hạn của một khoá luận tốt nghiệp nên không thể nghiên cứu một cách tỉ mỉ tất cả các khía cạnh khác nhau của dịch vụ ngân hàng quốc tế mà chỉ tập trung nghiên cứu những dịch vụ ngân hàng quốc tế chủ yếu ở các ngân hàng thương mại quốc doanh qua nhưng năm gần đây. Đề tài: Dịch vụ ngân hàng quốc tế – giải pháp hoàn thiện và phát triển trong hệ thống các ngân hàng thương mại quốc doanh Việt Nam Bố cục của khoá luận ngoài phần mởđầu và kết luận gồm có ba chương Chương I: Những vấn đề cơ bản về dịch vụ ngân hàng quốc tế Chương II: Thực trạng dịch vụ ngân hàng quốc tếở các ngân hàng thương mại quốc doanh Việt nam Chương III: Những giải pháp hoàn thiện và phát triển dịch vụ ngân hàng quốc tế của các ngân hàng thương mại quốc doanh Việt nam.

pdf103 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1475 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Dịch vụ ngân hàng quốc tế – giải pháp hoàn thiện và phát triển trong hệ thống các ngân hàng thương mại quốc doanh Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g điều kiện hội nhập kinh tế như như hiện nay, xét tình hình kinh tế xã hội của Việt Nam và nếu đặt các ngân hàng thương mại quốc doanh Việt Nam trong một điều kiện cạnh tranh tự do thì ta có thể thấy rằng môi trường vĩ mô của Việt Nam còn rất nhiều điều phải làm. Việc đầu tiên là chúng ta phải quan tâm thích đáng đến việc hoàn thiện môi trường pháp lý. Đơn giản chúng ta xem xét hiệp định thương mại Việt-Mỹ phần về lĩnh vực tài chính ngân hàng thì thấy hàng loạt khái niệm, nội dung mới đòi hỏi phải tiếp cận, hiểu thấu đáo và xây dựng cơ sở pháp lý khi triển khai. Các dịch vụ ngân hàng sẽ được cung cấp qua các hình thức như: cung cấp qua biên giới, sử dụng ở nước ngoài, hiện diện thương mại, hiện diện thể nhân. Những cam kết về cấp giấy phép hoạt động, các nghiệp vụ về tài chính ngân hàng; việc phân biệt, hiểu biết về phạm vi hoạt động của các tổ chức tài chính, tín dụng là ngân hàng hay phi ngân hàng ở các nước cũng là không hoàn toàn giống nhau. Hoặc việc mở tài khoản, cho vay, các thể thức thanh toán, việc lắp đặt máy ATM cũng phải được xác định rõ. Chẳng hạn quan niệm về máy rút tiền tự động và máy ATM ở Việt Nam không ít người còn nhầm lẫn cho rằng đều giống nhau. Trên thực tế máy ATM hoạt động như một ngân hàng: vừa cho gửi tiền, rút tiền, vừa hoạt động cho vay, thu nợ…..Nói chung, có rất nhiều vấn đề mới trong hoạt động ngân hàng nhưng cái khó đối với chúng ta là chúng ta chưa có, chưa hoạt động, chưa được kiểm nghiệm trong thực tế. Tuy nhiên, không được phép chần chừ, chờ đợi, cầu toàn mà phải chủ động hội nhập qua đó tự tìm hiểu, học hỏi bằng nhiều con đường nhưng kiên quyết rà 144 soát loại bỏ những cái gì không còn phù hợp, có lịch trình cụ thể chặt chẽ để xây dựng và hoàn thiện môi trường pháp lý. Hiện nay, văn bản pháp qui cao nhất điều chỉnh hoạt động của các ngân hàng, tổ chức tín dụng là luật ngân hàng nhà nước và luật các tổ chức tín dụng. Hai văn bản này ra đời không lâu nhưng đã gây nhiều tranh cãi về tính hoàn thiện của chúng. 1.2. Một số kiến nghị hoàn thiện môi trường pháp lý Hoàn thiện những bất cập còn tồn tại trong hệ thống pháp lý Khi nói đến hệ thống luật pháp Việt Nam hiện nay thì còn nhiều điều bất cập. Để minh chứng điều này, chúng ta hãy xem xét một số luật mà theo các chuyên gia thì còn nhiều vướng mắc. Tại điều 50 luật NHNN qui định “Thanh tra ngân hàng là thanh tra chuyên ngành ngân hàng” tuy nhiên tại điều 1 Nghị định số 91/1999/ND-CP lại qui định “Thanh tra ngân hàng là thanh tra Nhà nước chuyên ngành về ngân hàng” do vậy không có sự thống nhất giữa hai luật Giữa luật các TCTD, luật NHNN và luật doanh nghiệp cũng có nhiều mâu thuẫn. Ví dụ như về khái niệm “vốn pháp định” theo qui định tại điều 3, Luật Doanh nghiệp là mức vốn tối thiểu phải có theo qui định của pháp luật để thành lập doanh nghiệp. Trong khi đó tại khoản 4, điều 1 và điều 43 luật NHNN có đề cập tới vốn pháp định của NHNN được thủ tướng chính phủ qui định. Như vậy, rất dễ hiểu sai về chức năng quản lý nhà nước với chức năng kinh doanh ( đã được tách ra khỏi NHNN ) như đối với một doanh nghiệp kinh doanh thuần tuý Trong pháp lệnh về thương phiếu nước ta còn thiếu tính hội nhập. Theo qui định trong pháp lệnh, việc chuyển nhượng thương phiếu chỉ được thực hiện dưới hình thức đầy đủ, không cho phép chuyển nhượng dưới hình thức ký hậu. Trong đó, việc ký hậu chuyển nhượng là hình thức phổ biến trong hoạt động thanh toán quốc tế có sử dụng thương phiếu. Sự khác biệt này tỏ ra không thích hợp trong điều kiện nước ta đang từng bước hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới 145 Hệ thống pháp luật Việt nam còn nhiều bất cập, nhưng do hạn chế về khả năng cũng như yêu cầu của đề tài, khoá luận này chỉ nêu ra một ít để minh chứng cho nhận định của mình. Việc làm cần thiết là song song với việc áp dụng luật trong cuộc sống, chúng ta cần tìm hiểu, phát hiện ra những thiếu sót, chồng chéo của các luật để từ đó sửa đổi kịp thời tạo nên một môi trường pháp lý vững mạnh. Tích cực rà soát, chỉnh sửa và xây dựng mới cơ chế - Chỉnh sửa Luật NHNN, Luật các TCTD và các văn bản dưới luật có liên quan đến nội dung, phạm vi, cấp phép hoạt động, quyền hạn và trách nhiệm của các ngân hàng nước ngoài; biểu hiện trên các mặt như vốn tự có ban đầu khi cấp phép hoạt động; mức độ được huy động vốn bằng tiền Việt nam; trách nhiệm cung cấp thông tin, báo cáo; việc chấp hành kiểm tra giám sát của các cơ quan chức năng, trong đó có NHNN; Việc tham gia bảo mật, chia sẻ rủi ro….trong hoạt động ngân hàng nói chung. - Xây dựng, hoàn thiện các cơ chế về thương mại điện tử, thanh toán điện tử trong phạm vi nền kinh tế nói chung và ngân hàng nói riêng. - Xây dựng và sớm đưa các công cụ giấy tờ có giá vào thương trường hoạt động, cơ chế tổ chức thanh toán bù trừ các tài sản chính ( giấy tờ có giá ) trong phạm vi toàn quốc cũng như giữa các tổ chức tài chính tiền tệ để các ngân hàng có điều kiện thực nghiệm cơ chế mới, chuẩn bị tốt cho hội nhập quốc tế - Mạnh dạn và kiên quyết xây dựng cơ chế mở rộng quyền và tự chịu trách nhiệm của các NHTM quốc doanh và triển khai thực tế để có điều kiện cọ sát trưởng thành - Ngoài ra, các văn bản, luật pháp có liên quan khác như Luật đầu tư, Luật phá sản, Luật đất đai, ….cũng cần được hoàn