Đề tài Giải pháp cơ bản nhằm tạo lập vốn kinh doanh của các doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam hiện nay

Trước đây các doanh nghiệp Nhà nước tại Việt Nam hầu hết đều có cơ sở hạ tầng còn yếu kém so với các quốc gia khác. Tại Việt Nam nếu đánh giá về cơ sở hạ tầng theo quan điểm nhận xét của những người nước ngoài thì số doanh nghiệp Nhà nước có cơ sở hạ tầng đạt tiêu chuẩn chỉ đếm trên đầu ngón tay. Đây là một thực trạng cần phải giải quyết để có thể tạo tiện nghi cho nhân công, công chức làm việc. Tạo sức hấp dẫn của môi trường làm việc cũng như uy tín của doanh nghiệp để có thể thu hút, lôi kéo được nhiều nhà đầu tư hơn hay những nhân tài của xã hội. Vấn đề điện, nước, giao thông vận tải, và các bộ phận khác đều gây rất nhiều khó khăn cho hoạt động của các doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam hiện nay. Tình trạng chưa cung cấp đầy đủ điện, nước cho các doanh nghiệp đang là một vấn đề cần đặt ra cho các cấp Trung Ương lẫn địa phương nơi có doanh nghiệp đóng trụ sở. Bên cạnh đó, giao thông thì thường xuyên có ắch tắc ở một số các thành phố lớn như Hà Nội, hệ thống đường sá còn yếu kém. Vì vậy, cho nên các doanh nghiệp Nhà nước chưa thực sự hoạt động một cách có hiệu quả.

doc37 trang | Chia sẻ: haianh_nguyen | Lượt xem: 1326 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp cơ bản nhằm tạo lập vốn kinh doanh của các doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
y mô vốn các bên đối tác tham gia đóng góp phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau như : Luật pháp, đặc điểm ngành kinh tế - kỹ thuật, cơ cấu liên doanh. Trong nền kinh tế thị trường hiện nay thì đây là loại hình doanh nghiệp khá phổ biến ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển. Đối với công ty tư nhân hoặc công ty trách nhiệm hữu hạn thì người chủ doanh nghiệp phải có đủ số vốn ban đầu cần thiết để xin thành lập công ty. Quy mô số vốn ban đầu này rất quan trọng bởi vì nó quyết định đền squy mô của doanh nghiệp được thành lập, nó liên quan trực tiếp tới hoạt động của doanh nghiệp trong thời gian đầu thành lập.Doanh nghiệp tư nhân sẽ do người chủ đó nắm giữ và điều hành sự hoạt động của nó và chủ doanh nghiệp chịu mọi trách nhiệm đối với những hoạt động của doanh nghiệp. Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, nếu doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả thì doanh nghiệp có điều kiện mở rộng nguồn vốn. Trong nền kinh tế Việt Nam, Doanh nghiệp Nhà nước đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc gia, điều hành nền kinh tế theo những chính sách của nhà nước. Doanh nghiệp Nhà nước có nguồn vốn tự có do ngân sách Nhà nước đầu tư. Chủ sở hữu của các doanh nghiệp quốc doanh là Nhà nước. Chính vì vậy, để doanh nghiệp Nhà nước thể hiện được vai trò to lớn của nó trong nền kinh tế nước nhà thì Nhà nước phải đưa ra các chính sách, chủ trương, các biện pháp nhằm tăng cường vốn ban đầu cho doanh nghiệp Nhà nước. Ngoài ra Nhà nước còn ban hành các chính sách về cơ chế quản lý tài chính trong các doanh nghiệp Nhà nước sao cho các doanh nghiệp này hoạt động một cách có hiệu quả. 1.2.1.2.Nguồn vốn từ lợi nhuận không chia Quy mô vốn ban đầu của chủ doanh nghiệp là một yếu tố quan trọng tuy nhiên, thông thường thì số vốn này được tăng lên theo quy mô phát triển của doanh nghiệp. Trong quá trình sản xuất kinh doanh nếu doanh nghiệp hoạt động hiệu quả thì doanh nghiệp sẽ có những điều kiên thuận lợi để có thể tăng trưởng nguồn vốn. Nguồn vốn tích luỹ từ bộ phân không chia sẽ là nguồn vốn được sử dụng để tái mở rộng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Như vậy nguồn vốn từ lợi nhuận không chia là nguồn vốn tích góp không phân phát trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đê doanh nghiệp có thể tái đầu tư, mở rộng sản xuất, tăng quy mô của doanh nghiệp. Đây là một nguồn vốn chủ sở hữu quan trọng của mỗi doanh nghiệp. Tự tài trợ bằng lợi nhuận không chia, nghĩa là tự tài trợ bằng nguồn vốn nội bộ là một phương thức tạo nguồn tài chính quan trọng và khá hấp dẫn của các doanh nghiệp. Bởi vì, từ nguồn vốn nội bộ này doanh nghiệp sẽ có thể tự tiết kiệm chi phí, giảm bớt sự phụ thuộc vào bên ngoài... Chính vì thế mà rất nhiều doanh nghiệp coi trong nguồn vốn từ lợi nhuận không chia, họ đặt ra những mục tiêu phải có một khối lượng lơn tài chính từ nguồn vốn này để có thể đáp ứng được nhu cầu vốn ngày càng tăng của doanh nghiệp. Nguồn vốn tái đầu tư từ lợi nhuận không chia chỉ có thể thực hiện được nếu như doanh nghiệp đã và đang hoạt động sản xuất kinh doanh thuận lợi và có lợi nhuận và được phép tiếp tục đầu tư. Đối với doanh nghiệp Nhà nước thì việc tái đầu tư phụ thuộc không chỉ vào bản thân doanh nghiệp mà còn phụ thuộc vào chính sách khuyến khích tái đầu tư của Nhà nước, ngoài ra còn phụ thuộc vào các yếu tố chính trị xã hội kinh tế khác. Tuy nhiên đối với các công ty cổ phần thì việc để lại lợi nhuận liên quan đến một số yếu tố rất nhạy cảm. Khi công ty để lại một phần lợi nhuân trong kỳ kinh doanh sử dụng cho việc tái đầu tư, nghĩa là không dùng số lợi nhuận đó để chia lãi cổ phần, các cổ đông không được nhận tiền lãi cổ phần (cổ tức) nhưng bù lại, họ có quyền sở hữu vốn cổ phần tăng lên của công ty. Như vậy, giá trị ghi sổ của các cổ phiếu sẽ tăng lên với việc tự tài trợ bằng nguồn vốn nội bộ. Điều này một mặt, khuyến khích cổ đông giữ cổ phiếu lâu dài, nhưng mặt khác, dễ làm giảm tính hấp dẫn của cổ phiếu trong thời gian trước mắt do cổ đông chỉ nhận được một phần cổ tức nhỏ hơn. Nếu tỷ lệ chi trả cổ tức thấp, hoặc số lãi ròng không đủ hấp dẫn thì giá cổ phiếu có thể giảm sút, ảnh hưởng đến nguồn vốn nội bộ của doanh nghiệp. Vì vậy khi giải quyết vấn đề cổ tức và tái đầu tư, chính sách phân phối cổ tức của công ty cổ phần phải lưu ý đến một số yếu tố có liên quan như: Tổng số lợi nhuận ròng trong kỳ. Mức chia lãi trên một cổ phiếu của các năm trước. Sự xếp hạng cổ phiếu trên thị trường và tính ổn định của thị giá cổ phiếu của công ty, tâm lý và đánh giá của công chúng về cổ phiếu đó. Hiệu quả của việc tái đầu tư. 1.2.1.3. Phát hành cổ phiếu Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp có thể tăng vốn chủ sở hữu bằng cách phát hành cổ phiếu mới. Đây là hình thức huy động một nguồn tài chính dài hạn rất quan trọng. Phát hành cổ phiếu được gọi là hoạt động tài trợ dài hạn của doanh nghiệp. Thông thường doanh nghiệp thường phát hành và kiểm soát nhiều loại cổ phiếu khác nhau. a,Cổ phiếu thường (Common Stock/Share) Cổ phiếu thường (còn gọi là cổ phiếu thông