Đề tài Giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng trong Ngân hàng thương mại Việt Nam

Như vậy, có thể nói rủi ro tín dụng gắn liền với hoạt động của NHTM, tồn tại khách quan và không thể tránh khỏi. Rủi ro tín dụng có thể được tạo ra từ nhân tố khách quan (môi trường kinh doanh) hay nhân tố chủ quan (ngân hàng, khách hàng). Nó không chỉ làm suy giảm nền kinh tế mà còn ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triển của ngân hàng: làm uy tín của ngân hàng bị suy giảm, khả năng cạnh tranh thấp đi, lợi nhuận giảm, thậm chí có thể gây phá sản ngân hàng. Trong giai đoạn hiện nay khi rủi ro tín dụng còn cao ở hầu hết các NHTM, các ngân hàng cần có chính sách quản trị rủi ro tín dụng hợp lý để giảm tối thiểu rủi ro tín dụng có thể xảy ra.

doc62 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1413 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng trong Ngân hàng thương mại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ngân hàng thì mới có lợi nhuận. Song, việc áp dụng toàn bộ mức rủi ro đối với khách hàng có chất lượng tín dụng thấp không phải là biện pháp hay vì khi đó buộc ngân hàng phải thực hiện một chiến lược kinh doanh mạo hiểm hơn với ít cơ hội thành công để thanh toán một khoản lãi vay cao, đồng thời làm mất đi cơ hội tiếp cận vốn vay của ngân hàng đối với các khách hàng có mức độ rủi ro thấp hơn. Ngân hàng quy định lãi suất cao để bù rủi ro cho mình. Nhưng lại làm cho mức độ rủi ro tín dụng tăng lên vì những khách hàng không kinh doanh mạo hiểm không tiếp cận được vốn của ngân hàng. Vì vậy, tùy thuộc vào chính sách của mình, ngân hàng có thể xác định lãi suất với phần bù rủi ro thấp đi kèm với chế độ sàng lọc khách hàng chặt chẽ để cấp tín dụng. 4.4.4 Xếp hạng tín dụng. Các ngân hàng cần định kỳ xếp hạng lại tín dụng cho khách hàng (mức độ rủi ro của khách hàng), đánh giá lại món vay và tài sản thế chấp để từ đó có mức phân bổ dự phòng, điều chỉnh lại giới hạn cấp tín dụng cho khách hàng cho phù hợp hoặc thực hiện những biện pháp cần thiết nhằm thu hồi nợ trước hạn nếu phát hiện khoản vay, tài sản thế chấp có dấu hiệu bất thường ảnh hưởng đến khả năng thu hồi nợ vay. 4.4.5. Tài sản đảm bảo Tài sản đảm bảo là một công cụ quan trọng quản lý rủi ro tín dụng. bảo đảm tiền vay hữu hiệu là sử dụng tài sản thế chấp. Tài sản thế chấp là nguồn trả nợ thứ cấp cho khoản vay nếu dự án kinh doanh của khách hàng gặp rủi ro, dòng tiền của khách hàng không đúng như dự kiến. Tuy nhiên khoản vay sẽ được thanh toán bằng tiền tạo ra từ hoạt động sản xuất, kinh doanh chứ không phải bằng tài sản nên tài sản thế chấp mới là điều kiện cần chứ chưa phải là điều kiện đủ để cho vay. Một số lượng lớn các khoản vay chỉ chủ yếu dựa vào nguồn trả nợ thứ yếu luôn trở thành nợ khó đòi. Đặc biệt giá trị của tài sản thế chấp (bất động sản, động sản) lại phụ thuộc vào chu kì kinh tế, hệ thống tài chính, tính pháp lý của tài sản nên có thể biến động rất lớn, tính thanh khoản thường không cao. Hầu hết các cán bộ ngân hàng có kinh nghiệm đều thấy rằng tài sản thế chấp thay thế được rất ít cho các khoản thu và luồng tiền mặt trong kinh doanh. Do vậy, khi quyết định cho vay không nên chỉ dựa vào tài sản thế chấp. Khi dùng tài sản thế chấp làm bảo đảm tiền vay, ngân hàng có thể yêu cầu khách hàng mở tài khoản tại chính ngân hàng của mình và giữ lại một khoản vốn vay tối thiểu, chẳng hạn 5% giá trị món vay để dự phòng. Bằng cách này, ngân hàng có thể giám sát người vay tiền hiệu quả hơn, giúp tăng khả năng hoàn trả tiền vay. Khi người vay vỡ nợ, ngân hàng lấy phần đó để bù đắp một phần món vay tổn thất. 4.4.6. Đa dạng hóa danh mục đầu tư. Một công cụ quan trọng trong quản tri rủi ro tín dụng ở tất cả các ngân hàng là quản trị danh mục đầu tư. Quản trị danh mục làm cân đối và kiềm chế rủi ro danh mục bằng cách nhận dạng, dự báo và kiểm soát mức độ rủi ro với từng thị trường, ngành hàng khác nhau, khách hàng, mặt hàng, loại sản phẩm tín dụng và điều kiện hoạt động khác nhau: Tín dụng thương mại: rủi ro liên quan tới khả năng đánh giá tình trạng kinh doanh, tài chính của người vay. Ngân hàng cần thu thập thông tin trong quá khứ lẫn tương lai, tuy nhiên khía cạnh tương lai của công ty quan trọng hơn so với quá khứ. Rủi ro cho vay thương mại chủ yếu là do những tác động của thị trường đối với người vay (giá bán hàng hóa giảm sút, giá cả nguyên vật liệu đầu vào tăng, thiên tai, cạnh tranh…). Cho vay đối với người tiêu dùng: rủi ro liên quan tới thu nhập của người cho vay và khả năng kiểm soát thông tin về người vay: thông tin thường ít, ngân hàng khó kiểm soát người vay và khó thu nợ, công ăn việc làm của người vay không ổn định… Cho vay đối với các trung gian tài chính khác như ngân hàng thương mại khác, các tổ chức tài chinh phi ngân hàng. Hầu hết các khoản cho vay này là không có đảm bảo, do vậy, nếu các tổ chức đi vay bị phá sản thì