thiện cho phù hợp với yêu cầu mới. 146 Tổ chức triển khai, thực hiện công tác pháp luật hiệu quả Cần tổ chức thành các bộ phận chuyên trách trong từng lĩnh vực, từng loại hình công việc theo trương trình thực hiện để rà soát, soạn thảo cơ chế, tổ chức hội thảo lấy ý kiến, nghiệm thu đưa vào thực nghiệm; từ triển khai điểm đến mở rộng dần, nhất là đối với những vấn đề còn mới mẻ với Việt nam 2. Nhà nước và ngân hàng cùng đề ra những kế hoạch khả thi đưa lĩnh vực tài chính ngân hàng tiến ra thế giới Nhân dân ta có câu “Một người hay lo bằng cả kho người hay làm”. Thực tế cho thấy, ta có đức tính tốt là chăm chỉ, cần cù nhưng lại chưa chứng minh được là người nhìn xa trông rộng. Rất nhiều những tồn tại về kinh tế, xã hội hiện nay là do khi xưa không tính đến sự phát triển của ngày hôm nay. Chính vì vậy chúng ta cần có một kế hoạch phát triển lâu dài. Xây dựng trung tâm tài chính quốc tế tại Việt Nam Điều này xem chừng có vẻ viển vông đối với một nước đang phát triển như Việt Nam, tuy nhiên có không ít học giả trong và ngoài nước cho rằng điều này có thể. Hiện nay với số dân gần 80 triệu người, Việt Nam đứng thứ 12 trong số các nước đông dân nhất thế giới; Việt Nam có nguồn nhân lực cần cù và được đào tạo tốt; Việt Nam có nền chính trị vững mạnh và ổn định; Việt Nam lại nằm trung tâm của vùng kinh tế năng động nhất thế giới và rất gần các trung tâm kinh tế và tài chính quốc tế như Tokyo, Hongkong, Singapore.... Với tiềm năng đã có Việt Nam xứng đáng có vị trí lớn hơn trong bản đồ kinh tế và tài chính quốc tế. Thành phố Hồ Chí Minh, mà xưa kia vốn là “Hòn ngọc Viễn Đông” đang có những dấu hiệu lấy lại vị trí đã mất. Tính đến năm 2000 thành phố Hồ Chí Minh có 30 đơn vị và chi nhánh của các ngân hàng thương mại quốc doanh, 23 đơn vị và chi nhánh của các ngân hàng thương mại cổ phần, 4 ngân hàng liên doanh với nước ngoài, 30 chi nhánh ngân hàng 100% vốn nước ngoài, 2 công ty tài chính liên doanh với nước ngoài, 3 công ty tài chính cổ phần và nhiều công ty bảo hiểm trong ngoài nước. Tháng 7 năm 2000, tại thành phố Hồ Chí Minh đã khai trương trung 147 tâm giao dịch chứng khoán với sự ra đời hàng loạt công ty chứng khoán. Tuy nhiên để thành phố Hồ Chí Minh trở thành trung tâm tài chính quốc tế khu vực chúng ta cần phải từng bước thực hiện một số chính sách sau: - Về mặt luật pháp từng bước xoá bỏ sự phân cách giữa thị trường tài chính quốc tế và thị trường tài chính trong nước; - Phát triển thị trường ngoại tệ; - Tiếp tục phát triển mạnh mẽ thị trường tài chính phi ngân hàng; - Thi hành chính sách giảm, miễn thuế đối với các ngân hàng trong nước và quốc tế ; - Phát triển cơ sở hạ tầng tại thành phố Hồ Chí Minh. Khi thành phố Hồ Chí Minh trở thành trung tâm tài chính quốc tế của khu vực, nơi đây sẽ trở thành môi trường lý tưởng để các ngân hàng thương mại quốc doanh tiếp cận, giao dịch với khách hàng quốc tế và dần dần vươn lên trở thành các ngân hàng thương mại quốc tế. Kế hoạch phát triển ra ngoài biên giới quốc gia Các ngân hàng thương mại quốc doanh cần có kế hoạch phát triển ra ngoài biên giới quốc gia. Đây là điều tất yếu trong quá trình phát triển một ngân hàng hiện đại. Tuy nhiên trong bối cảnh kinh tế của ta hiện nay đặt ra cho các ngân hàng nhiều mối quan tâm: liệu con đường đi, mô hình kinh tế như thế nào, thì phù hợp. Điều đầu tiên, nhà nước cần đề ra cơ sở pháp lý cho các hoạt động đầu tư hoặc cung cấp dịch vụ của ngân hàng ra nước ngoài. Mục đích là làm cho các ngân hàng nói riêng và các định chế tài chính nói chung có thể tiếp cận tới các thị trường khu vực và thế giới có hiệu quả. Thứ hai là các ngân hàng cần quan tâm đến các mô hình kinh tế. Nước ta với chủ trương mở cửa hội nhập với nền kinh tế thế giới, việc xây dựng các ngân hàng thương mại quốc doanh thành các ngân hàng mạnh có khả năng hoạt động trên phạm vi khu vực và toàn cầu đã trở thành yêu cầu thực tiễn, tuy nhiên xây dựng các ngân hàng thương mại quốc doanh thành các ngân 148 hàng quốc tế theo mô hình nào, bước đi như thế nào là vấn đề chúng ta cần nghiên cứu thử nghiệm, rút kinh nghiệm và hoàn thiện dần. Khác với các ngân hàng quốc tế của các nước phát triển mục tiêu tìm kiếm thị trường ở bên ngoài lãnh thổ quốc gia là nhằm chuyển vốn dư thừa tại chính quốc sang các nước kém phát triển hơn để nhằm mục tiêu cuối cùng là tối đa hoá lợi nhuận. Mục tiêu trước hết của các ngân hàng quốc doanh Việt nam phát triển ra ngoài phạm vi quốc gia phải đóng vai trò trung gian chuyển vốn từ các trung tâm tài chính về trong nước nhằm góp phần công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Khi chúng ta phát triển ra ngoài một cách quá vội vàng, với trình độ của một người có thể nói là “học nghề” như chúng ta, thất bại nặng nề là cái có thể thấy được. Chính vì vậy, chiến lược đề ra là chắc chắn, vừa làm vừa học hỏi, đúc rút kinh nghiệm của những nước đi trước từ đó đề ra sách lược đúng đắn cho mình Thứ ba là các ngân hàng đưa ra kế hoạch phát triển trở thành Ngân hàng quốc tế của riêng mình. Trong dự thảo chiến lược đến năm 2010 của một số Ngân hàng thương mại quốc doanh có ghi phấn đấu đến năm 2010 ngân hàng sẽ trở thành một ngân hàng quốc tế trong khu vực. Mục tiêu là như vậy, nhưng điều quan trọng là các ngân hàng thương mại quốc doanh Việt nam phải có những bước đi thích hợp, chuẩn bị các tiền đề cần thiết để đạt được mục tiêu đã đề ra. Thời gian để các ngân hàng thương mại quốc doanh Việt Nam chuẩn bị các điều kiện để hội nhập với cộng đồng tài chính trong khu vực và toàn cầu không còn nhiều nữa. Phù hợp theo những mốc thời gian mà chúng ta cam kết với các tổ chức như: AFTA, APEX và WTO, các Ngân hàng thương mại quốc doanh cần đặt ra các lịch trình phát triển ra bên ngoài như sau: - Ngân sách hàng năm để trả cho ngân hàng - Sử dụng nguồn vốn của quỹ dự phòng rủi ro để tiến hành xử lý bớt nợ xấu, làm trong sạch bảng tổng kết tài sản 149 - Đưa ra các kế hoach tốt để tổ chức việc khai thác tài sản thế chấp, tài sản cầm cố…..như tổ chức cho thuê, bán, khoán sử dụng… - Tăng cường làm tốt qui trình thẩm định, xét duyệt cho vay một cách cẩn trọng dựa trên cơ sở tính khả thi của dự án, của phương án kinh doanh Bên cạnh việc tích cực xử lý nợ xấu, các ngân hàng cũng phải đề ra những chiến lược tăng cường sức mạnh tài chính. Chỉ khi qui mô vốn của ngân hàng lớn mới có thể phát triển dịch vụ ngân hàng quốc tế. Nguồn vốn có thể tăng thêm từ việc trình xin Chính phủ (Một khoản khá lớn và rất quan trọng nếu xin được). Trong khi chờ đợi, ngân hàng cần tích cực mở rộng nguồn thu, tăng lợi nhuận thậm chí có thể đi vay nếu cảm thấy cần thiết. Cơ cấu lại tổ chức hệ thống – mở rộng mạng lưới Cùng với các giải pháp cải thiện tình hình tài chính, các ngân hàng cần xây dựng và mở rộng mạng lưới hoạt động cả ở trong nước cũng như ngoài nước, tạo điều kiện đưa dịch vụ ngân hàng đến gần với khách hàng. Về cơ bản, ở trong nước các ngân hàng thương mại quốc doanh đã có mạng lưới rộng khắp cả nước nhưng so với yêu cầu ngày càng cao của đời sống kinh tế đã phát triển như vũ bão cũng như yêu cầu của hội nhập kinh tế thì chưa đáp ứng được, đặc biệt là mạng lưới ở nước ngoài. Tái cơ cấu tổ chức theo đối tượng khách hàng kết hợp với sản phẩm. Điều quan trọng là các ngân hàng thương mại cần có một mô hình tổ chức khoa học, hoạt động có hiệu quả, hướng tới chiến lược phát triển thành ngân hàng đa năng. Cơ cấu tổ chức phòng ban hiện nay tỏ ra lỗi thời không đáp ứng được đòi hỏi này. Mô hình đối tượng khách hàng kết hợp với sản phẩm (mà đang được Vietcombank thử nghiệm) tỏ ra đáp ứng được đòi hỏi của môi trường kinh tế mới. Theo mô hình này, cấu trúc phòng ban được phân theo 4 khối cơ bản : Khối bán lẻ (retail banking - Từ nay đến năm 2005, các ngân hàng thương mại quốc doanh cải tổ mạnh mẽ về cơ cấu , tổ chức và hoạt động để trở thành các doanh nghiệp vững mạnh tại thị trường trong nước đồng thời 150 cử cán bộ nghiên cứu, khảo sát thị trường nước ngoài đặc biệt là khảo sát cơ hội kinh doanh tại Singapore và Hongkong ; - Sau năm 2005 sẽ mở chi nhánh hoặc công ty con ở Singapore hoặc Hongkong và các nước trong khu vực và trở thành ngân hàng quốc tế khu vực; - Sau năm 2010 sẽ mở chi nhánh hoặc công ty con tại thị trường London hoặc New York và trở thành Ngân hàng quốc tế toàn cầu. 3.Từng ngân hàng phải đưa ra và thực hiện tốt đề án tái cơ cấu của mình Xét về mặt cơ chế hoạt động thì các ngân hàng TMQD Việt nam đều không hiệu quả. Muốn nâng cao được chất lượng dịch vụ nói chung và dịch vụ ngân hàng quốc tế nói riêng, thì mỗi ngân hàng phải tiến hành tái cơ cấu lại. Muốn vậy thì đề án tái cơ cấu phải khoa học, có tính khả thi và đạt hiệu quả cao khi thực hiện và hơn nữa phải được chinh phủ phê duyệt. Mục tiêu quan trọng hàng đầu là cơ cấu lại tình hình tài chính. Một trong những vấn đề nhức nhối nhất đối với các ngân hàng TMQD Việt nam hiện nay là vấn đề nợ xấu. Để xử lý nợ xấu, mỗi ngân hàng cần xây dựng đề án xử lý nợ tồn đọng Nợ của Ngân sách nhà nước có thể yêu cầu Bộ Tài chính đưa vào kế hoạch chi Ngân hàng); Khối phục vụ doanh nghiệp (corperate banking); Khối định chế tài chính (financial institution) và Khối quản lý vốn (treasury). Khách hàng thuộc đối tượng phục vụ của khối nào sẽ được cung cấp các dịch vụ ngân hàng đặc thù phù hợp với họ thông qua một đầu mối duy nhất, Hỗ trợ cho hoạt động của các bộ phận trên là Khối hỗ trợ bao gồm các phòng, bộ phận hậu cần/hành chính/tham mưu với nhiệm vụ đảm bảo cho các khối kinh doanh vận động thông suốt. Với việc thực hiện tốt tổ chức hoạt động của ngân hàng, tiến tới hình thanh văn hoá kinh doanh/quản lý rõ ràng. Nâng cao hiệu quả quản lý và tăng cường kỹ năng quản trị rủi ro. Cách tốt nhất để nâng cao hiệu lực quản trị của Ban lãnh đạo đó là tiếp cận và vận dụng tốt mô hình quản lý ngân hàng hiện đại. Để làm được như 151 vậy, các ngân hàng cần lập ra Uỷ ban quản lý rủi ro và hội đồng quản lý tài sản nợ, tài sản có. Để có được lý luận tốt nhất về quản trị ngân hàng, các ngân hàng nên nhờ các nhà tư vấn quốc tế, Ngân hàng Thế giới trợ giúp hoàn thành cuốn Cẩm nang quản trị rủi ro ngân hàng của riêng mình Tăng cường tính minh bạch, nâng cao năng lực kiểm tra/kiểm toán nội bộ, đảm bảo an toàn và hiệu quả trong hoạt động kinh doanh Muốn có được sự phát triển mọi mặt của ngân hàng , Bộ phận kiểm tra/kiểm toán nội bộ phải được kiện toàn và chú trọng phát triển một cách tương ứng nhằm đảm bảo tính tuân thủ đối với yêu cầu của Ngân hàng Nhà nước và các điều kiện pháp lý khác. Hoạt động kiểm toán nội bộ của NHTMQD hiện nay bộc lộ nhiều điểm bất hợp lý, dẫn đến làm giảm hiệu quả kiểm toán nội bộ. Muốn vậy các NHTMQD cần: - Nghiên cứu để áp dụng các chuẩn mực và phương pháp kế toán hiện đại theo tiêu chuẩn quốc tế vào hoạt động kiểm toán của ngân hàng mình. Muốn vậy các ngân hàng nên nhờ sự trợ giúp của các tổ chức quốc tế, tích cực mở các cuộc hội thảo để cuối cùng có thể xây dựng được một Cẩm nang về kiểm tra/kiểm toán nội bộ hoàn thiện nhất có thể - Đầu tư đúng mức vào việc phát triển đội ngũ nhân viên kiểm toán nội bộ, có thể gửi đi đào tạo ở nước ngoài những nhân viên cũ có năng lực, tuyển nhân viên mới là các sinh viên xuất sắc, sa thải những nhân viên đã vi phạm, biển thủ hoặc có năng lực kém. Ngoài ra các ngân hàng cần chú trọng tới đầu tư vào phương tiện hiện đại phục vụ tốt cho công tác kiểm toán. Một điều rất quan trọng đó là các lãnh đạo ngân hàng cần phải đưa ra các mục tiêu, định hướng chiến lược cho công tác kiểm toán nội bộ của ngân hàng mình; nên chú trọng vào việc xem xét đánh giá, phát hiện và đề xuất các phương án để phòng ngừa các rủi ro tiềm ẩn Tiếp tục đổi mới công nghệ, đưa nhiều tiện ích ngân hàng mới vào phục vụ khách hàng 152 Nền kinh tế đất nước nói chung và ngân hàng nói riêng đang trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới do đó vấn đề phát triển công nghệ mang tính sống còn. Với tình hình công nghệ ngân hàng hiện nay, chúng ta còn quá lạc hậu so với khu vực, chưa đáp ứng được đòi hỏi của hội nhập. Để chủ động hội nhập, các ngân hàng cần mở rộng đầu tư nâng cấp hệ thống tin học, tổ chức nối mạng trực tuyến giữa các chi nhánh với Hội Sở chính. Tăng cường đầu tư, ứng dụng các công nghệ tiên tiến như ngân hàng điện tử, máy ATM, hệ thống quản lý thông tin MIS, máy móc chuyên dụng phục vụ cho kinh doanh tiền tệ, chứng khoán… Tăng cường bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ cán bộ Nhân tố quyết định cho thành công luôn là nhân tố con người. Việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ phải được coi là nền tảng của sự phát triển. Các ngân hàng nên thường xuyên: - Tổ chức