Đề tài Đôi nét về thơ Haiku và nhà thơ Basho

Nhật Bản - Một xứ sở huyền bí của Thần đạo với vô số các tập tục và nghi lễ, với vẻ đẹp lãng mạn của những cánh hoa anh đào nở rộ như những đám mây hoa, với những thiếu nữ duyên dáng trong tà áo kimono. Bên cạnh đó đây còn là xứ sở dũng mãnh của “truyền thống võ sĩ đạo” và “kiếm đạo”, của những môn phái võ thuật nổi tiếng như: sumo, akido, karate, judo Không những thế, Nhật Bản còn là xứ sở thâm trầm của Thiền đạo và Trà đạo gắn liền với những bài thơ haiku ngắn đến mức tưởng chừng như không thể ngắn hơn được nữa nhưng lại chứa đựng những ý nghĩa vô cùng sâu sắc. Thiên nhiên là nguồn cảm hứng sáng tác vô tận cho văn học Nhật, đặc biệt là trong lĩnh vực thơ ca. Thơ ca Nhật là nơi thiên nhiên sống trầm lặng với bao ý nghĩa sâu lắng. Thơ haiku Basho đã ngâm mình trong thiên nhiên và đưa vẻ đẹp của thiên nhiên đến với con người Nhật và cả thế giới. Từ những cái nhỏ bé đơn sơ, làm rung động từng cảm giác tinh vi nhất của con người. Đó là những giá trị thẩm mỹ tuyệt vời của thiên nhiên mà Basho đã đưa vào thơ. Con người cũng nhờ đó mà nối gần nhau hơn bằng những xúc cảm qua “thiên nhiên”.

doc23 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 3551 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đôi nét về thơ Haiku và nhà thơ Basho, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU Nhật Bản - Một xứ sở huyền bí của Thần đạo với vô số các tập tục và nghi lễ, với vẻ đẹp lãng mạn của những cánh hoa anh đào nở rộ như những đám mây hoa, với những thiếu nữ duyên dáng trong tà áo kimono. Bên cạnh đó đây còn là xứ sở dũng mãnh của “truyền thống võ sĩ đạo” và “kiếm đạo”, của những môn phái võ thuật nổi tiếng như: sumo, akido, karate, judo… Không những thế, Nhật Bản còn là xứ sở thâm trầm của Thiền đạo và Trà đạo gắn liền với những bài thơ haiku ngắn đến mức tưởng chừng như không thể ngắn hơn được nữa nhưng lại chứa đựng những ý nghĩa vô cùng sâu sắc. Thiên nhiên là nguồn cảm hứng sáng tác vô tận cho văn học Nhật, đặc biệt là trong lĩnh vực thơ ca. Thơ ca Nhật là nơi thiên nhiên sống trầm lặng với bao ý nghĩa sâu lắng. Thơ haiku Basho đã ngâm mình trong thiên nhiên và đưa vẻ đẹp của thiên nhiên đến với con người Nhật và cả thế giới. Từ những cái nhỏ bé đơn sơ, làm rung động từng cảm giác tinh vi nhất của con người. Đó là những giá trị thẩm mỹ tuyệt vời của thiên nhiên mà Basho đã đưa vào thơ. Con người cũng nhờ đó mà nối gần nhau hơn bằng những xúc cảm qua “thiên nhiên”. NỘI DUNG I. Đôi nét về thơ Haiku và nhà thơ Basho 1.1. Đặc điểm thơ Haiku Haiku âm theo lối chữ Kanji ( gốc chữ Nho) là bài cú, có nghĩa là câu nói để trình bày. Haiku là loại thơ rất thịnh hành của Nhật Bản, xuất phát từ ba câu đầu hokku (phát cú) của những bài renga (liên ca) có tính trào phúng gọi là haikai norenga mà sau gọi tắt là haikai (bài hài) và là loại thơ ngắn nhất trên thế giới. Một bài thơ theo thể thơ haiku có ba dòng, dòng đầu và dòng cuối mỗi dòng có 5 âm, dòng giữa có 7 âm, có dạng 5-7-5, tổng cộng là 17 âm (17 âm tiết tiếng Nhật có khi chỉ vài ba từ ít ỏi). Nội dung thơ cô đọng trong cái cực ngắn nhưng lại rất hàm súc và tinh tế. Thơ haiku khi dịch ra tiếng nước ngoài thường được xếp thành ba dòng, còn trong chữ Nhật thì một bài haiku thường nằm gọn trên một dòng. Đây là nét riêng biệt của thơ haiku không thể lẫn với bất cứ thể thơ nào khác. Trong thơ Haiku, các cảm thức thẩm mỹ như Sabi (tịch), Wabi (đà), Aware (bi ai) và Karumi (khinh) được thể hiện rất rõ nhằm diễn đạt những yếu tố tâm linh, bởi thơ haiku là thơ của “kinh nghiệm của cảm thức, của trực giác tâm linh”. Thơ Haiku nổi bật yếu tố “mùa”. Vì thế người ta ví thơ haiku là khúc ca của bốn mùa. Mỗi bài thơ haiku đều có quí ngữ (kigo hay từ ngữ báo hiệu mùa) nghĩa là từ miêu tả một mùa nào đó trong năm. Sự luân chuyển của “mùa” thể hiện nhịp điệu của thế giới thiên nhiên và đời sống con người và đó là sự vận động của thời gian. Mỗi bài thơ là một bức tranh hương sắc bốn mùa rực rỡ với những nét vẽ tươi đẹp hồn nhiên, trữ tình nồng thắm. Thơ haiku là một sản phẩm tinh thần quý giá của đời sống văn hoá đất nước Phù Tang. Thơ haiku được xem là thơ thiền chưa quí ngữ, đó là sự kết hợp thâm sâu một tinh thần Thiền với mỹ cảm Nhật Bản. Mỗi bài thơ như một chiếc gương soi rọi thiên nhiên của bốn mùa và tâm hồn của nghìn đời. 1.2. Cuộc đời và sự nghiệp nhà thơ Basho 1.2.1. Cuộc đời Basho được coi là đỉnh cao của thể loại thơ haiku Nhật Bản. Ông đã tự nói về mình như sau: “Tên tôi trên đời một người lữ khách mưa mùa thu ơi”… Ông chính là “một người lữ khách”, cuộc đời ông đã trải qua bao nhiêu mùa gió bụi. Có người bảo rằng ông đi trong im lặng “như ngày đi, như đêm đi, như mùa đi”. Cuộc đời thiền sư, nhà thơ Basho là như thế đấy. Matsuo Basho tên thật là Matsuo Munefusa sinh ngày 15/11/1644, trong một gia đình thuộc dòng dõi võ sĩ đạo samurai cấp thấp, ở thị trấn Ueno xứ Iga. Basho theo thiền tông, thích thơ văn, hội họa từ nhỏ. Lớn lên ông hiểu biết sâu rộng về thơ văn cổ Nhật Bản và Trung Hoa. Sau thời gian thực hành dưới sự chỉ dẫn của thiền sư ButCho, ông đã dâng hiến cả đời mình cho thơ ca và thưởng ngoạn đời sống qua những chuyến du hành khắp đất nước Nhật Bản. Những năm cuối đời, để nuôi dưỡng tinh thần và cảm hứng thơ của mình. Basho làm cuộc du hành khắp đất nước. Ông vừa đi vừa viết du kí và sáng tác thơ haiku. Cuộc đời thi hào Basho có thể chia ra các giai đọan gắn với mỗi sự kiện sau: “Ba tiêu am”: là ngôi nhà - nơi giúp ông tránh xa xã hội Edo náo nhiệt, chạy theo vật chất để hướng về cuộc sống thanh tịnh, ngày ngày tu luyện thiền đạo. Sau khi Ba tiêu am bị cháy trong một cuộc hỏa hoạn lớn ở thành phố Edo, ông đã bỏ nơi đây lên đường phiêu lãng làm “lữ nhân của phù thế”.  “Những bước đường phiêu lãng”: Kể từ sau năm 1682 Basho dấn thân vào con đường gió bụi. Sau “những bước đường phiêu lãng” là bút ký Nozarashi kiko (Dã sái kỉ hành) 1865 ra đời. Hai năm sau, Basho làm “chấn động” thế giới văn học bằng bước nhảy của một con ếch trong hợp tuyển thơ của ông và đồ đệ là “Hurunohi”(Xuân nhật) “Ao cũ - con ếch nhảy vào - vang tiếng nước xao” với rất nhiều lời bình luận khác nhau. “Con đường sâu thẳm”: Đây là cuộc du hành đầy khó khăn trắc trở và gian khổ để đến nơi còn sự hoang dã và huyền bí sâu xa. Kết quả “con đường sâu thẳm” là một cuộc hành trình nổi tiếng nhất trong văn học Nhật Bản vì nó để lại cho đời một kiệt tác văn xuôi xen lẫn thơ Oku no hosomichi (Áo chi tế đạo), tức Áo rơm cho khỉ. Năm 1691 tùy bút Genjuan noki (Huyễn trú am chi ký) của ông ra đời cùng một số tác phẩm khác. Trên “con đường sâu thẳm” Basho đã ghi lại biết bao cảnh đời, biết bao giấc mơ cũng như những nỗi buồn nhân thế… “Con đường sâu thẳm” còn là sự cảm nghiệm của Basho về sự “vô thường” và “vĩnh cửu” của đời sống. Nhà thơ không chỉ trải nghiệm được cái huyền diệu của cuộc sống mà còn có thể truyền đạt được nó. Chính con đường sâu thẳm ôm lấy mọi phương diện của cuộc sống. Là cuộc hành trình đi tìm cái diệu kỳ của cuộc sống, cái đẹp cuộc sống đã bị xã hội Edo đánh mất. Đó cũng chính là Basho đang quay lại với thiên nhiên, với một nền văn hóa truyền thống mà phương Bắc xa xôi vẫn còn lưu giữ được. “Huyễn trú am” là niềm hạnh phúc ở am đời hư huyễn mà Basho đã kể lại: “và tôi lê chân dọc theo bờ biển hoang dại của phương Bắc, nơi mỗi bước chân băng qua cồn cát đều khốn khó. Tôi lang thang ven bờ hồ tìm nơi trú ngụ, một nhánh lau sậy mà chiếc tổ chim cộc trắng sẽ tấp vào trên dòng nước chảy. Đây là nơi Huyền trú của tôi, và nó đứng bên mạn núi gọi là Kokubi. Gần đây có một đền thờ xưa cũ, nơi tôi cảm thấy mình gột sạch cát bụi trần gian”. Khi trở về Edo, Basho được mọi người đón tiếp trong niềm vinh quang của một nhà thơ lừng danh. Những năm tiếp sau đó, Basho sống trong cô tịch theo ý nguyện của mình “niềm cô tịch sẽ là bạn tôi và sự nghèo nàn là của cải tôi. Trong tuổi năm mươi, đấy là điều tôi tự nguyện”. Thời gian này thơ ca của ông cũng hướng về một lý tưởng gọi là karumi (khinh) tức sự nhẹ nhàng thanh thoát mà ông tìm thấy giữa ngay cuộc đời. Mùa xuân 1694, Basho lại một lần nữa quyết định tiếp tục dấn bước trên con đường “lữ nhân” để thăm phương Nam. Điểm dừng sẽ là Kyusu. Nhưng trên đường đi, Basho lâm trọng bệnh, khi đến Usaka. Basho đã soạn một bài thơ từ biệt thế gian vào một đêm mùa đông. Có thể nói những chuyến du hành của Basho đã đem đến cho ông những chứng ngộ tâm linh sâu sắc, và thi ca cũng đươc khơi chảy tràn trề, bộc lộ một tài năng lỗi lạc của dòng thơ haiku cũng như nền văn học Nhật. Nhà thơ Basho đã ra đi vào ngày 12-10-1694 theo đúng như lời người đã dự đoán “tôi sẽ chết trên đường, đó là định mệnh” lúc tuổi năm mươi. Basho mất đi, được chôn cất ở một ngôi chùa “được phong thần trong nhiều ngôi đền thần đạo, có đền còn lấy tên theo câu thơ của ông về tiếng vang của nước do con ếch nhảy vào”. Để tưởng nhớ về nhà thơ về bài Từ thế chi ca của ông. Trên khắp Nhật Bản nơi nào Basho đi qua dường như đều được dựng lên những tấm bia kỉ niệm và đã có hơn 300 tấm như thế, thường thì những tấm bia có khắc các bài thơ haiku của Basho. 