Đề tài Giải pháp để thúc đẩy các hoạt động của Ngân hàng thương mại trên thị trường chứng khoán Việt Nam

Thực tế cho thấy, sự phát triển của TTCK Việt Nam không thể thiếu sự tham gia của NHTM bởi các hoạt động của tổ chức này có ý nghĩa rất quan trọng trong việc tăng chất lượng và hiệu quả hoạt động của TTCK. Hơn thế nữa, phát triển các hoạt động kinh doanh chứng khoán là hướng chiến lược của các NHTM Việt Nam trong xu thế hội nhập khu vực và quốc tế.

doc83 trang | Chia sẻ: ndson | Lượt xem: 1149 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp để thúc đẩy các hoạt động của Ngân hàng thương mại trên thị trường chứng khoán Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
bảo lãnh chỉ được thực hiện theo phương thức bảo lãnh cam kết chắc chắn. Điều này sẽ hạn chế hoạt động bảo lãnh của các CTCK bởi lẽ số vốn nhỏ. Theo NĐ mới thì đơn vị bảo lãnh phát hành có thể lựa chọn cho mình hình thức bảo lãnh phù hợp. Tuy nhiên theo NĐ 144 thì quy định tổ chức bảo lãnh phát hành chỉ được bảo lãnh cho đợt phát hành không vượt quá 30% vốn tự có sẽ tiếp tục tạo ra những “ khoảng trống ” đối với hoạt động này. Thời gian gần đây, tuy một số các CTCK đã thực hiện việc tăng vốn điều lệ nhưng vẫn rất khó khăn khi muốn tham gia bảo lãnh cho các đợt phát hành lớn. Trong điều kiện các công ty chứng khoán chưa có thói quen liên kết để thành lập tổ hợp bảo lãnh phát hành thì thị trường bảo lãnh phát hành cho các đợt phát hành lớn vẫn bị bỏ ngỏ. Ngoài ra, theo Nghị định 144 còn có nhiều điểm mới về công bố thông tin, giao dịch chứng khoán và các quy định liên quan đến quỹ đầu tư. Nói chung, NĐ 144 đã khắc phục được nhiều nhược điểm của NĐ 48 nên hứa hẹn hiệu lực thực thi cao. Tuy nhiên, để hoàn thiện đầy đủ thì vẫn còn nhiều nội dung phải được cụ thể hóa trong các thông tư hướng dẫn. Theo các Nghị định này, các NHTM không được phép thực hiện trực tiếp các hoạt động kinh doanh chứng khoán mà phải thành lập các CTCK độc lập để cung cấp các dịch vụ này. Điều này là hoàn toàn phù hợp với giai đoạn phát triển hiện nay của thị trường tài chính Việt Nam và khả năng quản lý, giám sát của các cơ quan quản lý Nhà nước. Ngoài ra, việc thành lập các CTCK của NHTM cũng đã được NHNN điều chỉnh bằng việc ban hành thông tư số 04/1999/TT-NHNN5 ngày 02/11/1999 “Hướng dẫn về việc thành lập CTCK của NHTM”. Theo đó, để kinh doanh chứng khoán, NHTM phải thành lập CTCK với các điều kiện: Đã có thời gian hoạt động tối thiểu 5 năm Hoạt động kinh doanh có lãi, có nợ quá hạn dưới 5% tổng dư nợ cho vay Bộ máy quản trị, điều hành và hệ thống kiểm tra nội bộ hoạt động có hiệu quả Không vi phạm các quy định về tỷ lệ an toàn trong hoạt động ngân hàng và các quy định khác của pháp luật Có đủ cơ sở vật chất, kỹ thuật phục vụ cho kinh doanh chứng khoán. Tuy đã hình thành một hệ thống văn bản pháp luật, nhưng để điều chỉnh các hoạt động cụ thể thì chưa đầy đủ và thiếu tính đồng bộ. Các NHTM hoạt động trên TTCK đồng thời phải chịu sự điều tiết của nhiều văn bản pháp luật mà đôi khi có sự mâu thuẫn, trùng chéo. Điều này gây cản trở sự tham gia của NHTM trên TTCK. Thứ hai, sự kém phát triển của TTCK Việt Nam TTCK Việt Nam đang trong giai đoạn phát triển bước đầu, các chủ thể hoạt động trên thị trường còn chưa có kinh nghiệm và kiến thức đầy đủ về chứng khoán và TTCK. Các doanh nghiệp Việt Nam còn trông chờ vào nguồn vốn nhà nước cấp, và vẫn có thể vay vốn các ngân hàng để thực hiện kinh doanh. Hơn thế nữa, các doanh nghiệp còn sợ việc công khai tài chính, công bố thông tin khi niêm yết trên TTCK. Trong khi đó những doanh nghiệp niêm yết thì quy mô nhỏ, hiệu quả kinh doanh không cao. Do vậy, lượng hàng hóa cho TTCK còn ít, chất lượng hàng hóa kém. Điều này gây khó khăn cho các NHTM thực hiện việc đầu tư và các hoạt động đại lý, bảo lãnh phát hành, quản lý danh mục đầu tư. Về phía các nhà đầu tư, đầu tư vào chứng khoán là một kiểu đầu tư mới của công chúng Việt Nam. Họ chưa có kinh nghiệm, hiểu biết rõ về chứng khoán và hình thức đầu tư mới này. Hơn thế nữa, qua 3 năm qua, nhiều sự kiện trên TTCK đã làm mất lòng tin của các nhà đầu tư. Do vậy, số lượng các nhà đầu tư trên thị trường còn rất ít. Các NHTM không có nhiều cơ hội để phát triển hoạt động tư vấn, môi giới, cho vay chứng khoán và lưu ký, thanh toán. Chính Phủ vẫn hạn chế các hoạt động của NHTM trên TTCK do khả năng kiểm soát còn kém hiệu quả. Trên thị trường, giá chứng khoán không ổn định do thiếu vắng các trung gian tài chính đảm nhận vai trò tạo thị trường. Thứ ba, các nguyên nhân về phía NHTM Tiềm lực tài chính thấp Quy mô vốn chủ sở hữu của các NHTM còn quá nhỏ bé so với các NHTM trong khu vực và chưa đảm bảo được tỷ lệ vốn an toàn tối thiểu theo quy định (>=8%). Điều này sẽ hạn chế khả năng tham gia của các NHTM trên TTCK. Nguồn vốn của các ngân hàng vẫn chủ yếu do Ngân sách Nhà nước cấp, chưa huy động vốn rộng rãi trong nhân dân và từ nước ngoài. Các NHTM Nhà nước có vai trò chủ đạo trong hệ thống và trong nền kinh tế, chiếm lĩnh thị phần cao: 70% tổng nguồn vốn huy động và khoảng 80% thị phần tín dụng. Tuy nhiên quy mô vốn của các NHTM nhà nước còn quá nhỏ. Theo thống kê của NHNN Việt Nam, hiện tại vốn tự có của toàn hệ thống NHTMNN mới xấp xỉ khoảng 1 tỷ đô la, chỉ bằng 10-20% số vốn tự có trung bình của một NHTM trong khu vực. Do vốn tự có thấp, dư nợ cho vay và tổng tài sản tăng nhanh nên các NHTMNN không đáp ứng được tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu. Hiện nay, tỷ lệ vốn tự có trên tổng tài sản của các NHTMNN đều chưa đạt tới 5%. Tiếp tục đổi mới hệ thống ngân hàng nước ta trước yêu cầu hội nhập, trong đề án cơ cấu lại NHTMNN và NHTMCP, từ 2002 đến nay, NHNN cùng Bộ tài chính thực hiện cấp bổ sung vốn điều lệ cho các ngân hàng dưới dạng trái phiếu đặc biệt. Tuy nhiên, trái phiếu này có tính thanh khoản quá thấp, phải mất tới tối thiểu 5 năm sau mới có thể chuyển đổi một phần thành tiền để đưa vào kinh doanh. Đợt 1 đã thực hiện trong năm 2002 với số vốn cấp là 4900 tỷ đồng. Tiếp đến tháng 6/ 2003, Bộ tài chính quyết định bổ sung vốn điều lệ đợt 2 là 1900 tỷ đồng cho 4 NHTMNN. Đợt 3 được thực hiện trong quý 4 năm 2003 với số vốn là 1900 tỷ. Dự kiến trong năm 2004, tổng số vốn điều lệ được cấp bổ sung cho các NHTMNN là 16000 tỷ đồng. Song cùng với vốn điều lệ được cấp bổ sung, dư nợ cho vay ( 20- 25% ) và tổng tài sản của các NHTM cũng tăng nhanh, tỷ lệ an toàn không được mấy cải thiện.Vốn điều lệ của các NHTM Nhà nước tính đến đầu năm 2004: NHNN&PTNTVN : 4400 tỷ đồng