nhiều lớp đào tạo, đào tạo lại cán bộ thông qua các hội nghị chuyên đề, lớp tập huấn trong nước và các khoá học ngắn, dài ngày ở nước ngoài. Đặc biệt các ngân hàng nên phối hợp với các ngân hàng nổi tiếng nước ngoài như Citibank hay tổ chức quốc tế như World bank tổ chức nhiều hội thảo chuyên đề - Tổ chức kiểm tra, sát hạch đánh giá trình độ của cán bộ tre để có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cho nhu cầu trước mắt cũng như dài lâu. Chú trọng nâng cao trình độ ngoại ngữ, tin học của cán bộ. - Tổ chức thi tuyển nhân viên một cách nghiêm minh để có thể tuyển chọn những người xứng đáng, đủ năng lực phẩm chất. 4. Các ngân hàng thương mại quốc doanh cần biết cách lựa chọn thị trưụứng mục tiêu và xây dựng chiến lược marketing Trong kinh doanh hiện đại, việc thành công hay thất bại phụ thuộc rất nhiều vào công tác marketing. Nhìn chung ở Việt nam, các doanh nghiệp chưa hiểu rõ hết được vai trò to lớn của marketing. Vấn đề đặt ra ở đây là khi phát triển dịch vụ ngân hàng quốc tế, các ngân hàng thương mại phải lựa chọn 153 cho mình được thị trường mục tiêu tốt nhất để ngân hàng tập trung nguồn lực của mình đúng thị trường, qua đó khai thác hiệu quả nguồn lực hiện có. Sau đây là ứng dụng của marketing trong ngân hàng. Bước 1: Đánh giá các đoạn thị trường Mục đích của đánh giá là xác định mức độ hấp dẫn của từng đoạn thị trường trong việc thực hiện các mục tiêu của ngân hàng. Khi đánh giá các đoạn thị trường các ngân hàng thường phải Đánh giá qui mô và sự tăng trưởng của đoạn thị trường ( được coi là hiệu quả khi qui mô của nó phaỉ đủ lớn để thực hiện bù đắp chi phí không chỉ ở hiện tại mà cả trong tương lai ). Để thực hiện công việc này các ngân hàng thường thu thập thông tin về doanh số cho vay, doanh số huy động vốn, các yếu tố tác động đến nhu cầu dịch vụ ngân hàng. Phân tích tính hấp dẫn của từng đoạn thị trường. Một đoạn thị trường được coi là không hấp dẫn nếu ở đó có sự cạnh tranh gay gắt và ngân hàng phaỉ đối mặt với nhiều thách thức như: thách thức từ sự gia nhập hay rút lui của các NHTM, TCTD khác; Thách thức do việc xuất hiện nhiều dịch vụ ngân hàng mới; thách thức từ phía khách hàng ( khách hàng có quyền đòi hỏi về giá, chất lượng dịch vụ, ngân hàng cung cấp… ) Phù hợp với các mục tiêu và khả năng của ngân hàng. Một đoạn thị trường hấp dẫn nhưng vẫn có thể bị loại bỏ nếu chúng không phù hợp với mục tiêu và khả năng của ngân hàng. Bước 2: Lựa chọn thị trường mục tiêu Tức là lựa chọn đoạn thị trường bao gồm những khách hàng có nhu dịch vụ ngân hàng lớn nhất mà ngân hàng có khả năng đáp ứng tốt hơn đối thủ cạnh tranh và đạt được mục tiêu đề ra.. Mô hình thường dùng là mô hình SWOT Các yếu tố nội lực Điểm mạnh Điểm yếu ngân hàng Sự phù hợp Chuyển đổi 154 Các yếu tố bên ngoài Cơ hội Thách thức ngân hàng Nội dung của SWOT là phân tích đánh giá từng đoạn thị trường theo bốn nhóm: điểm yếu; cơ hội; thách thức - Điểm mạnh: của ngân hàng được xem như bất cứ kỹ năng đặc biệt nào đó hay khả năng cạnh tranh của một ngân hàng có tác dụng giúp ngân hàng đạt được mục tiêu đề ra một cách nhanh chóng. Những điểm mạnh thường là kỹ năng đặc biệt trong phát triển dịch vụ ngân hàng, kinh nghiệm tổ chức quản lý, trình độ cán bộ nhân viên, hình ảnh văn hoá kinh doanh… - Điểm yếu: được hiểu một cách đơn giản là những hạn chế trong tổ chức hoạt động, thiếu kinh nghiệm…. - Cơ hội: những yếu tố của môi trường bên ngoài tạo ra các điều kiện mang lại lợi thế cho ngân hàng - Thách thức: là bất cứ thay đổi nào đó của môi trường kinh doanh gây cản trở trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng Trên thực tế, có những thay đổi vừa là cơ hội vừa là thách thức đối với hoạt động ngân hàng hoặc là cơ hội với ngân hàng này lại là thách thức với ngân hàng khác, do đó các ngân hàng cần phải thường xuyên phân tích, đánh giá toàn diện kỹ lưỡng chủ động đưa ra các biện pháp phù hợp. Bước 3: Đưa ra phương án lựa chọn thị trường mục tiêu thích hợp Dựa trên mô hình phân tích SWOT, lãnh đạo ngân hàng đưa ra quyết định lựa chọn thị trường mục tiêu theo các phương án: Tập trung vào một đoạn thị trường duy nhất Chuyên môn hoá theo tuyển chọn Chuyên môn hóa theo khách hàng Bao phủ toàn bộ thị trường Chuyên môn hoá theo sản phẩm dịch vụ Bước 4: Lựa chọn chiến lược Marketing phù hợp Chuyển đổi 155 Căn cứ vào tính hấp dẫn của đoạn thị trường, khả năng tăng trưởng, lợi nhuận kỳ vọng, nguồn lực của ngân hàng, đặc điểm nguồn lực của ngân hàng nói chung, chiến lược Marketing của đối thủ, lãnh đạo ngân hàng đưa ra chiến lược Marketing phù hợp với từng đoạn thị trường vào từng thời điểm nhất định. Dựa trên phân tích mô hình SWOT, ta có thể thấy các NHTMQD trước mắt cần tập trung vào thị trường ASEAN, với những lý do sau: - Tại hôi nghị thượng đỉnh ASEAN 6 diễn ra tại Hà Nội cuối năm 1998, các nhà lãnh đạo ASEAN đã thông qua văn kiện hành động Hà Nội gồm 10 chủ đề hợp tác được thực hiện trong 6 năm từ 1999-2004. Liên quan đến lĩnh vực ngân hàng, chương trình hành động đề ra các nhiệm vụ, đề án nghiên cứu cụ thể bao gồm : Nghiên cứu về sử dụng đồng tiền ASEAN, thiết lập có trình tự quá trình tự do hoá tài khoản vốn, hệ thống tiền tệ và tỉ giá hối đoái ASEAN, nghiên cứu giảm thiểu tác động của nguồn vốn ngắn hạn, tiêu chuẩn về công khai tài chính….Điều này đem lại cơ hội to lớn hơn bao giờ hết đối với các ngân hàng thương mại quốc doanh Việt nam trong quá trình hướng hoạt động kinh doanh ra ngoài biên giới - Cùng với các cam kết trong lĩnh vực tài chính, các nước trong ASEAN đang cùng nhau nỗ lực hướng tới hình thành Khu vực mậu dịch tự do ASEAN, theo nguyên lý “theo chân khách hàng” các NHTMQD cần nhanh chóng ngay từ bây giờ đẩy xúc tiến việc kinh doanh tại thị trường ASEAN - Việc hợp tác ngân hàng trong ASEAN đang được thực hiện mạnh mẽ hơn bao giờ hết, một diễn đàn độc lập cho các NHTW ở cấp phó thống đốc , một cơ chế giám sát ASEAN với mục tiêu đưa ra một hệ thống cảnh báo sớm nhằm tăng cường sự ổn định về kinh tế vĩ mô và hệ thống tài chính đã được thiết lập. Ngoài ra còn rất nhiều chương trình hợp tác khác trong lĩnh vực tài chính nhằm tiến tới hội nhập về tiền tệ và cuối cùng là một đồng tiền chung. - Hiệp định khung về dịch vụ trong ASEAN sẽ làm giảm bớt các hạn chế đối với dịch vụ tài chính, mở rộng mức độ tự do hoá cả