Đề tài “Đổi mới hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thương mại trong quá trình hội nhập

Đặt doanh nghiệp thương mại Việt Nam trong bối cảnh hiện nay chúng ta thấy rõ hơn về khả năng hiện có của doanh nghiệp thương mại Việt Nam, cùng những cơ hội và thách thức đối với doanh nghiệp khi nền kinh tế đang trong quá trình hội nhập. Từ đây, chúng ta có thể đưa ra những đổi mới cần thiết và cấp bách trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thương mại, đồng thời, chúng ta cúng đề ra những biện pháp nhằm có được sự đổi mới đó. Và đây cũng chính là nội dung chính của Đề án của em với đề tài “Đổi mới hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thương mại trong quá trình hội nhập”.

doc31 trang | Chia sẻ: ndson | Lượt xem: 1221 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài “Đổi mới hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thương mại trong quá trình hội nhập, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
a cơ chế thị trường đối với các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp thương mại nói riêng. Nhưng vấn đề là làm sao biết được thị trường đang cần cái gì, đang thiếu cái gì, đang thừa cái gì hoặc sẽ thừa, sẽ thiếu cái gì. Như vậy, trước hết, doanh nghiệp thương mại cần tiến hành nghiên cứu thị trường, xác định nhu cầu thị trường về loại hàng hoá mà doanh nghiệp lựa chọn kinh doanh. Mỗi hàng hoá cụ thể có đặc tính cơ, lý, hoá học và trạng thái khác nhau, có nhu cầu tiêu dùng cho các loại đối tượng khác nhau: cho sản xuất hoặc cho tiêu dùng. Doanh nghiệp thương mại phải tiếp cận với thị trường, nghiên cứu xác định được nhu cầu của khách hàng và sự đáp ứng nhu cầu đó hiện nay. Không chỉ vậy doanh nghiệp phải dự báo xu hướng phát triển của nhu cầu, nắm bắt thông tin trên thị trường xác định mặt hàng kinh doanh trong tương lai, có như vậy mới có thể tồn tại lâu dài và chiếm được thị phần lớn trên thị trường. Song song với công tác này, doanh nghiệp thương mại cũng cần phải nghiên cứu và xác định khả năng nguồn hàng, khả năng có thể khai thác, đặt hàng và thu mua để đáp ứng yêu cầu của khách hàng. Nghiên cứu thị trường và nhu cầu của khách hàng là hoạt động diễn ra không chỉ một lần, mà trong quá trình tồn tại, phát triển kinh doanh, doanh nghiệp thương mại luôn phải nghiên cứu nhu cầu của khách hàng để đưa vào kinh doanh những mặt hàng mới, tiên tiến, có nhu cầu trên thị trường. b) Tạo nguồn và mua hàng Hoạt động tạo nguồn và mua hàng là hoạt động cơ bản bắt đầu cho hoạt động lưu thông hàng hoá. Nó cũng là hoạt động đảm bảo doanh nghiệp thương mại có thể cung ứng cho sản xuất và tiêu dùng hàng hoá cần thiết, đủ về số lượng, tốt về chất lượng, kịp thời thời gian yêu cầu và thuận lợi cho khách hàng. Tạo nguồn hàng là toàn bộ các hình thức, phương thức và điều kiện của doanh nghiệp thương mại tác động đến lĩnh vực sản xuất, khai thác hoặc nhập khẩu để tạo ra nguồn hàng phù hợp nhu cầu của khách hàng. Mua hàng là một hoạt động nghiệp vụ của doanh nghiệp thương mại sau khi xem xét chất lượng hàng hoá, giá cả chào hàng cùng người bán thoả thuận điều kiện mua bán, giao nhận, thanh toán bằng hợp đồng hoặc bằng trao đổi hàng – tiền. Để có nguồn hàng tốt cho doanh nghiệp thương mại đòi hỏi phải tiến hành tốt hoạt động tạo nguồn và mua hàng bằng cách nghiên cứu thị trường nguồn hàng và lựa chọn bạn hàng, tổ chức hợp lý mạng lưới thu mua, ký kết hợp đồng kinh tế mua hàng và tổ chức thực hiện hợp đồng mua hàng, áp dụng những biện pháp kinh tế trong hoạt động khai thác tạo nguồn hàng… c) Dự trữ hàng hoá Dự trữ hàng hoá là hoạt động kinh doanh cần thiết nhằm đảm bảo việc bán hàng của doanh nghiệp thương mại được diễn ra liên tục, đáp ứng được nhu cầu của khách hàng trong mọi trường hợp. Dự trữ hàng hoá là một sự ngưng đọng, sự tích tụ một phần hàng hoá trong quá trình vận động từ nơi sản xuất đến nơi tiêu dùng, do vậy, phải xác định lượng dự trữ là rất quan trọng đối với doanh nghiệp thương mại. Nếu dự trữ thừa thì có nghĩa là doanh nghiệp bị “treo” quá nhiều vốn vào hàng dữ trữ trong khi vốn có thể đầu tư vào những mục tiêu sinh lợi hơn nhiều, hoặc chí ít vẫn còn có tiền dự phòng. Nghiêm trọng hơn là những khoản dự trữ thừa này có thể dẫn đến những tổn thất tai hại khi nó không có hy vọng bán hết. Nhưng nếu doanh nghiệp dự trữ thiếu thì không có đủ hàng cần thiết, sẵn sàng phục vụ khách hàng ở thời điểm họ cần, như vậy sẽ mất một cuộc kinh doanh. Tựu chung, dữ trữ hàng hoá trong doanh nghiệp thương mại là một hoạt động nghiệp vụ hết sức quan trọng và khó khăn, phải luôn đảm bảo cân đối giữa nhu cầu thị trường, giữa dự kiến cho tương lai và khả năng tài chính của doanh nghiệp. Xét đến dự trữ hàng hoá chúng ta cần tìm hiểu công tác kho tàng vì nó là hoạt động để thực hiện quá trình dự trữ hàng hoá trong doanh nghiệp thương mại. Kho hàng hoá là một công trình dùng để dự trữ, bảo quản hàng hoá phục vụ cho lưu thông hàng hoá được bình thường. Hoạt động của kho tàng bao gồm: + Tổ chức thực hiện việc dự trữ, bảo quản và bảo vệ tốt hàng hoá dự trữ. + Giao nhận hàng hoá chính xác, kịp thời. Nắm vững lượng hàng hoá dự trữ trong kho. + Thực hiện quá trình sản xuất trong lưu thông nhằm phát triển các hoạt động dịch vụ văn minh phục vụ khách hàng – giữ gìn nguyên vẹn giá trị sử dụng của hàng hoá và làm tăng giá trị hàng hoá. + Tiết kiệm chi phí kho, góp phần hạ chi phí lưu thông và chi phí kinh doanh của doanh nghiệp thương mại. Doanh nghiệp thương mại mua hàng ở nơi này bán hàng ở nơi khác, mua hàng thời gian này bán hàng thời gian khác và mua của đối tượng này bán hàng cho các đối tượng khác vì vậy mà luôn phải có mạng lưới kho cho mình, thực hiện tốt nhiệm vụ thu mua, tiếp nhận, trung chuyển, dự trữ và bán hàng được nhanh chóng, thuận tiện và đạt hiệu quả kinh doanh cao. e) Tổ chức phân phối và bán hàng Bán hàng là sự thực hiện giá trị và chuyển giao quyền sở hữu hàng hoá, kết thúc quá trình này người mua nhận được hàng, người bán nhận được tiền ( hoặc có cơ sở đòi tiền người mua). Bán hàng là một hoạt động quan trọng bậc nhất trong doanh nghiệp thương mại vì chỉ có bán được hàng thì doanh nghiệp thương mại mới có thể thu hồi vốn kinh doanh, thực hiện được lợi nhuận, tái mở rộng kinh doanh. Nó bao gồm các hoạt động sau: + Nghiên cứu thị trường, nghiên cứu tâm lý tập quán của người tiêu dùng. + Xác định kênh bán và các hình thức bán. + Phân phối hàng hoá vào các kênh bán. + Tiến hành quảng cáo, xúc tiến bán hàng. + Thực hiện các nghiệp vụ bán hàng ở cửa