NHNTVN : 3400 tỷ đồng NHĐT&PTVN : 2700 tỷ đồng NHCTVN : 2100 tỷ đồng Bảng 2.4 : Tỷ trọng vốn chủ sở hữu trong tổng nguồn vốn của các NHTMNN Đơn vị :% Năm NH 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 TB NHNN&PT 3.32 2.5 0.8 8.36 7.59 6.66 5.45 3.7 4.8 NHCT 5 4.6 4 4.9 3.83 4.07 2.98 2.5 3.64 NHĐT&PT 4.5 4.61 5.05 5.34 4.65 3.8 3.98 2.8 4.34 NHNT 5.7 4.3 4.7 4.59 4.64 3.31 3.27 2.47 4.12 Nguồn: Báo cáo thường niên các NHTM quốc doanh Đối với các NHTMCP, thời điểm cao nhất cả nước có tới 52 NHTMCP. Sau hơn 3 năm tiến hành chấn chỉnh, củng cố đến nay còn 34 ngân hàng, thì có tới 32 ngân hàng tăng đủ vốn điều lệ theo quy định. Một số ngân hàng còn tăng vốn nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh và đảm bảo tỷ lệ vốn tối thiểu 8% theo thông lệ quốc tế. Nhưng vấn đề đặt ra đối với khối ngân hàng này cũng là quy mô vốn quá nhỏ. NHTMCP có quy mô lớn nhất với số vốn cũng chỉ khoảng 30 triệu $, không nhiều hơn quy mô của một chi nhánh ngân hàng nước ngoài ở Việt Nam. Song có một nghịch lý hiện nay là nhiều NHTMCP không muốn tăng thêm vốn nữa. Bởi vì khi tăng vốn phải phát hành thêm cổ phiếu ra công chúng, như vậy sẽ bị giảm cổ tức hàng năm. Đồng thời họ cũng không muốn chia sẽ quyền hành trong Hội đồng quản trị, lo sợ nảy sinh phức tạp về lợi ích. Hiện nay, có 4 NHTMCP có cổ đông nước ngoài ( công ty tài chính IFC thuộc WB mua cổ phần của ngân hàng Đông á, Sài Gòn Thương Tín 15% vốn điều lệ, với mức vốn đầu tư từ 5- 8 triệu $; Quỹ đầu tư Dragon Capital Fund mua cổ phần của 3 ngân hàng là VPBank, á châu, Đông á ). Như vậy với quy mô vốn chủ sở hữu thấp sẽ hạn chế khả năng hoạt động của các ngân hàng và làm tăng rủi ro đối với hệ thống ngân hàng. Chất lượng tín dụng thấp và các nghiệp vụ chưa đa dạng Trước hết là hoạt động của các NHTM mang tính truyền thống là chủ yếu, trong đó hoạt động tín dụng chiếm khoảng 70-80% tổng thu nhập ( trừ NHNTVN thì hoạt động tín dụng của các ngân hàng khác tương đương nhau). Các nghiệp vụ kinh doanh khác còn rất hạn chế, dịch vụ đơn điệu. Các loại hình dịch vụ như thanh toán trong nước, thanh toán quốc tế, làm đại lý, bảo lãnh, kinh doanh ngoại tệ, chứng khoán, tư vấn...mặc dù đã có nhiều bước tiến bộ nhưng vẫn chiếm tỷ trọng rất thấp. Chất lượng tín dụng của các NHTM Việt Nam rất kém được thể hiện qua tỷ lệ nợ xấu. Sở dĩ là do các NHTM đổ xô vào các dự án quá lớn đặc biệt là các NHTMNN. Chẳng hạn đối với NHNTVN, năm 2002, dư nợ cho vay của 30 khách hàng lớn chiếm tới 32% tổng dư nợ (khoảng 30000 tỷ đồng). Điều này là đi ngược với nguyên tắc phân tán rủi ro. Hơn thế nữa, khi thực hiện phân tích tín dụng, NHTM không nghiên cứu kỹ khách hàng, nghiên cứu thị trường. Chưa tách bạch hẳn hoạt động cho vay chính sách và cho vay thương mại, đối tượng cho vay của các NHTM vẫn là các DNNN. Các NHTMNN tập trung đầu tư vốn trung, dài hạn cho các dự án của Nhà nước, của các Tổng công ty. Các cam kết tín dụng cho dự án không căn cứ vào hiệu quả mang lại mà chỉ nhìn vào sự bảo lãnh. Thực tế cho thấy, các dự án lớn của các Tổng công ty 90, 91 được các Bộ, ngành chủ quản chấp thuận luôn được các ngân hàng cạnh tranh để được tham gia. Dư nợ cho vay đối với các Tổng công ty vượt xa với vốn tự có của các doanh nghiệp này ở mức độ cao cũng như lớn hơn nhiều so với quy định của Luật các tổ chức tín dụng ( dư nợ cho vay đối với một khách hàng tối đa không vượt quá 15% vốn tự có của các NHTM ). Theo số liệu của Bộ tài chính, tính đến hết năm 2003, số nợ của các DNNN là hơn 200 nghìn tỷ đồng trong đó nợ các NHTMVN chiếm tới 76% tổng dư nợ. Trong 29 nghìn tỷ đồhg nợ quá hạn của các DNNN thì phần lớn nhất là nợ quá hạn đối với các NHTMVN. Thực hiện các biện pháp nhằm cơ cấu lại toàn diện hệ thống ngân hàng trong đó có nội dung lành mạnh hóa tài chính, xử lý các khoản nợ tồn đọng và ngăn chặn các khoản nợ xấu phát sinh đồng thời nâng cao chất lượng tín dụng và hiệu quả hoạt động, tỷ lệ nợ xấu của các NHTM có giảm mạnh. Tuy nhiên, chất lượng tín dụng của các NHTM vẫn rất thấp. Đến ngày 31/12/2003, tỷ lệ nợ quá hạn so với tổng dư nợ của các NHTM là 6.8% trong đó nợ quá hạn khó đòi chiếm gần 50% so với tổng nợ quá hạn; nợ chờ xử lý và nợ xấu khác chiếm 57% tổng số nợ xấu. Bảng 2.5: Tỷ lệ nợ quá hạn của các NHTM Việt Nam Đơn vị:% Năm 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 Nợ quá hạn/ tổng dư nợ (%) 7.8 9.3 12.4 12 13.2 13.1 8.5 7.06 Nguồn:NHNN Bảng 2.6: Tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ của các NHTM Nhà nước (31/12/2002) Đơn vị: % Tên NHTM Nợ quá hạn Dư nợ tín dụng Tỷ lệ nợ quá hạn so với dư nợ NHNTVN 764.301 29.295.181 2.8% NHCTVN 1.837.713 47.120.856 3.9% Nguồn: Báo cáo thường niên các NHTM Nhà nước Năng lực quản trị, điều hành chưa cao và trình độ cán bộ nghiệp vụ còn nhiều hạn chế so với yêu cầu của NHTM hiện đại Mặc dù đã cố gắng rất nhiều trong việc đổi mới, nhưng các công cụ và cách thức quản lý điều hành NHTM còn chưa kịp theo yêu cầu của NHTM hiện đại. Bộ máy tổ chức và quản lý nguồn nhân lực của ngân hàng còn nhiều bất cập về cả trình độ quản lý và điều hành, kiến thức thị trường và kinh doanh, mô hình cồng kềnh và do đó chi phí cao. Phù hợp với tình hình thực tế hiện nay khi yêu cầu về chất lượng và trình độ cán bộ là một yếu tố cạnh tranh, các NHTM đặc biệt là các NHTMCP đã tổ chức thi tuyển cán bộ, nhân viên mới theo tiêu chuẩn, trình độ được được ra về chuyên môn, nghiệp vụ, tin học, ngoại ngữ,..Nhưng một số NHTM khác, việc tăng thêm đội ngũ cán bộ, nhân viên mới vẫn theo kiểu truyền thống, trình độ hạn chế về mọi mặt. Công nghệ ngân hàng còn chưa hiện đại Các NHTM Việt Nam đã tập trung hiện đại hóa công nghệ ngân hàng bằng việc trang bị máy móc nhập khẩu. Tuy nhiên, cơ sở hạ tầng và trình độ công nghệ của các NHTM Việt Nam còn yếu kém so với mặt bằng chung của thế giới. Ngay cả Ngân hàng Ngoại thương, được đánh giá là ngân hàng hàng đi đầu trong lĩnh vực công nghệ mới cũng đang gặp phải những bất cập trong việc xây dựng một nền tảng công nghệ hiện đại, đặc biệt là vốn đầu tư cho công nghệ còn quá thấp. Cùng với quá trình mở cửa nền kinh tế, các ngân hàng có điều kiện tiếp thu một số công nghệ từ bên ngoài nhưng chưa có đủ điều kiện sử dụng hiệu quả do nhiều nguyên nhân trong đó, một phần là do thiếu các chuyên gia giỏi trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ, tín dụng và dịch vụ ngân hàng; phần khác là do chi phí cho sử dụng công nghệ mới quá cao, nhiều ngân hàng chưa đủ điều kiện để đầu tư. Hệ thống thông tin, xử lý thông