về chiều rộng lẫn 156 chiều sâu vượt ra ngoài những cam kết đã được đưa ra trong WTO, tiến tới tự do hoá hoàn toàn vào năm 2020. Hiện tại, NHNN Việt nam đã đưa ra cam kết về dịch vụ ngân hàng trên cơ sở pháp lý hiện hành với 5 nghiệp vụ ngân hàng: nhận tiền gửi, cho vay, cho thuê tài chính và thanh toán chuyển tiền, bảo lãnh ngân hàng. - ASEAN cũng là một trung tâm tài chính của thế giới, cho nên những thách thức do các đối thủ cạnh tranh từ khắp trên thế giới hoạt động ở đây đem lại là không nhỏ. Tuy nhiên, chính đây lại đem lại cơ hội cho các NHTMQD Việt nam lấy làm bàn đạp tiến ra các thị trường khác. Mặt khác, vấn đề không phải là thách thức mà là tương quan giữa thách thức và cơ hội - Xét về mặt sức mạnh và điểm yếu, thì rõ ràng các NHTMQD Việt nam điểm yếu nhiều hơn điểm mạnh, chính vì vậy phải lựa chọn thị trường không quá sức mình nhiều mà lại có tiềm năng tăng trưởng trong tương lai. Thị trường ASEAN tỏ ra là phù hợp nhất. 5. Đa dạng hoá dịch vụ ngân hàng thương mại quốc tế. Đối với ngân hàng thương mại, đa dạng hoá nghiệp vụ là việc ngân hàng thực hiện kinh doanh nhiều nghiệp vụ khác nhau, tạo ra sự phong phú, đa dạng trong toàn bộ các dịch vụ tài chính, mà ngân hàng có thể cung cấp cho tất cả các khách hàng. Đồng thời, đa dạng hoá nghiệp vụ không chỉ hạn chế ở việc mở rộng các loại hình nghiệp vụ; mà còn bao hàm cả mở rộng, phát triển nghiệp vụ về phạm vi, qui mô, hình thức thực hiện. Sở dĩ ngân hàng cần phải đa dạng hoá dịch vụ ngân hàng quốc tế vì: - Đa dạng hoá giúp NHTM phân tán và giảm rủi ro. Nếu chỉ chú trọng đầu tư vào một số ít nghiệp vụ thì khi rủi ro xảy ra, ngân hàng chịu thiệt hại nặng nề. Khi tiến hành kinh doanh nhiều dịch vụ, rủi ro có thể được phân tán, giữ được sự ổn định của ngân hàng. Lợi nhuận thu được từ các nghiệp vụ khác nhau, bổ sung cho nhau khi thị trường biến động. Châm ngôn của các ngân hàng ngày nay là: “Đừng bỏ tất cả trứng vào cùng một giỏ”. 157 - Đa dạng hoá nghiệp vụ sẽ làm tăng lợi nhuận của NHTM. Khi thực hiện đa dạng hoá nghiệp vụ, NHTM sẽ mở rộng thị trường và khách hàng, tạo khả năng tăng doanh thu và lợi nhuận. Với nhiều loại hình nghiệp vụ khác nhau, NHTM có thể khai thác những khoảng trống trên thị trường, dẫn tới tăng thị phần. Mặt khác đa dạng hoá sẽ giúp ngân hàng sử dụng được triệt để, có hiệu quả nguồn vốn, cơ sở vật chất kỹ thuật và đội ngũ cán bộ; do vậy, giảm chi phí quản lý, chi phí hoạt động, tăng lợi nhuận - Đa dạng hoá dịch vụ sẽ thúc đẩy các dịch vụ khác cùng phát triển. Ví dụ khi tiền gửi ngoại tệ phát triển, ngân hàng có nhiều ngoại tệ để thực hiện các nghiệp vụ khác như kinh doanh ngoại tệ, thanh toán quốc tế…. - Đa dạng hoá nghiệp vụ làm tăng khả năng canh tranh của ngân hàng. Ví dụ có hai ngân hàng cùng kinh doanh thanh toán quốc tế, nhưng một ngân hàng có thêm nghiệp vụ tư vấn thì rõ ràng có tính cạnh tranh cao hơn Rõ ràng dịch vụ ngân hàng quốc tế ở các ngân hàng thương mai quốc doanh Việt nam còn chưa đa dạng và yêu cầu đa dạng hoá nghiệp vụ là rất bức xúc, tuy nhiên vấn đề dặt ra ở đây là đa dạng như thế nào? Bởi vì, đa dạng không có nghĩa là dàn trải đều nguồn nhân lực của ngân hàng vào tất cả các nghiệp vụ, mà phải xác định ưu tiên các nghiệp vụ chiến lược 158 Hướng đa dạng hoá : Trước hết là hoàn thiện và phát triển các hình thức nghiệp vụ hiện có, của từng chi nhánh; đồng thời triển khai thực hiện các nghiệp vụ, dịch vụ mà xã hội cần và ngân hàng có điều kiện thực hiện ngay. Tiếp đến là mở rộng những nghiệp vụ, dịch vụ mang tính định hướng thị trường, sau khi đã đổi mới, cải tiến kỹ thuật công nghệ Chú trọng nguồn lực phát triển các dịch vụ bán lẻ, bởi vì chính những dịch vụ này làm tăng tính cạnh tranh của các ngân hàng, khiến cho ngân hàng thực sự vươn tới từng ngõ ngách của đời sống kinh tế, khi thực hiện không đòi hỏi nhiều nguồn lực Các dịch vụ mới có thể mở ra như là: Thu thập các kiến thức, thông tin về thị trường; Tư vấn cho doanh nghiệp cách thức mở L/C xuất khẩu; Đặt hàng nghiên cứu; Phát triển dịch vụ thẻ thanh toán quốc tế. II. NHỮNG GIẢI PHÁP RIÊNG 1. Hoàn thiện và phát triển nghiệp vụ ngân hàng đại lý Nghiệp vụ ngân hàng đại lý là nghiệp vụ cơ sở của các hoạt động kinh doanh quốc tế của các ngân hàng thương mại quốc doanh. Việc phát triển các mối quan hệ đại lý ở các khu vực trọng điểm trên thế giới phải được coi là bộ phận nằm trong chiến lược tổng thể của ngân hàng. Chính vì tầm quan trọng của ngân hàng đại lý trong việc phát triển dịch vụ ngân hàng quốc tế mà các ngân hàng thương mại cần phải đầu tư thích đáng để phát triển nghiệp vụ này. Sau đây là một số công việc mà các ngân hàng thương mại quốc doanh Việt nam phải làm để phát triển dịch vụ nòng cốt này Đề ra mục tiêu chiến lược phát triển ngân hàng đại lý. Để phát triển nghiệp vụ ngân hàng đại lý có hiệu quả , mỗi ngân hàng thương mại quốc doanh phải dựa vào điều kiện của mình để đề ra mục tiêu chiến lược phát triển mạng lưới các ngân hàng đại lý. Muốn vậy đầu tiên là dựa trên chính sách đối ngoại của Đảng và Chính phủ để lựa chọn các nước và khu vực trọng điểm để phát triển mối quan hệ 159 ngân hàng đại lý. Theo điều kiện hiện nay, như phân tích ở trên, các ngân hàng có thể ưu tiên phát triển màng lưới các ngân hàng đại lý với các nước ASEAN, Mỹ. Trên cơ sở đã chọn được thị trường mục tiêu chiến lược, các ngân hàng phải chọn lọc một số ngân hàng đại lý chủ chốt có tầm quan trọng và mang lại hiệu quả thiết thực cho ngân hàng. Muốn chọn được một ngân hàng đại lý chủ chốt tốt cần phải quan tâm đến những vấn đề sau Chất lượng quản lý ngân hàng: Tức là đánh giá + Năng lực điều hành của Hội đồng quản trị và Ban điều hành; + Uy tín và kết quả hoạt động (vị trí xếp hạng khu vực và trên thế giới); + Mức độ ổn định trong hoạt động Ngân hàng; + Chiến lược phát triển hoạt động của Ngân hàng; + Sự hỗ trợ đối với ngân hàng bạn. Khả năng tài chính của ngân hàng: Khả năng tài chính của ngân hàng là một trong những tiêu thức quan trọng, tuy nhiên không nên chú ý thái quá đến tầm cỡ tài sản có mà điều quan trọng phải chú ý đến chất lượng tài sản có của Ngân hàng; Sản phẩm và dịch vụ của ngân hàng đại lý: Thông thường các ngân hàng không đòi hỏi các ngân hàng đại lý cung ứng toàn bộ các loại sản phẩm và dịch vụ bởi vì nhu cầu về ngân hàng đại lý còn tuỳ thuộc vào sản