thường) là loại cổ phiếu thông dụng nhất vì nó có những ưu thê trong việc phát hành ra công chúng và trong quá trình lưu hành trên thị trường chứng khoán. Cổ phiếu thường là chứng khoán quan trọng nhất được trao đổi, mua bán trên thị trường chứng khoán, điều đó cũng đủ để minh chứng tầm quan trọng của nó so với các công cụ tài chính khác. Vì thế nó có những đặc điểm riêng: - Giới hạn phát hành: Mặc dù việc phát hành cổ phiếu có nhiều ưu thế so với các phương thức huy động vốn khác nhưng cũng có những hạn chế và các ràng buộc cần được các doanh nghiệp cân nhắc kỹ lưỡng. Giới hạn phát hành là một quy định ràng buộc có tính pháp lý. Lượng cổ phiếu tối đa mà công ty được quyền phát hành gọi là vốn cổ phiếu được cấp phép. Đây là một trong những quy định của Uỷ ban chứng khoán Nhà nước nhằm quản lý và kiểm soát chặt chẽ các hoạt động phát hành và giao dịch chứng khoán. Tại nhiều nước, số cổ phiếu được phép phát hành được ghi trong điều lệ của công ty; tuy nhiên, một số nước khác không quy định ghi số lượng đó trong điều lệ công ty. Muốn tăng vốn cổ phần thì trước hết phải được đại hội cổ đông cho phép, sau đó phải hoàn tất những thủ tục quy định khác. Hầu hết các nước đều sử dụng giới hạn phát hành như một công cụ để kiểm soát và hạn chế các rủi ro cho công chúng. Thông thường, một công ty có thể phát hành một lần hoặc một số lần trong số hạn số cổ phiếu đã được phép phát hành. Tuy nhiên, trên thực tế, việc phát hành cổ phiếu này được các chính sách của Nhà nước và của Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước quản lý và kiểm sát quá trình phát hành chứng khoán. Tại Việt Nam hiện nay, hệ thống văn bản pháp quy về chứng khoán mới được xây dựng và đang trong quá trình hoàn thiện để tạo điều kiện tốt hơn cho hoạt động huy động vốn của doanh nghiệp và lưu chuyển vốn trong nền kinh tế. Sau khi phát hành, phần lớn các cổ phiếu nằm trong tay các nhà đầu tư - các cổ đông (shareholder) . Những cổ phiếu này gọi là những cổ phiếu đang lưu hành trên thị trường. Tuy nhiên, có thể chính công ty phát hành mua lại một số cổ phiếu của mình giữ chúng nhằm mục đích nào đó. Những cổ phiếu được công ty mua lại như thế được gọi là cổ phiếu ngân quỹ, những cổ phiếu này được coi như tạm thời không lưu hành. Việc mua lại hoặc bán ra những cổ phiếu này phụ thuộc vào một số những yếu tố như: Tình hình cân đối và khả năng đầu tư. Tình hình biến động thị giá chứng khoán trên thị trường. Chính sách đối với việc sát nhập hoặc thôn tính công ty (chống thôn tính). Tình hình trên thị trường chứng khoán và quy định của Uỷ ban chứng khoán Nhà nước. Mệnh giá và thị giá. Giá trị ghi trên mặt cổ phiếu gọi là mệnh giá (par value), giá cả của cổ phiếu trên thị trường gọi là thị giá. Giá trị của cổ phiếu được phản ánh trong sổ sách kế toán của công ty gọi là giá trị ghi sổ (book value), đó cũng chính là mệnh giá của các cổ phiếu đã phát hành. Mệnh giá không chỉ được ghi trên mặt cổ phiếu mà còn được ghi rõ trong giấy phép phát hành và trên sổ sách kế toán của công ty. Tuy nhiên, mệnh giá chỉ có ý nghĩa khi phát hành cổ phiếu và đối với khoảng thời gian ngắn sau khi cổ phiếu được phát hành. Thị giá phản ánh sự đánh giá của thị trường đối với cổ phiếu, phản ánh lòng tin của các nhà đầu tư đối với hoạt động của công ty. b,Cổ phiếu ưu tiên (preferred stock) Cổ phiếu ưu tiên thường chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ trong tổng số cổ phiếu được phát hành. Tuy nhiên trong một số trường hợp, việc dùng cổ phiếu ưu tiên là thích hợp. Cổ phiếu ưu tiên có đặc điểm là nó thường có cổ tức cố định. Người chủ của cổ phiếu này có quyền được thanh toán lãi trước các cổ đông thường. Nếu số lãi chỉ đủ để trả cổ tức cho các cổ đông ưu tiên thì các cổ đông thường sẽ không được nhận cổ tức của kỳ đó. Việc giải quyết chính sách cổ phiếu được nêu rõ trong điều lệ công ty. Phần lớn các công ty cổ phần quy định rõ: Công ty có nghĩa vụ trả hết số lợi tức chưa thanh toán của các kỳ trước cho các cổ đông ưu tiên, sau đó mới thanh toán cho các cổ đông thường. Cổ phiếu ưu đãi có thể được chính công ty phát hành thu hồi lại (chuộc lại) khi công ty thấy cần thiết. Những trường hợp nhu vậy cần quy định rõ những điểm sau: Trường hợp nào thì công ty có thể mua lại cổ phiếu. Giá cả khi công ty mua lại cổ phiếu. Thời hạn tối thiểu không được phép mua lại cổ phiếu. Trong thực tế, ở một số nước như Mỹ chẳng hạn, rất hiếm khi cổ đông ưu tiên có quyền bỏ phiếu một cách đầy đủ. Tuy nhiên, nêu có ít nhất 2/3 cổ đông ưu tiên nhất trí về một vấn đề nào đó thì ban lãnh đạo công ty phải xem xét ý kiến của họ. Nếu các cổ phiếu ưu tiên không được trả cổ tức thì các cổ đông của những cổ phiếu có thể được quyền bỏ phiếu. Một vấn đề rất quan trọng đó là khi phát hành cổ phiếu ưu tiên, các công ty cần phải chú ý đến thuế. Khác với chi phí lãi vay được giảm trừ khi tính thuế thu nhập của công ty, cổ tức được lấy từ lợi nhuận sau thuế. Đó là hạn chế của cổ phiếu ưu tiên. Mặc dù vậy, song các cổ phiếu ưu tiên vẫn có những đặc điểm quan trọng mà các doanh nghiệp cần phải sử dụng. Một doanh nghiệp khi phát hành cổ phiếu ưu tiên cần phải chú ý đến những khía cạnh sau: Các hãng thường cố gắng cân bằng giữa nợ và vốn chủ sở hữu để giữ vững khả năng thanh toán củng cố uy tín tài chính. Khi tỷ lệ nợ ở mức thấp, nếu cần vốn thì các công ty thường chọn cách phát hành trái phiếu tức là tăng nợ (mà không tăng vốn bằng cách phát hành cổ phiếu). Nếu tỷ lệ nợ ở mức cao, công ty phải tránh việc tăng thêm tỷ lệ nợ và chọn cách phát hành cổ phiếu. Tuy nhiên, thực tế các công ty không quan tâm nhiều đến việc giữ một mức cân bằng chính xác. Việc điều hành vốn chủ sở hữu và các khoản nợ thường ngẫu hứng và theo kiểu linh hoạt "tuỳ cơ ứng biến". Sự phản ứng trước các biến động của thị trường chứng khoán là một yếu tố rất đáng chú ý. Chính vì những vai trò quan trọng của cổ phiếu ưu tiên cho nên các nhà doanh nghiệp hết sức chú ý đến những lợi ích mà các cổ phiếu ưu tiên đem lại. Các doanh nghiệp biến cổ phiếu ưu tiên thành một công cụ huy động vốn chủ sở hữu một cách có hiệu quả trong các trường hợp cần vốn. 1.2.2.Nợ và các phương thức huy động nợ của doanh nghiệp Để bổ sung vốn cho quá trình sản xuất - kinh doanh, doanh nghiệp có thể sử dụng nợ từ các nguồn: Tín dụng ngân hàng Tín dụng thương mại Vay thông qua phát hành trái phiếu 1.2.2.1.Nguồn vốn tín dụng và tín dụng thương mại Có thể nói rằng vốn vay ngân hàng là một trong những nguồn vốn quan trọng nhất, không chỉ đối với sự phát triển cảu bản thân các doanh nghiệp mà còn đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Sự hoạt động và phát triển của các doanh nghiệp đều gắn liền với các dịch vự tài chính do các ngân hàng thương mại cung cấp, trong đó có việc cung ứng các nguồn vốn. Không một doanh nghiệp nào không vay vốn ngân hàng hoặc không sử dụng tín dụng thương mại nếu doanh nghiệp đó không muốn tồn tại vững chắc trên thương trường. Trong quá trình hoạt động, các doanh nghiệp thường vay ngân hàng để đảm nguồn tài chính cho các hoạt động sản xuất - kinh doanh, đặc biệt là đảm bảo nguồn vốn cho các dự án mở rộng hoặc đầu tư chiều sâu của doanh nghiệp. Về mặt thời hạn vốn vay ngân hàng có thể được phân loại theo thời hạ vay: Vốn vay dài hạn (thường tính từ 3 năm trở lên; có nơi tính từ 5 năm trở lên). Vốn vay trung hạn (từ một năm đến 3 năm). Vốn vay ngắn hạn (dưới 1 năm). Tiêu chuẩn và quan niệm về thời gian để phân loại trong thực tế không giống nhau giữa các nước, và có thể khác nhau giữa các ngân hàng thương mại. Tuỳ theo tính chất và mục đích sử dụng, ngân hàng cũng có thể phân loại cho vay thành các loại như: Cho vay đầu tư tài sản cố định. Cho vay đầu tư tài sản lưu động. Cho vay để thực hiện dự án. Cũng có những cách phân chia khác như: Cho vay theo ngành kinh tế. Cho vay theo lĩnh vực phục vụ. Cho vay theo hình thức bảo đảm tiền vay. Nguồn vốn tín dụng ngân hàng có nhiều ưu điểm, nhưng nguồn vốn này cũng có những hạn chế nhất định. Đó là các hạn chế về điều kiện tín dụng, kiểm soát của ngân hàng và chi phí sử dụng vốn (lãi suất). Điều kiện tín dụng: Các doanh nghiệp muốn vay tại các ngân hàng thương mại cần đáp ứng được các yêu cầu đảm bảo an toàn tín dụng của Ngân hàng. Doanh nghiệp phải xuất trình hồ sơ vay vốn và những thông tin cần thiết mà Ngân hàng yêu cầu. Trước tiên, Ngân hàng phải phân tích hồ sơ xin vay vốn , đánh giá các thông tin liên quan đến dự án đầu tư hoặc kế hoạch sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp vay vốn. Các điều kiện đảm bảo tiền vay: Khi doanh nghiệp xin vay vốn, nói chung các ngân hàng cho vay đòi hỏi các doanh nghiệp đi vay phải có các bảo đảm tiền vay, phổ biến nhất là tài sản thế chấp. Việc yêu cầu người vay có tài sản thế chấp trong nhiều trường hợp làm cho bên đi vay không đáp ứng được các điều kiện vay, kể cả các thủ tục về pháp lý và giấy tờ, v.v... do đó, doanh nghiệp cần phải tính đến yếu tố này khi tiếp cận nguồn vốn tín dụng ngân hàng. Sự kiểm soát của ngân hàng: Một khi doanh nghiệp vay vốn ngân hàng thì doanh nghiệp cũng phải chịu sự kiểm soát của ngân hàng về mục đích và tình hình sử dụng vốn vay. Nói chung, sự kiểm soát này không gây khó khăn cho doanh nghiệp, tuy nhiên, trong một số trường hợp thì điều này cũng làm cho doanh nghiệp có cảm giác bị "kiểm soát". Lãi suất vay vốn: Lãi suất vay vốn phản ánh chi phí sử dụng vốn. Lãi suất vốn vay ngân hàng phụ thuộc vào tình hình tín dụng trên thị trường trong từng thời kỳ. Nếu lãi suất vay quá cao thì doanh nghiệp phải gánh chịu chi phí sử dụng vốn lớn và làm giảm thu nhập của doanh nghiệp. Có những thời kỳ ở nước ta, lãi suất vay vốn khá cao và thiếu tính cạnh tranh do đó không tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đầu tư mở rộng sản xuất - kinh doanh. Các doanh nghiệp cũng thường khai thác nguồn vốn tín dụng thương mại (commercial credit) hay còn gọi là tín dụng của người cung cấp. Nguồn vốn này hình thành một cách tự nhiên trong quan hệ mua bán chịu, mua bán trả chậm hay trả góp. Nguồn vốn tín dụng thương mại có ảnh hưởng hết sức to lớn không chỉ với các doanh nghiệp mà cả đối với toàn bộ nền kinh tế. Trong một số doanh nghiệp, nguồn vốn tín dụng thương mại dưới dạng các khoản phải trả có thể chiếm tới 20% tổng số vốn, thậm chí có thể chiếm tới 40% tổng nguồn vốn. Đối với doanh nghiệp, tài trợ bằng nguồn vốn tín dụng thương mại là một phương thức tài trợ rẻ, tiện dụng và linh hoạt trong kinh doanh, hơn nữa nó còn tạo khả năng mở rộng các quan hệ hợp tác kinh doanh một cách lâu bền. Các điều kiện ràng buộc cụ thể có thể ấn định khi hai bên kí hợp đồng mua bán hay hợp đồng kinh tế nói chung. Tuy nhiên, cần nhận thấy tính chất rủi ro của quan hệ tín dụng thương mại khi quy mô tài trợ quá lớn. Chí phí của việc sử dụng các nguồn vốn tín dụng thể hiện qua lãi suất của khoản vay, đó là chi phí lãi vay, sẽ được tính vào giá thành sản phẩm hay dịch vụ. Khi mua bán hàng hoá trả chậm, chi phí này có thể "ẩn" dưới hình thức thay đổi mức giá, tuỳ thuộc vào quan hệ và thoả thuận cụ thể giữa các bên. Trong xu hướng hiện nay, ở Việt Nam cũng như trên Thế giới, các hình thức tín dụng ngày càng được đa dạng hoá và linh hoạt hơn, với tính chất cạnh tranh hơn; do đó các doanh nghiệp cũng có nhiều cơ hội để lựa chọn nguồn vốn tài trợ cho hoạt động của doanh nghiệp. 1.2.2.2.Phát hành trái phiếu công ty Trái phiếu (còn được gọi là trái khoán) là một tên gọi chung của các giấy vay nợ dài hạn và trung hạn, bao gồm : Trái phiếu Chính phủ (goverment bond) và Trái phiếu công ty (corporate bond). Trong vấn đề kinh tế vĩ mô trong các doanh nghiệp thì khi chúng ta phát hành trái phiếu thì một trong những vấn đề cần xem xét trước khi phát hành là lựa chọn trái phiếu nào phù hợp nhất với điều kiện cụ thể của doanh nghiệp và tình hình trên thị trường tài chính. Việc lựa chọn trái phiếu thích hợp là rất quan trọng vì có liên quan đến chi phí trả lãi, cách thức trả lãi, khả năng lưu hành, và tính hấp dẫn của trái phiếu. Trước khi quyết định phát hành, cần hiểu rõ ưu nhược điểm của mỗi loại trái phiếu. Trên thị trường tài chính ở nhiều nước, hiện nay thường lưu hành các loại trái phiếu doanh nghiệp như sau: a,Trái phiếu có lãi suất cố định Loại trái phiếu này thường được sử dụng nhiều nhất, tức là phổ biến nhất trong các loại trái phiếu doanh nghiệp. Lãi suất được ghi ngay trên mặt trái phiếu và không thay đổi trong suốt kỳ hạn của nó. Như vậy cả doanh nghiệp (người đi vay) và người giữ trái phiếu (người cho vay) đều biết rõ mức lãi suất của khoản nợ trong suốt thời gian tồn tại (kỳ hạn) của trái phiếu. Việc thanh toán lãi trái phiếu cũng thường được quy định rõ. Để huy động vốn trên thị trường bằng trái phiếu thì các doanh nghiệp phải tính đến mức độ hấp dẫn của các trái phiếu. Tính hấp dẫn của trái phiếu phụ thuộc các yếu tố sau đây: - Lãi suất của trái phiếu: Bất kỳ người đầu tư nào cũng muốn được hưởng mức lãi suất cao nhưng doanh nghiệp phát hành phải cân nhắc lãi suất có thể chấp nhận được của họ, chứ không thể đáp ứng được mức lãi suất thật cao như nhà đầu tư mong muốn. Lãi suất trái phiếu phải được đặt trong tương quan so sánh lãi