tin, hệ thống thanh toán chưa chính xác và kịp thời đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của các nghiệp vụ hiện đại. Các NHTM Việt Nam đang không ngừng thực hiện các biện pháp cơ cấu lại tài chính, tổ chức hoạt động, nâng cao năng lực quản trị, hiện đại hóa công nghệ ngân hàng nhằm nâng cao chất lượng hoạt động và năng lực cạnh tranh để hội nhập quốc tế. Mặc dù vẫn còn nhiều yếu kém, song với tiềm lực vốn có cùng kinh nghiệm trong lĩnh vực tài chính tiền tệ, NHTM sẽ là những chủ thể thúc đẩy TTCK phát triển thông qua các hoạt động trên thị trường với 3 tư cách: nhà đầu tư có tổ chức, tổ chức phát hành, trung gian tài chính cung cấp các dịch vụ chứng khoán trên TTCK. Các phân tích về thực trạng cho thấy sự tham gia của các NHTM trên TTCK Việt Nam đã đạt được một số các kết quả đáng kể song còn nhiều hạn chế: hẹp về quy mô, hình thức đơn điệu, hiệu quả chưa cao. Điều này là bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân: cơ sở pháp lý chưa đầy đủ, thiếu đồng bộ; sự kém phát triển của TTCK Việt Nam; các nguyên nhân từ phía NHTM như tiềm lực tài chính thấp, chất lượng hoạt động chưa cao, trình độ công nghệ ngân hàng, năng lực quản trị, trình độ nhân sự chưa đáp ứng yêu cầu của NHTM hiện đại. Vì vậy, để thúc đẩy hoạt động của các NHTM trên TTCK Việt Nam cần có các giải pháp thích hợp được trình bày trong chương ba. Chương III Giải pháp thúc đẩy hoạt động của Ngân hàng thương mại trên Thị trường chứng khoán Việt Nam 3.1. Định hướng phát triển TTCK Việt Nam đến năm 2010 Theo quyết định của Thủ tướng chính phủ số 163/2003/QĐ-TTg ngày 5/8/2003 phê duyệt chiến lược phát triển TTCK Việt Nam đến năm 2010 với những nội dung như sau: Mục tiêu tổng quát của chiến lược là phát triển TTCK về cả quy mô và chất lượng hoạt động nhằm tạo ra kênh huy động vốn trung và dài hạn cho đầu tư phát triển, góp phần phát triển thị trường tài chính Việt Nam; duy trì trật tự, an toàn, mở rộng phạm vi, tăng cường hiệu quả quản lý, giám sát thị trường nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người đầu tư, từng bước nâng cao khả năng cạnh tranh và chủ động hội nhập thị trường tài chính quốc tế. Để thực hiện mục tiêu trên, định hướng phát triển TTCK Việt Nam đến năm 2010 là: Thứ nhất, mở rộng quy mô của TTCK tập trung, phấn đấu đưa tổng giá trị thị trường đến năm 2005 đạt mức 2-3% GDP và đến năm 2010 đạt mức 10-15% GDP. Tập trung phát triển thị trường trái phiếu, trước hết là Trái phiếu chính phủ để huy động vốn cho Ngân sách Nhà nước và cho đầu tư phát triển. Tăng số lượng các loại cổ phiếu niêm yết trên TTCK tập trung nhằm tăng quy mô về vốn cho các doanh nghiệp và nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh của các công ty niêm yết. Thứ hai, xây dựng và phát triển TTGDCK, Sở Giao dịch chứng khoán, Trung tâm lưu ký chứng khoán nhằm cung cấp dịch vụ giao dịch, đăng ký, lưu ký và thanh toán chứng khoán theo hướng hiện đại hóa. Xây dựng TTGDCK TPHCM thành Sở Giao dịch chứng khoán với hệ thống giao dịch, hệ thống giám sát và công bố thông tin thị trường tự động hóa hoàn toàn. Xây dựng thị trường giao dịch cổ phiếu của các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Hà Nội; chuẩn bị điều kiện để sau năm 2010 chuyển thành thị trường Giao dịch Chứng khoán phi tập trung(OTC). Thứ ba, phát triển các định chế tài chính trung gian cho TTCK Tăng quy mô và phạm vi hoạt động nghiệp vụ kinh doanh, dịch vụ của các CTCK. Phát triển các CTCK theo hai loại hình: CTCK đa nghiệp vụ và CTCK chuyên doanh, nhằm tăng chất lượng cung cấp dịch vụ và khả năng chuyên môn hóa hoạt động nghiệp vụ. Khuyến khích và tạo điều kiện để các tổ chức thuộc mọi thành phần có đủ điều kiện thành lập các CTCK. Phát triển các công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán về cả quy mô và chất lượng hoạt động. Khuyến khích các CTCK thực hiện nghiệp vụ quản lý danh mục đầu tư. Thành lập một số công ty định mức tín nhiệm để đánh giá, xếp loại rủi ro các loại chứng khoán niêm yết và định mức tín nhiệm của các doanh nghiệp Việt Nam. Thứ tư, phát triển các nhà đầu tư có tổ chức và các nhà đầu tư cá nhân. Thiết lập hệ thống các nhà đầu tư có tổ chức bao gồm các NHTM, các CTCK, công ty tài chính...tạo điều kiện cho các tổ chức này tham gia thị trường với vai trò là các nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp và thực hiện chức năng của các nhà tạo lập thị trường. Mở rộng và phát triển các loại hình quỹ đầu tư chứng khoán; tạo điều kiện cho các nhà đầu tư nhỏ, các nhà đầu tư cá nhân tham gia TTCK thông qua góp vốn vào các quỹ đầu tư. Như vậy, định hướng phát triển của TTCK Việt Nam tới năm 2010 bao gồm nhiều nội dung, mà nội dung cơ bản là tăng cung, tăng cầu, phát triển các định chế tài chính trung gian. Có thể nhận thấy, NHTM đóng vai trò rất quan trọng trong sự phát triển của TTCK Việt Nam.Điều này được thể hiện: Thứ nhất, các NHTM chính là những tổ chức phát hành chứng khoán trên TTCK. Các chứng khoán của các NHTM có chất lượng cao và có sức thu hút lớn. Việc thúc đẩy các NHTM huy động vốn trên TTCK thông qua phát hành chứng khoán không chỉ làm tăng số lượng và chất lượng hàng hóa cho TTCK Việt Nam mà còn có vai trò quan trọng trong nâng cao năng lực tài chính, năng lực cạnh tranh của NHTM trong tiến trình hội nhập. Thứ hai, các NHTM là nhà đầu tư có tổ chức. Bằng những kinh nghiệm vốn có trong lĩnh vực tiền tệ cũng như khả năng tài chính, các NHTM đóng vai trò là những nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp và nhà tạo lập thị trường. Với vai trò là nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp, các NHTM có thể giảm chi phí và kiểm soát rủi ro cao. Khi mà TTCK Việt Nam còn ở giai đoạn đầu, thì hoạt động đầu tư của các NHTM có thể định hướng và dẫn dắt hoạt động của các nhà đầu tư cá thể trên thị trường. Hơn thế nữa, các NHTM có thể phát triển loại hình quỹ đầu tư chứng khoán tạo điều kiện cho sự tham gia của các nhà đầu tư nhỏ, cá nhân vào TTCK, tạo sự sôi động cho thị trường. Thứ ba, NHTM chính là những trung gian tài chính trên TTCK Việt Nam cung cấp các dịch vụ chứng khoán tới các nhà đầu tư, tổ chức phát hành, chính phủ thông qua các hoạt động tư vấn, môi giới, bảo lãnh, tự doanh, quản lý danh mục đầu tư, lưu ký... Bằng việc cung cấp các dịch vụ hỗ trợ trên TTCK, hoạt động của NHTM sẽ làm tăng tính hiệu quả cho TTCK Việt Nam. 3.2. Giải pháp thúc đẩy các hoạt động của NHTM trên TTCK Việt Nam 3.2.1. Giải pháp vĩ mô 3.2.1.1. Hoàn thiện cơ sở pháp lý cho hoạt động của