hàng, quầy hàng. + Đánh giá kết quả, thu thập thông tin phản hồi để tiếp tục kinh doanh. Từ sản xuất đến tiêu dùng, hàng hoá có thể được mua bán qua các kênh phân phối khác nhau phụ thuộc vào đặc điểm, tính chất của sản phẩm và các điều kiện vận chuyển, bảo quản, sử dụng… Phân phối hàng hoá xác định một cách cụ thể chi tiết lượng hàng hoá bán ra theo những không gian và thời gian nhất định, trên cở sở tính toán, cân đối giữa nhu cầu thị trường và khả năng đáp ứng với lượng dự trữ lưu thông hợp lý ở doanh nghiệp thương mại. Phân phối hàng hoá ở doanh nghiệp thương mại là cơ sở để củng cố niềm tin của khách hàng, củng cố uy tín của doanh nghiệp qua việc phân phối chính xác và kịp thời. Nó cũng đảm bảo cho sự vận động của sản phẩm từ nơi sản xuất đến nơi tiêu dùng nhanh chóng và hợp lý, tiết kiệm được chi phí lưu thông. f) Dịch vụ phục vụ khách hàng Dịch vụ kinh doanh thương mại được định nghĩa là những hoạt động nhằm thoả mãn nhu cầu phi vật chất của người tiêu dùng, gắn liền với hoạt động mua và bán hàng hoá nhằm nâng cao trình độ thoả mãn nhu cầu. Dịch vụ có thể chia thành: + Dịch vụ trước khi bán hàng, có thể gồm: Các dịch vụ về thông tin, giới thiệu, quảng cáo, chào hàng… về loại hàng hoá và các dịch vụ kèm theo; các dịch vụ về chuẩn bị hàng hoá, đóng gói sẵn theo yêu cầu của khách hàng… + Dịch vụ trong khi bán hàng, đó là: Các dịch vụ giao tiếp giữa khách hàng và doanh nghiệp, dịch vụ giới thiệu hàng hoá, hướng dẫn lựa chọn hàng hoá, dịch vụ về ký kết hợp đồng, thanh toán tiền hàng, bốc xếp hàng hoá… + Dịch vụ sau khi bán hàng: Dịch vụ này nhằm tăng thêm hay tạo điều kiện thuận lợi trong việc sử dụng sản phẩm của khách hàng sau khi mua hàng, gồm: giới thiệu thêm các sản phẩm hỗ trợ cho sản phẩm chính, giao hàng và lắp đặt sản phẩm, bảo hành, sửa chữa, hướng dẫn cách sử dụng, sự thăm hỏi khách hàng… Dịch vụ của doanh nghiệp thương mại nhằm đáp ứng văn minh, kịp thời mọi nhu cầu của khách hàng, gây được tín nhiệm và thiện cảm với khách hàng, có tác dụng giữ khách hàng. Từ đó, tăng doanh thu của doanh nghiệp, tạo ra mối quan hệ rộng rãi, thanh toán tin cậy và có tác dụng lớn trong củng cố thế lực của doanh nghiệp. Nó còn giúp quá trình lưu chuyển hàng hoá nhanh, bán được hàng hoá, nâng cao vòng quay vốn. Tóm lại, dịch vụ khác hàng có vị trí quan trọng đối với hoạt động kinh doanh và có mối quan hệ chặt chẽ với quá trình lưu thông hàng hoá. g) Phân tích hoạt động kinh doanh Muốn biết được các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thương mại có hiệu quả và có thực hiện được mục tiêu của doanh nghiệp hay không thì phải tiến hành phân tích hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thương mại đều có tác động liên hoàn với nhau, chỉ có phát triển hoạt động kinh doanh mới đánh giá được sâu sắc và đầy đủ những hoạt động này trong trạng thái thực của nó. Từ đó, nêu lên một cách tổng hợp về trình độ hoàn thành các mục tiêu, biểu hiện bằng hệ thống các chỉ tiêu kinh tế – kỹ thuật – tài chính của doanh nghiệp. Phát triển hoạt động kinh doanh cũng cho phép đánh giá mặt mạnh, mặt yếu trong công tác quản lý của doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp tìm ra biện pháp nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh, hoàn thiện công tác quản lý doanh nghiệp, huy động khả năng tiềm tàng về vốn, lao động và đất đai của doanh nghiệp. Qua phát triển hoạt động kinh doanh doanh nghiệp thương mại còn có thể dự đoán xu thế phát triển kinh doanh thương mại của doanh nghiệp. Chúng ta có thể thây đây là hoạt động có ý nghĩa chiến lược trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thương mại và ta có thể khái quát nội dung của phát triển hoạt động kinh doanh như sau: + Phân tích chỉ tiêu về kinh doanh như: số lượng, doanh thu bán hàng, giá cả hàng hoá… + Các chỉ tiêu đó được phát triển trong mối quan hệ với các chỉ tiêu về điều kiện của quá trình sản xuất kinh doanh như: lao động, vốn, đất đai. + Xác định đặc trưng về lượng trong các giai đoạn, các quá trình kinh doanh. + Xác định xu hướng, nhịp độ phát triển, phát hiện nguyên nhân ảnh hưởng đến sự thay đổi của quá trình kinh doanh, tính chất và mức độ chặt chẽ của mối quan hệ giữa kết quả kinh doanh với các điều kiện sản xuất kinh doanh. iI. Những mặt cần đổi mới trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thương mại trong bối cảnh hội nhập hiện nay Hội nhập kinh tế quốc tế - điều tất yếu Thế kỷ XX qua đi để lại nhiều dấu ấn khó phai mờ và một trong số những điều đó, điều mà chúng ta không thể phủ nhận – thế kỷ XX là thế kỷ của cách mạng khoa học – kỹ thuật – công nghệ. Vào những năm 30 của thế kỷ XVIII, cuộc cách mạng khoa học – kỹ thuật lần thứ nhất đã đưa lao động thủ công trở thành lao động cơ khí. Cách mạng khoa học – kỹ thuật lần thứ hai vào đầu thế kỷ XX đã phát triển lao động cơ khí trở thành lao động một nửa tự động hoá. Không dừng lại ở đây, cuộc cách mạng lần thứ ba với sự phát triển vượt bậc của khoa học – công nghệ đã biến khoa học – công nghệ trở thành lực lượng sản xuất. Từ đây có thể nói rằng, thế kỷ XXI sẽ có nhiều biến đổi sâu sắc hơn, đây là thế kỷ mà khoa học và công nghệ sẽ có những bước nhảy vọt chưa từng thấy. Chính điều này là một trong những nguyên nhân tạo nên xu quốc tế hoá nền kinh tế. Khi khoa học – công nghệ trở thành lực lượng sản xuất thì hội nhập kinh tế quốc tế là nhu cầu cần thiết thoả mãn sự phát triển vượt bậc của lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất phát triển làm cho thị trường nội địa trở nên nhỏ hẹp, buộc các quốc gia ngồi lại với nhau để tìm cách khơi dòng chảy của hàng hoá, dịch vụ, đồng vốn và sức lao động. Nó đã mở ra thị trường thế giới, làm cho sản xuất và tiêu thụ của tất cả các nước đều mang tính thế giới, tình trạng tự cung tự cấp, bế quan toả cảng của các địa phương, các dân tộc trước đây đã bị thay thế bởi trao đổi và hợp tác, liên kết giữa các dân tộc. Quốc tế hoá kinh tế cũng là quá trình phát triển mới của phân công lao động và hợp tác sản xuất vượt ra khỏi biên giới quốc gia vươn tới quy mô toàn thế giới, đạt trình độ và chất lượng mới. Thực tế đã chứng minh không một nước nào, dù lớn và giàu có đến đâu, cũng không thể tự mình sản xuất được tất cả những sản phẩm đạt tiêu chuẩn quốc tế đáp ứng nhu cầu của mình. Quốc tế hoá kinh tế, đến nay mặc dù còn tồn tại những quan điểm trái ngược nhau, những rõ ràng đây là một xu thế phát triển của thời đại không thể khác được. Quá trình quốc tế hoá nền kinh tế thế giới ngày càng phát triển