phẩm chính mà ngân hàng đại lý đang cung ứng cũng như chiến lược kinh doanh của mỗi ngân hàng. Ngoài ra còn phải để ý đến: + Các sai sót của Ngân hàng đại lý trong nghiệp vụ giao dịch ở mức tối thiểu; + Nhanh chóng giải quyết có hiệu quả và hữu nghị các vấn đề khó khăn phát sinh; + Linh hoạt và nhanh chóng đáp ứng các thay đổi theo yêu cầu của các ngân hàng đối tác; 160 + Các nhân viên phụ trách theo dõi tài khoản hoặc quan hệ giao dịch cần phải có đủ kiến thức về dịch vụ ngân hàng; có khả năng cung ứng, duy trì các giao dịch với các ngân hàng đại lý một cách có hiệu quả; + Chính sách giao dịch kinh doanh phải nhất quán nhằm đảm bảo tính liên tục của các dịch vụ cung ứng và quan hệ hợp tác lâu dài; + Mối quan hệ giao dịch đại lý đặt cơ sở trên sự bảo đảm lợi ích lâu dài cho cả hai bên. Điều này đòi hỏi tinh thần hợp tác và hiểu biết của mọi cấp trong ngân hàng; + Có mạng lưới rộng ở trong nước và trên thế giới; + Ngân hàng đại lý có khả năng hỗ trợ trong các lĩnh vực: Cải tiến công nghệ ngân hàng; cung ứng các sản phẩm và dịch vụ ngân hàng mới; đào tạo cán bộ. Để mối quan hệ ngân hàng đại lý phát triển trên cơ sở bền lâu và cùng có lợi cho hai bên, các ngân hàng thương mại quốc doanh phải đáp ứng những đòi hỏi của các ngân hàng đại lý đối tác, phải cung cấp các thông tin về ngân hàng cho đối tác kịp thời, đáp ứng các dịch vụ cho các ngân hàng đối tác một cách chu đáo nhất. Lập hồ sơ theo dõi các ngân hàng đại lý - Mục đích lậphồ sơ theo dõi hoạt động của các ngân hàng đại lý : + Nhằm hiểu rõ hơn về Ngân hàng đại lý; + Cập nhật được hiện trạng và triển vọng quan hệ giao dịch giữa hai bên; + Cung cấp thông tin cho lãnh đạo và các phòng chức năng của Ngân hàng khi làm việc, thảo luận với các ngân hàng đại lý về việc hợp tác hai bên; + Kiểm soát rủi ro trong hoạt động kinh doanh quốc tế. - Nội dung hồ sơ theo dõi Ngân hàng đại lý: + Các số liệu cơ bản về kinh tế - xã hội của nước nơi ngân hàng đại lý đặt trụ sở chính trong đó có thông tin về mối quan hệ chính trị, kinh tế ; + Các số liệu cơ bản về ngân hàng đại lý: 161 + Lịch sử thành lập ngân hàng; + Cơ cấu sở hữu, cơ cấu tổ chức; + Thành tích hoạt động; + Tình hình tài chính; + Các quan hệ giao dịch với ngân hàng. + Nguồn tài liệu về tình hình các ngân hàng đại lý có thể từ các nơi sau:Từ chính các ngân hàng đại lý; mạng tin Reuter, Internet; tạp chí hoặc báo chí ví dụ như tờ: Financial Times, The Asian Wall Street Journall... ; từ các cơ quan đánh giá tín nhiệm ngân hàng như: Standard and Poor, Moody’s... Phối hợp tổ chức tốt công tác thực hiện nghiệp vụ ngân hàng đại lý + Phối hợp tốt giữa bộ phận phòng ban quản lý công tác ngân hàng đại lý với các bộ phận khác, bất kỳ biểu hiện bất thường nào của ngân hàng đại lý đều phải được báo cáo nên bộ phận chuyên trách. + Tăng cường hiệu quả những buổi làm việc với ngân hàng đại lý. Các đại biểu tham dự phải có sự chuẩn bị đầy đủ về tư liệu. + Tăng cường công tác tuyên truyền, thông tin đầy đủ chính xác, kịp thời cho ngân hàng đại lý, thể hiện một thái độ hợp tác thiện chí đôi bên cùng có lợi Xếp hạng ngân hàng đại lý: hầu hết các ngân hàng lớn hàng năm đều tổ chức xếp hạng tín nhiệm các ngân hàng; mỗi ngân hàng xếp hạng các ngân hàng đại lý theo một tiêu thức tùy theo quan điểm đánh giá của mỗi ngân hàng. Đối với các Ngân hàng thương mại quốc doanh Việt nam, việc xếp hạng tín nhiệm các ngân hàng đại lý trước mắt có thể chưa cấp thiết, nhưng sau này khi hoạt động kinh doanh quốc tế phát triển thì cũng phải tiến hành công việc này. 2. Hoàn thiện và phát triển dịch vụ thanh toán thẻ quốc tế Dịch vụ thanh toán thẻ quốc tế mới phát triển ở Việt nam trong những năm gần đây tuy nhiên tỏ ra có tiềm năng to lớn trong tương lai, đóng một vai 162 trò quan trọng trong quá trình đa dạng hoá dịch vụ ngân hàng của các ngân hàng thương mại. Sau đây là một số đề xuất. + Nhà nước cần nhanh chóng nghiên cứu, đưa ra các văn bản pháp lý đầy đủ điều chỉnh hoạt động thanh toán bằng thẻ tạo ra môi trường an toàn trong hoạt động thẻ. Ngân hàng Nhà nước cần theo dõi, đưa ra các chính sách kịp thời ghóp phần tạo điều kiện đưa phương thức thanh toán thẻ ngày một phát triển trong thời gian tới. + Các ngân hàng cần nhanh chóng phát triển mạng lưới đại lý thanh toán thẻ, tăng số lượng máy rút tiền, tăng cường số địa điểm chấp nhận thanh toán thẻ. + Tăng cường các biện pháp ngăn ngừa, hạn chế rủi ro trong thanh toán thẻ. Để hạn chế rủi ro đặc biệt việc sử dụng thẻ gian lận, giả mạo các ngân hàng cần: Trước hết, các ngân hàng kinh doanh thẻ quốc tế cần tuân thủ chặt chẽ các qui định của các tổ chức thẻ quốc tế về việc chấp nhận thanh toán thẻ và các quy định liên quan đến việc quản lý và kiểm soát rủi ro. Thứ hai, các ngân hàng phải đưa ra những dự đoán về xu hướng sử dụng thẻ giả mạo trong thời gian tới và đưa ra phương án tích cực phòng ngừa. Thứ ba, cần sử dụng có hiệu quả các công cụ để kiểm soát rủi ro do các tổ chức thẻ quốc tế cung cấp và hỗ trợ. Thứ tư, các ngân hàng cần chú trọng việc hướng dẫn nghiệp vụ chấp nhận thanh toán thẻ đối với các đơn vị chấp nhận thanh toán thẻ, đặc biệt nhận dạng các trường hợp sử dụng thẻ giả. Thứ năm, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các ngân hàng để kịp thời thông báo cho nhau các trường hợp sử dụng thẻ giả để có biện pháp xử lý thích hợp. 3. Hoàn thiện và phát triển nghiệp vụ thanh toán quốc tế 163 Hoàn thiện quy trình thanh toán thư tín dụng, thực hiện qui trình thanh toán theo ISO 9000 Mô hình quy trình thanh toán thư tín dụng tốt nhất là mô hình chỉ duy nhất Trụ sở chính có quan hệ tài khoản nostro với ngân hàng nước ngoài và tập trung đầu mối quan hệ ngân hàng đại lý tại Trụ sở chính. Mô hình này có ưu điểm là đảm bảo cho Trụ sở chính vừa quản lý vốn tập trung vừa kiểm soát rủi ro trong thanh toán quốc tế trong toàn hệ thống Ngân hàng, đồng thời đảm bảo chủ động của chi nhánh trong hoạt động thanh toán quốc tế. Tuy nhiên mô hình này đòi hỏi trình độ quản lý phải cao; hệ thống chuyển tải thông tin, chứng từ phải hiện đại đảm bảo chuyển thông tin, chứng từ giữa Trụ sở chính và chi nhánh thông suốt, nhanh chóng. Nâng cao chất lượng dịch vụ thanh toán là đòi hòi bắt buộc đối với các NHTMQD Việt nam. Có rất nhiều chính sách được đề ra trong đó có qui trình thanh toán quốc tế theo ISO 