NHTM trên TTCK Hoạt động của các NHTM đang bị chi phối bởi nhiều văn bản pháp lý khách nhau. Trên thực tế, hệ thống pháp lý về chứng khoán và TTCK nói chung, cũng như các văn bản pháp luật quy định khả năng tham gia của các NHTM vào hoạt động của TTCK còn chưa đầy đủ, thiếu tính đồng bộ, chưa tạo cơ sở thuận lợi, rõ ràng cho các hoạt động của NHTM trên TTCK. Do vậy, trong thời gian tới, chính phủ cần tiếp tục nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung và ban hành các văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động trong lĩnh vực chứng khoán và ngân hàng theo hướng sau: Đối với khung pháp lý về chứng khoán và TTCK: Hoạt động của TTCK rất đa dạng và phức tạp. Trong 3 năm qua, hoạt động của TTCK được dựa trên cơ sở pháp lý là nghị định 48/1998/NĐ-CP. Mặc dù đã có những đóng góp trong việc điều chỉnh các hoạt động trên TTCK, song, trong quá trình vận dụng còn nhiều quy định tỏ ra thiếu tính khả thi và chưa phù hợp với thực tiễn thị trường. Ngày 28/11/2003, thủ tướng chính phủ đã ký Nghị định 144/2003/NĐ-CP thay thế nghị định số 48/CP. Tuy so với Nghị định 48, nghị định này có những thay đổi cơ bản và khá toàn diện.Tuy nhiên, Nghị định chưa mang tính pháp lý cao do vậy không thể giải quyết triệt để những mâu thuẫn với các văn bản pháp luật liên quan. Vì vậy, để phát triển TTCK thì việc xây dựng và ban hành Luật chứng khoán là rất cần thiết. Luật chứng khoán sẽ tạo môi trường pháp lý ổn định, thuận lợi cho các cơ quan quản lý, bảo vệ quyền lợi cho các chủ thể tham gia thị trường. Đối với khung pháp lý về ngân hàng Hiện nay, các văn bản pháp lý cao nhất đối với các NHTM là Luật các tổ chức tín dụng. Mới đây, Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi các tổ chức tín dụng. Tuy nhiên, trong luật này chưa đề cập cụ thể đến việc tham gia của NHTM vào TTCK. Trong khi đó, các văn bản dưới luật hướng dẫn về việc tham gia kinh doanh chứng khoán của các NHTM mới chỉ có Quyết định số 172/1999/QĐ-TTg về việc các tổ chức tín dụng thành lập CTCK tham gia niêm yết chứng khoán; thông tư 04/1999/TT- NHNN5 của Thống đốc ngân hàng nhà nước hướng dẫn về việc thành lập CTCK của các NHTM. Vì vậy, trong thời gian tới, khi triển khai việc sửa đổi, bổ sung Luật các tổ chức tín dụng, Chính Phủ nên nghiên cứu đưa ra những quy định rõ ràng về phạm vi tham gia của các NHTM vào TTCK và việc thành lập CTCK của các NHTM. Điều này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các NHTM tham gia vào hoạt động chứng khoán. Sửa đổi luật các tổ chức tín dụng về việc kiểm soát sự thay đổi mức vốn điều lệ, mức vốn góp, mua cổ phần: Nới lỏng và tiến tới loại bỏ các quy định về việc chấp thuận của NHNN về tăng, giảm vốn và phát hành các giấy tờ có giá của các NHTMCP. NHNN cho phép các ngân hàng tiếp tục gọi vốn cổ đông nước ngoài khi đủ điều kiện. Trong số 36 ngân hàng cổ phần hiện nay, số lượng ngân hàng được NHNN cho phép gọi vốn cổ đông nước ngoài chưa nhiều. Đây được coi là nguồn vốn quan trọng bởi nó không chỉ giúp các ngân hàng nâng cao năng lực tài chính, quy mô vốn mà còn giúp các ngân hàng có thêm kinh nghiệm quản lý, điều hành khi có thêm cổ đông nước ngoài tham gia góp vốn. Tuy nhiên, các quy định và thủ tục đảm bảo an toàn tài chính và hoạt động của các NHTM cổ phần vẫn phải được đảm bảo. Quy định về cổ đông, cổ phiếu và vốn điều lệ của NHTMCP cần có những sửa đổi. Đặc biệt là cơ cấu cổ đông, NHNN cần có những nới lỏng hơn nữa về sự tham gia của các tổ chức, cá nhân nước ngoài khi mua cổ phần của các NHTMCP, bởi điều này, sẽ giúp các ngân hàng tăng được vốn điều lệ, mở rộng hoạt động, năng lực quản trị, điều hành cùng công nghệ ngân hàng sẽ được nâng cao đáp ứng được xu thế cạnh tranh với các NHTM hiện đại. Hơn thế nữa để nâng tính thanh khoản của các chứng khoán do NHTMCP phát hành, cần cho phép các ngân hàng này được phép phát hành nhiều loại cổ phiếu ngoài cổ phiếu thông thường và ưu đãi như cổ phiếu có thể chuyển đổi, các loại chứng khoán phái sinh. 3.2.1.2. Phát triển TTCK Thứ nhất, cần sớm hoàn thiện xây dựng và ban hành Luật chứng khoán Thứ hai, tăng cung chứng khoán cho TTCK về số lượng, chất lượng và chủng loại. Cải tiến phương thức phát hành Trái phiếu Chính phủ, tăng cường phát hành theo phương thức đấu thầu và bảo lãnh phát hành Trái phiếu Chính phủ; đa dạng hóa các kỳ hạn Trái phiếu này để tạo lãi suất chuẩn cho thị trường vốn; xây dựng và thực hiện kế hoạch phát hành theo lịch biểu, nhằm cung cấp đều đặn khối lượng trái phiếu cho TTCK. Ngoài ra, cần khuyến khích và tạo điều kiện để đưa các loại trái phiếu công trình, trái phiếu đô thị lên niêm yết, giao dịch trên TTCK tập trung. Đặc biệt cần tăng tính thanh khoản cho Trái phiếu Chính phủ tại thị trường thứ cấp. Thực hiện các giao dịch thỏa thuận Trái phiếu Chính phủ trong đó các NHTM, các CTCK chính là các nhà tạo lập thị trường. Tiếp tục thực hiện việc cổ phần hoá các doanh nghiệp Sự phát triển các doanh nghiệp và của các NHTM có quan hệ mật thiết với nhau. NHTM thực hiện việc cho vay đối với các doanh nghiệp trong kinh doanh. Sự phát triển của các NHTM tạo điều kiện cho các doanh nghiệp phát triển và qua đó, tạo nhu cầu mới về huy động và vay vốn từ phía các doanh nghiệp. Đây chính là cơ hội để các NHTM phát triển các dịch vụ trung gian tài chính trên thị trường vốn. Sự ra đời của Nghị định 64/NĐ-CP ngày 19/6/2002 về cổ phần hóa DNNN và các văn bản hướng dẫn liên quan đã tạo hành lang pháp lý quan trọng trong việc sắp xếp và đổi mới các doanh nghiệp trong 2 năm qua. Tuy nhiên, tiến độ thực hiện còn chậm theo kế hoạch đề ra. Theo đề án tổng thể sắp xếp, đổi mới DNNN của Chính phủ thì trong giai đoạn 2002- 2005 với 4704 DNNN hiện có, chỉ giữ nguyên 1847 doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước, chiếm 39.3%; còn lại là thuộc diện sắp xếp lại. Thế nhưng trong năm 2002, 2003, mới cổ phần hóa và sắp xếp được 1177 DNNN, chỉ đạt 69.36% mức kế hoạch. Các nguyên nhân của tình trạng này là hạn chế về vấn đề nhận thức về cổ phần hóa, quyền lợi của các doanh nghiệp được cổ phần hóa, việc xác định giá trị doanh nghiệp chưa thống nhất, các thủ tục hành chính, do sợ bị chia sẻ quyền lợi của đội ngũ lãnh đạo doanh nghiệp ...Vì vậy, Chính phủ, Bộ tài chính, các Bộ ngành liên quan cần tiếp tục có những biện pháp thích hợp thúc đẩy tiến trình cổ phần hóa các DNNN. Thứ nhất, thực hiện cổ phần hóa bắt buộc đối với các DNNN thuộc diện cổ phần hóa theo Nghị định 64/2002/NĐ-CP, cần nâng cao tỷ lệ cổ phần bán cho các cổ đông bên ngoài