mạnh cả về chiều rộng và chiều sâu trên 2 cấp độ toàn cầu hoá và khu vực hoá, đặc trưng nổi bật của toàn cầu hoá và khu vực hoá kinh tế là nền kinh tế thế giới tồn tại và phát triển như một chỉnh thể, trong đó mỗi quốc gia là một bộ phận, có quan hệ tương tác lẫn nhau, phát triển với nhiều hình thức phong phú. Tham gia quốc tế hoá kinh tế, các quốc gia vẫn hoàn toàn độc lập về chính trị, xã hội, vẫn là các chủ thể tự quyết định ý thức hệ, vận mệnh và con đường phát triển của mình. Nó đem đến sự chuyển biến nhanh chóng của thể chế kinh tế thế giới, đưa nền kinh tế thế giới bước vào cạnh tranh toàn cầu bên cạnh việc đẩy mạnh tìm kiếm sự hợp tác trong cạnh tranh. Toàn cầu hoá kinh tế, một mặt tạo ra những cơ hội phát triển kinh tế cho từng quốc gia cũng như cho toàn thế giới nhưng nó cũng đưa đến những thách thức lớn ở nhiều góc độ khác nhau như: Sự gia tăng của các rủi ro kinh tế (khủng hoảng tài chính – tiền tệ khu vực, sự sụt giảm của thương mại toàn cầu, việc hình thành các “bong bóng” tài chính tiền tệ…), gây nên mâu thuẫn giữa kinh tế với chính trị và xã hội (làm suy giảm tính độc lập và chủ quyền quốc gia, gây nên sự phụ thuộc quá mức và các trung tâm kinh tế lớn, phươn hại đến sự phát triển văn hoá dân tộc…). Trong quá trình toàn cầu hoá kẻ mạnh thường thu nhiều lợi ích hơn còn người yếu dễ bị thua thiệt. Những quốc gia có tiềm lực lớn có điều kiện thuận lợi trong cạnh tranh quốc tế sẽ tìm cách khai thác quá trình toàn cầu hoá và cài đặt các lợi ích của họ. Nhưng các quốc gia phát triển chậm cũng không để bị động theo sau. Toàn cầu hoá mặc dù có tồn tại những mâu thuẫn, những thách thức to lớn nhưng việc hội nhập kinh tế thế giới là một tất yếu khách quan, thách thức của việc không hội nhập còn lớn hơn rất nhiều. Chỉ quốc gia nào bắt kịp xu thế này, biết tận dụng cơ hội, vượt qua thách thức mới đứng vững và phát triển. Cự tuyệt hay khước từ toàn cầu hoá kinh tế tức là tự gạt mình ra ngoài lề của sự phát triển. Để không bị tụt hậu, không bị đẩy lùi xa hơn về phía sau, Việt Nam đã chủ động vào cuộc. Hiện nay, nước ta đã thiết lập quan hệ ngoại giao với gần 170 nước, phát triển quan hệ thương mại với 130 nước và lãnh thổ; khai thông được quan hệ với các tổ chức tài chính tiền tệ lớn trên thế giới, gia nhập ASEAN, APEC, ký hiệp định thương mại Việt – Mỹ… với WTO, nước ta trở thành quan sát viên từ năm 1995 và đang trong quá trình đàm phán đề gia nhập tổ chức này. Đây chính là bước đi quan trọng của quá trình hội nhập vào kinh tế khu vực và thế giới, đưa nền kinh tế Việt Nam từng bước phát triển, rút ngắn khoảng cách với nền kinh tế khu vực và thế giới. 2. Những nguy cơ, cơ hội và thách thức chủ yếu đối với các doanh nghiệp thương mại Việt Nam Hội nhập kinh tế quá trình không chỉ đơn thuần giới hạn trong phạm vi cắt giảm thuế quan, mà được hiểu là việc một quốc gia thực hiện chính sách kinh tế mở, tham gia các định chế kinh tế, tài chính quá trình, thực hiện các cam kết, điều ước quá trình tự do hoá, thuận lợi hoá thương mại và đầu tư, loại bỏ rào cản vô hình, hữu hình đối với thương mại. Hiệp định khung về tăng cường hợp tác kinh tế ASEAN nhằm thành lập khu mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) trong vòng 15 năm và Hiệp định về chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT) ngày 27 – 28.01.1992 tại Singapore đã khởi động và tác động ngày càng rõ nét đến nền kinh tế Việt Nam; cùng với việc tham gia APEC, chuẩn bị tham gia WTO đặt Việt Nam trước những cơ hội, nguy cơ và thách thức mới. Nguy cơ Một trong những chương trình lớn của AFTA là chương trình CEPT. Thực chất của CEPT là cắt giảm thuế quan chung xuống 0% - 5% khi các nước thành viên buôn bán với nhau và cùng với CEPT, các biện pháp phi thuế quan (NTMS) như biện pháp hạn chế định lượng (hạn ngạch, giấy phép); các biện pháp quản lý giá; quy tắc xuất xứ; các biện pháp kỹ thuật (quy định tiêu chuẩn, kỹ thuật, kiểm dịch…); các biện pháp về hải quan, thanh toán… đang dần dần được cắt giảm, do đó giảm đi đáng kể sự bảo hộ của nhà nước cho hoạt động thương mại, tạo thị trường khu vực tự do cạnh tranh. Mặt khác, sự cạnh tranh đang ngày càng gay gắt hơn khi mà cơ cấu hàng hoá giữa các nước trong khu vực có sự tương đồng như nhau: các hàng nông sản phẩm nhiệt đới, các hàng công nghiệp chế biến, hàng công nghiệp tiêu dùng, hàng thuỷ hải sản…và như vậy sự cạnh tranh hàng hoá giữa các nước sẽ là sự cạnh tranh về giá cả, mẫu mã, chất lượng của hàng hoá. Điều này càng khó cho doanh nghiệp Việt Nam, vì trình độ phát triển kinh tế của các nước trong khu vực đã đi trước Việt Nam từ 20 đến 30 năm. Một số nước trong khu vực đã làm chủ được một số công nghệ nguồn; đã tiếp cận và thâm nhập được nhiều thị trường lớn, có chỗ đứng trên thị trường thế giới; thị trường trong nước ở các nước này đã thành hệ thống, đủ lớn cho sự phát triển độc lập của các doanh nghiệp trong nước. Điều này đặt các doanh nghiệp thương mại Việt Nam đứng trước nguy cơ phải cạnh tranh với các đối thủ quốc tế mạnh hơn, nhiều kinh nghiệm hơn, hàng hoá chất lượng cao hơn và giá cả thấp hơn. Đồng thời là nguy cơ thị trường trong nước có thể tràn ngập hàng hoá công nghệ cao của các nước trong khu vực. Dẫn đến doanh nghiệp thương mại sẽ đánh mất thị trường trong nước, thậm chí phá sản trước khi vươn ra thị trường thương mại toàn cầu. Một nguy cơ khác đối với doanh nghiệp thương mại là sự thiếu thông tin về thị trường, đối tác và đối thủ. Diễn biến thị trường thay đổi từng giờ từng phút, do vậy các quy định kinh doanh phải nhanh chóng và chính xác, có được như vậy phụ thuộc vào nguồn thông tin có được, người chiến thắng là người làm chủ thông tin, nhưng có thể nói đây là điểm yếu rất lớn của doanh nghiệp thương mại Việt Nam. Thêm vào đó, doanh nghiệp thương mại còn phải đối mặt với một nguy cơ khác trong quá trình hội nhập của Việt Nam là thị trường tiêu thụ là những người khó tính có thu nhập cao, dân trí cao, nhu cầu đa dạng. Vì vậy sẽ xảy ra cuộc chiến khốc liệt về chất lượng và giá cả. Ngoài ra, doanh nghiệp thương mại cũng đứng trước nguy cơ về trình độ của đội ngũ cán bộ quản lý chưa ngang tầm với yêu cầu của giai đoạn mới hoà nhập Quốc tế, thiếu giám đốc, tổng giám đốc tài năng. Trên đây là những nguy cơ đặt ra với doanh nghiệp thương mại trong quá trình hội nhập, tuy nhiên nó cũng đem lại cho doanh nghiệp thương mại không ít cơ hội. Sau đây chúng ta sẽ xem xét những cơ hội đối với doanh nghiệp thương mại khi Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế. b) Cơ hội Thứ nhất, doanh nghiệp thương mại có thể thâm nhập vào thị trường tiêu thụ rộng lớn hơn, phát triển quan hệ mua bán với các nước trong và ngoài nước. Nhưng chúng ta cũng phải hiểu rằng đây cũng là cơ hội của các nước bạn. Thứ hai, có thể tìm và khai thác được những nguồn hàng có chất lượng cao hơn và giá rẻ hơn từ thị trường bên ngoài. Thứ ba, việc mở rộng kinh doanh quốc tế có thể bổ sung cho những cơ hội hạn chế của thị trường nội địa. Ví dụ, môi trường kinh doanh ngày càng bình đẳng hơn, cơ hội giữa các doanh nghiệp là ngang bằng. Thứ tư, cạnh tranh trên thị trường tăng nhanh là mối đe doạ hiện tại nhưng là hạt giống gieo mầm mới để có năng lực cạnh tranh cao hơn và là nhân tố kích thích doanh nghiệp tiên tiến phát triển trong tương lai trung và dài hạn. Thứ năm là cơ hội có thể tiến hành cạnh tranh với các đối thủ ngay trên thị trường của họ. Có thể nói hội nhập kinh tế đã mở ra rất nhiều cơ hội cho doanh nghiệp thương mại Việt Nam và trên đây là những cơ hội chủ yếu, ngoài ra còn một số cơ hội khác, nhưng cùng với nó hội nhập kinh tế cũng đem đến cho doanh nghiệp thương mại những thách thức khó khăn. c) Thách thức Thách thức đầu tiên đối với doanh nghiệp thương mại là phải làm sao bảo vệ thị trường trong nước chống lại hàng được nhập khẩu và phải làm sao để duy trì xuất khẩu sang các quốc gia khác. Nhìn chung, bao giờ người tiêu dùng luôn mong muốn loại hàng tốt với giá rẻ. Trong khi hàng hoá của các nhà sản xuất nội địa không thể thoả mãn nhu cầu này vì chất lượng chưa đạt hoặc giá vẫn còn cao do thiếu vốn, thiếu kỹ thuật, kinh nghiệm… thì các nhà sản xuất nước ngoài sẵn sàng cung cấp khối lượng lớn với chất lượng cao giá rẻ, cùng phương thức thanh toán phù hợp với khách hàng. Điều này dẫn đến nguy cơ hàng hoá trong nước bị bóp ngẹt bởi hàng hoá nhập khẩu và sự phụ thuộc tất yếu của nền kinh tế vào các tập đoàn xuyên quốc gia. Vì vậy đây là thách thức hàng đầu và hết sức khó khăn không riêng gì với doanh nghiệp thương mại mà với tất cả doanh nghiệp Việt Nam nói chung. Tiếp theo, một thách thức nữa với doanh nghiệp thương mại là doanh nghiệp Việt Nam trong hoà nhập và cạnh tranh quốc tế ở vị thế yếu hơn so với các nước trong khu vực. Vị trí của doanh nghiệp thương mại Việt Nam trên trường quốc tế hiện nay không cao bắt nguồn từ rất nhiều nguyên nhân, ví dụ như hàng hoá chất lượng thấp, giá cao, thiếu thông tin, thiếu hiểu biết về thị trường, dịch vụ khách hàng kém, chưa có chiến lược marketing cho mặt hàng kinh doanh… Những điểm hạn chế đó cần có thời gian để thể khắc phục nhưng nền kinh tế khu vực và thế giới đang ngày càng phát triển, do đó nó đòi hỏi sự lỗ lực và sự đổi mới không ngừng của mỗi doanh nghiệp. Cuối cùng là hình thành một chiến lược, chính sách kinh doanh dượt đuổi như thế nào? Làm sao xác định chính xác các lợi thế cạnh tranh dài hạn tập trung được các nguồn lực để có sức mạnh tổng hợp. Muốn tồn tại và phát triển trong bối cảnh hiện nay phải có chiến lược tốt, phát huy lợi thế cạnh tranh, do đó đây là thách thức không tránh khỏi của doanh nghiệp thương mại. Vài năm chuẩn bị cho quá trình hội nhập chỉ là khoảng thời gian ngắn ngủi với nhiều thách thức và khó khăn ở phía trước nhưng các doanh nghiệp thương mại Việt Nam trong bối cảnh hiện nay đang không ngừng đổi mới hoạt động kinh doanh của mình nhằm đạt được những mục tiêu của doanh nghiệp và mục tiêu của xã hội. 3. Những mặt cần đổi mới trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thương mại Ngày nay, trong điều kiện của một nước đang hội nhập kinh tế quốc tế, doanh nghiệp thương mại Việt Nam có rất nhiều cơ hội để phát triển và cũng có không ít thách thức để vượt qua, nhất là khi Việt Nam tham gia đầy đủ vào Khu vực Mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) trong vài năm tới. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, các doanh nghiệp đến nay chưa thực sự có sự chuẩn bị chu đáo, thậm chí chưa ý thức đầy đủ cho sự tham gia vào một thị trường chung trong khuôn khổ ASEAN, nơi mức độ cạnh tranh sẽ tăng cao. Nói chung, có nhiều nguyên nhân dẫn đến sự “thờ ơ” của các doanh nghiệp thương mại Việt Nam trước yêu cầu hội nhập. Về tâm lý, nhiều lãnh đạo doanh nghiệp rơi vào tình thế tiến thoái lưỡng nan do trình độ hạn chế, thiếu thông tin cũng như sự hiểu biết nên lúng túng trong việc lựa chọn hướng đi cho doanh nghiệp trong bối cảnh hội nhập hiện nay. Nước ta đang trong quá trình chuyển sang cơ chế thị trường. Thể chế kinh tế thị trường của ta còn thiếu đồng bộ, trình độ vận hành và điều hành còn thấp. Trong khi đó, hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi phải “chơi” theo “luật chơi” của thị trường. Thực trạng khó khăn này đòi hỏi doanh nghiệp thương mại cần có sự lỗ lực lớn, thực hiện những đổi mới nghiêm túc và toàn diện hoạt động kinh doanh giữ vững vị thế của doanh nghiệp trên thị trường trong nước, từng bước len chân sang thị trường khu vực và thâm nhập thị trường thế giới. Sau đây chúng ta sẽ đề cập đến một số mặt cần đổi mới trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thương mại. a) Công tác nghiên cứu thị trường của doanh nghiệp thương mại hiện nay không chỉ dừng lại tại thị trường trong nước mà cần tiến hành trên cả thị trường nước ngoài. Toàn cầu hóa nền kinh tế làm cho nền kinh tế của mỗi nước hoà vào nền kinh tế thế giới, sản phẩm của một doanh nghiệp không chỉ tiêu thụ trong nước mà có thể tiêu thụ trên toàn cầu. Ngược lại sản phẩm của doanh nghiệp cũng phải chịu sự cạnh tranh của các doanh nghiệp trong và ngoài nước khác. Vì vậy, các doanh nghiệp thương mại cần phải có thông tin đầy đủ chính xác về thị trường, phát hiện những nhu cầu lớn có hướng tiêu thụ trên thị trường quốc tế và báo động những nguy cơ cạnh tranh, nguy cơ bị lấn át. Quá trình cạnh tranh trên toàn cầu ngày càng trở nên gay gắt nên muốn có được vị trí trên thị trường thì cần nắm kịp thời thông tin. Doanh nghiệp thương mại Việt Nam hiện nay còn kém nhạy bén trong vấn đề nắm bắt thông tin trên thị trường quốc tế. Phần lớn các doanh nghiệp thương mại dựa vào nguồn thông tin từ các tổ chức làm công tác thông tin thương mại như Trung tâm thông tin Thương mại, Ban xúc tiến Thương mại trực thuộc Bộ Thương mại, và các báo chí khác như Sài Gòn Times, Vietnam Invesment… Tuy các tổ chức trên đã cung cấp nhiều thông tin kinh tế góp phần quan trọng vào kết quả kinh doanh và sự phát triển của các doanh nghiệp thương mại, nhưng chất lượng thông tin mà các tổ chức đó cung cấp chưa cao, thiếu chiều sâu, còn dàn trải, thiếu tính hệ thống. Các thông tin mới dừng lại ở dạng thô, chưa được xử lý, dó đó hạn chế việc sử dụng nguồn thông tin này của doanh nghiệp thương mại. Hơn nữa, doanh nghiệp thương mại Việt Nam không chỉ thiếu thông tin mà những thông tin có được nhiều khi là những thông tin nhiễu nên không đem lại hiệu quả kinh doanh, thậm chí là thua lỗ cho doanh nghiệp. Như vậy, doanh nghiệp thương mại cần có cần nỗ lực phát huy khả năng của chính doanh nghiệp tiến hành công tác nghiên cứu thị trường vượt ra khỏi biên giới quốc gia, ngoài những thông tin cần thiết thông thường về hàng hoá doanh nghiệp kinh doanh còn cần có những thông tin khác về thị trường tại quốc gia mà doanh nghiệp dự định thâm nhập, cụ thể như: + Những thông tin đại cương về quốc gia đó, ví dụ như dân số, vị trí địa lý, văn hoá, thể chế chính trị, pháp luật… + Những thông tin cụ thể cho việc kinh doanh như đồng tiền và chế độ tỉ giá hối đoái của nước đó, hệ thống thanh toán, khả năng dự trữ về ngoại tệ… chính sách về ngoại thương, các công cụ về thuế… + Thông tin về dung lượng thị trường, về tình hình cung cấp, về giá cả và thị hiếu người dân đối với mặt hàng doanh nghiệp kinh doanh… Nói tóm lại, môi trường cạnh tranh gay gắt của nền kinh tế hội nhập khiến công tác nghiên cứu thị trường ngày càng có ý nghĩa quan trọng đối với doanh nghiệp thương mại Việt Nam, nó giúp doanh nghiệp thương mại có được thị trường chính xác về thị trường trong nước và quốc tế, có được sự phân tích chính xác đem lại những kết luận hợp lý, từ đó doanh nghiệp thương mại có được những chiến lược kinh doanh phù hợp, nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thương mại, hạn chế rủi ro trong kinh doanh. Do dó, doanh nghiệp thương mại cần đầu tư nhiều hơn nữa vào công tác này, phát huy hết vai trò của nó trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. b) Cần có những biến đổi trong công tác tạo nguồn và mua hàng của doanh nghiệp thương mại. Như chúng ta đã biết nhiệm vụ cơ bản và chủ yếu nhất của doanh nghiệp thương mại là đảm bảo cung ứng hàng hoá cần thiết cho sản xuất và tiêu dùng và doanh nghiệp thực hiện nhiệm vụ này thông qua hoạt động tạo nguồn và mua hàng. Doanh nghiệp thương mại có tồn tại và phát triển là dựa vào hàng hoá và dịch vụ mà doanh nghiệp cung cấp có chất lượng tốt, giá cả phải chăng, được khách hàng chấp nhận. Khác với trước, nền kinh tế hội nhập đem lại cho doanh nghiệp thương mại rất nhiều cơ hội trong công tác tạo nguồn và mua hàng với những nguồn hàng có chất lượng cao và giá cả rẻ hơn từ vô vàn nhà cung cấp ở trong và ngoài nước. Doanh nghiệp có khả năng cung ứng nhiều hàng hoá có tốt, hiện đại, văn minh với dịch vụ thuận lợi cho người tiêu dùng. Vấn đề đặt ra là doanh nghiệp thương mại hiện nay chưa có được mạng lưới thu mua rộng khắp phù hợp đặc điểm, điều kiện nguồn hàng nhằm có được nguồn hàng tốt, ổn định đáp ứng mọi nhu cầu của khách hàng, không bị đứt đoạn. Nhiều doanh nghiệp sau khi ký hợp đồng mới tổ chức thu mua hàng hoá dẫn đến tình trạng không đủ hàng hoá cung cấp cho khách hàng khi đến hạn giao hàng của hợp đồng. Thêm vào đó, một số doanh nghiệp thương mại còn thiếu thông tin về khả năng cung cấp mặt hàng được lựa chọn kinh doanh trên thị trường, cũng như thông tin về đối tác, đặc biệt là đối tác nước ngoài, khiến lợi ích của doanh nghiệp bị xâm phạm. Cũng cần lưu ý thêm là các doanh nghiệp thương mại trước khi ký kết hợp đồng cần xác định rõ số lượng, chất lượng, quy cách, phương thức giao nhận, phương thức thanh toán, bao bì đóng gói, thời hạn giao nhận… xác định rõ trách nhiệm và quyền lợi của mỗi bên tránh được những tranh chấp kinh tế gây thiệt hại cho doanh nghiệp. Đứng trước thực trạng này đòi hỏi doanh nghiệp thương mại cần có những đổi mới tích cực trong công tác tạo nguồn, mua hàng nhanh chóng đưa doanh nghiệp thương mại theo kịp xu thế hội nhập của nền kinh tế. c) Một số đổi mới cần thiết trong phân phối hàng hoá và hoạt động bán hàng của doanh nghiệp thương mại. Các doanh nghiệp thương mại là những trung gian phân phối, chuyên bao tiêu các sản phẩm cho doanh nghiệp sản xuất. Hiện nay, ngày càng nhiều doanh nghiệp, nhiều sản phẩm và dịch vụ xuất hiện làm môi trường cạnh tranh trên thị trường trở nên khốc liệt hơn. Do vậy, mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp có thực hiện được hay không phụ thuộc rất nhiều vào hoạt động bán hàng. Trước hết chúng ta xem xét đến hoạt động xúc tiến bán hàng trong công tác bán hàng của doanh nghiệp thương mại. Cho đến nay, hoạt động xúc tiến bán hàng thường được các doanh nghiệp thương mại Việt Nam thực hiện bao gồm: quảng cáo bán hàng; khuyến mại; tham gia hội chợ triển lãm; bán hàng cá nhân; quan hệ công chúng. Phải nói rằng, các hoạt động của xúc tiến bán hàng có sự đóng góp rất lớn trong sự phát triển của doanh nghiệp thương mại, nó là một công cụ cạnh tranh quan trọng của kinh doanh, thông qua những hoạt động của xúc tiến bán hàng doanh nghiệp thương mại tìm kiếm thêm được bạn hàng kinh doanh và tăng doanh thu. Tuy vậy, xúc tiến bán hàng trong doanh nghiệp thương mại vẫn tồn tại những yếu kém như thiết bị, công nghệ cho quảng cáo còn ở trình độ thấp, cơ sở vật chất kỹ thuật chuẩn bị cho hội chợ triển lãm còn nghèo nàn, lạc hậu… dẫn đến chất lượng của xúc tiến thương mại chưa cao. Để nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp thương mại trên thương trường trong tiến trình hội nhập, một đòi hỏi thiết yếu là doanh nghiệp cần sử dụng xúc tiến bán hàng như một vũ khí sắc bén. Tiếp theo, ta cũng cần lưu ý tới các hình thức bán hàng của doanh nghiệp thương mại, một trong những hình thức bán hàng còn mới mẻ nhưng rất hiệu quả và phổ biến trên thế giới là bán hàng qua mạng Internet. Thương mại điện tử tuy mới được phát triển nhưng đang phát triển rất nhanh chóng và có tiềm năng rất lớn. Hiện nay trên toàn cầu thương mại điện tử đã phát triển rất nhanh dựa trên những công nghệ mới, hiện đại, trở thành phương tiện hữu hiệu đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ trên thế giới. Doanh nghiệp thương mại Việt Nam muốn hoà nhập với thị trường thế giới cần chú trọng phát triển hình thức này, để thực hiện được hình thức này doanh nghiệp cần: + Chuẩn bị làm việc trong môi trường tiếng Anh là chủ yếu. + Nhanh chóng làm quen và sử dụng các dịch vụ Internet trong hoạt động của mình nhằm khai thác thông tin và đưa thông tin của mình lên mạng, ra thị trường. Một vấn đề cần phân tích ở đây nữa là vấn đề về kênh phân phối