suất trên thị trường vốn, đặc biệt là phải tính đến sự cạnh tranh với trái phiếu của các công ty khác và trái phiếu của Chính phủ để từ đó có thể cạnh tranh được với các mức lãi suất đó. Mặt khác phải tính đến chi phí lãi vay mà doanh nghiệp phải trả cho những người nắm giữ trái phiếu. Nếu đưa thêm một số yếu tố khuyến khích vào trái phiếu thì có thể không cần nâng cao mức lãi suất của trái phiếu. Kỳ hạn của trái phiếu: đây là yếu tố rất quan trọng không những đối với công ty phát hành mà còn đối với cả nhà đầu tư. Khi phát hành, doanh nghiệp phải căn cứ vào tình hình thị trường vốn và tâm lý dân cư thì mới có thể xác định kỳ hạn hợp lý để từ đó doanh nghiệp có thể xác định loại trái phiếu mà mình sẽ phát hành. Đây là một trong những yếu tố rất quan trọng để các doanh nghiệp có thể thu hút vốn cho mình. Uy tín của doanh nghiệp: Không phải doanh nghiệp nào cũng có thể thu hút được công chúng mua trái phiếu vì nhà đầu tư phải đánh giá uy tín của doanh nghiệp thì mới quyết định mua hay không mua. Các doanh nghiệp có uy tín vững mạnh thì dễ dàng hơn trong việc phát hành trái phiếu ra công chúng để huy động vốn. Đây cũng là một yếu tố tác động rất mạnh đến tâm lý của nhà đầu tư, nó có thể quyết định hoạt động đầu tư của họ. Trong việc phát hành trái phiếu cũng cần phải chú ý đến một yếu tố rất quan trọng đó chính là mệnh giá của trái phiếu. Bởi vì nó ảnh hưởng tới sức mua của các nhà đầu tư hay những người dân có tiền muốn đầu tư. Đặc biệt là ở Việt Nam, khi phát hành trái phiếu, doanh nghiệp cần phải xác định một mệnh giá vừa phải để nhiều người có thể mua được, tạo sự lưu thông thuận lợi cho trái phiếu của mình trên thị trường. b,Trái phiếu có lãi suất thay đổi: Trái phiếu này tuy được gọi là trái phiếu có lãi suất thay đổi song thực ra nó phụ thuộc vào một số nguồn lãi quan trọng khác, ví dụ như lãi suất LIBOR hay lãi suất cơ bản. Doanh nghiệp phải tìm hiểu thị trường để có thể ra quyết định khi nào thì nên phát hành loại trái phiếu này, còn khi nào thì nên phát hành trái phiếu có lãi suất cố định. Ví dụ: trong điều kiện thị trường có mức lạm phát cao và lãi suất thị trường không ổn định, doanh nghiệp có thể khai thác tính ưu việt của loại trái phiếu này. Do các biến động của lạm phát kéo theo sự giao động của lãi suất thực, các nhà đầu tư mong muốn được hưởng một mức lãi suất thoả đáng khi so sánh với tình hình thị trường. Vì vậy, cho nên có một số người rất ưa thích trái phiếu thả nổi. Mặc dù vậy song khi phát hành loại trái phiếu này doanh nghiệp cần phải chú ý đến một số điểm hạn chế của nó. Đó là: Doanh nghiệp không thể biết chắc chắn về chi phí lãi vay của trái phiếu, chính điều này làm cho doanh nghiệp khó khăn trong việc lập kế hoạch tài chính. Việc quản lý trái phiếu đòi hỏi tốn nhiều thời gian hơn do doanh nghiệp phải thông báo các lần điều chỉnh lãi suất. c,Trái phiếu có thể thu hồi: Một số doanh nghiệp chọn cách thức phát hành những trái phiếu có thể thu hồi, có nghĩa là doanh nghiệp có thể mua lại vào một thời gian nào đó. Trái phiếu như vậy phải được quy định ngay khi phát hành để người mua trái phiếu được biết. Doanh nghiệp phải quy định rõ về thời hạn và giá cả khi doanh nghiệp chuộc lại trái phiếu. Thông thường người ta quy định thời gia tối thiểu mà trái phiếu không bị thu hồi, ví dụ trong thời gian 36 tháng. Có rất nhiều doanh nghiệp ưa thích sử dụng loại trái phiếu này bởi vì nó có những ưu điểm sau: Có thể sử dụng như một cách điều chỉnh lượng vốn sử dụng. Khi không cần thiết, doanh nghiệp có thể giảm số vốn vây bằng cách thu mua lại các trái phiếu có thể thu hồi. Doanh nghiệp có thể thay nguồn tài chính do phát hành loại trái phiếu này bằng một nguồn tài chính thông qua mua lại các trái phiếu đó. d,Chứng khoán có thể chuyển đổi: Các doanh nghiệp, đặc biệt là các công ty Mỹ thường phát hành những chứng khoán kèm theo những điều kiện có thể chuyển đổi được. Nói chung sự chuyển đổi và lựa chọn cho phép các bên (doanh nghiệp, người đầu tư) có thể lựa chọn cách thức đầu tư có lợi và thích hợp. Có một số hình thức chuyển đổi, ví dụ như: Giấy bảo đảm(warrant): Người sở hữu giấy bảo đảm có thể mua một số lượng cổ phiếu thường, được quy định trước với giá cả và thời gian xác định. Trái phiếu chuyển đổi (convertible bond): Là loại trái phiếu cho phép có thể chuyển đổi thành một số lượng nhất định các cổ phiếu thường. Nếu cổ phiếu tăng lên thì người giữ trái phiếu có cơ may nhận được lợi nhuận cao. Phần kết luận chương I Trong nền kinh tế thị trường, quá trình cạnh tranh diễn ra rất khốc liệt, đòi hỏi người tham gia phải đáp ứng được đầy đủ những yêu cầu của nó nếu không muốn loại khỏi cuộc chơi (bị phá sản). Trong các yếu tố quan trọng thì yêu cầu về vốn đòi hỏi các doanh nghiệp cần phải tìm cho mình các phương thức huy động vốn nhằm đem lại cho mình một nguồn vốn vững mạnh. Vì chỉ có khi nào doanh nghiệp có nguồn vốn vững mạnh thì doanh nghiệp đó mới có thể đảm bảo hoạt động sản xuất kinh doanh và cạnh tranh được với các đối thủ trong nền kinh tế. Trên đây là các phương thức huy động vốn thường gặp, phổ biến nhất, hay cũng chính là các phương thức huy động vốn chủ yếu của các doanh nghiệp khi chấp nhận tham gia vào nền kinh tế thị trường. Những doanh nghiệp nào thực hiện việc huy động vốn một cách có hiệu quả hơn thì doanh nghiệp đó sẽ có thể đảm bảo tình hình tài chính của công ty mình. Từ đó sẽ dẫn tới việc sản xuất kinh doanh ngày càng có hiệu quả hơn. Chiếm ưu thế so với đối thủ trong quá trình cạnh tranh. Chương II: Nguồn vốn Doanh Nghiệp Nhà nước và Thực trạng hoạt động tạo lập vốn cho doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam hiện Nay 2.1.doanh nghiệp Nhà nước VIệt nam Doanh nghiệp nhà nước là doanh nghiệp được thành lập từ nhân sách Nhà nước, chủ sở hữu là Nhà nước, hoạt động theo cách mục tiêu của Nhà nước. Đóng vai trò quan trọng chủ đạo và then chốt trong nền kinh tế quốc dân. 2.1.1.Cơ sở hạ tầng, nhân công và công nghệ trong doanh nghiệp Nhà nước a,Thực trạng cơ sở hạ tầng: Trước đây các doanh nghiệp Nhà nước tại Việt Nam hầu hết đều có cơ sở hạ tầng còn yếu kém so với các quốc gia khác. Tại Việt Nam nếu đánh giá về cơ sở hạ tầng theo quan điểm nhận xét của những người nước ngoài thì số doanh nghiệp Nhà nước có cơ sở hạ tầng đạt tiêu chuẩn chỉ đếm trên đầu ngón tay. Đây là một thực trạng cần phải giải quyết để có thể tạo tiện nghi cho nhân công, công chức làm việc. Tạo sức hấp dẫn của môi trường làm việc cũng như uy tín của doanh nghiệp để có thể thu hút, lôi kéo được nhiều nhà đầu tư hơn hay những nhân tài của xã