ngân hàng cho vay sẽ bị mất. Vì vậy, rủi ro sẽ liên quan tới vị thế của tổ chức tài chính đi vay. Cho vay đối với Nhà nước: có độ an toàn cao nhất. Tuy nhiên trong các cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu hoặc khu vực, thì các khoản cho vay đối với Nhà nước cũng bị ảnh hưởng. Các dự án cho vay dài hạn có tính rủi ro cao hơn các món vay ngắn hạn, vay theo thời vụ. Các món vay bằng ngoại tệ sẽ phải gánh chịu thêm rủi ro tỷ giá bên cạnh rủi ro tín dụng nếu trạng thái ngoại tệ của ngân hàng không cân đối. Các món vay lớn có chi phí quản lý rẻ hơn nhưng rủi ro hơn các khoản vay nhỏ. Các doanh nghiệp mới vào ngành, có quy mô nhỏ, thường năng động ít bị tổn thương và dễ khắc phục hậu quả hơn đối với các doanh nghiệp quy mô lớn khi gặp rủi ro. Có những ngành hàng đặc biệt nhạy cảm với những thay đổi về chính sách như xuất nhập khẩu (phụ thuộc vào giấy phép, thuế, hạn ngạch) Nhiều chuyên gia ngân hàng cho rằng đa dạng hóa là giải pháp phòng ngừa rủi ro hữu hiệu nhất trong quản tri rủi ro tín dụng. Khi một ngân hàng phát triển chiến lược và kế hoạch kinh doanh của mình, họ phải xem xét đến các yếu tố và mức độ rủi ro của thị trường của mình, sự kết hợp các loại sản phẩm, dịch vụ tín dụng, loại tiền cho vay, khả năng cấp tín dụng và trọng tâm của danh mục. Như vậy các ngân hàng cần đa dạng hóa danh mục cho vay của mình. Không nên chỉ cho vay một, hai ngành hoặc chỉ cho vay một vài doanh nghiệp lớn hoặc một vài nhóm kinh doanh đơn lẻ. Việc đa dạng hóa cũng cần được thực hiện đối với thành phần kinh tê, loại sản phẩm, mức cho vay, thời hạn và loại tiền cho vay. 4.4.7. Theo dõi giám sát việc sử dụng vốn vay: Nhằm hạn chế rủi ro tín dụng, ngân hàng phải luôn luôn kiểm tra, đánh giá tình hình sử dụng vốn vay của khách hàng, vấn đề tuân thủ các điều khoản trong hợp đồng tín dụng. Nếu họ không tuân thủ, ngân hàng có thể sử dụng các biện pháp cưỡng chế được ghi trong hợp đồng. do vậy việc soạn thảo hợp đồng tín dụng phải rõ ràng, đầy đủ, chính xác và chặt chẽ. 4.4.8. Xây dựng mối quan hệ lâu dài với khách hàng. Ngân hàng cần xây dựng mối quan hệ lâu dài với khách hàng để ngân hàng thu được thông tin về những người vay tiền của họ. Nếu khách hàng có quan hệ lâu dài với ngân hàng trong hoạt động gửi hoặc vay tiền thì thông qua các giao dịch phát sinh trên tài khoản tiền gửi, tiền vay, nhân viên tín dụng biết được nhu cầu và khả năng thanh toán của khách hàng. Từ đó giúp ngân hàng giảm thiểu được các chi phí liên quan đến việc thu thập thông tin, đánh giá tiềm năng và rủi ro tín dụng của khách hàng. Việc phân loại khách hàng theo mức độ rủi ro tín dụng dễ dàng hơn và đảm bảo chính xác hơn. Để tạo ra sự gắn bó chặt chẽ này, ngân hàng có thể nắm giữ cổ phần trong các doanh nghiệp mà họ cho vay. Hoặc đưa ra hạn mức tín dụng cho khách hàng. Theo đó, ngân hàng cam kết cho khách hàng vay một lượng vốn nhất định vào một thời điểm nhất định trong tương lai, đổi lại khách hàng phải định kỳ cung cấp thông tin cho ngân hàng về tình hình thu nhập, hoạt động kinh doanh, tài sản có, tài sản nợ… 4.4.9. Quản lý nợ quá hạn, nợ khó đòi, các khoản nợ có vấn đề. Rủi ro là điều khó tránh khỏi trong quá trình kinh doanh. Do vậy ngân hàng luôn xây dựng chính sách chung sống cùng rủi ro: Hạn chế rủi ro, chấp nhận rủi ro, khai thác hoặc thanh lý nợ quá hạn, nợ khó đòi hoặc nợ có vấn đề. Ngân hàng phân loại nợ quá hạn, nợ khó đòi hoặc nợ có vấn đề: Phân tích nguyên nhân, thực trạng, khả năng giải quyết. Ngân hàng phải luôn đặt mục tiêu là tận dụng tối đa các cơ hội để thu hồi nợ. Trong trường hợp người vay có khó khăn tài chính tạm thời song vẫn có khả năng và ý chí trả nợ, ngân hàng áp dụng chính sách hỗ trợ thêm như: Cho vay thêm, gia hạn nợ, giảm lãi… Trong trường hợp người vay lừa đảo, chây ì, không có khả năng trả nợ, ngân hàng áp dụng chính sách thanh lý như: bán tài sản thế chấp, phong tỏa tiền gửi trên tài khoản. Xây dựng quỹ dự phòng để bù đắp tổn thất. Dựa trên tỷ lệ rủi ro chấp nhận và danh mục các khoản cho vay rủi ro, ngân hàng xây dựng quỹ dự phòng. Quỹ này, tạo ra nguồn bù đắp tổn thất cho ngân hàng khi rủi ro xảy ra. Do vậy, lập quỹ dự phòng rủi ro được coi là một trong những biện pháp quan trọng để tăng khả năng chống đỡ của ngân hàng giúp ngân hàng ổn định và phát triển khi rủi ro xảy ra. CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG RỦI RO TÍN DỤNG TRONG NHTM Ở VIỆT NAM. 1. Rủi ro tín dụng trong NHTM ở Việt Nam hiện nay. Thị trường ngân hàng Việt Nam đang ở giai đoạn phát triển mạnh mẽ, nhiều ngân hàng được thành lập trong thời gian qua, quá trình cổ phần hoá các ngân hàng cũng đang được tiến hành. Ngày càng nhiều ngân hàng nhận thức được tầm quan trọng của năng lực quản lý rủi ro tín dụng đối với sự sống còn và phát triển của mình. Đây cũng là thách thức trước mắt của các ngân hàng Việt Nam hiện nay. Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong quản lý rủi ro tín dụng nhưng tình trạng rủi ro tín dụng ở nước ta còn ở mức khá cao. Theo báo cáo năm 2005 của các ngân hàng thương mại Nhà nước là ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam, Công thương, Ngoại thương, Nông nghiệp và phát triển nông thôn, nợ quá hạn của cả bốn ngân hàng đều dưới 2% tổng dư nợ. Tuy nhiên, theo một đánh giá gần đây của ngân hàng Nhà nước, nợ quá hạn của các tổ chức tín dụng Nhà nước là khoảng 7.7% tổng dư nợ. 7.7% là dựa theo tiêu chí của quyết định 493. Nếu tính toán theo tiêu chuẩn quốc tế, nợ quá hạn của một số ngân hàng thương mại Nhà nước sẽ gấp đôi con số chính thức, tức vào khoảng 15% tổng dư nợ. Ngày 2/4/2007 tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế OECD (tổ chức của các nước phát triển) đã bỏ phiếu xếp hạng lại phân hạng rủi ro tín dụng của các nước. Trong lần bỏ phiếu này, Việt Nam đã được nâng hạng từ nhóm 5 lên nhóm 4. Việt Nam trong bảng xếp hạng rủi ro tín dụng của OECD: 1999 đến 4/2002: hạng 6 Tháng 4/2002 : hạng 5 Tháng 4/2007: hạng 4 Tuy nhiên, những tháng đầu năm 2007, khi vốn tín dụng có xu hướng tăng trưởng ở mức cao hơn so với cùng kì năm trước, chất lượng tín dụng đối với một số ngành, lĩnh vực chưa cao; cho vay để đầu tư kinh doanh chứng khoán có nguy cơ rủi ro cao, do thị trường chứng khoán biến động; việc thông tin từ thị trường để đánh giá, quản trị rủi ro còn nhiều bất cập làm cho rủi ro tín dụng có xu hướng tăng lên. Rủi ro tín dụng ở các ngân hàng thương mại Nhà nước hiện nay vẫn đang ở mức khá cao. Nguồn thu của các ngân hàng thương mại Nhà nước chủ yếu từ các nghiệp vụ tín dụng truyền thống. Các ngân hàng thương mại Nhà nước chủ yếu cho vay các tổng công ty Nhà nước mà thực lực tài chính rất yếu kém. Thực trạng cho vay với mức dư nợ tới 35-40% vào một nhóm khách hàng đang có “báo động đỏ về chất lượng tín dụng”. Trong đó, điển hình là các tổng công ty thuộc ngành xây dựng, giao thông vận tải với công nợ lên tới 11000 tỷ đồng, mà trong đó theo báo cáo của Bộ tài chính, có trên 90% khoản nợ nói trên thuộc vốn vay của ngân hàng thương mại. Nhiều chương trình kinh tế, mà chính sách cho vay của các ngân hàng thương mại phải hướng theo nhưng kết cục không hiệu quả như đánh bắt xa bờ, mía đường, cà phê Arabica… Hai vụ doanh nghiệp FDI phá sản đột ngột ở thành phố Đà Nẵng trong năm 2006 và tháng 5/2007 đã cảnh báo có dấu hiệu lợi dụng chính sách “buôn” dự án, vay và chiếm dụng vốn ngân hàng. Đó là vụ công ty Kim Khánh Nguyên của Đài Loan với số vốn thực tế chỉ 5000 Đài tệ, nhưng đã được cấp giấy phép đầu tư 2.5 triệu USD. Giấy phép đầu tư này như vật bảo chứng, tín chấp để công ty vay vốn ngân hàng với kẽ hở “thế chấp tài sản hình thành từ vốn vay”. Với vụ việc này, các ngân hàng có nợ khó đòi trên 20 tỷ đồng. Hậu quả để lại của vụ việc trên chưa kịp giải quyết xong thì tháng 5/2007, sau gần 3 năm đầu tư, được miễn giảm hầu hết các loại thuế và hưởng nhiều chính sách ưu đãi, dự án sản xuất đĩa compact của công ty TNHH ODVD 100% vốn Malaysia đã đóng cửa, để lại khoản vay ngân hàng hơn 2.5 triệu USD chờ phát mại công ty để trả nợ ( báo Lao Động số ra ngày 23/07/2007). Như vậy, rủi ro tín dụng rất dễ xảy ra đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay, do đó các ngân hàng cần tìm ra những nguyên nhân để ngăn ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng. 2. Nguyên nhân của rủi ro tín dụng ở Việt Nam: 2.1. Nguyên nhân do môi trường kinh tế: 2.1.1. Nguyên nhân khách quan: Chu kỳ kinh tế: Trong thời kỳ kinh tế tăng trưởng, các ngành nói chung đều kinh doanh thuận lợi hơn, tỷ lệ thu hồi nợ vì thế tăng, đồng thời dư nợ đối với nền kinh tế tăng làm giảm tỷ lệ các khoản nợ xấu. Nhưng trong thời kỳ kém tăng trưởng, các ngành xây dựng, sản xuất vật liệu xây dựng, đặc biệt kinh doanh bất động sản… sẽ gặp nhiều kkhó khăn… Các món vay, đặc biệt là trung, dài hạn được quyết định dễ dãi trong thời kỳ tăng ttrưởng sẽ trở thành khó đòi vài năm sau đó. Lãi suất, lạm phát: Lãi suất cơ bản cao phản ánh chính sách can thiệp của ngân hàng Trung Ương khi lạm phát vượt quá mức độ nào đó. Khi lãi suất tăng, nguồn vốn của các ngân hàng khan hiếm hơn, đồng thời hoạt động tín dụng cũng phải đối mặt với rủi ro cao hơn vì lãi suất cao buộc người vay phải thực hiện những phương án kinh doanh mạo hiểm hơn. Thị trường bất động sản: Theo thống kê sơ bộ, tối thiểu 50% các khoản vay ngân hàng là để mua nhà, đất, được đảm bảo bằng bất động sản, nguồn trả nợ cũng từ kinh doanh bất động sản chứ không phải dòng tiền thường xuyên ổn định. Dù hiện tại chúng chưa phải là nợ quá hạn nhưng đang tiềm ẩn nguy cơ nợ xấu rất lớn do thị trường bất động sản Việt Nam được đánh giá là “ bong bóng” do tình trạng đầu tư quá mức dựa vào vốn vay ngân hàng có tính bất ổn cao và những thay đổi do chính sách của Nhà nước rất khó dự đoán. 2.1.2. Nguyên nhân chủ quan: Sự yếu kếm của cơ quan pháp luật địa phương: Trong những năm gần đây, Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, ngân hàng Nhà nước và các cơ quan liên quan đã ban hành nhiều luật, văn bản dưới luật, hướng dẫn thi hành luật liên quan tới hoạt động tín dụng ngân hàng. Tuy nhiên việc triển khai vào hoạt động ngân hàng lại hết sức chậm chạp và còn gặp nhiều vướng mắc, bất cập như một số văn bản về việc cưỡng chế thu hồi nợ. Những văn bản này đều có quy định: trong trường hợp khách hàng không trả được nợ, ngân hang thương mại có quyền xử lý tài sản đảm bảo nợ vay. Trên thực tế các ngân hàng thương mại không làm được điều này vì ngân hàng là một tổ chức kinh tế, không phải là cơ quan quyền lực Nhà nước, không có chức năng cưỡng chế buộc khách hàng bàn giao tài sản đảm bảo cho ngân hàng để xử lý hoặc chuyển tài sản đảm bảo nợ vay để toà án xử lý… cùng nhiều các quy định khác dẫn đến tình trạng các ngân hàng thương mại không giải quyết được nợ tồn đọng, tài sản tồn đọng. Sự thanh tra, kiểm tra, giám sát chưa hiệu quả của ngân hàng Nhà nước: Bên cạnh những cố gắng và kết quả đạt được, hoạt động thanh tra ngân hàng và đảm bảo an toàn hệ thống chưa có cải thiện căn bản về chất lượng. Năng lực cán bộ thanh tra phải giám sát chưa đáp ứng được yêu cầu, thậm chí một số nghiệp vụ kinh doanh và công nghệ mới thanh tra ngân hàng còn chưa theo kịp… Nội dung và phương pháp thanh tra phải giám sát còn lạc hậu, chậm đổi mới. Vai trò kiểm toán chưa được phát huy và hệ thống thông tin chưa được kiểm soát hữu hiệu. Thanh tra tại chỗ vẫn là phương pháp chủ yếu, khả năng kiểm soát toàn bộ thị truờng tiền tệ và giám sát rủi ro còn yếu. Thanh tra ngân hàng còn hoạt động một cách thụ động theo kiểu xử lý vụ việc đã phát sinh, ít có khả năng ngăn chặn, phòng ngừa rủi ro và vi phạm, mô hình tổ chức của thanh tra ngân hàng còn nhiều bất cập. Do vậy mà có những sai phạm của các ngân hàng thương mại không đươc thanh tra ngân hàng Nhà nước cảnh báo, có biện pháp ngăn chặn từ đầu, để đến khi hậu quả nặng nề xảy ra rồi mới can thiệp. Hàng loạt các sai phạm về cho vay, bảo lãnh tín dụng ở một số ngân hàng thương mại dẫn đến những rủi ro rất lớn, có nguy cơ đe doạ sự an toàn của hệ thống mà nếu như bộ máy thanh tra phát hiện và xử lý sớm hơn thì có thể đã được ngăn chặn ngay từ đầu. Hệ thống thông tin quản lý còn bất cập: Hiện nay, ở Việt Nam chưa có một cơ chế cung cấp một thông tin đầy đủ về doanh nghiệp và ngân hàng. Trung tâm thông tin tín dụng ngân hàng (CIC) của ngân hàng Nhà nước đã hoạt động quá một thập niên và đạt được những kết quả bước đầu rất đáng khích lệ trong việc cung cấp thông tin kịp thời về tình hình hoạt động tín dụng nhưng chưa phải là cơ quan định mức tín nhiệm doanh nghiệp một cách độc lập và hiệu quả. Thông tin cung cấp còn đơn điệu, thiếu cập nhập. Ngoài ra việc kết nối với trang web của CIC chưa đáp ứng được đầy đủ yêu cầu tra cứu thông tin. Đó là thách thức cho hệ thống ngân hàng trong việc mở rộng và kiểm soát tín dụng. Nếu các ngân hàng cố gắng chạy theo thành tích, mở rộng tín dụng trong điều kiện môi trường thông tin không cân xứng sẽ gia tăng nguy cơ nợ xấu cho hệ thống ngân hàng. 2.2. Nguyên nhân thuộc về ngân hàng: Chính sách quản trị tín dụng của ngân hàng: Cho đến nay, hầu như chưa có ngân hàng thương mại Nhà nước nào ban hành chiến lược, chính sách phát triển và quản trị rủi ro tín dụng của ngân hàng một cách đầy đủ bằng văn bản. Tất cả các chỉ đạo của ngân hàng Trung Ương mới chỉ là từng văn bản hướng dẫn thi hành quy chế cho vay, bảo lãnh, bảo đảm tiền vay và các quy chế khác do ngân hàng Nhà nước Việt Nam ban hành. Ngân hàng Trung ương chưa làm tốt công tác dự báo, định hướng cho các ngân hàng thương mại trong từng giai đoạn phát triển kinh tế. Kế hoạch tín dụng chỉ mang tính thủ tục. Những khuyến cáo về các ngành hàng không nên cho vay, đầu tư hay khống chế thị trường chỉ được đưa ra sau khi rủi ro tín dụng đã phát sinh ở một số ngân hàng thương mại khác hay tín dụng đã tăng trưởng nóng. Các ngân hàng cũng không có chính sách cho vay thận trọng đối với các doanh nghiệp có vấn đề, chính sách đối với các công ty, nhóm công ty có liên quan. Có những doanh nghiệp chỉ gặp khó khăn có tính tạm thời, nếu được ngân hàng hỗ trợ thêm vốn với loại sản phẩm, kỳ hạn thích hợp và tư vấn nâng cao hiệu quả kiểm soát chi phí, kiểm soát vốn thì có thể nâng cao hiệu quả kiểm soát chi phí, kiểm soát vốn thì có thể phục hồi và trả đựơc nợ cho ngân hàng. Tầm nhìn chiến lược không tốt của các ngân hàng cũng là nguyên nhân của tình trạng cạnh tranh thu hút khách hàng bằng cách giảm giá. Lãi suất cho vay đựoc giảm bất chấp rủi ro là một yếu tố tác dộng lớn tới tính rủi ro trong hoạt động tín dụng của các ngân hàng. Năng lực của cán bộ tín dụng: Năng lực dự báo, phân tích ngành, phân tích tài chính, phát hiện và xử lý các khoản vay có vấn đề