doanh nghiệp, tỷ lệ này hiện nay là quá thấp. Đặc biệt, đối với các Tổng công ty nhà nước, cần nhanh chóng thực hiện tổ chức lại theo hướng cổ phần hóa, hình thành nên các tập đoàn kinh tế dựa trên nền tảng sự liên kết về mặt tài chính, lợi ích kinh tế, công nghệ, thị trường và chiến lược kinh doanh giữa các doanh nghiệp thành viên thay vì mối liên kết hành chính. Thứ hai, hoàn thiện các cơ chế chính sách tài chính của Nhà nước theo hướng thể chế hóa bằng các văn bản pháp luật; bổ sung chính sách ưu đãi về tài chính nhằm thúc đẩy tiến trình cổ phần hóa DNNN. Thứ ba, cần đẩy mạnh các định chế trung gian tham gia vào quá trình cổ phần hóa như công ty đầu tư tài chính, công ty mua bán nợ. Thứ tư, áp dụng chế độ ưu đãi về thuế đối với các doanh nghiệp cổ phần hóa trong những năm đầu, đặc biệt cần nghiên cứu hoàn thiện phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp để khuyến khích các nhà đầu tư tham gia mua cổ phiếu của các doanh nghiệp này, tiếp tục giải quyết những vấn đề tồn đọng về tài chính trong quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp. Việc tổ chức xác định giá trị doanh nghiệp nên thông qua đấu giá công khai để các tài sản của doanh nghiệp sẽ được chính thị trường định giá và do đó không cần đến vai trò của hội đồng xác định giá trị doanh nghiệp. Ngoài ra, việc định giá các doanh nghiệp cần có sự hỗ trợ của các tổ chức tài chính, kiểm toán có kinh nghiệm, uy tín trong và ngoài nước. Đây chính là cơ hội cho các NHTM có uy tín thực hiện dịch vụ của mình. Đặc biệt, cần gắn tiến trình cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước với việc phát hành cổ phiếu ra công chúng và niêm yết trên TTCK. Lựa chọn các doanh nghiệp lớn có đủ điều kiện để phát hành thêm cổ phiếu và tham gia niêm yết trên TTCK tập trung. Ngoài ra, Chính phủ cần tiếp tục mở rộng việc chuyển các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thành công ty cổ phần và có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp tham gia niêm yết trên thị trường tập trung. Việc cổ phần hóa các doanh nghiệp ngoài ý nghĩa tăng số lượng và chất lượng hàng hóa cho TTCK mà còn tạo cơ hội thuận lợi cho các NHTM phát triển các hoạt động của mình trên TTCK như đại lý, bảo lãnh phát hành, tư vấn, đầu tư chứng khoán. Phát triển các loại chứng khoán khác như: quyền mua cổ phiếu, trái phiếu công ty, trái phiếu chuyển đổi của doanh nghiệp, chứng chỉ quỹ đầu tư để đưa vào niêm yết và giao dịch trên TTCK. Việc phát triển các loại chứng khoán này sẽ cung cấp thêm hàng hóa cho thị trường và đưa ra nhiều sự lựa chọn hơn đối với các nhà đầu tư cá nhân, chuyên nghiệp. Điều này cũng tạo điều kiện cho các NHTM thực hiện các dịch vụ chứng khoán hay đầu tư đa dạng hóa. Giám sát và hỗ trợ các công ty niêm yết trong việc thực hiện thông lệ tốt nhất về quản trị công ty; thực hiện chế độ kế toán, kiểm toán theo quy định của pháp luật. Tăng cường quản lý, giám sát các công ty niêm yết trong việc thực hiện nghĩa vụ công bố thông tin và các nghĩa vụ đối với nhà đầu tư. Thứ ba, thực hiện các chính sách khuyến khích các tổ chức và cá nhân tham gia TTCK. Thực hiện chính sách khuyến khích đối với các nhà đầu tư như chính sách thuế. Đặc biệt cần có những khuyến khích cụ thể đối với các nhà đầu tư có tổ chức tham gia thị trường, phát triển hệ thống quỹ đầu tư và công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán. Khuyến khích và tạo điều kiện để các tổ chức tín dụng, các tổ chức và cá nhân nước ngoài tham gia TTCK. Mở rộng giới hạn đầu tư cổ phiếu đối với nhà đầu tư nước ngoài trên TTCK Việt Nam; cho phép các tổ chức kinh doanh chứng khoán nước ngoài góp vốn, mua cổ phần hoặc thành lập CTCK liên doanh với các pháp nhân trong nước, cho phép các quỹ đầu tư nước ngoài tham gia TTCK Việt Nam. Cần nới lỏng các hạn chế, rào cản về kiểm soát các giao dịch tài khoản vốn và cơ chế quản lý ngoại hối hiện hành phần nào làm giảm sức hấp dẫn của TTCK Việt Nam đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Phổ cập kiến thức về chứng khoán và TTCK tới rộng rãi công chúng nhằm hình thành nhận thức và thói quen đầu tư cho họ. UBCKNN cần mở rộng hình thức đào tạo, tăng cường phổ cập kiến thức về chứng khoán và đầu tư chứng khoán cho công chúng. TTCK cũng như các thị trường khác, hoạt động theo quy luật cung cầu. Hệ thống TTCK phải được thiết lập để người mua và người bán có thể gặp nhau và thực hiện các giao dịch. Các chương trình đào tạo phải chỉ ra cho công chúng đầu tư những lợi ích và rủi ro mà họ có thể gặp phải khi tham gia TTCK. Việc nâng cao kiến thức cho công chúng đầu tư được thực hiện qua các chương trình đào tạo và tư vấn đầu tư. Cần giới thiệu cho công chúng đầu tư được lợi ích của tính chuyên nghiệp trong hoạt động đầu tư, hướng họ đầu tư dài hạn hơn là ngắn hạn, đồng thời giới thiệu và giúp họ tiếp cận các dịch vụ tài chính trong hoạt động đầu tư như môi giới, tư vấn đầu tư, quản lý danh mục đầu tư. Ngoài ra, UBCKNN cần đầu tư hơn nữa cơ sở vật chất, có sự hỗ trợ về tài chính, xây dựng quy trình đào tạo và cấp chứng chỉ đối với đội ngũ nhân viên nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán để tạo sự tin tưởng của các nhà đầu tư khi sử dụng các dịch vụ trên TTCK. Thứ tư, nâng cao năng lực quản lý nhà nước đối với TTCK Tăng cường năng lực quản lý nhà nước nhằm đảm bảo sự linh hoạt, nhạy bén đối với TTCK. Cần có sự phối hợp giữa các Bộ, ngành, nhằm đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất về chủ trương, chính sách phát triển TTCK. Nhà nước thực hiện điều chỉnh, điều tiết thị trường thông qua các chính sách, các công cụ kinh tế tài chính - tiền tệ như chính sách thuế, lãi suất, đầu tư và các công cụ tài chính khác. Chính sách thuế: Theo quyết định 39/2000/QĐ-TTg ngày 27/3/2000 của Thủ tướng chính phủ quy định tạm thời về ưu đãi thuế đối với hoạt động kinh doanh chứng khoán đối với các chủ thể CTCK, công ty quản lý qũy, tổ chức phát hành có chứng khoán niêm yết, cá nhân đầu tư chứng khoán. Theo đó, miễn thuế giá trị gia tăng đối với hoạt động kinh doanh chứng khoán trong thời gian 3 năm đầu từ năm 2000- 2002. Đối với CTCK, công ty quản lý quỹ ngoài được hưởng các ưu đãi về thuế phù hợp với Luật thuế thu nhập doanh nghiệp hiện hành còn được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp thêm 1 năm, giảm 50% số thuế thu nhập trong 2 năm tiếp theo. Đối với các tổ chức phát hành chứng khoán được niêm yết ngoài được hưởng ưu đãi về thuế phù hợp theo Luật thuế thu nhập doanh nghiệp còn được giảm 50% số