hàng hoá của doanh nghiệp thương mại. Hiện nay, phần lớn các doanh nghiệp thương mại Việt Nam còn ở giai đoạn đầu của xâm nhập và hoạt động trên thị trường thế giới nên hệ thống phân phối của doanh nghiệp thương mại chưa được thiết lập. Hầu hết các doanh nghiệp muốn thâm nhập thị trường khu vực và thế giới phải thông qua một nước hoặc một đối tác trung gian. Mặt khác, thị trường thế giới đã được phân chia và bị chi phối bởi các công ty, tập đoàn lớn trên thị trường thế giới mà doanh nghiệp thương mại chưa thâm nhập được vào hệ thống kênh phân phối của họ, do đó, hàng hoá của ta khó tiêu thụ và phải bán với giá thấp hơn so với các nước khác. Về lâu dài việc bán giá thấp để cạnh tranh là điều bất lợi cho doanh nghiệp thương mại vì nó sẽ giảm lợi nhuận, hạn chế khả năng tích luỹ để mở rộng, phát triển quy mô kinh doanh. Qua đây ta thấy rằng khả năng khai thác cơ hội của doanh nghiệp thương mại Việt Nam chưa cao và sức cạnh tranh của doanh nghiệp tên thị trường quốc tế còn rất kém. Như vậy, sự biến đổi liên tục và nhanh chóng của thị trường trong giai đoạn hiện nay, yêu cầu có những bước tiến lớn trong hoạt động bán hàng của doanh nghiệp sao cho doanh nghiệp có sức cạnh tranh trên thị trường, bán được hàng hoá, đảm cho sự tồn tại và phát triển của mỗi doanh nghiệp thương mại. d) Yêu cầu mới đối với dịch vụ phục vụ khách hàng tại doanh nghiệp thương mại hiện nay. Quá trình toàn cầu hoá trong nhiều lĩnh vực, nhiều ngành không chỉ dẫn đến những diễn biến cạnh tranh dày đặc hơn, khốc liệt hơn mà còn mang nhiều yếu tố bất ngờ, khó lường trước. Nhiều đối thủ cạnh tranh mới đột nhiên xuất hiện, nhiều liên minh, liên kết không mấy bình thường ra đời, không chỉ ở cấp độ tổ hợp công ty, doanh nghiệp mà có thể theo từng dự án, từng lĩnh vực kinh doanh. Chính sự xuất hiện ồ ạt đủ loại đối thủ cạnh tranh, đặc biệt trên các thị trường còn nhiều sức mua, đã buộc doanh nghiệp ngày càng phải lỗ lực tìm tòi các “khoảng trống” của thị trường, chú trọng tìm ra nét độc đáo của doanh nghiệp mình. Trước mắt khách hàng là rất nhiều loại hàng hoá và dịch vụ, do nhiều doanh nghiệp cung cấp và trong chừng mực nào đó, họ cảm mua hàng nào cũng thế, khó phân biệt tốt xấu. Đối với doanh nghiệp thì để thích ứng với hiện trạng này thì yếu tố chất lượng không còn đặt lên trên hết mà là yếu tố giá cả, yếu tố marketing, đặc biệt là thực hiện tốt hoạt động dịch vụ phục vụ khách hàng. Làm tốt hoạt động dịch vụ phục vụ khách hàng mới tạo ra sự khác biệt của doanh nghiệp thương mại so với các doanh nghiệp khác, đem đến sự hài lòng cho khách hàng, giữ được khách hàng cũ và thu hút khách hàng mới là sự đảm bảo cho sự phát triển bền vững của doanh nghiệp thương mại. Những bước biến đổi mới này của thị trường, đặt ra những cố gắng mới cho doanh nghiệp thương mại, về công tác dịch vụ phục vụ khách hàng của doanh nghiệp thương mại vẫn tồn tại một số mặt chưa đạt. Phần lớn doanh nghiệp thương mại mới chỉ dừng lại các biện pháp nhằm tiêu thụ được hàng hoá mà chưa chú ý tới việc lôi kéo khách hàng và tạo tiếng vang thông qua hoạt động dịch vụ phục vụ khách hàng. Chưa quan tâm đến dịch vụ sau khi bán hàng như góp ý kiến cho khách hàng về giải pháp kỹ thuật - kinh tế trong việc sử dụng hàng hoá. Chưa chú trọng đến việc thu thập ý kiến của khách hàng và chất lượng hàng hoá, về giao nhận, thanh toán… Hội nhập kinh tế quốc tế với môi trường cạnh tranh quyết liệt yêu cầu doanh nghiệp thương mại cần nhanh chóng khắc phục những hạn chế này, đem lại sức mạnh cạnh tranh cho doanh nghiệp trên thị trường trong nước cũng như với bên ngoài. e) Những đổi mới ở một số hoạt động kinh doanh khác của doanh nghiệp thương mại Thứ nhất là đối với công tác tạm trữ hàng hoá, doanh nghiệp thương mại cần có những cân nhắc, phân tích và dự đoán chính xác diễn biến thị trường để xác định lượng hàng hoá dự trữ đáp ứng kịp thời nhu cầu của khách hàn, tránh tình trạng thiếu hụt hàng hoá khi thị trường đang có nhu cầu lớn, bỏ lỡ các cơ hội kinh doanh. Ví dụ, do cung vượt quá cầu trong những tháng đầu năm trên thị trường gạo thế giới làm giá gạo xuất khẩu sụt giảm. Nhưng đến đầu tháng 8 thì giá gạo bắt đầu nhích lên và tăng nhanh, tại thời điểm này các doanh nghiệp đã không có đủ gạo để đáp ứng yêu cầu của các hợp đồng do mua tạm trữ thiếu hụt. Thứ hai là với công tác kho tàng doanh nghiệp thương mại cần đầu tư công nghệ và trang thiết bị hiện đại, xây dựng cơ sở vật chất bền vững cho kho hàng của doanh nghiệp, nâng cao chất lượng bảo quản hàng hoá, giảm tối đa các hao hụt trong quá trình dự trữ hàng hoá. Thứ ba là vấn đề về công tác vận chuyển hàng hoá của doanh nghiệp thương mại, doanh nghiệp cần chọn phương tiện vận chuyển hàng hoá có cước phí thấp, để giảm chi phí lưu thông, nên chọn các phương tiện vận chuyển phổ biến, nên thay thế việc vận chuyển bằng ô tô bởi các phương tiện rẻ hơn như đường sắt và đường thuỷ. Cuối cùng là về đó là về bao bì của hàng hoá, trên bao bì hàng hoá của doanh nghiệp thương mại cần có hệ thống mã số, mã vạch. Vì từ năm 1990, rất nhiều nước trên thế giới yêu cầu sản phẩm phải có mã số, mã vạch mới được nhập khẩu. Chính vì vậy, sản phẩm của doanh nghiệp thương mại nếu không có mã số, mã vạch thì sẽ không thể bán được hoặc muốn bán được thì phải chấp nhận để bạn hàng tại nước sở tại gia công, vừa tốn kém, vừa phức tạp, dẫn đến tình trạng mất thị trường. Thực hiện yêu cầu này của thị trường thế giới là một trong những biểu hiện của sự chuyển biến trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thương mại trong quá trình hội nhập. Không phải dễ dàng cho sự đổi mới hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thương mại trước những thay đổi của môi trường kinh doanh trước xu thế hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Nhưng để tồn tại, và phát triển doanh nghiệp không thể ỷ lại sự bảo hộ của Nhà nước, phải tự đổi mới, phát huy năng lực, khẳng định vị trí của doanh nghiệp trên thị trường trong nước, cũng như trong khu vực và trên thị trường thế giới. III. những biện pháp thúc đẩy hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thương mại trong quá trình hội nhập. 1.Xây dựng chiến lược kinh doanh hợp lý Môi trường kinh doanh luôn có những biến động lớn, đặc biệt là trong quá trình hội nhập, để thích nghi với nó, tránh được rủi ro và tổn thất trong kinh doanh, doanh nghiệp thương mại cần có chiến lược kinh doanh cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp tại thời điểm trước mắt và lâu dài. Để phát triển và nâng