của cán bộ còn rất yếu nhất là đối với những ngành đòi hỏi hiểu biết chuyên môn cao ( công nghiệp khai thác, chế biến dầu khí, sản xuất vật liệu xây dựng…). Nhiều quyết định cho vay còn mang tính cảm tính được đưa ra trên cơ sở thông tin được cân nhắc không đầy đủ như chỉ dựa vào tài sản thế chấp hay bản thân phương án kinh doanh mà bỏ qua năng lực tài chính của bản thân doanh nghiệp đều dẫn đến rủi ro. Các khoản vay có vấn đề đều không được phát hiện sớm và các biện pháp can thiệp của ngân hàng thường chỉ được thực hiện khi có phát sinh nợ quá hạn hoặc doanh nghiệp gặp sự rắc rối đối với cơ quan pháp luật. Cán bộ cũng chưa có khả năng tư vấn, giám sát khách hàng vượt qua khó khăn tạm thời. Kỹ năng thương lượng với khách hàng, tính chủ động trong công việc, khả năng kiểm soát chứng từ vay, kiến thức pháp luật của cán bộ tín dụng cũng rất yếu. Nhiều cán bộ tín dụng đã áp dụng máy móc, áp đặt loại sản phẩm tín dụng và kỳ hạn nợ cho khách hàng mà không tìm hiểu nhu cầu thực tế của hoạt động doanh nghiệp và có tư vấn cho khách hàng. Thời hạn cho vay và kỳ hạn trả nợ không phù hợp với chu kỳ kinh doanh thực tế, với dòng tiền của doanh nghiệp là nguyên nhân gây nên những khoản nợ có vấn đề. Nếu các ngân hàng có chiến lược, chính sách về định hướng cho vay tốt và công khai các trường hợp rủi ro tín dụng điển hình thì có thể giảm bớt những trường hợp rủi ro do thiếu kinh nghiệm. Yếu tố con người có thể coi là yếu tố tác động lớn nhất về phía ngân hàng tính đến rủi ro của hoạt động tín dụng. Giám sát kiểm tra sau khi cho vay: Công tác giám sát món vay, đánh giá lại định kỳ về doanh nghiệp, khoản vay và tài sản thế chấp bị buông lỏng. Đặc biệt đối với các doanh nghiệp có quan hệ tín dụng lâu dài, cán bộ tín dụng thường có tâm lý cả nể, tin khách hàng và bỏ qua chế độ kiểm tra định kỳ, phương pháp kiểm tra không khoa học, không phát hiện được dấu hiệu bất thường trong hoạt động của doanh nghiệp. Tốc độ tăng trưởng tín dụng quá cao vượt tầm kiểm soát và tâm lý cho vay dễ dãi trong thời kỳ phát triển kinh tế: Một số ngân hàng cạnh tranh thu hút bất chấp rủi ro, tốc độ tăng trưởng tín dụng quá nóng vượt tầm kiểm soát và năng lực phát triển nhân lực của ngân hàng. Hiện tượng nhân lực cán bộ tín dụng quá mọng thiếu kinh nghiệm có thể thấy ở hầu hết các ngân hàng thương mại Nhà nước. Cho vay doanh nghiệp Nhà nước: Tâm lý cho vay doanh nghiệp Nhà nước là an toàn vẫn tồn tại trong khá nhiều ngân hàng, đặc biệt là các ngân hàng thương mại Nhà nước, mặc dù so với những năm trước đây tỷ lệ cho vay doanh nghiệp Nhà nước đã giảm xuống nhưng chúng vẫn chiếm tỷ trọng khá lớn trong danh mục cho vay của các ngân hàng. Ngoại trừ một vài doanh nghiệp Nhà nước Trung ương đóng trên địa bàn có tiềm lực tài chính mạnh, hoạt động hiệu quả thì hầu hết các doanh nghiệp Nhà nước địa phương còn lại đều có năng lực tài chính yếu kém, hoạt động không hiệu quả trên địa bàn và đang phải sống dựa vào vốn vay ngân hàng. Định giá khoản vay không theo mức độ rủi ro của khách hàng: Việc định giá khoản vay không theo mức độ rủi ro của khách hàng không chỉ làm giảm thu nhập của ngân hàng mà còn không khuyến khích khách hàng cân nhắc kỹ trước khi ra quyết định đầu tư, làm thiếu hụt nguồn bù đắp rủi ro của ngân hàng và làm tăng mức đọ rủi ro tín dụng từ cả hai phía ngân hàng và khách hàng. Chính sách lãi suất không khoa học đã đẩy ngân hàng vào hai tình huống : Cho vay dễ dãi với lãi suất thấp không đủ để bù đắp rủi ro mà phải 7 – 10 năm sau mới bộc lộ. Khi hết nguồn thì yêu cầu lái suất cho vay cao cộng với nhiều điều kiện khắt khe dẫn đến mất dự án có độ an toàn và chấp nhận các khách hàng có độ rủi ro cao. Tâm lý ỷ lại tài sản thế chấp: Liên quan tới sản bảo đảm nợ vay, rủi ro thường xảy ra ở các tình huống: Không có tài sản bảo đảm Ỷ lại tài sản thế chấp một cách thái quá Nhận tài sản thế chấp không đầy đủ về tính pháp lý cảu quyến sở hữu, tính thanh khoản và yêu cầu không tranh chấp. Tài sản đảm bảo là phương án dự phòng khi dự phòng khi dự án kinh doanh của khách hàng gặp rủi ro, dòng tiền không như dự kiến. Bởi vì không có phương án kinh doanh nào là phi rủi ro, nên tào sản đảm bảo là cần thiết, song tâm lý ỷ lại vào tài sản thế chấp cũng là một yếu tố gây ra rủi ro do khoản vay cần được trả bằng tiền chứ không phải bằng tài sản. Không đa dạng hoá danh mục: Yếu tố đa dạng hoá danh mục cho vay chưa được quan tâm nhiều ở các ngân hàng thương mại Nhà nước, chưa có bộ phận quản lý rủi ro cho toàn bộ danh mục để tính toán tỷ trọng đầu tư đối với từng ngành hàng, loại cho vay phân theo thời hạn và loại tiền để có rủi ro thấp nhất, phù hợp với chiến lược, cơ cấu nguồn vốn và năng lực bản thân ngân hàng. Rủi ro do đạo đức của cán bộ ngân hàng: Bộ phận tín dụng là nơi trực tiếp thẩm định dự án vay vốn và khả năng trả nợ của khách hàng cũng như trực tiếp kiểm tra kho hàng, tài sản thế