thuế phải nộp trong 2 năm tiếp theo kể từ khi niêm yết chứng khoán lần đầu trên TTGDCK. Đối với các nhà đầu tư cá nhân ( trong nước và ngoài nước ) được miễn thuế thu nhập đối với các khoản thu nhập từ cổ tức, lãi trái phiếu và chênh lệch mua bán chứng khoán. Thực tiễn việc thực thi chính sách thuế đối với TTCK bước đầu đã phát huy hiệu quả, khuyến khích các tổ chức, cá nhân tham gia thị trường. Tuy nhiên, các ưu đãi này còn mang tính hình thức, không phát huy hiệu quả. Chính sách thuế cần phải cải tiến theo hướng đơn giản hóa và minh bạch. Chính sách thuế cho TTCK cần hài hòa và thống nhất trong tổng thể chính sách thuế trên thị trường tài chính và trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân, phù hợp với từng giai đoạn phát triển của TTCK. Hơn nữa, trước mắt cần có những ưu đãi dài hạn hơn nhằm tăng cung và cầu cho thị trường. Chính sách thuế tạo điều kiện thu hút sự tham gia TTCK của đông đảo các nhà đầu tư cá nhân, tổ chức. Đối với tổ chức phát hành chứng khoán cần hướng những ưu đãi có tính lâu dài hơn nhằm thúc đẩy quá trình đa dạng hóa và nâng cao chất lượng hàng hóa trên TTCK. Để phát triển của thị trường trái phiếu thỉ việc ưu đãi về thuế cho các nhà tạo lập thị trường và nhà đầu tư trên thị trường trái phiếu là rất cần thiết. Chính sách thuế cũng cần khuyến khích phát triển các tổ chức trung gian trên TTCK. Trong những năm đầu hoạt động, các tổ chức này rất cần sự hỗ trợ của Nhà nước trên nhiều phương diện, đặc biệt là chính sách thuế, khi thị trường phát triển đến mức độ nhất định các chính sách hỗ trợ cần điều chỉnh cho phù hợp. Chính sách lãi suất : Lãi suất luôn là một nhân tố rất quan trọng tác động đến thị giá chứng khoán và sự sôi động, hiệu quả của thị trường. Lãi suất được xác định trên cơ sở thị trường sẽ luôn phản ánh đúng nhu cầu cũng như chi phí sử dụng, vì vậy, là nhân tố quan trọng trong việc phân bổ vốn có hiệu quả. NHNN cần tiếp tục đổi mới cơ chế điều hành lãi suất theo hướng tự do hóa. NHNN điều chỉnh lãi suất thông qua các nghiệp vụ thị trường mở và tái chiết khấu. Lãi suất phải được hình thành trên cơ sở thị trường và Nhà nước chỉ can thiệp bằng các công cụ gián tiếp để tạo điều kiện ổn định về lãi suất. Thứ năm, nhanh chóng triển khai đưa vào hoạt động trung tâm giao dịch các loại chứng khoán của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Trong số các doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hóa, hiện mới chỉ có 24 doanh nghiệp đủ điều kiện niêm yết trên TTCK. Các doanh nghiệp còn lại hầu hết là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, có tiềm năng phát triển tốt song vì không có đủ điều kiện về vốn, tỷ lệ cổ phiếu ra công chúng mà không được niêm yết. Cổ phiếu của các công ty này chủ yếu được giao dịch, mua bán tại thị trường tự do, việc phát hành chứng khoán ra công chúng chưa được quản lý, chưa đảm bảo công khai và công bằng...do đó gây bất lợi cho nhà đầu tư, thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, thực sự chỉ có lợi cho một số người đầu cơ trục lợi. Việc đưa vào hoạt động trung tâm giao dịch của các doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ làm tăng hàng hóa cho TTCK đồng thời góp phần tăng các hoạt động của NHTM trên TTCK. 3.2.2. Các giải pháp vi mô 3.2.2.1. Tăng cường tiềm lực tài chính cho các NHTM Từ những phân tích về thực trạng của các NHTM cho thấy vấn đề cấp bách hiện nay là phải tăng vốn chủ sở hữu cho các NHTM nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh, tăng hiệu quả hoạt động. Theo đề án những nhiệm vụ chiến lược của ngân hàng giai đoạn 2000- 2010 do NHNN đưa ra, trong vòng 5 năm tới, Việt Nam cần có một số NHTM mạnh có quy mô vốn chủ sở hữu từ 300-500 triệu $ Mỹ, tương đương 7000 tỷ đồng Việt Nam. Để thực hiện được điều này, cần thực hiện các giải pháp sau: Đối với NHTM cổ phần: tiếp tục thực hiện chủ trương chấn chỉnh các NHTMCP. Thực hiện sáp nhập các NHTMCP để có thể giảm về số lượng các ngân hàng và tăng trưởng về quy mô. Cần ban hành những quy định cụ thể và lựa chọn một số các NHTMCP phát hành, niêm yết và giao dịch cổ phiếu trên TTCK tập trung. Việc phát hành, niêm yết và giao dịch cổ phiếu của các doanh nghiệp trên TTCK vốn chứa đựng nhiều rủi ro. Vì thế khi lựa chọn NHTM cổ phần niêm yết trên thị trường phải hội đủ các điều kiện cần thiết như hoạt động lành mạnh, hiệu quả, có khả năng chống đỡ rủi ro trên thị trường. Có thể đưa ra một số tiêu thức sau: Mức vốn cần thiết Phải hoạt động lành mạnh và hiệu quả. Phải có thời gian hoạt động tối thiểu là 5 năm và liên tục 2 năm gần nhất hoạt động kinh doanh có lãi. Tỷ lệ nợ xấu so với tổng dư nợ cho vay dưới 5%. Đảm bảo các tỷ lệ an toàn trong hoạt động kinh doanh. Không vi phạm các quy định của pháp luật về tổ chức và hoạt động của ngân hàng. Ngân hàng được lựa chọn phải có bộ máy quản trị, kiểm soát, điều hành hoạt động có hiệu quả để có thể điều hành ngân hàng và sử dụng vốn của công chúng đầu tư có hiệu quả. Trước mắt, NHNN cùng UBCKNN cần đẩy mạnh việc cho phép một vài NHTMCP làm ăn hiệu quả, và đáp ứng điều kiện niêm yết trên TTCK. Khi một ngân hàng đủ điều kiện và được phép niêm yết thì toàn bộ cổ phiếu mới và cũ của ngân hàng đều được niêm yết bằng cách chuyển đổi các cổ phiếu có ghi tên hiện hành thành cổ phiếu có mệnh giá phù hợp với yêu cầu của UBCKNN. Đối với các NHTM Nhà nước Đối với NHTMNN, Chính phủ cần thực hiện chủ trương tăng vốn chủ sở hữu cho các NHTM này thông qua nguồn tái cấp vốn. Tuy nhiên, đây chỉ là giải pháp trước mắt. Việc đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa các NHTM nhằm đưa cổ phiếu ngân hàng lên niêm yết trên TTCK tập trung là một trong các chủ trương nhằm phát triển TTCK nói chung và tăng tiềm lực tài chính cho các ngân hàng nói riêng. Trước mắt, Nhà nước cần sớm ban hành những quy định cụ thể về việc cổ phần hóa như tỷ lệ nắm giữ của nhà nước sau khi cổ phần hóa, cổ phiếu bán cho những đối tượng nào, định giá ngân hàng như thế nào đặc biệt là giá trị thương hiệu. Trong giai đoạn đầu, các NHTM Nhà nước nên cổ phần hóa một bộ phận của mình như công ty tài chính, công ty chứng khoán hoặc hình thành các công ty cổ phần thuộc ngân hàng để huy động vốn và nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức này. Khi thực hiện cổ phần hóa, để đảm bảo vai trò định hướng trong hệ thống ngân hàng còn chưa lớn mạnh và nhiều rủi ro, Nhà nước nên nắm gĩư phần vốn đa số, tuy nhiên, phần bán ra ngoài cho các cổ đông, đặc biệt là các định chế tài chính quốc tế sẽ giúp tăng vốn chủ sở hữu. Ngoài ra, sự tham gia của các định chế tài chính nước ngoài sẽ tạo điều kiện cho các ngân hàng học hỏi, nâng cao năng lực quản trị điều hành kinh doanh, chuyển giao công nghệ, kinh nghiệm kinh doanh. 