cao hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp thương mại cần quan tâm đến một số chiến lược kinh doanh chủ yếu sau: Chiến lược sản phẩm: Sản phẩm ở đây có thhể là hàng hoá hoặc dịch vụ. Công tác nghiên cứu thị trường phải được tiến hành một cách nghiêm túc, đặc biệt lưu ý tới sự cân đối các sản phẩm cùng ngành, cùng nghề để tránh năng lực sản xuất dư thừa, tập trung khai thác các khoảng trống thị trường. Chiến lược giá bán: Giá bán liên quan trực tiếp đến mặt chất lượng và mẫu mã sản phẩm. Doanh nghiệp cần chủ động đề ra chiến lược giá bán thích hợp với từng thhời gian, với từng thời kỳ. Đồng thời, doanh nghiệp cần xây dựng một chiến lược đa dạng về giá: giá ưu đãi, giá trả chậm, giá trả góp… phù hợp với từng đối tượng khách hàng. Chiến lược phân phối sản phẩm: Sản phẩm được phân phối theo hai kênh trực tiếp và gián tiếp. Các doanh nghiệp thương mại có thể dùng đồng thời hai kênh phân phối sản phẩm, song tỉ lệ phải cân nhắc do chi phí và mức độ thâm nhập thị trường. Kênh gián tiếp giúp doanh nghiệp nhanh chóng triển khai sản phẩm ở nhiều nơi, chi phí ban đầu không lớn, có hiệu quả ngay. Tuy vậy, sử dụng kênh này có nhược điểm là: Doanh nghiệp không hoàn toàn kiểm soát được giá bán, hàng giả có thể thâm nhập được. Thêm vào đó, thông tin phản hồi từ khách hàng không đầy đủ và chính xác. Vì vậy, cùng sự phát triển các kênh phân phối gián tiếp doanh nghiệp thương mại cần triển khai từng bước điểm phân phối hàng hoá của bản thân doanh nghiệp. Chiến lược tăng trưởng: Chiến lược xây dựng dựa trên các dự báo, kế hoạch phát triển chung của nền kinh tế, sức mua của khách hàng, thị hiếu, sự phát triển của khoa học công nghệ. Chiến lược tăng trưởng không cho phép bó hẹp trong một phương thức mà phải có hai ba phương án khác nhau, chú ý đến sự biến đổi điều kiện kinh doanh có thể xảy ra. Chiến lược tài chính: Một chiến lược tài chính có độ chính xác cao sẽ giúp doanh nghiệp thương mại chủ động trong việc huy động vốn kinh doanh, đặc biệt vốn lưu động. Khả năng thanh toán kịp thời các chi phí phản ánh sự lành mạnh về tài chính của doanh nghiệp. Kế hoạch thu chi đầy đủ, đúng quy định là một phần quan trọng không thể thiếu trong chiến lược tài chính. Chiến lược tổ chức – nhân sự: Hoạch định tổ chức giải đáp cho các câu hỏi thực tế đặt ra như quyền quyết định nên tập trung ở mức độ nào, phân cấp quyết định ra sao, loại mô hình nào thích hợp nhất, các cương vị tham mưu nên sắp xếp như thế nào, xây dựng các bộ phận liên quan trách nhiệm và lợi nhuận như thế nào? Cơ cấu tổ chức sẽ xác định hệ thống và mối quan hệ giữa các cương vị nhằm giúp cho doanh nghiệp thương mại hoàn thành các mục tiêu, nhiệm vụ về phát triển kinh doanh. Công tác nhân sự đề cập đến các lĩnh vực như phát triển nguồn nhân lực, đào tạo, đánh giá lựa chọn, thuê mướn lao động, quan hệ. Cần phải xây dựng chức năng, nhiệm vụ cho từng cương vị, từ đó đặt ra yêu cầu về trình độ đào tạo, kinh nghiệm, giới tín, độ tuổi… Công tác đào tạo, nâng cao trình độ, nghiệp vụ để phù hợp với từng giai đoạn phát triển của doanh nghiệp thương mại cần được thoả đáng. Chiến lược đối ngoại: Đó là mối quan hệ giữa doanh nghiệp thương mại với các cơ quan chính phủ, các tổ chức chính quyền, các doanh nghiệp khác. Đây không phải là công tác quan hệ hành chính đơn thuần, làm tốt công tác này sẽ giúp doanh nghiệp thương mại phối hợp chặt chẽ với bạn hàng vì lợi ích chung, nhanh chóng phản ánh các vướng mắc về cơ chế chính sách với cơ quan có thẩm quyền. 2. Hoàn thiện bộ máy tổ chức để nâng cao hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp thương mại. Cơ cấu tổ chức phải vừa đảm bảo sự ổn định lâu dài, vừa đảm bảo tính năng động, điều chỉnh cho phù hợp với hoạt động kinh doanh trong từng thời kỳ. Đối với cán bộ chủ chốt cần áp dụng chế độ khuyến khích đặc biệt, gắn liền với hiệu quả kinh doanh. Đó là các yếu tố về lương, thưởng, bảo hiểm, phúc lợi, điều kiện làm việc… Các yếu tố vật chất này cần được xem xét thường xuyên, có sự so sánh với các doanh nghiệp thương mại khác. Việc chuyển đổi cán bộ, thành lập mới, nhập, tách hay giải tán các bộ phận đều phải xuất phát từ bài toán tối ưu kinh tế, có tính đến khả năng trình độ của cán bộ và phải thực hiện ngay. Mặt khác, phần lớn các nhà quản lý doanh nghiệp thương mại hoạt động thiếu bài bản, dựa nhiều vào kinh nghiệm, không có kiến thức chuyên môn được đào tạo chính quy, dẫn đến không có khả năng lãnh đạo doanh nghiệp, thực hiện các phương án kinh doanh không có hiệu quả. Vì vậy, phải chú trọng đến việc nâng cao trình độ cho các nhà quản lý và các nhân viên, đặc biệt với cán bộ quản lý cần chú trọng về quản trị kinh doanh và nghiệp vụ chuyên môn kỹ thuật. Tuỳ theo mức độ đào tạo mà doanh nghiệp thương mại đề ra yêu cầu đối với người được đào tạo, đặc biệt là thời gian tối thiểu làm việc cho doanh nghiệp. 3. Xây dựng một đội ngũ kinh doanh tốt Một đội ngũ kinh doanh tốt là tài sản vô hình rất quý giá mà không phải bất cứ doanh nghiệp thương mại nào cũng có được. Đội ngũ kinh doanh của một doanh nghiệp bao gồm những người làm công tác kinh doanh, những người làm công tác kỹ thuật và công nhân viên chức… Một đội ngũ kinh doanh có khả năng tạo nên thành công là một đội ngũ có kết cấu trí tuệ hợp lý, tức là có những chuyên gia “cứng” và cũng có cả những chuyên gia “mềm”, có nghĩ là có những người lãnh đạo có sở trường trong việc ra những quyết sách kinh doanh có tính chất chiến lược, và có cả các loại công nhân viên chức tinh thông nghiệp vụ và nghệ thuật kinh doanh. Hiện nay, các doanh nghiệp thương mại còn rất thiếu một đội ngũ kinh doanh có trình độ, có đủ năng lực, đủ khả năng đưa doanh nghiệp tồn tại và phát triển trong môi trường ngày một biến động và khắc nghiệt khi Việt Nam thực hiện nền kinh tế mở. Để có một đội ngũ kinh doanh tốt các doanh nghiệp phải thực hiện các biện pháp như sau: + Thu hút nhân tài: Thông qua các biện pháp quảng cáo, tuyên truyền về truyền thống, hiệu quả kinh doanh, về triển vọng của doanh nghiệp, chế độ lương bổng, tinh thần hợp tác, tôn trọng người tài… sẽ thu hút được các nhân tài quản lý doanh nghiệp, người có trình độ, tay nghề… về làm cho doanh nghiệp. + Phát hiện nhân tài trong nội bộ doanh nghiệp: Đây là biện pháp quan trọng vì qua kinh nghiệm thế giới, một nguồn nhân tài lớn nhất nằm trong ngay trong từng doanh nghiệp. Do đó, doanh nghiệp cần phát hiện và bố trí họ vào đúng vị trí xứng đáng. + Ra sức đào tạo và bồi dưỡng nhân tài: nhân tài hình thành chủ yếu là qua đào