hội. Vấn đề điện, nước, giao thông vận tải, và các bộ phận khác đều gây rất nhiều khó khăn cho hoạt động của các doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam hiện nay. Tình trạng chưa cung cấp đầy đủ điện, nước cho các doanh nghiệp đang là một vấn đề cần đặt ra cho các cấp Trung ương lẫn địa phương nơi có doanh nghiệp đóng trụ sở. Bên cạnh đó, giao thông thì thường xuyên có ắch tắc ở một số các thành phố lớn như Hà Nội, hệ thống đường sá còn yếu kém. Vì vậy, cho nên các doanh nghiệp Nhà nước chưa thực sự hoạt động một cách có hiệu quả. Trong những năm gần đây, Nhà nước có những quan tâm, nỗ lực nhằm xây dựng cơ sở hạ tầng cho các doanh nghiệp Nhà nước đã đạt được một số thành tựu nhất định. Nhà nước cho phép các doanh nghiệp Nhà nước cải tạo lại cơ sở hạ tầng, nâng cao chất lượng đường sá giao thông, đưa ra các biện pháp thích hợp để hạn chế nạn ùn tắc giao thông ở các thành phố lớn.Các doanh nghiệp Nhà nước lớn ngày càng nhiều. Các doanh nghiệp Nhà nước tích cực hoạt động sản xuất - kinh doanh một cách có hiệu quả hơn, đem lại cho Nhà nước những lợi ích to lớn. Đáp ứng mục tiêu phát triển kinh tế của Đất nước. Đây là một trong những hoạt động chiếm nhiều chi phí nhất, ảnh hưởng đến vốn của doanh nghiệp, đòi hỏi Nhà nước phải trợ cấp cho các doanh nghiệp. b,Nhân lực trong doanh nghiệp Nhà nước: Trước đây, trong các doanh nghiệp Nhà nước, đội ngũ cán bộ một số được đào tạo từ Nga, Balan.. còn lại hầu hết đội ngũ cán bộ của các doanh nghiệp Nhà nước vẫn chủ yếu dựa vào kinh nghiệm lao động hay chỉ được đào tạo trong nước với trình độ kỹ thuật yếu kém, cơ chế quản lý còn mang nặng tính bao cấp quan liêu. Ngày nay, khi đất nước đang trên xu thế hội nhập với thế giới thì quan hệ ngoại giao cũng phát triển rất mạnh, điều này thúc đẩy trình độ tri thức trong nước tăng lên. Nhiều khoá huấn luyện trình độ tổ chức, kỹ thuật, công nghệ,... nhiều hơn. Mặt khác, bên cạnh đó đội ngũ tri thức trẻ có triển vọng phát triển cao được đào tạo với chương trình đào tạo mới có thể đáp ứng được nhu cầu về nhân lực cao cho các doanh nghiệp. Ngoài ra, hiện nay rất nhiều doanh nghiệp Nhà nước chú ý quan tâm đến việc phát triển trình độ tri thức của đội ngũ nhân công của mình. Cho nên hiện nay các doanh nghiệp Nhà nước đang có đội ngũ tay nghề có thể đáp ứng được những mục tiêu của mình. Song công việc huấn luyện hay tìm tòi những tài năng của đất nước đòi hỏi doanh nghiệp phải bỏ ra một số chi phí nhất định. Số chi phí này sẽ biến thành lợi nhuận to lớn gấp bội nếu doanh nghiệp đào tạo được một đội ngũ cán bộ có trình độ cao. Công việc này bắt buộc doanh nghiệp phải có một nguồn tài chính nhất định. c,Công nghệ trong các doanh nghiệp Nhà nước: Trước đây, trang thiết bị của các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp Nhà nước nói riêng đều rất lạc hậu. Có những công nghệ thuộc loại tiên tiến ở nước ta song so với bên ngoài thì lạc hậu đến 3 hay 4 thế hệ. Trình độ công nghệ lạc hậu, quá yếu kém dẫn tới năng suất lao động của doanh nghiệp Nhà nước ta hiện lúc bấy giờ rất thấp. Hiện nay, mặc dù được Đảng và chính quyền quan tâm, mua sắm, trang bị cho những thiết bị tiên tiến hơn song so với trình độ công nghệ thế giới thì trình độ công nghệ ở các doanh nghiệp Nhà nước ở nước ta hiện nay vẫn còn lạc hậu so với trình độ công nghệ của các quốc gia tiên tiến rất nhiều. Vì vậy chúng ta phải đổi mới công nghệ, nâng cao trình độ công nghệ. Công việc này đòi hỏi chúng ta phải huy động vốn để đáp ứng được. Chỉ có những công nghệ mới thì mới đem lại khả năng cạnh tranh cho các doanh nghiệp Nhà nước đối với các doanh nghiệp khác. Sản phẩm sản xuất ra ngày càng tốt hơn cả về chất lượng lẫn số lượng. Đây là một trong những vấn đề yêu cầu doanh nghiệp Nhà nước phải có một lượng vốn lớn. 2.1.2.Nguồn vốn của doanh nghiệp nhà nước Việt Nam Hiện nay Trước đây, ở Việt Nam có khoảng trên dưới 5500 doanh nghiệp nhà nước (bao gồm doanh nghiệp Trung ương và doanh nghiệp địa phương) có tổng số vốn được bàn giao là 68.540 tỷ đồng (trung bình mỗi doanh nghiệp được bàn giao 12.46 tỷ đồng). Đây là một con số tuy không lớn song nó phẩn ánh tình hình bàn giao vốn cho các doanh nghiệp Nhà nước tại Việt Nam trong những năm qua, con số này cho ta thấy các doanh nghiệp đã được bàn giao một số vốn đầy đủ để doanh nghiệp Nhà nước sản xuất - kinh doanh ổn định. Song trong thực tế thì số vốn thực sự hoạt động chỉ chiếm có 88.2% (60459 tỷ đồng). Đây là một thực trạng cần phải có các chính sách giải quyết kịp thời để các doanh nghiệp Nhà nước có thể hoạt động tốt hơn. Hiện nay, Nhà nước ta đã và đang có những quan tâm đầu tư cho các doanh nghiệp Nhà nước những nguồn vốn hỗ trợ cho việc sản xuất - kinh doanh có hiệu quả hơn. Trong công cuộc Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước doanh nghiệp Nhà nước có vai trò hết sức quan trọng, là lực lượng then chốt, đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế cho nên Nhà nước đã có những chính sách khuyến khích bằng các phương thức tài trợ vốn từ Ngân sách Nhà nước, trang bị công nghệ mới, nâng cao cơ sở hạ tầng hay các hoạt động đào tạo cán bộ cho các doanh nghiệp. Nhằm đẩy mạnh hoạt động sản xuất - kinh doanh của các doanh nghiệp Nhà nước. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp Nhà nước cũng cố gắng huy động cho mình những nguồn vốn bằng các phương thức huy động vốn khác nhau. Các doanh nghiệp tìm nguồn vốn từ Ngân sách Nhà nước. Trong năm 2000 Nhà nước đã cung cấp vốn thêm cho các doanh nghiệp để các doanh nghiệp có thể mở rộng quy mô sản xuất, trang bị thiết bị mới, nhân lực có trình độ tay nghề, từ đó đảm bảo hoạt động sản xuất - kinh doanh dần dần chiếm lĩnh thị trường trong và ngoài nước. Từ đó có thể cạnh tranh với các doanh nghiệp khác. Bên cạnh đó doanh nghiệp nhà nước còn huy động vốn từ các nguồn vay tín dụng ngân hàng hay tín dụng thương mại. Ngoài ra doanh nghiệp Nhà nước đã phát hành nhiều loại trái phiếu đề thu hút lượng vốn ở bên ngoài để tiến hành hoạt động sản xuất - kinh doanh có hiệu quả hơn. Thực tế, trong những năm vừa qua các doanh nghiệp Nhà nước đã thu hút được một số lượng lớn nguồn vốn đầu tư, đáp ứng nhu cầu về vốn cho sản xuất và quá trình mở rộng sản xuất của mình. 2.2.Thực trạng hoạt động huy động của các doanh nghiệp Nhà nước việt nam hiện nay 2.2.1.Hoạt động huy động vốn từ vốn Ngân sách nhà nước: Ngân sách Nhà nước là một trong những nguồn vốn quan trọng đối với các doanh nghiệp Nhà nước. Ngân sách Nhà nước cấp vốn cho các doanh nghiệp Nhà nước dưới dạng đầu tư xây dựng dở dang, cấp vốn lưu