9000. Mục đích là để: + Cung cấp các sản phẩm, dịch vụ thanh toán quốc tế thoả mãn các yêu cầu của khách hàng, phù hợp với yêu cầu của pháp luật. + Đảm bảo chất lượng thanh toán nhanh và chính xác. + Nhằm chuẩn hoá các thao tác nghiệp vụ thanh toán quốc tế. Trong đó điều quan trọng là đảm bảo an toàn, chính xác, kịp thời trong hoạt động thanh toán quốc tế. Muốn vậy, ngân hàng có thể áp dụng các biện pháp sau: + Thường xuyên theo dõi diễn biến tình hình kinh tế, chính trị của các quốc gia có quan hệ thương mại với Việt nam, nghiên cứu nắm vững các tập quán của các nước đó. + Điều tra thông qua hệ thống đại lý của ngân hàng để khai thác thông tin mọi mặt về đối tác trong hợp đồng ngoại thương. + Tư vấn cho khách hàng khi ký kết hợp đồng, lựa chọn phương thức và các điều kiện thanh toán có lợi nhất. Trong quá trinh thực hiện hợp đồng 164 yêu cầu khách hàng phải thường xuyên theo dõi việc giao nhận hàng, thông tin về con tàu. + Đào tạo cán bộ thanh toán quốc tế năng nổ, nhiệt tình, giỏi cả về chuyên môn lẫn ngoại ngữ, am hiểu về các lĩnh vực kinh tế, thông hiểu các luật lệ và tập quán quốc tế về ngoại thương và thanh toán quốc tế. Yêu cầu đặt ra đối với cán bộ thanh toán quốc tế là phải có đủ trình độ, ngoài việc hoàn thành nhiệm vụ chuyên môn của mình còn phải có khả năng tư vấn giúp khách hàng ký kết các hợp đồng xuất nhập khẩu, áp dụng phương thức và những điều kiện thanh toán có lợi nhất nhằm tránh được những rủi ro trong quá trình thực hiện hợp đồng kinh tế quốc tế, đồng thời có thể xử lý được những tình huống phát sinh trong quá trình thực hiện hợp đồng và thanh toán, đảm bảo quyền lợi của khách hàng nhưng vẫn giữ được uy tín của Ngân hàng. Phát triển thanh toán điện tử, hiện đại hoá công nghệ thanh toán quốc tế trong các Ngân hàng thương mại quốc doanh. Hiểu theo nghĩa hẹp thì khái niệm thanh toán điện tử được dùng để chỉ việc chuyển tiền dựa trên những mạng bỏ ngỏ mà chủ yếu là mạng Internet. Hiểu theo nghĩa rộng thì thanh toán điện tử bao gồm những thanh toán liên quan đến “mạng cục bộ”, “mạng nội bộ-Intranet”, và “ mạng Internet”. Hiện nay các ngân hàng thương mại quốc doanh mới chỉ dùng các mạng điện tử nội bộ để chuyển tiền trong từng ngân hàng chứ chưa dùng để thanh toán giữa các ngân hàng với nhau. Trong tương lai cùng với sự phát triển của kỹ thuật tin học, việc chuyển tiền qua mạng điện tủ sẽ được an toàn, nghiệp vụ thanh toán điện tử sẽ là một bước đột phá trong nghiệp vụ thanh toán quốc tế. Thời gian qua, các Ngân hàng thương mại quốc doanh Việt nam đã có nhiều cố gắng nhằm hiện đại hoá công nghệ thanh toán quốc tế của mình nhưng khi so sánh với ngân hàng của các nước phát triển thì công nghệ thanh toán quốc tế của các ngân hàng thương mại quốc doanh nước ta còn lạc hậu. Để rút ngắn khoảng cách so về công nghệ thanh toán quốc tế so với ngân 165 hàng các nước, các ngân hàng thương mại quốc doanh cần chú ý đầu tư những mặt sau: - Đầu tư trang bị và nâng cấp kỹ thuật, từng bước tự động hoá các công nghệ ngân hàng, nhất là trong lĩnh vực thanh toán trong hệ thống ngân hàng ( thanh toán liên hàng và thanh toán quốc tế); - Nâng cao hiệu xuất sử dụng mạng Swift; - Hoàn thiện phần mềm thanh toán điện tử nhằm nâng cao chất lượng công tác thanh toán trong nội bộ ngân hàng, triển khai nối mạng giữa ngân hàng và khách hàng; - Hoàn thiện phần mềm thanh toán ngoại tệ và thanh toán quốc tế trong nội bộ ngân hàng nhằm tránh thất lạc thông tin chứng từ qua đường truyền Modem, rút ngắn thời gian luân chuyển chứng từ thanh toán quốc tế trong nội bộ ngân hàng, đảm bảo mức độ tự động hoá, bảo mật cao và tính cập nhật tức thời; - Các ngân hàng kết hợp với Ngân hàng Nhà nước xây dựng mạng thanh toán bù trừ quốc gia; - Hoàn thiện phần mềm tin học trong hạch toán kế toán nhằm hạch toán cập nhật tức thời; - Đảm bảo về lâu dài xây dựng thành công hệ thống thanh toán điện tử tự động trên mạng vi tính cao cấp và thông tin viễn thông; - Làm tốt công tác qui chuẩn hoá chứng từ trong ngân hàng và thanh toán qua ngân hàng theo yêu cầu tự động hóa kế toán, thanh toán. 4. Hoàn thiện và phát triển các hoạt động tài trợ thương mại quốc tế Nâng cao chất lượng công tác phân tích hoạt động kinh doanh của các NHTMQD. Một trong những nguyên nhân dẫn đến tổn thất của ngân hàng trong các hoạt động tài trợ thương mại quốc tế trong thời gian vừa qua là các ngân hàng chưa tổ chức tốt công tác nghiên cứu và phân tích kinh tế cơ bản cũng như thẩm định từng dự án. Xét về mặt lý luận, hoạt động kinh doanh chứa đựng nhiều rủi ro và có sự cạnh tranh quyết liệt, trong khi đó hoạt động 166 tín dụng tài trợ thương mại quốc tế lại chứa đựng nhiều rủi ro nhất. Trong khi đó, hiện nay các ngân hàng Việt nam chưa tiến hành một cách thường xuyên công việc phân tích kinh doanh. Bên cạnh đó mỗi ngân hàng thương mại của ta đều có phương pháp phân tích cùng với một hệ thống chỉ số riêng, tuỳ theo từng quan điểm, tình hình kinh doanh đặc thù Vì coi nhẹ công tác thẩm định dự án, các ngân hàng thương mại quốc doanh đã chịu tổn thất nặng nề trong việc cho vay nhập các thiết bị xi măng lò đứng, mía đường, bia... Để nâng cao chất lượng tài trợ thương mại quốc tế, các ngân hàng thương mại quốc doanh cần phải nâng cao khả năng phân tích kinh doanh của mình nên. Giải pháp đề nghị là: Về mặt tổ chức: Từng ngân hàng thương mại quốc doanh Việt nam nên thành lập phòng chuyên trách thực hiện công tác phân tich, nghiên cứu, thẩm định với đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn cao. Phòng chức năng này phải có vị trí cao trong ngân hàng, nên đặt dưới sự quản lý trực tiếp của hội đồng quản trị để có thể đưa ra những quyết định tài chính đúng đắn. Về mặt kỹ thuật: Các chỉ số phân tích thường rất phức tạp, có ý nghĩa sâu xa không dễ gì nhận ra bản chất vấn đề qua các con số. Bên cạnh đó, việc tính toán không đơn giản, các số liệu đòi hỏi phải được cập nhật thường xuyên, phải được xử lý một cách khoa học. Chính vì vậy ngoài việc đòi hỏi phải có đội ngũ cán bộ có trình độ cao, hiểu biết căn kẽ về các chỉ số, việc ứng dụng tin học trong công tác phân tích là bắt buộc. Xét về quá trình thực hiện: Khi thực hiện thẩm định, nghiên cứu, đánh giá hiệu quả một dự án, cần phải thường xuyên có sự phối hợp với các cơ quan chuyên môn, các chuyên gia từng ngành nghề