tạo và bồi dưỡng. Thông qua công tác đào tạo và bồi dưỡng sẽ tạo kiến thức vững chắc cho đội ngũ kinh doanh và qua đó tiếp tục sàng lọc, phát hiện những năng khiếu của từng người. + Thuê mướn nhân tài: Nếu trong doanh nghiệp còn mặt nào đó chưa chọn người có đủ năng lực, trình độ thì cần thuê mượn nhân tài ngoài xã hội. Đặc biệt trong lúc doanh nghiệp gặp khó khăn nan giải, đã áp dụng nhiều quyết sách khác nhau mà không thành công thì cần tìm kiếm nhân tài ngoài xã hội. + Sử dụng nhân tài: Nếu doanh nghiệp có được một đội ngũ kinh doanh hoàn thiện thì cần nhất là doanh nghiệp phải sử dụng đúng đắn, những người có khả năng phải được bố trí vào những vị trí hợp lý. 4. Đẩy mạnh các hoạt động marketing trong các doanh nghiệp thương mại nhằm thâm nhập và chiếm lĩnh thị trường. Từ thực tế hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp thương mại trong những năm vừa qua cho thấy: nhiều doanh nghiệp chưa nhận thức đầy đủ và coi hệ thống lý thuyết marketing như là một công cụ để thích nghi với môi trường kinh doanh mới, vì vậy các doanh nghiệp thường bị lúng túng, bị động trước những thay đổi của thị trường, khách hàng. Để nâng cao hiệu quả kinh doanh trong thời gian tới các doanh nghiệp thương mại cần xây dựng và tổ chức thực hiện tốt ba chiến lược marketing: chiến lược hướng tới khách hàng, chiến lược cạnh tranh, chiến lược thích nghi thông qua tiến bộ khoa học công nghệ. Trong đó, chiến lược hướng tới khách hàng là cơ sở của mọi chiến lược. Ngoài ra, để phát triển, doanh nghiệp thương mại phải hình thành được những chiến lược mang đến cho doanh nghiệp lợi thế cao nhất so với đối phương. Chiến lược marketing cũng cần được xây dựng nhằm dẫn dắt người quản lý trong việc đưa được các sản phẩm và dịch vụ đến được với khách hàng và khích lệ khách hàng mua sắm các sản phẩm của doanh nghiệp. 5. Thực hiện các biện pháp giảm thiểu rủi ro trong kinh doanh + Thâm nhập từng bước vào thị trường nhằm đánh giá được phản ứng của thị trường đối với sản phẩm của doanh nghiệp để từ đó điều chỉnh cho phù hợp. + Đa dạng hoá sản phẩm, ngày kinh doanh để hỗ trợ nhau. Quá nhiều loại sản phẩm sẽ khó có chất lượng cao, giá thành hạ để cạnh tranh, song cũng cần có một số loại sản phẩm chính có khả năng thu lãi cho doanh nghiệp thương mại, giảm thiểu rủi ro xảy ra. Đồng thời có thể áp dụng phương pháp “lấy ngắn nuôi dài”, lấy phụ để hỗ trợ chính nhằm giữ cân bằng thu chi, hướng tới ngành kinh doanh lâu dại. + Tham gia hiệp hội chuyên ngành để cùng hợp tác, trao đổi kinh nghiệm và đề xuất ý kiến chung nhằm tháo gỡ khó khăn của doanh nghiệp. + Thực hiện mua bảo hiểm. + Hình thành dự trữ các nguồn lực (vật chất, tiền vốn, lao động…). Dự trữ các nguồn lực ở mức hợp lý để phòng ngừa rủi ro song không bị đọng vốn lớn để tăng hiệu quả kinh doanh. + Cần thiết lập hệ thống thu thập thông tin, cơ chế truyền tin, các công cụ và phương pháp xử lý thông tin hữu hiệu quả để từ đó phát hiện kịp thời các cơ hội và phát sinh để từ dây đưa ra những quyết định quản trị kinh doanh kinh doanh phù hợp. kết luận Toàn cầu hoá nền kinh tế có tác động rất lớn đến môi trường kinh doanh của doanh nghiệp thương mại. Ngày càng có nhiều đối thủ cạnh tranh xuất hiện trên thị trường, doanh nghiệp thương mại phải đấu tranh cho sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp trong một môi trường cạnh tranh hết sức tàn khốc và gay gắt. Hội nhập kinh tế là xu thế tất yếu và những ai không hoà nhập cùng xu thế ấy sẽ tự bị đẩy lui khỏi dòng phát triển và tiêu vong. Doanh nghiệp thương mại đang đứng trước những sự thay đổi và thách thức vô cùng to lớn, để thực hiện được mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp hơn gì hết doanh nghiệp thương mại cần nỗ lực bằng chính sức mạnh của doanh nghiệp, tiến hành những đổi mới trong hoạt động kinh doanh nhằm đạt đến sự phát triển bền vững, chiếm lĩnh thị trường trong nước và từng bước khẳng định vị trí của doanh nghiệp thương mại Việt Nam trên thị trường trong khu vực và quốc tế. Đặt doanh nghiệp thương mại Việt Nam trong bối cảnh hiện nay chúng ta thấy rõ hơn về khả năng hiện có của doanh nghiệp thương mại Việt Nam, cùng những cơ hội và thách thức đối với doanh nghiệp khi nền kinh tế đang trong quá trình hội nhập. Từ đây, chúng ta có thể đưa ra những đổi mới cần thiết và cấp bách trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thương mại, đồng thời, chúng ta cúng đề ra những biện pháp nhằm có được sự đổi mới đó. Và đây cũng chính là nội dung chính của Đề án của em với đề tài “Đổi mới hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thương mại trong quá trình hội nhập”. Do sự hiểu biết còn hạn chế nên đề án của em không tránh khỏi những sai sót và khuyết thiếu, em rất mong nhận được những nhận xét và góp ý của thầy và các bạn để em có thể hoàn thiện hơn kiến thức của mình. Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn và giúp đỡ nhiệt tình của thầy giáo. Sinh viên Danh mục tài liệu tham khảo + Giáo trình Kinh tế Thương mại – Nxb Giáo dục + Giáo trình Quản trị Doanh nghiệp Thương mại – Nxb Giáo dục + Tạp chí Thương mại Việt Nam Số 17/2001 Số 18/2001 Số 19/2001 Số 21/2001 + Tạp chí Phát triển Kinh tế Số 112/2000 Số 116/2000 Số 118/2000 Số 123/2001 Số 125/2001 + Tạp chí Kinh tế và Phát triển Số 35/2000 Số 36/2000 Số 37/2000 Số 40/2000 Số 43/2001 Số 48/2001 MụC LụC Trang Lời mở đầu 1 I. Khái quát về hoạt động kinh doanh tại doanh nghiệp thương mại 1. Một số khái niệm 3 2. Chức năng của doanh nghiệp thương mại 4 3. Nội dung của hoạt động kinh doanh thương mại 5 II. Những mặt cần đổi mới trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thương mại trong bối cảnh hội nhập hiện nay 1. Hội nhập kinh tế quá trình - điều tất yếu 11 2. Những nguy cơ, cơ hội và thách thức chủ yếu đối với các doanh nghiệp thương mại Việt Nam 13 3. Những mặt cần đổi mới trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thương mại 16 III. Một số biện pháp thúc đẩy hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thương mại trong quá trình hội nhập 1. Xây dựng chiến lược kinh doanh hợp lý 24 2. Hoàn thiện bộ máy tổ chức để nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp thương mại 26 3. Xây dựng đội ngũ kinh doanh tốt 26 4. Đẩy mạnh các hoạt động marketing trong các doanh nghiệp thương mại nhằm thâm nhập và chiếm lĩnh thị trường 27 5. Thực hiện các biện pháp giảm thiểu rủi ro trong kinh doanh 28 Kết luận 30

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docR0174.doc
Tài liệu liên quan