động, bù lỗ, trợ giá.... Mặc dù đang có số lượng giảm nhưng số lượng vốn hàng năm cho các doanh nghiệp Nhà nước là rất lớn. Năm 1994 bằng 0.5% GDP. Để giải quyết nhu cầu về vốn cho các doanh nghiệp Nhà nước thì Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Ngân hàng Nhà nước, Bộ tài chính đã có nhiều công văn trình lên chính phủ phê duyệt xin cấp vốn cho các doanh nghiệp Nhà nước đang hoạt động có hiệu quả. Bên cạnh đó, Chính phủ cũng tạo điều kiện thuận lợi cho việc huy động vốn của các doanh nghiệp Nhà nước bằng các nghị định: nghị định số 59/Cp ngày 03/10/1996, nghị định số 27/Cp ngày 20/04/1999 cho phép doanh nghiệp Nhà nước được quyền huy động vốn bằng cách phát hành trái phiếu, vay vốn từ các tổ chức tín dụng, các doanh nghiệp khác, các cá nhân, thậm chí cả các công nhân viên chức trong doanh nghiệp, nhận góp vốn liên kết với các hình thức khác nhưng không làm thay đổi hình thức sở hữu của doanh nghiệp Nhà nước. Như vậy trong những năm qua các doanh nghiệp Nhà nước đã huy động được một số vốn tương đối lớn từ ngân sách của Nhà nước. Song trong những năm gần đây nguồn Ngân sách Nhà nước hiện nay chủ yếu sử dụng để thành lập mới các doanh nghiệp và để bổ sung vốn lưu động cho một số doanh nghiệp trọng điểm cho nên Ngân sách Nhà nước cấp cho các doanh nghiệp Nhà nước đan có xu hướng giảm dần. Do vốn ít, hiệu quả lợi nhuận kinh doanh lại kém lại phải trích nộp khoản thu sử dụng vốn cho Ngân sách Nhà nước cho nên lợi nhuận để lại dùng để tiếp tục quá trình kinh doanh của doanh nghiệp Nhà nước là rất nhỏ chưa có thể đáp ứng được nhu cầu thực tế về vốn. Vì vậy việc huy động vốn cho các doanh nghiệp Nhà nước từ Ngân sách Nhà nước hay nguồn lợi nhuận không chia gặp rất nhiều khó khăn. ảnh hưởng đến việc sản xuất - kinh doanh của các doanh nghiệp Nhà nước. 2.2.2.Hoạt động huy động vốn từ vốn vay tín dụng ngân hàng và tín dụng thương mại: Đây là nguồn vốn huy động quan trọng nhất đối với bất kỳ một doanh nghiệp Nhà nước nào. Hiện nay các doanh nghiệp Nhà nước tích cực huy động vốn từ tín dụng ngân hàng và tín dụng thương mại. Trong những năm 1994 đến 1996 thì các doanh nghiệp Nhà nước đã huy động được trên 50% tín dụng nội bộ và 70% tín dụng ngoại tệ từ các ngân hàng thương mại. Có thể nói, hiện nay nguồn vốn mà các doanh nghiệp Nhà nước huy động chính để sản xuất - kinh doanh đó chính là nguồn vốn từ vay tín dụng ngân hàng và tín dụng thương mại. Trong việc huy động vốn từ nguồn vốn vay tín dụng ngân hàng và tín dụng thương mại thì các doanh nghiệp cũng mắc phải một số khó khăn do quy mô của doanh nghiệp Nhà nước ta hầu hết là nhỏ lại thường xuyên ở trong tình trạng thiếu vốn. Thứ nhất đó là thể lệ tín dụng quy định đơn vị vay vốn phải thế chấp tài sản hoặc được của người thứ ba đủ thẩm quyền được bảo lãnh phải thế chấp tài sản cho người bảo lãnh. Điều này làm cho nhiều doanh nghiệp Nhà nước khó có thể vay vốn từ ngân hàng nhất là vốn trung hạn và dài hạn. Thứ hai đó là để kiểm soát hoạt động tín dụng và lượng tiền cung ứng, Ngân hàng Nhà nước quy định hạn mức tín dụng cho các ngân hàng thương mại và trên cơ sở hạn mức tín dụng được duyệt các ngân hàng thương mại phân phổ mức tín dụng cho các tổ chức kinh tế (khách hàng). Cả hai loại hạn mức tín dụng trên đều xây dựng cho một thời gian dài (thường là 1 năm). Do đó, dù doanh nghiệp Nhà nước có đủ các điều kiện vay vốn nhưng nếu hạn mức tín dụng không còn thì cũng không thể vay được vốn tín dụng ngân hàng. Thứ ba đó là chính sách lãi suất chưa thể hiện rõ vai trò là đòn bầy kinh tế, chưa thực sự điều tiết nền kinh tế ở tầm vĩ mô. Chính lãi suất có thay đổi nhưng lại thay đổi chậm hơn so với mức biến động giá cả.Lãi suất cho vay của các ngân hàng còn cao so với tình hình sản xuất - kinh doanh của các doanh nghiệp Nhà nước. Mặt khác các doanh nghiệp Nhà nước luôn ở trong tình trạng thiếu vốn mà lãi suất của ng chính là một trong những trở ngại lớn đối với hoạt động vay tín dụng của doanh nghiệp. Thứ tư đó là năng lực, trình độ chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp của một số cán bộ tín dụng trong các ngân hàng thương mại hiện còn chưa đáp ứng được yêu cầu đổi mới nền kinh tế. Thủ tục cho vay vốn còn rườm rà, chậm trễ đối với yêu cầu của các doanh nghiệp Nhà nước khi họ cần vay một lượng vốn đáp ứng cho mục tiêu hoạt động sản xuất - kinh doanh. 2.2.3.Hoạt động huy động vốn từ hoạt động phát hành trái phiếu và các nguồn khác: Nghị định 120/Cp ngày 17/09/1994 cho phép các doanh nghiệp Nhà nước phát hành trái phiếu để huy động vốn. Mặc dù nhận thức được lợi ích to lớn từ trái phiếu đem lại song cho đến nay thì số doanh nghiệp Nhà nước phát hành trái phiếu còn rất ít. Chưa thực sự thể hiện được vai trò của phương thức huy động vốn bằng trái phiếu. Nguyên nhân cũng chỉ vì thị trường chứng khoán của chúng ta còn đang trong thời kỳ sơ khai, chưa thực sự đóng vai trò là một thị trường chứng khoán nhằm thúc đẩy việc mua bán trái phiếu hay cung cấp thông tin về các doanh nghiệp Nhà nước đến người đầu tư. Bên cạnh đó các văn bản pháp lý về việc phát hành trái phiếu còn chưa rõ ràng, chưa hoàn thiện. Vì vậy việc phát hành trái phiếu còn đang là lĩnh vực thu hút vốn mới mẻ đối với các doanh nghiệp Nhà nước. 2.3.Đánh giá hoạt động tạo lập vốn của doanh nghiệp Nhà nước Việt Nam trong thời gian qua và một số kiến nghị về huy động vốn cho doanh nghiệp Nhà nước Việt Nam trong thời gian tới 2.3.1.Đánh giá hoạt động tạo lập vốn cho doanh nghiệp Nhà nước Việt Nam trong thời gian qua: Từ năm 1996 bước sang năm 1997 và đặc biệt là năm 1998, tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp Nhà nước có phần chững lại và biểu hiện nhiều khó khăn tồn tại mà trong đó khó khăn lớn nhất của doanh nghiệp Nhà nước Việt Nam là thiếu vốn cần được nghiên cứu xử lý kịp thời để doanh nghiệp Nhà nước giữ được vai trò chủ đạo của mình và tiếp tục duy trì mức tăng trưởng chung của nền kinh tế quốc dân. Đến cuối năm 1997 tổng số vốn tại doanh nghiệp Nhà nước có khoảng 100.000 tỷ đồng tăng 7% so với năm 1996, tăng 30.6% so với năm 1995. Trong đó vốn kinh doanh có khoảng 88.000 tỷ đồng. Bình quan 1 doanh nghiệp có khoảng 19 tỷ đồng vốn Nhà nước tăng 21% so với năm 1996 trong đó vốn kinh doanh 15 tỷ đồng, tuy nhiên hiện nay vẫn còn khoảng 50% số doanh nghiệp có số vốn dưới 1 tỷ đồng. Vốn đã ít song kết cấu chưa hợp lý, vốn huy động vào kinh doanh thấp: Vốn lưu động của doanh nghiệp Nhà nước chiếm 17% tổn số vốn kinh doanh mà hơn 82% vốn kinh doanh lại nằm trong giá trị còn lại của tài sản cố định mà phần lớn đã cũ kỹ, lạc hậu