1.2.2. Sự nghiệp sáng tác Cả đời thiền sư Basho gắn liền sự nghiệp sáng tác với những bước đường phiêu lãng du hành khắp nơi làm cảm hứng sáng tác. Những trang bút ký và những bài thơ haiku huyền bí để lại cho hậu thế. Sau khi nhà thơ mất đi, một số đệ tử của ông đã tập hợp các bài thơ của ông thành Basho shi chi bu shu (Ba tiêu thất bộ tập) tức là bảy tác phẩm. Sự nghiệp sáng tác của nhà thơ Basho để lại cho đời là: Ngày đông (1684), Cánh đồng hoang (1689), Áo tơi cho khỉ (1691), Bao đựng than (1694), Du kí Lang thang đồng nội (1685), Đoản văn trong đẫy (1688), Nẻo đường Đông Bắc (1689)… góp phần đưa Basho thành bậc vĩ nhân của văn hóa Nhật Bản: “Nước Nhật sinh ra cùng với Basho vào năm 1644. Ông chính là người sáng tạo ra linh hồn của Nhật Bản”. II. THƠ HAIKU BASHO - BỨC TRANH THIÊN NHIIÊN BỐN MÙA LUÂN CHUYỂN Trong mỗi bài thơ haiku, thiên nhiên hiện lên với mọi vẻ đẹp vốn có của nó từ cái ban sơ, mộc mạc đến những gì tinh tú kiêu sa lộng lẫy đầy quyến rũ cũng như sắp đi vào phai tàn và gợi lên những rung cảm sâu xa trong lòng người. Mỗi bài thơ là một bức tranh hương sắc bốn mùa rực rỡ với những nét vẽ tươi đẹp hồn nhiên, trữ tình nồng thắm. 2.1. Thiên nhiên đẫm màu sắc Thơ haiku được ví như bức tranh bốn mùa của Nhật Bản, mỗi bài thơ đều gắn liền với hình ảnh thiên nhiên. Và thiên nhiên trong thơ Haiku cũng thật đa dạng và phong phú, khi thì nó được hiện lên và khắc họa rất rõ nét, khi thì lại lung linh, mờ ảo như những con sóng mặt hồ. Mỗi bài thơ là một bức tranh tuyệt mỹ, những tác phẩm kiệt xuất ấy là kết quả của một đời lãng du trên bước đường hành giả, làm lữ nhân phù thế. Thiên nhiên trong thơ Basho thật tươi đẹp hồn nhiên trữ tình nồng thắm. Điều này đã được thể hiện rõ trong những bức tranh thiên nhiên mang đậm màu sắc luân chuyển theo từng mùa. 2.1.1.Bức tranh mùa xuân. Trong tiềm thức của con người phương Đông thì mùa xuân là mùa của nhựa sống tràn trề, cây cối đâm chồi nảy lộc. Mùa xuân luôn mang đến cho thi sĩ nguồn cảm hứng dồi dào để sáng tác những vần thơ bất hủ. Chứa đựng trong những vần thơ mượt mà ấy lại là một chiều sâu suy nghĩ hay những triết lí nhân sinh vô cùng quý báu. Đứng trước những cảnh sắc của thiên nhiên trong mùa xuân nhà thơ Basho từng viết: Một đám mây hoa Chuông đền Ueno vang vọng Hay đền Asakasa Chuông chùa vang vọng gợi cho người đọc thấy đựơc sự trang nghiêm, cổ kính, trầm mặc và có phần cô tịch của những ngôi đền nằm trên đỉnh núi vào mùa xuân. Tiếng chuông vang lên phá tan sự ngưng đọng, yên tĩnh của không gian. Đồng thời cũng phá tan sự yên tĩnh trong tâm tưởng con người, trong lòng Basho, khiến dòng suy tưởng ấy như chùng lại. Không gian mùa xuân ở đây là không gian tầng bậc: không gian có chiều cao của “đám mây hoa”, có độ rộng và xa của tiếng chuông vang vọng và không gian ấy đựơc biến chuyển từ trạng thái tĩnh sang động chính bởi âm thanh chuông chùa. Bức tiểu hoạ này thật nên thơ nhưng cũng mang đậm thiền tính.Một bức tranh mà mọi sự vật xuất hiện trong tranh đều đang cựa quậy, biến đổi. Thiên nhiên, con người và vũ trụ cùng biến đổi. Cái động của thiên nhiên đang bừng lên sức sống, tiếng động của âm thanh là sự mời gọi lòng rạo rực, háo hức của con người phải hành động.Trong bài thơ, thiên nhiên khoác trên mình vẻ đẹp thanh tao, trầm mặc, con người đi tìm và tôn thờ vẻ đẹp ấy. Như vậy vẻ đẹp thiên nhiên của đất nứơc Nhật Bản vào mùa xuân mang vẻ đẹp trầm mặc và tráng lệ, đó cũng chính là vẻ đẹp của đời sống tâm linh. Một khi con người cảm nhận được những giá trị cũng như những điều bình dị nhất đó thì họ sẽ hành động để quay trở về với thiên nhiên, quay về với cuộc sống hiện tại và bản thể những nét văn hoá tâm linh. Đi qua thơ haiku mùa xuân của Basho ta như bước lên những thảm cỏ xanh, phảng phất đâu đó hương thơm của những cánh hoa anh đào, tai nghe đầy tiếng chim tước, lòng như tràn đầy hơi thở của sự sống. Không gian mùa xuân trong thơ haiku Basho ấm áp, tươi vui…tất cả được giăng mắc trên khắp cành cây, ngọn cỏ, tràn lan khắp mười phương, phảng phất khắp thiên - địa - nhân. 2.1.2. Bức tranh mùa hạ Nói tới mùa hạ ta liên tưởng tới sức nóng của thời tiết, tới những hình ảnh thân thuộc, gần gũi như Furin (chuông gió), hanabi (pháo hoa), cảnh bình minh, nhưng có lẽ hình ảnh đặc trưng và đầy đủ nhất của một mùa hè đầy nắng và gió, đó là hình ảnh của một loài côn trùng (semi) hay còn gọi là ve sầu. Đa số người dân Nhật Bản cho rằng, tiếng kêu của loài ve sầu có thể làm cho mùa hạ sinh động hơn, có sức lôi cuốn hơn, song ve sầu vẫn là biểu hiện của một cuộc đời ngắn ngủi. Chúng kêu suốt thời gian nghỉ ngơi để mong có thể giữ lại khoảng khắc đẹp nhất trong cuộc đời mình. Tiếng ve mải kêu không hề để lộ cái chết cận kề Ở đây Basho không đi miêu tả chú ve mà dừng lại ở tiếng ve “mãi kêu”. Một đặc tính của ve sầu là kêu râm ran, dường như không ngừng nghỉ khi hạ tới, tiếng ve làm cho mùa hạ như náo nhiệt hơn, bầu trời thêm căng tràn, mây xanh trong và nắng vàng rải khắp nơi nơi. Nhưng rồi cũng chính tiếng kêu đó lại báo hiệu một vòng đời mới cho chú, sau hạ chú phải lột xác, điều đó cũng đồng nghĩa với cái chết. Nhưng chú không quan tâm tới điều đó, điều chú quan tâm là tác dụng, ý nghĩa tiếng kêu của mình với đời sống con người. Chú ve nhỏ bé nhưng cũng có tâm hồn, cũng biết nghĩ tới giá trị sống như con người vậy. 2.1.3. Bức tranh mùa thu Trong một dàn nhạc nếu mùa xuân mang đến tiếng nhạc tươi vui, mùa hạ mang đến cung đàn réo rắt, thì mùa thu lại mang đến những tiếng nhạc trong trẻo nhất. Thu đến với cảm giác se lạnh, dường như nhận thấy đựơc mọi thứ đang dần ngưng đọng lại. Những làn gió nhẹ, những lá vàng lác đác, đám lá khô xào xạc, cánh cúc ngây thơ, sắc phong rủ đỏ…tất cả tạo nên sắc thu riêng biệt, đặc trưng không thể lẫn lộn. Con người và thiên nhiên trong thơ Haiku nói chung và thơ Haiku Basho nói riêng luôn hoà điệu với nhau. Khi không gian nhuốm màu thu thì tất cả hiển hiện trước mắt như một minh chứng. Nhà thơ Basho của chúng ta từng thừa nhận: Trăng thu suốt đêm tôi dạo loanh quanh bên hồ hay ông cũng từng viết về hình ảnh em bé trong đêm thu: em bé nhọc nhằn trong khi xay gạo vẫn nhìn lên trăng Cuộc sống chất chứa biết bao điều phải lo toan, suy nghĩ, đó là quy luật với bất kì con người nào khi đựơc sinh ra trên đời này. Trong sự hối hả của cuộc sống sẽ có một thời khắc nào đó ta cảm thấy mệt mỏi, chán chường…có lẽ nơi mà ta muốn hướng mình tới nhất đó chính là thiên nhiên. Dù là ở trạng thái nào thiên nhiên cũng làm giúp ta lấy lại thăng bằng, sự thoải mái, thanh tịnh trong tâm hồn. 2.1.4. Bức tranh mùa đông    Mỗi mùa ở Nhật Bản có một đặc trưng riêng, mùa đông bao phủ bởi một gam màu trắng tinh khiết của tuyết. Đất trời chuyển lạnh, đối nghịch với cái oi ả của ngày hạ sang. Tâm hồn Basho không bỏ lỡ cơ hội đó để đặt nét bút chấm phá lên nền trời. Mùa đông vò võ thế gian một màu và âm thanh gió   Đông sang, mọi vật từ cành cây, đường phố, nhà cửa… đều trở thành những nét vẽ trên nền tuyết trắng. Tuyết tràn ngập khắp nơi…gợi lên cho con người cảm giác lạnh lẽo nhưng lại cũng đem lại cảm nhận của sự thuần khiết, tinh khôi. Người Nhật mong chờ đông tới, mong những bông hoa tuyết rơi rơi, tràn ngập khắp nơi để có thể đùa nghịch cùng tuyết trắng, và cũng chính trong cái tiết trời lạnh giá đó thì con người mới có thể cảm nhận hết được sự ấm áp. 2.2. Thiên nhiên và những nỗi niềm sâu kín Trên bước đường gió bụi, thiên nhiên là người bạn thân thiết, luôn kề vai sát cánh cùng nhà thơ Basho. Với nhà t1hơ, thiên nhiên là hiện thân của cái đẹp. Cái đẹp của núi, sông, cỏ cây, tuyết, trăng, hoa... thấm sâu trong lòng người bằng tình cảm thân thương nhất. Người yêu thiên nhiên bằng tình cảm chân thành của một "lữ nhân phù thế". Thiên nhiên cũng chính là hình ảnh quê hương đất nước. Trên từng bước chân đi trong lòng thiên nhiên, trong lòng vũ trụ, thời gian trôi bằng "sứ giả" các  mùa thay nhau về ngự trị, thi nhân Basho không tránh khỏi bùi ngùi nhớ về một cái gì xa xôi trong sâu thẳm tâm hồn về một miền quê mà ông đã từng gửi thân qua cuộc đời gió bụi. Đó là nỗi nhớ quê hương không nguôi. Nghe tiếng chim đỗ vũ ở kinh đô mà nhớ kinh đô. (Đoàn Lê Giang dịch thơ) Basho đang ở kinh đô nghe tiếng chim đỗ vũ (chim đỗ quyên) hót, lòng bâng khuâng nhớ về quê cũ. Ở kinh đô này lại nhớ kinh đô xưa - kinh đô của ký ức một thời đã xa, đã vĩnh viễn mất đi chỉ còn đọng lại trong nỗi nhớ khi nghe tiếng chim kêu báo hiệu mùa hè. Và bất chợt khi nghe tiếng chuông vang lên đâu đó, ông cũng tưởng đó là tiếng chuông ở ngôi đền của quê hương: Hoa đào như áng mây xa chuông đền Ueno vang vọng hay đền Asakusa. Tiếng chuông lòng lúc nào cũng vang trong ông. Tình yêu quê hương của Basho thật dịu dàng mà thâm trầm sâu lắng như tiếng chuông, như "áng mây hoa", hình ảnh quê hương luôn đẹp, luôn gần gũi trong trái tim nhà thơ. Ở cố đô Nại Lương hoa cúc và tượng phật cổ ngạt ngào hương. (Đoàn Lê Giang dịch thơ) Tình yêu quê hương của nhà thơ mang chút màu sắc thiền tông pha với mỹ cảm truyền thống của người Nhật Bản, đọng lại trong ông là sự cô đơn hư không và tiếng reo vui khi gặp cuộc sống thanh bình. Tình yêu quê hương ẩn hiện trong niềm vui khi Basho nhìn thấy cuộc sống lao động