3.2.2.2. Nâng cao trình độ nhân sự Thứ nhất, đảm bảo bộ máy quản trị, kiểm soát và điều hành hoạt động có hiệu quả. Các NHTM phải chú trọng ngay từ khâu bầu, bổ nhiệm vào các chức danh quản trị, kiểm soát, điều hành ngân hàng. Lựa chọn những người phải thực sự có hiểu biết, kinh nghiệm trong hoạt động tài chính ngân hàng và có đạo đức trong kinh doanh cùng một số các phẩm chất khác của người lãnh đạo. Trong quá trình đương nhiệm, yêu cầu những người giữ chức danh quản trị, kiểm soát điều hành phải thường xuyên tự đào tạo để đáp ứng yêu cầu thực tiễn, phải kiên quyết loại bỏ những cá nhân có hành vi trái pháp luật, hoạt động vì bản thân hơn là sự phát triển của ngân hàng. Thứ hai, nâng cao trình độ cán bộ nghiệp vụ: Mỗi ngân hàng phải xây dựng cho mình một kế hoạch đầu tư và phát triển nguồn nhân lực thích đáng. Cần nâng cao chất lượng cán bộ nghiệp vụ về nghiệp vụ, ngoại ngữ, pháp luật, công nghệ thông tin thông qua các hình thức đào tạo, đào tạo lại, học hỏi kinh nghiệm, kiến thức về ngân hàng, TTCK. Đặc biệt trong lĩnh vực chứng khoán còn mới mẻ ở Việt Nam, các ngân hàng cần phải có một đội ngũ nhân viên có trình độ phân tích, đánh giá cũng như giàu kinh nghiệm trong lĩnh vực chứng khoán để có thể đưa ra những sản phẩm dịch vụ cần thiết, cũng như giúp khách hàng đưa ra các quyết định đầu tư đúng đắn và có hiệu quả nhất. 3.2.2.3. Phát triển công nghệ ngân hàng Các NHTM cần hiện đại hóa và quốc tế hóa công nghệ ngân hàng công nghệ thanh toán, công nghệ thông tin và xử lý thông tin. Xây dựng và tiêu chuẩn hóa hệ thống thông tin khách hàng bao gồm nhiều nguồn dữ liệu khác nhau, hình thành ngân hàng dữ liệu phục vụ cho việc khai thác với các mục đích khác nhau. Chuẩn hóa hệ thống mạng thông tin gồm mạng rộng kết nới trực tiếp các mạng nội bộ của từng hệ thống. Mạng nội bộ cần phải được tiêu chuẩn hóa và thống nhất trong toàn hệ thống ngân hàng mạng Internet, Intranet cho phép khách hàng sử dụng các tiện ích của ngân hàng qua mạng. Điều này tạo tiền đề nâng cấp chất lượng dịch vụ của ngân hàng, đảm bảo chính xác, kịp thời, an toàn. Hoàn thiện và hiện đại hóa hệ thống thanh toán nội bộ các ngân hàng và đảm bảo sự tương thích các hệ thống này với nhau và với hệ thống thanh toán liên ngân hàng của NHNN nhằm tạo môi trường để mở rộng các dịch vụ mới trong tương lai. 3.2.2.4. Nâng cao chất lượng hoạt động ngân hàng Để nâng cao hiệu quả kinh doanh và năng lực cạnh tranh, các ngân hàng phải không ngừng mở rộng hoạt động đầu tư, đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ của ngân hàng hiện đại. Trong hoạt động tín dụng, các ngân hàng phải phân loại mức độ rủi ro của nợ quá hạn, đánh giá nguyên nhân từ đó có các biện pháp xử lý thích hợp. Đối với tình trạng nợ quá hạn, các NHTM phải thực sự chủ động và kiên quyết, không nên trông chờ vào chính sách xóa nợ, khoanh nợ và giãn nợ của chính phủ và NHNN. Cần có các biện pháp xử lý nợ tồn đọng, nợ xấu của các NHTM thông qua việc thành lập các công ty quản lý nợ và khai thác tài sản, thực hiện việc chứng khoán hóa các khoản nợ của ngân hàng. Ngoài ra cần tiến hành việc phát mại, bán đấu giá, cho thuê các tài sản cầm cố thế chấp để thu nợ cho ngân hàng. Đặc biệt các ngân hàng cần phải có các biện pháp ngăn chặn các khoản nợ xấu phát sinh, nâng cao chất lượng tín dụng bằng cách thu thập xử lý thông tin đầy đủ, chính xác về khách hàng, thị trường, phân loại đánh giá khách hàng theo mức độ rủi ro của việc sử dụng vốn.. đặc biệt các ngân hàng cần đẩy mạnh hơn nữa việc tách hoạt động tín dụng thương mại và chính sách, nâng cao năng lực tự chủ. Để nâng cao năng lực cạnh tranh, các NHTM cũng cần triển khai thực hiện các định chế hoạt động ngân hàng theo tiêu chuẩn quốc tế như: quản trị rủi ro, quản trị vốn và đầu tư, quản trị tài sản - nguồn vốn; xây dựng hệ thống kế toán và kiểm toán theo tiêu chuẩn quốc tế. 3.2.2.5. Xây dựng mô hình hoạt động của NHTM trên TTCK Việc lựa chọn mô hình các CTCK khi thành lập rất được các NHTM quan tâm. Theo Nghị định 144/NĐ-CP/2003, các NHTM muốn tham gia hoạt động kinh doanh chứng khoán phải thành lập các CTCK độc lập dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần. Hiện nay, các CTCK thuộc NHTM đều được thành lập theo hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên mà sở hữu chính là Ngân hàng mẹ. Tuy nhiên, qua gần 4 năm hoạt động, hình thức này tỏ ra nhiều hạn chế đối với các hoạt động của NHTM trên TTCK. Chẳng hạn như hoạt động tự doanh của CTCK phải được thông qua Hội đồng đầu tư thuộc ngân hàng mẹ. Đặc biệt, khi mà TTCK phát triển, các CTCK này cần phải có số vốn đủ lớn để thực hiện các hoạt động, trong khi đó các CTCK thuộc ngân hàng chủ yếu là dựa vào sự cấp vốn của ngân hàng mẹ, không được quyền phát hành cổ phiếu. Rõ ràng là điều này sẽ hạn chế khả năng tham gia của các CTCK thuộc NHTM trên thị trường. Vì vậy, trong thời gian tới, cần chuyển đổi các CTCK này theo hình thức công ty cổ phần để tăng tính tự chủ, quy mô vốn và tiến tới sẽ thực hiện việc niêm yết trên TTCK. Như vậy, mô hình của các NHTM hoạt động trên TTCK trong thời gian trước năm 2010 là sự kết hợp giữa mô hình chuyên doanh và mô hình đa năng một phần. Điều này sẽ tạo điều kiện cho sự phát triển của TTCK và tránh những biến động lớn tới TTCK cũng như hệ thống NHTM Việt Nam. Trước xu thế hội nhập, các NHTM phải không ngừng đổi mới nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh. Hiệp định thương mại Việt- Mỹ được ký vào ngày13/7/2000 mở ra cho các NHTM Việt Nam nhiều cơ hội và thách thức. Theo Hiệp định, các cam kết của Việt Nam trong lĩnh vực ngân hàng có lộ trình kéo dài từ 3 - 10 năm. Đặc biệt, sau 9 năm, tức là vào năm 2010, Ngân hàng Hoa Kỳ được phép thành lập ngân hàng 100% vốn tại Việt Nam và các tổ chức tín dụng Hoa Kỳ được phép hoạt động kinh doanh chứng khoán - một phạm vi khá rộng nằm ngoài hoạt động truyền thống của NHTM Việt Nam. Theo Luật các Tổ chức tín dụng, các NHTM Việt Nam không được trực tiếp thực hiện các hoạt động chứng khoán. Điều này có nghĩa là phạm vi hoạt động của ngân hàng Hoa Kỳ rộng hơn hoạt động của các NHTM Việt Nam. Thiết nghĩ, Luật các tổ chức tín dụng nên có những quy định cho phép các NHTM Việt Nam được phép hoạt động trực tiếp trên TTCK khi mà Hiệp định Thương mại Việt Mỹ chính thức