về kỹ thuật. Trong điều kiện kinh doanh theo cơ chế thị trường tỷ trọng vốn và kết cấu vốn như trên là thấp đã hạn chế tốc độ chu chuyển vốn và khả năng thanh toán của doanh nghiệp Do thiếu vốn nên các doanh nghiệp phải sử dụng vốn vay ngân hàng hoặc chiếm dụng vốn lẫn nhau để kinh doanh. Tổng số vốn chiếm dụng của khách hàng (bao gồm cả nợ vây ngân hàng) đến cuối năm 1996 là 110.000 tỷ đồng, năm 1997 là 121.000 tỷ đồng. Năm 1997, để doanh nghiệp Nhà nước tiếp tục phát triển sản xuất kinh doanh và tăng cường khả năng cạnh tranh, trong điều kiện khả nằg tài chính Nhà nước còn hạn hẹp nhưng Chính phủ đã đề ra nhiều biện pháp bổ sung nguồn vốn hỗ trợ cho doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả đang hoạt động trong lĩnh vực sản xuất thu mua, chế biến hàng xuất khẩu, thắng thầu trong xây dựng cơ bản, đặc biệt là thắng thầu quốc tế. Việc bổ sung vốn lưu động lần này đã có sự quan tâm đến các doanh nghiệp có thu nộp Ngân sách lớn và các vùng kinh tế trọng điểm của cả nước. Trong đó vùng kinh tế miền Bắc ( Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh) được bổ sung chiếm 25.86%, Vùng kinh tế miền Trung (Đà Nẵng - Thừa Thiên Huế) chiếm 4.4%, và vùng kinh tế phía Nam (T.p Hồ Chí Minh - Đồng Nai - Bà rịa Vũng Tàu) chiếm 26% trong tổng số vốn được bổ sung. Qua một số thực trạng về hoạt động huy động vốn diễn ra trên thực tế trong những năm vừa qua chúng ta có đưa ra nhận xét. Doanh nghiệp thiếu vốn để kinh doanh là căn bệnh trầm kha, đối với doanh nghiệp ngay từ khi thành lập, nên đã gây nhiều phiền hà trong quản lý tài chính doanh nghiệp. Việc bổ sung đảm bảo đủ vốn kinh doanh bình thường và có hiệu quả là nhiệm vụ của doanh nghiệp. Doanh nghiệp cần chủ động và tích cực tạo nguồn vốn theo Pháp luật để hỡ trợ cho kinh doanh của chính mình mà không nên ỷ lại vào vốn ưu đãi hoặc cho không của Nhà nước. 2.3.2.Một số kiến nghị về hoạt động tuy động vốn cho các doanh nghiệp Nhà nước tại Việt Nam trong thời gian tới Theo ý kiến của một số chuyên gia về tình hình thị trường nhận định về hoạt động sử dụng vốn của doanh nghiệp Nhà nước, thì tình hình huy động vốn của các doanh nghiệp Nhà nước vẫn chưa thực sự đạt được những kết quả mong muốn. Kết quả đạt được chưa đáp ứng được nhu cầu yêu cầu vốn của các doanh nghiệp Nhà nước bởi vì trong quá trình hoạt động huy động vốn cho doanh nghiệp còn xảy ra nhiều bất cập, những khó khăn vướng mắc như cơ chế quản lý tài chính, như trình độ của các cán bộ hoạt động trong lĩnh vực này, như kết quả hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp Nhà nước. Tất cả những điều đó đã làm cho quá trình huy động vốn của các doanh nghiệp Nhà nước nói chung đều rất khó khăn. Để giải quyết các khó khăn trong hoạt động huy động vốn thì trong thời gian tới đất nước ta cần phải có những hoạt động tích cực nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp Nhà nước. Là một nhà tài chính tương lai, em cũng có một số những nhận định ý kiến hy vọng có thể đóng góp chút công sức để hoàn thiện, góp phần đẩy nhanh quá trình huy động vốn cho các doanh nghiệp Nhà nước. Thứ nhất, các doanh nghiệp phải chú ý nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh tức là nâng cao hiệu quả sử dụng vốn khi làm ăn có lãi cần dành một tỷ lệ lợi nhuận thích đáng cho mục đích đầu tư. Đồng thời, về phía Nhà nước, chế độ phân phối lợi nhuận của doanh nghiệp Nhà nước cần thực sự khuyến hoạt động đầu tư từ nguồn vốn tự khai thác hơn là sử dụng nhiều vốn của Nhà nước chỉ để tăng quy mô doanh nghiệp. Bên cạnh đó doanh nghiệp cần sử dụng hiệu quả nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong doanh nghiệp để đầu tư đặc biệt là nguồn vốn khấu hao cơ bản. Phương pháp trích khấu khao phải đảm bảo được sự cân đối dựa mức chi phí tính vào giá thành sản phẩm và khâu hoàn vốn để đổi mới tài sản. Các tài sản không cần dùng hoặc hiệu quả sử dụng không cao cần được nhanh chóng thanh lý, nhượng bán để thu hồi vốn và giảm chi phí bảo quản sửa chữa. Để làm được việc này, doanh nghiệp phải tiến hành phân loại và đánh giá chính xác giá trị tài sản, so sánh cân nhắc cẩn thận giữa hai phương án: giữ tài sản để sử dụng và bán tài sản rồi đi thuê khi cần dùng, từ đó chọn ra phương án có lợi nhất cho doanh nghiệp. Thứ hai, phải đa dạng hoá các hình thức huy động vốn của doanh nghiệp: Về doanh nghiệp cần kết hợp nhiều nguồn vốn khác nhau để đạt hiệu quả sử dụng vốn cao nhất. Mỗi nguồn vốn có ưu nhược điểm và chi phí sử dụng riêng. Tuỳ thuộc vào mục đích đầu tư và tình hình cụ thể tại doanh nghiệp, chủ doanh nghiệp sẽ lựa chọn cho mình nguồn vốn thích hợp nhất. Phương hướng chung là cùng một lúc sử dụng nhiều nguồn vốn một cách hài hoà để tận dụng tối đa ưu điểm và hạn chế, bớt điểm bất lợi của nguồn vốn đó. Đối với mỗi nguồn vốn huy động, doanh nghiệp phải có một phương án thu hút riêng như cải thện quan hệ giữa các tổ chức tín dụng để giảm bớt chi phí và thủ tục giao dịch khi vay vốn, đưa ra các hình thức phát hành và mức lãi suất hấp dẫn nếu muốn huy động vốn bằng cổ phiếu, trái phiếu, đẩy mạnh công tác tuyên truyền thuyết phục để vay vốn cán bộ công nhân viên ... Tuy nhiên, dù doanh nghiệp huy động nguồn vốn nào thì uy tín và hiệu quả kinh doanh vẫn là yếu tố quyết định đến khả năng thành công của phương án huy động đó. Về phía Nhà nước, cần có cơ chế để nắm bắt được đầy đủ nhu cầu và thực trạng sử dụng vốn của doanh nghiệp, tạo điều kiện cho doanh nghiệp tự huy động vốn trong và ngoài nước. Các giải pháp hỗ trợ đầu tư trực tiếp theo hướng tạo môi trương thuận lợi là chính. Nhà nước chỉ đầu tư trực tiếp cho những lĩnh vực then chốt của nền kinh tế. Các doanh nghiệp khác, dù là doanh nghiệp Nhà nước, cũng phải tự tìm hướng huy động vốn cho bản thân mình. Chỉ cần Nhà nước tạo hành lang pháp lý thông thoáng và phù hợp cho thị trường tín dụng, thị trường tài chính, thị trường bất động sản... phát triển và có cơ chế quản lý tài chính hiệu quả đối với doanh nghiệp, cung và cầu về vốn sẽ dễ dàng gặp nhau và sẽ không còn tình trạng doanh nghiệp thiếu vốn vẫn thiếu còn ngân hàng thừa vốn cứ thừa. Thứ ba, từ thực tế huy động vốn tín dụng, để nâng cao hiệu quả của việc quản lý vốn tín dụng đối với các doanh nghiệp Nhà nước vay vốn ở nhiều ngân hàng, xin kiến nghị một số điều sau đối với các ngân hàng: Các ngân hàng cần thiết tạo lạp một mối quan hệ trong kinh doanh với nhau trên mọi mối phương diện để thu thập các thông tin chung về khách hàng. Cần phải coi trọng các thông tin kinh tế và nên có những hình thức trao đổi thông tin cho nhau. Thu thập thông tin