bình dị của người nông dân. Đi hái cải củ cậu bé con kia được ngồi lưng ngựa. Đó là hình ảnh em bé sung sướng khi được "ngồi lưng ngựa". Hay: Người chèo thuyền ống điếu ngậm trong miệng gió mùa xuân lên. Và hơn thế nữa là hình ảnh của một em bé dù làm việc mệt nhọc vẫn ngắm trăng. Đó là tình yêu thiên nhiên và hướng đến với thiên nhiên. Em bé nhọc nhằn trong khi xay gạo vẫn nhìn lên trăng. Những cuộc sống bình dị, đơn sơ, cơ cực của người dân lao động nghèo trên quê hương ông đi qua đã để lại trong ông bao tình cảm mặn nồng về quê hương, đất nước. Bên cạnh nỗi nhớ quê hương tha thiết, thơ Basho còn mang nỗi nhớ về gia đình người thân. Đó cũng là hình ảnh bé nhỏ của quê hương trong ông. Chính tình cảm ấy là sợi dây kết ông với người thân, gia đình và quê hương. Trên bước đường du hành, ông quay lại thăm quê, thăm bạn bè hay nhớ họ ngay cả trên đường đi. Mùa thu âm u người hàng xóm ấy sống như thế nào ? Mùa thu về, nhà thơ nhớ về người hàng xóm đã bao năm xa cách, không biết bây giờ người ấy sống ra sao ? Nhìn mùa xuân qua hình bóng cố nhân ở quê cũ Omi cũng đọng trong trái tim ông. Mùa xuân qua đi sao cứ nhớ mãi người ở Omi. Đặc biệt khi ông về thăm quê và hay tin người mẹ kính yêu đã qua đời. Gió bụi như ngừng thổi trong ông: Lệ trào nóng hổi trên tay tóc mẹ làn sương thu. Những giọt lệ nóng hổi của đứa con tha phương nay trở về rơi xuống bàn tay đang cầm một mớ tóc bạc - kỷ vật người mẹ hiền để lại - của người mẹ đã khuất, đọng lại như những giọt sương thu. Chẳng biết "sương thu" là vì nước mắt đọng trên mái tóc nhuộm màu sương của mẹ, hay nước mắt người con như sương mùa thu, hay cuộc đời như giọt sương thu sớm tan trong nắng gió cuộc đời. Sương thu là hình ảnh thiên nhiên đất trời. Mẹ mất đi như sương thu tan vào đất trời. Trong thiên nhiên đất trời có mẹ, mẹ mênh mông, bao la như thiên nhiên đất trời trong lòng nhà thơ. Thời gian qua đi, ngoảnh nhìn lại mình Basho cảm thấy mình đã già trước cuộc đời phù thế. Trong mùa thu này ta già biết mấy ôi chim và mây. Basho thấy mình đã già nhưng những giấc mơ rong ruổi theo chim và mây vẫn còn đó. Ước vọng ông trao cho cây liễu. Vì nhà thơ đã tìm thấy niềm vui, sự thanh thản khi kết bạn cùng cây liễu. Còn những bận bịu của cuộc sống (niềm vui và nỗi buồn), nhà thơ quên đi. Trao cho cây liễu mọi điều ước vọng mọi điều chán chê. Basho sinh ra là để gắn với thơ haiku, gắn với "lữ nhân phù thế" nên ông càng phải đi để thực hiện ước vọng bay cùng chim và mây, để đến với những đồng cỏ đầy hoa: Vương trái tim tôi ngang con đường núi đồng thảo nở hoa tươi. III. THƠ HAIKU – NHỮNG CHIẾC GƯƠNG SOI VĂN HÓA NHẬT 3.1. Tình yêu thiên nhiên và sự trân trọng những điều bình dị trong cuộc sống Với mọi vẻ đẹp vốn có của mình, thiên nhiên trong thơ Basho là những hình ảnh thật bình dị, nguyên sơ và hùng vĩ. Trong thơ, hình ảnh thiên nhiên không chỉ có: tuyết, trăng... đến các loài hoa dại, bùn, cỏ..., các loài chim đỗ quyên, chim sẻ... còn có cả chấy, ruồi, muỗi, rận, ... Basho đưa chúng vào thơ rất tự nhiên y như những gì mắt ông trông thấy. Ông không hề có sự chọn lựa cảnh kiêu sa, lộng lẫy. Vì vậy, thiên nhiên hiện lên thật hồn nhiên trong cái trong trẻo và nguyên sơ của nó. Dòng thác trong giữa làn sóng bạc trăng mùa hạ lên. Hay bản dịch khác Trăng mùa hè chiếu lên sóng không bụi dòng Sông Trong. (Đoàn Lê Giang dịch thơ) Đấy là hình ảnh dòng thác, hay dòng Sông Trong (Kiyotaki), trong sạch không bụi, lấp lánh sóng bạc khi trăng mùa hạ lên trông thật nguyên sơ, thanh sạch. Một bức tranh tuyệt đẹp của dòng sông lấp lánh dưới trăng mùa hạ. Bên cạnh những dòng sông, dòng thác là những ngọn đồi, hòn đảo vô danh tình cờ trên đường đi ngang qua ông bắt gặp. Mùa xuân đến rồi vô danh ngọn đồi ấy sáng nay khoác áo sương mù. Đó là hình ảnh một ngọn đồi bao phủ bởi sương mù mùa xuân hay một hòn đảo cô liêu, không tên hiện ra trong tiếng chim cu kêu não lòng. Tiếng cu kêu biến tan về phía hòn đảo cô liêu. Thiên nhiên trong mắt Basho mang vẻ đẹp nguyên thủy, sơ khai. Nếu Basho so với Nguyễn Trãi (Việt Nam) cũng hay viết về đề tài thiên nhiên hoang sơ hùng vĩ thì cả hai có điểm tương đồng. Nguyễn Trãi tả thiên nhiên bằng những vần thơ: Thanh Hư trúc mọc như rừng Thác bay phơi phới như gương lạnh người Đêm qua trăng lẫn nước trời Ta mơ cưỡi hạc lên chơi tiên đàn. Động Thanh Hư của Nguyễn Trãi cũng trong vắt nguyên sơ dưới ánh trăng như sông Kiyotaki hay đảo Sado, thác Mogami. Hình ảnh thiên nhiên cũng mang vẻ đẹp hùng vĩ, mênh mông. Không chỉ có Basho mà các nhà thơ yêu thiên nhiên đều có thể tìm ra vẻ đẹp trong