có hiệu lực vào năm 2010. Theo đó, hình thành Ngân hàng đầu tư, định chế tài chính chuyên nghiệp trên TTCK tức là phát triển các NHTM Việt Nam theo mô hình ngân hàng đa năng toàn phần. 3.2.2 6. Kết hợp các hoạt động của NHTM với hoạt động của CTCK thuộc ngân hàng Hiện nay, cả 7 CTCK của ngân hàng đều được cấp phép cung cấp đầy đủ các dịch vụ trên TTCK. Tuy nhiên, các CTCK này mới chỉ thực hiện chủ yếu các hoạt động môi giới, tự doanh. Các hoạt động khác chưa được chú trọng phát triển như hoạt động bảo lãnh, quản lý quỹ đầu tư, quản lý danh mục đầu tư. Để phát triển các hoạt động, đặc biệt khi có lợi thế là các CTCK thuộc ngân hàng cần có sự liên kết chặt chẽ các hoạt động giữa NHTM và CTCK. Ví dụ như ngân hàng có thể kết hợp với CTCK cho phép các khách hàng được mở tài khoản giao dịch chứng khoán tại ngân hàng. Đây là một tài khoản đặc biệt mà khách hàng vừa sử dụng như một tài khoản tiền gửi thanh toán vừa để sử dụng để giao dịch chứng khoán. Bên cạnh đó, đối với khách hàng có chứng khoán lưu ký tại CTCK khi có nhu cầu vay vốn, các NHTM nên ưu tiên cho vay với thủ tục gọn nhẹ, lãi suất ưu đãi. Để phát triển hoạt động môi giới chứng khoán, các NHTM thực hiện việc cung cấp các thông tin miễn phí cho khách hàng của ngân hàng về chứng khoán, TTCK hướng họ quan tâm tới thị trường này. Đối với hoạt động quản lý danh mục đầu tư, cần có chiến lược cụ thể thích hợp đối với các chứng khoán niêm yết, các chứng khoán trên thị trường tự do, và các hình thức đầu tư khác. Đối với hoạt động bảo lãnh chứng khoán, cần có sự liên kết với các trung gian tài chính khác nhằm thực hiện bảo lãnh cho các đợt phát hành lớn, đồng thời san sẻ rủi ro. Đặc biệt, đối với các hoạt động như thanh toán, lưu ký chứng khoán, ngân hàng giám sát vốn là các thế mạnh của NHTM cần được phát triển hơn nữa nhằm đảm bảo cho thị trường hoạt động ổn định, nhanh chóng. Kết luận Thực tế cho thấy, sự phát triển của TTCK Việt Nam không thể thiếu sự tham gia của NHTM bởi các hoạt động của tổ chức này có ý nghĩa rất quan trọng trong việc tăng chất lượng và hiệu quả hoạt động của TTCK. Hơn thế nữa, phát triển các hoạt động kinh doanh chứng khoán là hướng chiến lược của các NHTM Việt Nam trong xu thế hội nhập khu vực và quốc tế. Vì vậy, thúc đẩy các hoạt động của NHTM trên TTCK Việt Nam là một tất yếu khách quan. Với mục đích đó, những nội dung sau được trình bày trong luận văn: Thứ nhất, hệ thống hóa các vấn đề lý luận về TTCK và hoạt động của các NHTM trên TTCK. Các NHTM tham gia trên TTCK với 3 tư cách: tổ chức phát hành, nhà đầu tư chuyên nghiệp và trung gian tài chính hỗ trợ hoạt động cho thị trường. Thứ hai, phân tích thực trạng hoạt động của các NHTM trên TTCK Việt Nam, từ đó đánh giá các điều kiện, nhân tố hạn chế sự tham gia của tổ chức này trên thị trường. Các phân tích cho thấy hoạt động của NHTM trên TTCK còn hạn chế về loại hình hoạt động, quy mô hoạt động còn nhỏ, nghiệp vụ đơn giản. Các nguyên nhân là sự thiếu hoàn thiện hệ thống pháp lý về hoạt động của NHTM trên TTCK, sự kém phát triển của TTCK, và sự yếu kém của chính các NHTM về tiềm lực tài chính, trình độ công nghệ, nhân sự, chất lượng tín dụng và hiệu quả kinh doanh. Thứ ba, đề xuất hệ thống các giải pháp vĩ mô và vi mô để thúc đẩy hoạt động của các NHTM trên TTCK Việt Nam. Các giải pháp vĩ mô nhằm cải tạo môi trường hoạt động cho các NHTM và các giải pháp vi mô nhằm hoàn thiện và phát triển các NHTM. Tuy nhiên, do đây là lĩnh vực còn mới và phức tạp, luận văn không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong được sự quan tâm, đóng góp ý kiến của các thầy cô và bạn đọc. Danh mục các bảng biểu Bảng 2.1. Số lượng tài khoản mở tại các CTCK của NHTM từ năm 2000- 2003 Bảng 2.2. Doanh thu từ hoạt động môi giới của các CTCK Bảng 2.3. Một số chỉ tiêu của NHCĐTT Bảng 2.4. Tỷ trọng vốn chủ sở hữu trong tổng nguồn vốn Bảng 2.5. Tỷ lệ nợ quá hạn của các NHTM Việt Nam Bảng 2.6. Tỷ lệ nợ quá hạn của các NHTMNN Các ký hiệu viết tắt TTCK : Thị trường chứng khoán NHTM : Ngân hàng thương mại NHTMNN : Ngân hàng thương mại Nhà nước NHTMCP : Ngân hàng thương mại cổ phần NHNN : Ngân hàng Nhà nước DNNN : Doanh nghiệp Nhà nước NHCĐTTCK : Ngân hàng chỉ định thanh toán chứng khoán CTCK : Công ty chứng khoán NHĐT&PTVN : Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam NHCTVN : Ngân hàng công thương Việt Nam NHNTVN : Ngân hàng ngoại thương Việt Nam NHNN&PTNTVN : Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Sacombank : NHTMCP Sài gòn Thương Tín Vpbank : NHTMCP các doanh nghiệp ngoài quốc doanh Acb : NHTM cổ phần á Châu Vcbs : CTCK Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam Arsc : CTCK NH Nông nghiệp và phát triển Nông thồn Bsc : CTCK Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam Ibs : CTCK Ngân hàng Công thương Việt Nam Tsc : CTCK Thăng Long Acbs : CTCK Ngân hàng á Châu Danh mục tài liệu tham khảo Luật các tổ chức tín dụng, 1997 Luật doanh nghiệp, 1999 Nghị định 48/1998/NĐ-CP ngày 11/7/1998 của Thủ tướng Chính phủ về Chứng khoán và Thị trường chứng khoán. Nghị định 144/2003/ NĐ- CP ngày 28/11/2003 của Thủ tướng Chính phủ thay thế Nghị định 48/1998/NĐ-CP về chứng khoán và Thị trường chứng khoán. Đề án cải cách hệ thống ngân hàng thương mại Nhà nước, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, 2001. Báo cáo tổng kết 3 năm hoạt động của TTCK, UBCK, 2003 Peter S.Rose, Quản trị ngân hàng thương mại, Nhà xuất bản tài chính, 2001 Báo cáo thường niên của Ngân hàng Nhà nước, Ngân hàng Nhà nước, 2001, 2002 Báo cáo thường niên của trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh, TTGDCK, 2002, 2003. TS. Nguyễn Sơn(2004), TTCK năm 2003 có nhiều biến động, Thời báo kinh tế Việt Nam, (1/2004) TS. Nguyễn Văn Nam & TS. Vương Trọng Nghĩa, Giáo trình TTCK, Nhà xuất bản tài chính, 2002. TS. Phan Thị Thu Hà & TS. Nguyễn Thị Thu Thảo, Giáo trình Ngân hàng thương mại- Quản trị và nghiệp vụ, Nhà xuất bản thống kê, 2002. TS. Trần Đăng Khâm, Giải pháp thúc đẩy các trung gian tài chính trong tiến trình xây dựng và phát triển Thị trường chứng khoán ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ- 2002. Tạp chí đầu tư chứng khoán các số 189, 216, 217, 219 Chứng khoán Việt Nam các số 1, 3, 7, 10, 12 (2003) Tạp chí ngân hàng các số 1, 14 (2003) Thời báo ngân hàng các số 12, 14, 23, 32 (2004) Doanh nghiệp số 8, 20 ( 2004) Tạp chí Tài chính doanh nghiệp số 4- 2004 Một số tài liệu tham khảo khác.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0270.doc
Tài liệu liên quan