qua CIC của ngân hàng Nhà nước để nắm chắc thực trạng của các doanh nghiệp trước khi quyết định cho vay. Để thực hiện tốt nọi dung của quyết định số 415/1999/QĐ-NHNN23 ngày 18/11/1999 của thống đốc ngân hàng Nhà nước về việc ban hành quy chế hoạt động thông tin tín dụng trong ngành ngân hàng, các tổ chức tín dụng phải cung cấp các thông tin kịp thời cho các ngân hàng Nhà nước, đối với thông tin khách hàng có quan hệ tín dụng với các tổ chức tín dụng phải được cung cấp hàng ngày. Đối với các dự án kinh tế lớn, các ngân hàng thương mại nên phối hợp thực hiện, cho vay đồng tài trợ để vừa phân chia lợi nhuận vừa phân chia rủi ro. Đây cũng là hình thức quản lý vốn vay chặt chẽ. Tăng cường các biện pháp quản lý kinh doanh đối với doanh nghiệp theo đúng chức năng, quy mô hoạt động phù hợp với năng lực và trình độ quản lý yêu cầu thực hiện kiểm toán hàng năm nhằm nắm được những thông tin chính xác tình hình tài chính doanh nghiệp. Cần nghiêm khắc xử lí tình trạng doanh nghiệp lợi dụng việc vay vốn tại nhiều ngân hàng để thực hiện đảo nợ gay nên tình trạng lôn xộn không quả lý được vốn vay của các ngân hàng. Các ngân hàng thực hiện nghiêm túc yêu cầu của chỉ thị số 05/CT-NH14 ngày 18/06/1994 của thống đốc ngân hàng Nhà nước. Tại mỗi cuộc họp giao ban giữa chi nhánh ngân hàng Nhà nước và các chi nhánh ngân hàng thương mại trên địa bàn, nên quan tâm đưa vấn đề quản lý vốn đối với các doanh nghiệp Nhà nước vay nhiều ngân hàng trên địa bàn để thống nhất cách quản lý vốn hiệu quả nhất. Thực hiện cho vay có tài sản đảm bảo đối với các doanh nghiệp Nhà nước, có như vậy mới xác định được tài sản nào bảo đảm vốn vay cụ thể cho mỗi ngân hàng, muốn thực hiện nghiêm túc giải pháp này cần có sự hỗ trợ của các cơ chức năng Nhà nước trong việc hoàn thiện các loại chứng từ về tài sản của doanh nghiệp Nhà nước. Ngân hàng Nhà nước cần phải có quy định về việc quản lý vốn vay đối với các doanh nghiệp vay nhiều ngân hàng. Các giải pháp nêu trên phải được sử dụng linh hoạt cho từng doanh nghiệp và cùng với sự quan tâm của Nhà nước, mỗi doanh nghiệp phải xác định rằng tạo lập vốn kinh doanh trước hết là vì lợi ích của bản thân doanh nghiệp và doanh nghiệp không thể trong chờ vào bất cứ ai khác ngoài sự tự vận động bằng nội lực của chính mình. Phần Kết Luận Chương II Các doanh nghiệp Nhà nước trong thời gian qua đã huy động được một số lượng lớn các nguồn vốn đổ vào doanh nghiệp Nhà nước thông qua các hình thức huy động vốn khác nhau. Tính đến tháng 1/1996, doanh nghiệp Nhà nước đã huy động được 279 375 tỷ đồng gấp hơn 4.1 lần vốn kinh doanh ban đầu do Nhà nước cấp cho các doanh nghiệp đó. Năm 2002 con số huy động vốn của các doanh nghiệp Nhà nước đã tăng lên gấp 2,3 lần con số tính được vào năm 1996. Điều đó cho thấy trong những năm gần đây hoạt động huy động vốn cho doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam có những thành công lớn. Hầu hết các doanh nghiệp Nhà nước đã có thể đảm bảo được lượng vốn để có thể tiếp tục sản xuất kinh doanh và một số doanh nghiệp Nhà nước có thể tái sản xuất với quy mô rộng lớn hơn. Song không phải bất kỳ doanh nghiệp Nhà nước nào cũng có thể đáp ứng được đầy đủ vốn kinh doanh để có thể sản xuất kinh doanh và mở rộng quy mô sản xuất. Những doanh nghiệp không đáp ứng được yêu cầu về vốn đã lần lượt phải giải thể, sát nhập hay ngừng hoạt động. Trong những năm tới, chúng ta cần phải thực hiện các chính sách khuyến khích sản xuất kinh doanh trong các doanh nghiệp Nhà nước. Tạo điều kiện cung cấp cho các doanh nghiệp Nhà nước những yêu cầu về vốn để các doanh nghiệp có thể hoạt động một cách có hiệu quả. Cạnh tranh được với thị trường trong và ngoài nước. Để được như thế thì Đảng và Chính phủ phải có những đường lối đổi mới trong công việc tạo lập cũng như huy động vốn cho các doanh nghiệp Nhà nước. Đây cũng chính là những đường lối nhằm thúc đẩy nền kinh tế quốc gia, đưa nền kinh tế phát triển đi lên cùng với vai trò chủ đạo của các doanh nghiệp Nhà nước. Phần kết luận Trong nền kinh tế thị trường thì vai trò của các doanh nghiệp Nhà nước ngày càng đóng vai trò quan trọng trong các chính sách điều hành nền kinh tế vĩ mô cũng như định hướng nền kinh tế. Chính vì lý do đó thì các doanh nghiệp Nhà nước ngày càng phải tự khẳng định được mình trong đó một nhiệm vụ quan trọng mà các doanh nghiệp này phải làm đó là phải làm sao cho sự phụ thuộc vào ngân sách Nhà nước ngày càng giảm dần, để giảm gánh nặng cho Nhà nước. Các doanh nghiệp Nhà nước cần phải kết hợp một cách đa dạng các hình thức huy động vốn để giảm bớt các rủi ro và hạn chế được các nhược điểm của các phương pháp huy động đồng thờ phát huy được các ưu điểm của các phương thức này. Tuy nhiên không thể coi và sử dụng các phương thức này như nhau mà cần phải biết sử dụng một cách linh hoạt, biến hoá, tập trung vào một số biện pháp huy động có hiệu quả với từng doanh nghiệp tuỳ thuộc vào tình hình từng doanh nghiệp. Trong xu thế ngày càng hội nhập với nền kinh tế nên ngoài, các doanh nghiệp Nhà nước càng phải thể hiện vai trò của mình một cách tích cực hơn. Điều đó có nghĩa là các doanh nghiệp Nhà nước cần phải có các phương thức huy động vốn một cách có hiệu quả hơn. Bên cạnh đó Đảng và Chính phủ phải có những biện pháp chính sách để có thể nâng cao vai trò của doanh nghiệp Nhà nước. Đảm bảo cho các ngành doanh nghiệp Nhà nước đóng vai trò then chốt có thể đảm bảo sự hoạt động và uy tín của mình. Đưa quy mô của các doanh nghiệp Nhà nước này lên tầm kinh tế thế giới. Danh mục tài liệu tham khảo Nguyễn Hữu Tài, nhà xuất bản thống kê, 2002, Giáo trình Lí thuyết Tài chính - Tiền tệ. TS.Lưu Thị Hương, nhà xuất bản giáo dục, Giáo trình Tài chính doanh nghiệp. TS.Hoàng Xuân Quế 2002, Giáo trình Nghiệp vụ Ngân hàng Trung ương. Frederic S.Mishkin ,1995 ,Tiền tệ ,ngân hàng & thị trường tài chính NXB Khoa học và Kỹ thuật . Tạp chí Kinh tế và dự báo. TS. Vũ Duy Hào 1998, nhà xuất bản tài chính,Giáo trình Quản trị Tài chính doanh nghiệp. Harold Bierman, JR. Seymour smidt, Quyết định dự toán vốn đầu tư (TS.Nguyễn Xuân Thuỷ và Bùi Văn Đông, bản dịch, 1995, nhà xuất bản Thống kê). Frank - John stermole, Đánh giá kinh tế và quyết định đầu tư trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ, Nhà xuất bản Thống kê,1995. PGS.TS.Trần Đình Ty, quản lý nhà nước về Tài chính Tiền tệ, Nhà xuất bản Lao động, 2002. Các tạp chí kinh tế thị trường. Các nghị định, quyết định của Chính phủ Các chỉ thị của Thống đốc Ngân hàng Mục lục

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docC0243.doc
Tài liệu liên quan