thiên nhiên một cách giản dị và tự nhiên: Dục Thúy mưa tan non tựa ngọc, Đại An triều dậy nước ngang trời (Dục Thúy vũ tình phong tự ngọc Đại an triều trướng thủy như thiên) Vọng doanh Hình ảnh thiên nhiên thanh sạch, hoang sơ khiến Basho mong được trở về với thiên nhiên để cảm nghiệm cái đẹp mà nhà thơ muốn tìm cho mình và cho thơ ca. Ta muốn ngà say ngủ mơ trên đá hoa cẩm chướng đầy. Thiên nhiên trong thơ Basho còn là những hình ảnh gần gũi quen thuộc quanh ta, nó hiện diện một rất hồn nhiên, khiêm tốn, bé bỏng dễ thương: Trên thân nấm rơm chiếc lá từ đâu đến vẫn còn nằm yên. hay đơn giản là hình ảnh chú chuồn chuồn kiên trì vượt qua gian nan để tồn tại mà cố bám víu cho được trên ngọn cỏ rung rinh theo gió. Con chuồn chuồn đậu mãi mà không  được trên ngọn cỏ gió rung. hình ảnh một con cua nhỏ đang bò dưới dòng nước trôi chảy vô tình. Dù cuộc sống khắc nghiệt, cua vẫn bám víu lấy sự sống, cố bò lên bờ để khỏi bị nước cuốn trôi và đã bò lên chân thi nhân. Dưới làn nước trôi có con cua nhỏ bò lên chân tôi. Những hình ảnh bình thường ta gặp trong cuộc sống. Ta thấy nó luôn được xuất hiện trong thơ haiku của nhà thơ Basho. Nó được đưa vào thơ bởi cảm thức thẩm mỹ truyền thống về cái đơn sơ, bình dị, mộc mạc... của tự nhiên. Tóm lại, hình ảnh thiên nhiên ta gặp trong thơ Basho với vai trò là "quí ngữ" nhưng nó chứa đựng vẻ đẹp đơn sơ, dung dị, nguyên thủy... trong từng câu chữ. Nó chứa đựng bao tình cảm với thiên nhiên của nhà thơ Basho. Thơ haiku là thơ ca của thiên nhiên vạn vật. 3.2. Cảm thức thẩm mỹ truyền thống Nhật Bản trong thơ haiku Trong tập quán văn hóa đất nước nhật bản “cảm thức thẩm mỹ truyền thống” đã ngấm sâu vào máu thịt của mỗi con người và nó luôn được đưa lên hàng đầu. Người Nhật tôn thờ cái đẹp trong nghệ thuật lẫn thiên nhiên. Họ quen nhìn nhận mọi cái thông qua cảm xúc riêng tư, ngay cả khi lẽ ra phải quan sát một cách tỉnh táo, khách quan hơn. Tình yêu đối với cái đẹp, dĩ nhiên mọi dân tộc khác đều có, nhưng ở người Nhật, đó là một bộ phận không thể tách rời với truyền thống dân tộc. Thơ haiku Basho cũng như toàn bộ thơ văn Nhật đều thấm nhuần tính văn hóa này. Phát hiện và khẳng định những cái đẹp hiện hữu trong những sự vật bình thường của đời sống là một trong những nguyên lý thẩm mỹ của thơ Haiku. Những cảm thức thẩm mỹ này thể hiện cái nhìn của các thi sĩ Haiku trước hiện thực mang đậm màu sắc Thiền tông gắn với thiên nhiên và con người. Trong thơ Haiku, các cảm thức thẩm mỹ như Sabi (tịch), Wabi (đà), Aware (bi ai) và Karumi (khinh) được thể hiện rất rõ nhằm diễn đạt những yếu tố tâm linh, bởi thơ haiku là thơ của “kinh nghiệm của cảm thức, của trực giác tâm linh”. 3.2.1. Cảm thức Sabi. Sabi (tịch) là cảm thức nổi trội của thơ Haiku và thể hiện tập trung nhất tư tưởng của Thiền tông. Sabi là linh hồn của tịnh liêu, là cảm thức về sự tĩnh mịch sâu xa của sự vật, nhìn thấy chúng tự bộc lộ những điều kỳ diệu. Sabi là cô đơn nhưng là “niềm cô đơn huy hoàng”, là cảm thức hùng tráng chứ không phải là cô đơn cá nhân, không mang tính bi lụy. Nó là sự tĩnh mịch không có giới hạn. Khi con người và sự vật ở trong cảnh cô liêu, tĩnh lặng sâu xa chính là lúc tất cả đã chìm vào hư vô, thoát khỏi bản ngã để tiến vào trạng thái vô ngã. Và như vậy, Sabi là niềm cô tịnh vô ngã. Nhà thơ Basho đã đẩy cảm thức Sabi đạt đến đỉnh điểm trong một bài Haiku nổi tiếng: Cánh quạ ô Trên cây héo hắt Trên cây héo hắt Bằng những nét phác thảo, thi sĩ Basho đã vẽ nên một bức tranh mùa thu mang tính điển hình cao độ: tiêu điều, xơ xác, buồn tẻ... Sự im lìm của cánh quạ đen, sự héo hắt của cành cây khô và sự tĩnh mịch của chiều thu là hiện thực tạo thành cái sâu thẳm, vô hạn của cảm thức Sabi. Trong đó sự tương phản tương đồng được nhà thơ sử dụng hợp lý. Cả ba sự vật: con quạ, cành cây khô và đêm thu có sự đối lập nhau tạo thành một khung cảnh thật ảm đạm cô tịch. Nếu con quạ, cành cây khô là cái hữu hạn thì đối lập với nó là cái vô hạn “đêm thu”. Bài thơ tạo nên một nỗi buồn quạnh hiu của một mảng thiên nhiên và biết đâu, đó cũng chính là sự xót xa buồn tủi của chính Basho trước thế thái nhân tình đầy rẫy những chết chóc, bi thương của xã hội đương thời. 3.2.2. Cảm thức Wabi Nếu cảm thức Sabi là tâm điểm gắn với tư tưởng Thiền tông thì Wabi (đà) lại gần gũi với các sự vật bình thường hơn. Wabi là một khái niệm của Phật giáo Thiền tông nói đến sự cảm nghiệm về sự thanh bình an lạc, sự dung dị nhưng thanh cao của cuộc sống con người và sự vật. Cũng mang ý nghĩa cô đơn nhưng nếu Sabi nghiêng về cảm xúc thẩm mỹ thì Wabi lại nhằm ám chỉ đến điều