chấp, giám sát giải ngân, kiểm tra sử dụng vốn vay, là đầu mối tiếp xúc của khách hàng nên nếu đạo đức nghề nghiệp không tốt sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng món vay và khả năng thu hối nợ của ngân hàng. Hiện nay, ở nước ta nhiều cán bộ tín dụng đã bị tha hoá, bị mua chuộc, vì lợi ích của cá nhân mà họ đã chấp nhận cho vay những dự án chứa đựng nhiều rủi ro làm ngân hàng thậm chí không thu đựoc lãi mà còn bị mất gốc. Chính sách quản trị nguồn nhân lực còn yếu: Cán bộ tín dụng là người trực tiếp tham gia vào hoạt động có nhiều rủi ro nhất trong hoạt động của ngân hàng. Chính sách tuyển dụng, sử dụng, đãi ngộ và đề bạt cán bộ tín dụng của ngân hàng có tác động trực tiếp tới hiệu quả thực thi chiến lược, chính sách tín dụng của ngân hàng. Một chiến lược,một chính sách quản trị tín dụng tốt mà không đi kèm chính sách đúng đắn về nguồn nhân lực sẽ không đạt được hiệu quả mong muốn và gián tiếp làm tăng nguy cơ rủi ro đạo đức ở cán bộ tín dụng. Ở Việt Nam hiện nay, chính sách quản trị nguồn nhân lực còn nhiều bất cập, các ngân hàng vẫn chưa có chế độ thưởng phạt phân minh. Các ngân hàng thương mại cổ phần nước ta có chính sách đào tạo, huấn luyện chưa cao, điều kiện đãi ngộ còn thấp, từ đó thưòng xuyên xảy ra tình trạng lao động có chuyên môn và kinh nghiệm bị hút sang các ngân hàng nước ngoài. 2.3. Nguyên nhân thuộc về khách hàng: Năng lực khách hàng yếu kém: Năng lực quản trị của doanh nghiệp có tác động lớn và là yếu tố cốt lõi ảnh hưởng tới khả năng trả nợ của doanh nghiệp. Theo nghiên cứu, các ngân hàng thương mại khi cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài vay vốn sẽ ít gặp phải rủi ro tín dụng hơn là cho các doanh nghiệp khác vay. Đó là vì các doanh nghiệp nước ngoài có chất lượng quản trị doanh nghiệp, môi trường kiểm soát nội bộ, dự án kinh doanh được xây dựng rất cụ thể, rõ ràng và cẩn trọng. Một vài khoản vay có thể phải gia hạn khi môi trường kinh doanh gặp khó khăn như giá nguyên vật liệu tăng, chu kỳ kinh tế đi xuống, doanh nghiệp có trình độ năng lực quản trị cao luôn biết làm điều tốt nhất cho doanh nghiệp mình, thời hạn cho vay có thể phải kéo dài nhưng khả năng trả nợ vẫn được đảm bảo. Nước ta đang trong giai đoạn tăng trưỏng mạnh, nhiều doanh nghiệp hoạt động phải dựa vào vốn vay ngân hàng, vì thế một biến động nhỏ của lãi suất cũng có thể đẩy doanh nghiệp vào tình trạng khó khăn tài chính. Thêm vào đó là sự lạc hậu nhanh chóng của máy móc thiết bị khiến cho năng suất lao động thấp, chất lượng sản phẩm kém, giá thành cao dẫn đến sản phẩm không tiêu thụ được, doanh nghiệp bị thua lỗ không còn đủ khả năng trả nợ cho ngân hàng. Hiện nay, nhiều chủ doanh nghiệp do hám lợi một cách thiểu hiểu biết, đã vay vốn ngân hàng vào kinh doanh bất động sản, đất đai - một lĩnh vực kinh doanh chứa đựng nhiều rủi ro. Do thiếu hiểu biết nên khả năng bị thua lỗ rất cao gây thiệt hại cho ngân hàng. Mặt khác, ở nước ta hiện nay,các nhà quản trị doanh nghiệp vẫn chưa có được những kiến thức sâu rộng về vấn đề quản trị nên năng lực quản lý còn rất yếu kém. Hiện nay chúng ta mới quan tâm nhiều hơn tới việc đào tạo đội ngũ những người làm nghề quản trị kinh doanh, làm nghề giám đốc, vì vậy không ít những doanh nghiệp khởi đầu bằng những dự án khả quan, với một kỳ vọng tốt đẹp nhưng không bao lâu lại đi đến phá sản, kéo theo những khoản nợ khó đòi của một hoặc một số ngân hàng thương mại nào đó. Rủi ro do triển vọng ngành: Triển vọng ngành phát triển hay bão hoà là yếu tố cần phải xem xét để có quyết định đầu tư cho đúng đắn. Nhiều doanh nghiệp nước ta nhận thấy kinh tế tăng trưởng cao nên đã vay vốn ngân hàng để đầu tư quá mức vào hàng xa xỉ, hàng bền vững. Nhưng thực tế hàng này vẫn chưa bán được nhiều, dẫn đến nhiều doanh nghiệp bị thua lỗ không thể trả nợ cho ngân hàng. Rủi ro do thiếu thích nghi cạnh tranh: Cạnh tranh là yếu tố tất yếu của nền kinh tế thị trường. Nền kinh tế nước ta đang có sự cạnh tranh mạnh mẽ, phức tạp thậm chí thiếu lành mạnh. Vì vậy, rủi ro do thiếu cạnh tranh là vô cùng lớn và có tính phổ biến: kể cả doanh nghiệp Nhà nước và doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp nhỏ và doanh nghiệp lớn. Trong bối cảnh nền kinh tế mở cửa, cạnh tranh không chỉ ở trong nước mà còn cả ở nước ngoài. Yếu tố thương hiệu và khả năng cạnh tranh có ảnh hưởng lớn tới sự thành công của hàng hoá, sản phẩm của doanh nghiệp. Đối với những doanh nghiệp đã có chỗ đứng trên thị trường, nhiều ngân hàng đã tài trợ vốn lưu động dưới dạng hạn mức mà không cần đánh giá kỹ từng món vay cụ thể. Khi tình hình kinh doanh của doanh nghiệp gặp khó khăn sẽ khó có khả năng trả nợ cho ngân hàng. Nhiều doanh nghiệp mới thành lập, vay vốn ngân hàng nhưng do khả năng cạnh tranh yếu kém cũng không thu được lợi nhuận và khoản vốn vay ngân hàng trở thành những khoản nợ khó đòi. Thiếu đa dạng hoá trong kinh doanh: Đa