chuyên sâu để nâng cao chất lượng thẩm định dự án. Đảm bảo tính pháp lý trong quá trình thẩm định dự án; xác định trách nhiệm của cán bộ thẩm định dự án. Để thẩm định dự án có hiệu quả, cán bộ thẩm định cần thiết phải xuống thực địa, phân tích kỹ tình hình tài chính của doanh nghiệp xuất nhập khẩu mà ngân hàng tài trợ. Trong những trường hợp cần thiết, cán bộ thẩm định dự án phải tư vấn cho các 167 doanh nghiệp xuất nhập khẩu về phương án sản xuất kinh doanh, đặt mình vào vị trí của doanh nghiệp xuất nhập khẩu với tư cách là người đi vay để cùng họ phân tích, thẩm định tính khả thi của những dự án đầu tư. Trong việc thẩm định dự án, đặc biệt làm tốt các chỉ tiêu phân tích tài chính của dự án như: mức sinh lời dự án, khả năng hoàn vốn vay, độ an toàn của dự án. Đa dạng hoá các hoạt động tài trợ thương mại quốc tế: Các loại hình tài trợ thương mại quốc tế có những mặt lợi hại khác nhau đối với người nhập khẩu và xuất khẩu. Để chiếm lĩnh thị trường các ngân hàng thương mại quốc doanh phải mở rộng các hình thức tài trợ thương mại quốc tế; giúp cho khách hàng có nhiều cơ hội lựa chọn những loại hình tài trợ phù hợp với đặc thù kinh doanh của mình. Các ngân hàng thương mại quốc doanh có thể áp dụng một số hình thức tài trợ dưới đây : -Phát triển nghiệp vụ chiết khấu, thế chấp bộ chứng từ hàng xuất khẩu; - Cấp tín dụng thương mại ngắn hạn thông qua các ngân hàng nhập khẩu: Ngân hàng thương mại quốc doanh sẽ chọn một số ngân hàng thương mại có uy tín của nước nhập khẩu hàng Việt Nam để ký bản thoả ước ngân hàng, trong đó Ngân hàng thương mại quốc doanh cam kết cấp cho họ một hạn mức tín dụng thương mại ngắn hạn. Dựa trên hạn mức này, các ngân hàng thương mại quốc doanh Việt Nam sẽ tài trợ cho các nhà nhập khẩu từ Việt Nam và các ngân hàng của các Nhà nhập khẩu này nhận nợ trực tiếp với Ngân hàng thương mại quốc doanh Việt Nam; - Tài trợ trực tiếp cho các công ty nhập khẩu hàng hoá của Việt nam thông qua việc chấp nhận chiết khấu hối phiếu cuả nhà xuất khẩu Việt nam trên cơ sở của một L/C trả chậm do ngân hàng của nước nhập khẩu phát hành. Tăng cường tài trợ xuất khẩu – một biện pháp đa dạng hoá quan trọng Như đã trình bày trong chương 2, lĩnh vực doanh nghiệp vừa và nhỏ rất quan trọng trong nền kinh tế, tuy nhiều rủi ro nhưng hứa hẹn đem lại nhiều lợi 168 nhuận. Sau đây là các đề xuất đối với ngân hàng trong việc phát triển hình thức tài trợ này: Đối tượng tài trợ: bao gồm cả bốn lĩnh vực: - Đầu tư nhà xưởng, máy móc thiết bị, đào tạo công nhân, kỹ năng quản lý. - Tài trợ thu mua, chế biến hàng xuất khẩu. - Hỗ trợ phát triển thị trường. - Hỗ trợ khác như đăng ký nhãn hiệu, tư vấn kinh doanh. Phương thức tài trợ + Tín dụng thông thường: Cho vay vốn đầu tư xây dựng mới ban đầu, thu mua …. + Tín dụng thuê mua: giúp các doanh nghiệp khó khăn về tài chính, tài sản thế chấp. Huy động nhiều nguồn vốn: Doanh nghiệp vừa và nhỏ rất được sự quan tâm của nhà nước, do vậy vốn huy động có thể từ : Vốn của các ngân hàng thương mại quốc doanh; Vốn của chính phủ thực hiện qua các ngân hàng thương mại; Vốn tài trợ quốc tế thực hiện qua các ngân hàng thương mại quốc doanh. 5. Hoàn thiện và phát triển nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ Hoạt động kinh doanh ngoại tệ của các ngân hàng thương mại quốc doanh Việt nam còn chưa phát triển nên còn rất nhiều việc phải làm. Chính vì tầm vóc kinh doanh, nhất là việc phát triển kinh doanh trên thị trương quốc tế chưa lớn, nên ngay từ bây giờ các ngân hàng cần phải. Cải tổ bộ phận kinh doanh ngoại tệ sao cho hợp lý. Vấn đề đặt ra đối với việc cải tổ phòng kinh doanh ngoại tệ là phải có tầm nhìn xa trông rộng. Trong một tương lai không xa, mỗi ngân hàng có thể có một trung tâm kinh doanh ngoại tệ riêng có qui mô lớn. Chính vì vậy việc đề ra đường lối hoạt động, chức năng của từng bộ phận, máy móc hoạt động phải có tính nhìn vào 169 tương lai. Nếu không, khi mở rộng hoạt động trong tương lai sẽ mất nhiều thời gian và tiền bạc. Đưa ra được các chính sách phát triển nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ thích hợp. - Chính sách thu nhập đối với cán bộ kinh doanh ngoại tệ: so với các bộ phận khác trong ngân hàng, cán bộ kinh doanh ngoại tệ trên thị trường quốc tế và trong nước đòi hỏi phải được đào tạo cẩn thận, có kỹ năng nghề nghiệp cao, đồng thời có cường độ làm việc lớn. Nếu chính sách tiền lương, thu nhập của cán bộ trong bộ phận này cũng áp dụng chính sách chung như các bộ phận cán bộ khác thì không bao giờ tạo được động lực cho cán bộ kinh doanh ngoại tệ có tâm huyết kinh doanh mang lại nhiều lợi nhuận cho ngân hàng. Bởi vậy chính sách thu nhập đối với bộ phận cán bộ này cần có chính sách thu nhập đặc thù, tiền lương và tiền thưởng của họ phải gắn với kết quả lợi nhuận mà họ thu được trên thị trường . - Hoạt động kinh doanh ngoại tệ chỉ có thể phát triển được nếu bộ phận kinh doanh ngoại tệ có những cán bộ giỏi thường xuyên theo dõi, phân tích các chỉ số kinh tế, tiền tệ trong và ngoài nước. - Hoạt động kinh doanh ngoại tệ trên thị trường quốc tế chỉ có thể phát triển được nếu Ngân hàng có đại diện của mình trên các thị trường tài chính chủ chốt trên thế giới và trong khu vực. Có mục tiêu kinh doanh rõ ràng cho bộ phận kinh doanh quốc tế. Một trong những nhược điểm mà các Ngân hàng thương mại quốc doanh thường mắc phải trong thời gian qua là hoạt động của bộ phận kinh doanh quốc tế. Do định hướng mục tiêu kinh doanh không rõ ràng và do phát triển thiếu quy hoạch đã dẫn tới các phòng trong khối kinh doanh quốc tế một mặt chồng chéo chức năng một mặt lại thiếu chuyên sâu, hỗ trợ, bổ sung lẫn nhau. Phòng quan hệ đại lý hoạt động như văn phòng đối ngoại, chủ yếu phục vụ cho lãnh đạo tiếp khách nước ngoài chứ chưa tập trung phân tích, đánh giá các ngân hàng đại lý, tìm kiếm khách hàng, sản phẩm mới để phục vụ cho các 170 bộ phận kinh doanh quốc tế khác. Phòng Kinh doanh ngoại tệ chưa gắn chặt với phòng quan hệ đại lý để tiếp nhận thông tin, phân tích thị trường, nhận hạn mức kinh doanh từ các ngân hàng đại lý...Để nâng cao tính chuyên sâu và hiệu quả của phòng kinh doanh ngoại tệ, các ngân hàng phải định rõ chức năng, mục tiêu, nhiệm vụ của phòng kinh doanh ngoại tệ.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfDich-vu-NH-quoc-te.pdf
Tài liệu liên quan