kiện sống và tình cảm của con người và sự vật hơn. Đó là những cảm nhận bất ngờ về những cái “như thế” của sự vật tưởng chừng như rất nhỏ nhoi như con ốc nhỏ, một chiếc lá rơi, một giọt sương mai... Cũng như con quạ đậu cành khô, con ếch nhảy xuống ao, tiếng ve thấm xuyên vào đá, thi sĩ mô tả cánh con chim gõ kiến đang gõ vào sự cô tịch cái nhịp điệu bình thường của cuộc sống: Mái lều im Một con chim gõ kiến Gõ ngoài trụ hiên. Trong sự lặng im của mái lều và cái trụ hiên bỗng vang lên tiếng chim kiến đang gõ vào trụ hiên hay gõ vào không gian vắng lặng? Sự hiện diện của loài vật đang hoạt động là một điều tự nhiên được thi sĩ cảm nhận một cách tinh tế tạo nên cảm xúc thẩm mỹ ở người đọc. 3.2.3. Cảm thức Aware Cảm thức Aware là một khái niệm thuộc phạm trù mỹ học xuất hiện khá sớm liên quan đến quan niệm của Phật giáo được văn chương Nhật sử dụng khá rộng rãi. Ngay từ thế kỷ XI, trong thơ cổ và trong tiểu thuyết Truyện Genji (Murasaki), nhiều tác giả đã nói đến Aware. Aware (bi ai) là niềm bi cảm, xao xuyến trước mọi vẻ đẹp của sự vật. Nó tương tự như một âm vang vọng lại khi những gì đã qua, sắp qua sẽ tác động vào thế giới hiện hữu bằng một âm thanh nào đó. Nhưng nó không nghiêng về cái bi lụy ngông cuồng của lãng mạn hay nỗi bi tráng ngây ngất của bi kịch mà Aware là một bi cảm thâm trầm. Trước cái chết của một người bạn, Basho viết: Trăng rụng rồi Bốn góc bàn quen thuộc Còn lại mà thôi. Ở đây, sự mất mát đối với thi nhân quá lớn nhưng tác giả không hề nói đến từ “chết” mà dùng những sự vật quen thuộc thường ngày để diễn tả sự ra đi của bạn. Như vậy, đây là bài ca bi ai về cái chết của một người bạn. Trăng rụng là nói đến cái chết ấy. Nhưng bốn góc bàn, nơi người ấy thường ngồi vẫn còn lại như tất cả những cái khác vẫn còn tồn tại trên cõi đời. Đây không phải nói đến cái bi kịch của con người mà là sự cảm nhận của thi sĩ về sự sống và cái chết cũng đơn giản, bình dị như bốn góc bàn ấy. Trong cuộc đời, mất và còn, khoảnh khắc này và khoảnh khắc khác, con người ra đi còn sự vật gần gũi thì ở lại... tất cả là niềm bi cảm của con người. Từ cảm thức về sự cô tịch (sabi) đến nhận ra cái đẹp ở sự bình dị, thanh thoát (wabi) và khẳng định cái thanh cao, ung dung (karumi) trong con người và sự vật là những biểu hiện của sắc thái thẩm mỹ mang dấu ấn Thiền tông trong thơ haiku nói chung, đặc biệt trong thơ haiku của Basho. Đời sống văn hóa Nhật Bản thấm đậm tính chất Thiền tông. Điều này không chỉ thể hiện trong văn học nghệ thuật, (đặc biệt trong thơ Haiku) mà cả trong đời sống văn hoá tinh thần của người Nhật Bản từ xưa đến nay. Đặc điểm này góp phần tạo nên nét bản sắc của văn hoá Nhật Bản trong suốt chiều dài của lịch sử dân tộc. 3.2.4. Cảm thức Karumi Karumi (khinh) bắt nguồn từ chữ karushi, nghĩa là nhẹ nhàng, thanh thoát. Nó dung hợp giữa tính chân phương trong phong cách và sự tinh tế trong nội dung. Karumi được nói đến như một phong thái ung dung, tự tại. Chính tâm thế đó đã tạo nên ở các thi sĩ haiku có cái nhìn rất hiện thực khi phản ánh cuộc sống và thấy được vẻ đẹp của con người và sự vật dẫu cho nó bé nhỏ và tưởng chừng như bị quên lãng. Một đoá phù dung cũng đủ góp phần tạo nên hương sắc của mùa: Mưa mù sương Phù dung một đoá Làm mùa lên hương. (Basho) Phát hiện từ trong những cái bình thường, cái đẹp bình dị, e ấp thể hiện ý nghĩa nhân sinh cao thượng cũng là một cảm thức mang tính karumi. Con người phải biết chiêm ngưỡng cái đẹp để vơi đi những khổ đau nhọc nhằn của cuộc sống phức tạp, bề bộn thường ngày. Karumi thường mang đến cho người đọc những cảm thức nhẹ nhàng, thanh thoát thông qua những khám phá xung quanh đời thường. Trong cuộc sống, con người bị cuốn hút vào vòng danh lợi, đam mê danh vọng mà quên mất những cảm xúc lãng mạn và những phút giây thần tiên, thăng hoa của cuộc đời. Nhà thơ Basho đã nhắc hộ mọi người rằng, phải có những giây phút để cho tâm hồn lắng đọng, siêu thoát thì mới cảm thức được cái đẹp của thiên nhiên: Qua cánh cổng con Hoa đào ta gặp Cả trong lẫn ngoài. 