dạng hoá trong kinh doanh sẽ giúp doanh nghiệp giảm rủi ro khi phụ thuộc vào một vài đối tác và ngành hàng nhất định. Nhiều doanh nghiệp Việt Nam đang đâu tư chuyên sâu về một loại mặt hàng. Khi ngành hàng đó gặp khó khăn, doanh nghiệp có nguy cơ đổ vỡ rất cao và gây rủi ro tín dụng cho những ngân hàng cho doanh nghiệp vay vốn. Rủi ro do tư cách của người vay kém: Không ít những chủ doanh nghiệp hoặc cá nhân vay vốn không chỉ kém về năng lực quản trị, điều hành mà còn kém về tư cách – xét theo góc độ ý muốn hoàn trả nợ vay. Mặc dù đa số người vay đều mong muốn trả được nợ ngân hàng từ hiệu qủa hoạt động kinh doanh của mình nhưng bên canh đó vẫn có rất nhiều người muốn chiếm đoạt vốn ngân hàng. Họ tim mọi cách lừa gạt cán bộ ngân hàng, đưa ra những triển vọng không có thật của dự án, chuẩn bị những bộ hồ sơ hoàn chỉnh và chu đáo nhất khiến cho nhiều cán bộ ngân hàng có phán đoán sai lầm. Sau khi lấy được vốn ngân hàng họ có thể bỏ trốn, để lại cho ngân hàng những khoản nợ không thể thu hồi được. Thậm chí có nhiều người vay vốn ngân hàng, kinh doanh có lãi nhưng vẫn chây ì không chịu trả nợ cho ngân hàng, họ cố gắng sử dụng nguồn vốn của ngân hàng càng lâu càng tốt. Như vậy, có thể nói rủi ro tín dụng ở Việt Nam không chỉ từ môi trường kinh doanh mà còn từ chính ngân hàng và khách hàng đi vay. CHƯƠNG 3. GIẢI PHÁP HẠN CHẾ RỦI RO TÍN DỤNG Ở VIỆT NAM Trong kinh doanh, việc ngân hàng đầu tư với rủi ro tín dụng là điều không thể tránh khỏi được. Mỗi ngân hàng , phụ thuộc vào đặc điểm, tình hình kinh doanh mà có mức độ chấp nhận rủi ro khác nhau. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để nhà quản lý rủi ro ngân hàng luôn duy trì được mức độ rủi ro phù hợp. Theo thông lệ quốc tế, tổn thất 1% tổng dư nợ bình quân hàng năm là ngân hàng có trình độ quản lý tốt và hoàn toàn không tác động xấu đến ngân hàng. Tại Việt Nam, để quản trị rủi ro tín dụng đạt hiệu quả cao nhất, các ngân hàng cần vận dụng một cách hiệu quả các mô hình lượng hóa rủi ro ở trên đã phân tích. Các mô hình này sẽ giúp ngân hàng đưa ra quyết định đúng đắn trước khi cấp tín dụng. Bên cạnh đó, các ngân hàng cũng cần tuân theo các biện pháp khác để hạn chế rủi ro tín dụng. 1. Điều kiện áp dụng biện pháp hạn chế rủi ro tín dụng vào các NHTMVN Như trên đã phân tích về các mô hình đánh giá rủi ro tín dụng là các mô hình định tính như phân tích tín dụng, xử lý tín dụng, …và các mô hình lượng hóa rủi ro tín dụng như mô hình điểm số Z, mô hình cho điểm tín dụng tiêu dùng đang được các NHTM trên thế giới sử dụng. Các mô hình này hoàn toàn có thể áp dụng vào các NHTM ở Việt Nam, đặc biệt là các ngân hàng có quy mô lớn, hoạt động mang tính chuyên nghiêp cao. Tuy nhiên, mỗi mô hình có ưu và nhược điểm nhất định nên khi áp dụng vào mỗi ngân hàng còn tùy từng đặc điểm hoạt động cụ thể của ngân hàng mà thay đổi cho phù hợp. Bên cạnh đó, NHTM có thể vừa sử dụng mô hình phân tích và đánh giá rủi ro tín dụng vừa sử dụng các biện pháp dưới đây để quản trị rủi ro tín dụng một cách hiệu quả vì các mô hình và biện pháp này hoàn toàn không loại trừ lẫn nhau. 2. Một số biện pháp hạn chế và phòng ngừa RRTD: 2.1. Điều chỉnh chính sách tín dụng: Hoạt động tín dụng là hoạt động lớn nhất và quan trọng nhất của ngân hàng. Vì vậy, chính sách tín dụng cần phải rõ ràng, được xây dựng và hoàn thiện trong nhiều năm. Hiện nay tại một số ngân hàng Việt Nam, chính sách tín dụng chưa mang tính hệ thống, mới chỉ là chỉ đạo rời rạc của cán bộ quản lý ở cấp cao của Ngân hàng, nhiều khi mang tính tình thế. Vì vậy, chính sách phải chỉ rõ các loại cho vay sẽ thực hiện, quy mô khoản vay, loại khách hàng có thể cho vay, sự ưu tiên, thủ tục, phương tiện theo dõi hoạt động cho vay, phải tạo ra sự thống nhất chung trong ngân hàng thể hiện ý chí của toàn thể cán bộ nhân viên trong ngân hàng. Cụ thể, với tình hình của các NHTM VN hiện nay, để có thể đạt lợi nhuận tối đa và giảm thiếu rủi ro. Các ngân hàng cần xây dựng chính sách khách hàng hiệu quả, khách hàng chiến lược, truyền thống phải được hưởng ưu đãi về lãi suất, chính sách chăm sóc khách hàng. Áp dụng chính sách lãi suất linh hoạt, mức lãi suất cho vay đối với các khoản vay khác nhau tùy thuộc vào kỳ hạn, dự án vay vốn và khách hàng cụ thể. Hoạt động quản lý tín dụng phải đảm bảo các tỷ lệ an toàn, cơ cấu tín dụng phải phù hợp với chiến lược khách hàng, ngân hàng, đảm bảo mức tăng trưởng phải phù hợp với năng lực quản lý, điều hành, trình độ chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ tín dụng. 2.2. Đa dạng hóa, chuyên môn hóa trong hoạt động tín dụng: Trong thời kỳ hội nhập này, việc các ngân hàng đa dạng hóa, chuyên môn hóa trong hoạt động tín dụng không những giúp ngân hàng giảm rủi ro tín dụng mà còn giúp ngân hàng nâng cao năng lực cạnh tranh với các NHTM khác trong và ngoài nước. Đa dạng hóa là việc ngân hàng cho vay với nhiều lĩnh vực, ngành