3.3. Vị thiền trong thơ Haiku 3.3.1. Quan niệm về “Thiền” của người Nhật Đối với người Nhật, “Thiền giúp họ thấu đạt được ý nghĩa của hiện hữu họ đang sống”. Những người tu thiền luôn nuôi khát vọng thấu đạt những mãnh lực kì bí của thiền. Nếu chúng ta tìm câu trả lời cho “Thiền là gì” một cách đầy đủ và trọn vẹn là chúng ta đã vi phạm tinh thần của thiền. Hay nói khác đó là “phi Thiền”. Bản chất của Thiền là nằm ngoài các định nghĩa, các khái niệm và cả giải thích. Thiền có khái niệm nhưng không mô tả hoàn chỉnh bằng lời. Ta chỉ biết đó là một trạng thái tĩnh tâm, một cách tu để thấu đạt giáo lí Phật giáo. Người Nhật quan niệm về Thiền: đó là cái “hư - không” tức không có gì mà có tất cả, có tất cả cũng có nghĩa là không có gì, tức “phi hữu diệc phi không” (chẳng phải có cũng chẳng phải là không). Cốt lõi của thiền là cái ta chỉ có thể cảm nhận bắng tâm thức tức bằng cảm giác yên tĩnh tinh thần, thanh thản trong tâm hồn. Nó là sự “giác ngộ”. Để diễn đạt Thiền nhà họa sĩ dùng nét vẽ như vòng tròn Enso thường thấy trong các bức thư họa Nhật Bản. Chỉ một vòng tròn thôi, nhưng bằng cảm nhận của Thiền người ta có thể hiểu được ý nghĩa sâu xa của nó. Một võ sĩ chỉ có thể biểu diễn Thiền bằng một “đường kiếm”. Và một nhà thơ thể hiện tinh thần Thiền ngay trong những bài thơ của mình. Thơ haiku Basho thấm đậm chất Thiền. Khi đọc tác phẩm ta nên dùng thế giới tâm linh cảm nhận chứ đừng cố tìm lời phân tích lí giải bằng lí trí sẽ sai nguyên tắc và lạc hướng của Thiền. Vậy, Thiền chính là một cảm nhận bằng tâm linh và truyền đạt nó bằng tâm linh không lí giải. Đó là sự im lặng, tĩnh tâm. 3.3.2. Thơ haiku thấm đẫm chất Thiền Văn hóa Nhật Bản thấm đẫm tinh thần Thiền tông. Văn học Nhật cũng chịu ảnh hưởng rất nhiều của thiền, có thể nói theo một khía cạnh nào đó thì văn học Nhật Bản dựa trên trực ngôn cảm tính của thiền. Nó không nhấn vào văn tự như một công cụ nên nhiều khi cũng không cần trau chuốt mà cái đẹp toát lên rất tự nhiên. Văn học Nhật Bản dựa trên nền của thiền nên rất khó đối với người cảm nhận. Đôi lúc đối diện với tác phẩm người ta có thể cảm nhận mà không thể giải thích được. Văn học Nhật Bản cũng thấm đẫm mỹ cảm Nhật Bản nên đòi hỏi người cảm thụ đôi lúc phải vượt ra khỏi bản ngã của mình, thoát khỏi tư duy lý tính, tiếp nhận bằng cái tâm cảm hóa tinh tế sâu sắc và lòng rộng lượng. Thơ Basho là một sản phẩm tinh thần quý giá của đời sống văn hóa xứ Phù tang, là một thể thơ đặc biệt trong thơ cổ truyền Nhật Bản, trong nó chứa đựng sự kết hợp của truyền thống Thần đạo và Thiền tông thông qua mỹ cảm Nhật Bản. Thơ Haiku được xem là thơ thiền chứa “quý ngữ”. Các hình ảnh thiên nhiên trong thơ Basho nhuốm màu Thiền đậm nét nên thoáng đôi lúc ta thấy nó toát lên vẻ đẹp tự nhiên không ngờ. Phần lớn các nhà thơ Haiku đều là các Thiền sư. Chính những nhà thơ Thiền sư này đã đưa Thiền vào thơ. Vì thế, họ nhìn đời với con mắt nhà sư nhưng bằng tâm hồn của người nghệ sĩ. Cho nên đối với họ, thơ với đời, đời với thiên nhiên là một, trong sự gắn kết mật thiết. Họ luôn thể hiện một tinh thần Thiền kết hợp thâm sâu với mỹ cảm Nhật Bản trong từng bài thơ haiku. Đây là điểm xuất phát để giải thích vì sao thơ Haiku thấm đẫm chất Thiền. Chính điều này góp phần tạo nên tính đặc sắc của thơ Haiku và khiến nó trở thành một thể thơ độc đáo mang phong vị Thiền. Mỗi bài thơ được ví như một chiếc gương soi rọi thiên nhiên của bốn mùa và tâm hồn của nghìn đời. KẾT LUẬN Đảo quốc Nhật Bản với nền văn hóa độc đáo có thể làm ngạc nhiên và hấp dẫn đặc biệt người xứ khác. Những tác phẩm Văn học Nhật Bản thâm trầm sâu lắng như tính cách người Nhật nhưng lại chứa đựng những ý nghĩa lớn lao mang tính nhân loại. Basho là một thiên tài lỗi lạc của dân tộc Nhật Bản, người đưa thơ haiku lên đỉnh cao thi ca dân tộc và vươn mình ra thế giới: “haiku đã vươn xa ra ngoài biên giới Nhật, trở thành một dòng thơ của thế giới, ảnh hưởng đến thơ ca hiện đại”. Băng qua hàng vạn dặm không gian, hàng thế kỉ thời gian, Haiku ngày nay không chỉ là “quốc hồn”, “quốc túy” của Nhật Bản mà còn là một thể thơ mang tính quốc tế. Vượt qua những dào cản về ngôn ngữ, văn hóa, Haiku đã chạm đến vỉa tầng sâu kín nhất của hồn người, bởi cuộc sống hiện đại dù ồn ào, náo nhiệt đến đâu di chăng nữa con người ta cũng cần những khoảng lặng, những thời khắc bình yên. Và thơ Haiku đã gợi ta nhớ lại nhịp rung của vũ trụ vô hình mà chúng ta thường lãng quên. Bên cạnh đó Thơ Basho còn mang một giá trị thẩm mỹ rất cao và độc đáo, nó ẩn chứa nhiều ý nghĩa sâu sắc. Thơ ông chứa đựng tình yêu thiên nhiên, yêu đất nước, yêu con người và cuộc sống sâu sắc. Thiên nhiên trong thơ ông là những bức tranh văn hóa độc đáo và mang đậm tính dân tộc, trong nhịp sống hối hả, xô bồ hiện nay chúng ta rất cần những khúc ca trữ tình sâu lắng, những bài ca đẹp có xen lẫn những nốt nhạc buồn để xua tan đi những mệt nhoài và âu lo. Đọc thơ Basho ta cảm thấy tâm hồn mình như thanh thản, yêu đời và yêu cuộc sống hơn, để mở rộng lòng mình, để thấy cuộc đời thật đẹp.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc272i nt v7873 th417 Haiku v nh th417 Basho.doc