nghề, đối tượng, nhiều hình thức khác nhau. Các NHTM nên đa dạng hóa các dịch vụ tín dụng và đầu tư như: cho vay, chiết khấu giấy tờ có giá, bảo hành, bao thanh toán, thấu chi, cho thuê TC, tạm ứng… Ngoài ra các ngân hàng còn nên mở rộng mạng lưới ngân hàng bán lẻ tại những địa bàn có tiềm năng phát triển kinh tế, khu du lịch, khu đô thị, khu công nghiệp, khu chế xuất. Việc đa dạng hóa phải được thực hiện trên cơ sở các quy định về an toàn tín dụng như cho vay một khách hàng không để vượt quá 10% vốn tự có, cấp tín dụng trung dài hạn dựa vào vốn tín dụng trung phát triển dài hạn, vốn tự có… Ngoài ra để thực hiện chuyên môn hóa, các NHTM phải thực hiện phân tích, đánh giá kỹ lưỡng lĩnh vực kinh doanh và xây dựng cơ cấu tín dụng hợp lý giữa cho vay ngắn hạn với cho vay trung dài hạn, giữa cho vay thành phần kinh tế nhà nước và các thành phần kinh tế khác… Đặc biệt nâng cao chất lượng thẩm định dự án đầu tư, tránh việc cho vay theo phong trào, hạn chế cho vay đầu tư bất động sản… Không thực hiện bao cấp tín dụng, thu hẹp dần đối tượng vay vốn ưu đãi, hạn chế can thiệp hành chính vào hoạt động kinh doanh, chỉ định cấp tín dụng. Việc đa dạng hóa, chuyên môn hóa hoạt động tín dụng phải được cải thiện dần dần, không thể thay đổi một sớm một chiều. Quan trọng nhất là phải dựa trên cơ sở xác định thế mạnh và mục tiêu hoạt động, năng lực quản trị rủi ro tín dụng của Ngân hàng để có phương pháp, thực hiện mang lại hiểu quả cao. 2.3. Nâng cao chất lượng của hệ thống tín dụng: Trong công tác tín dụng, thông tin là yếu tố có vai trò vô cùng quan trọng trong việc ra quyết định tín dụng của NHTM… Hệ thống thông tin tín dụng bao gồm: thông tin nội bộ là nguồn cung cấp thông tin về lịch sử quan hệ tín dụng giữa ngân hàng và khách hàng. Nguồn thông tin từ bên ngoài giúp cung cấp thông tin về tình hình hoạt động thực tế của khách hàng, tài sản bảo đảm của món vay cả trong khi cho vay, khả năng tài chính của khách hàng. Thực tế đối với nguồn thông tin nội bộ: các báo cáo từ các phòng tín dụng tại các chi nhánh gửi về hội sở nhiều khi còn chậm trễ, sai sót. Nguồn thông tin nghèo nàn, cán bộ tín dụng chưa tận dụng hết nguồn thông tin nội bộ. Ngoài ra các NHTM cũng chưa chú trọng nhiều vào việc khai thác từ trung tâm thông tin tín dụng nhà nước. Ít quan tâm đến việc xếp hạng các tổ chức tín dụng của doanh nghiệp trong hay ngoài nước. Để có thể nâng cao chất lượng hệ thống thông tin tín dụng, các nhân viên tín dụng không nên chỉ lấy thông tin từ phía khách hàng cung cấp có thể thiếu chính xác, không đầy đủ, ngoài ra còn cần phải thu nhập thông tin đại chúng, đến thăm khách hàng vừa để tạo mối liên hệ, vừa để tìm hiểu tình hình tài chính của khách hàng. Tiếp xúc với các chủ nợ của khách hàng. Các thông tin thu nhập không chỉ là tình hình tài chính của khách hàng hay mục đích sử dụng vốn vay, tình hình cung cầu sản phẩm trên thị trường, chính sách phát triển sản phẩm. Tuy nhiên do hiện nay nguồn thông tin bên ngoài không có độ chính xác hoàn toàn nên cần phải sang lọc, đánh giá độ chính xác của thông tin. ngân hàng nên chú trọng vào tổ chức lưu trữ, thu nhập các thông tin về khác hàng, thông tin thị trường, thông tin công nghệ, xây dựng hệ thống cung cấp thông tin chấm điểm và xếp hạng tín dụng khách hàng. Tất cả đều phải dựa trên những phần mềm tin học hiện đại, tiên tiến. 2.4. Nâng cao chất lượng kiểm tra, kiểm soát nội bộ: Trong quá trình cho vay, từ lúc khi quyết định cho vay đến khi khoản vay được hoàn trả hoàn toàn, để hạn chế rủi ro các ngân hàng không chỉ tin vào khách hàng, có những quy định cụ thể trong ngân hàng, tuân theo các nguyên tắc bảo đảm an toàn tín dụng của Nhà nước mà các NHTM còn luôn kiểm tra kiểm soát các khoản cho vay. Việc kiểm tra khoản vay bao gồm việc kiểm toán định kỳ bắt buộc của Nhà nước và kiểm soát nội bộ, các hoạt động thanh tra của NHNN. Việc kết hợp tốt 3 loại kiểm tra trên giúp ngân hàng có thể giảm rủi ro tín dụng một cách hữu hiệu dẫn đến việc phát hiện sớm những khoản vay có vấn đề, từ đó tìm cách giải quyết. Để làm được như vậy, NHTM cần khuyến khích cán bộ tín dụng theo dõi khoản vay và báo cáo về sự suy giảm chất lượng của những khoản vay mà họ theo dõi, bắt buộc cán bộ tín dụng phải thực hiện hồ sơ thống nhất. Đảm bảo việc chấp hành chính sách cho vay, luật và các quy chế về ngân hàng. Thường xuyên thông báo cho ban điều hành và hội đồng quản trị về tình hình chung của danh mục cho vay. Yêu cầu hình thành các khoản dự trữ tổn thất cho vay. Ngoài ra, các NHTM còn nên tăng số lượng nhân viên kiểm tra, kiểm soát, nhưng phải phù hợp với quy mô, trình độ tăng tín dụng, đào tạo nâng cao trình độ kiểm tra, kiểm soát, tăng năng suất kiểm soát hơn. Kiểm tra, kiểm soát cần phải được thực hiện thường xuyên vì với một số khoản vay thiếu sự kiểm tra làm cho việc phát hiện những suy giảm về chất lượng khoản vay trở nên không thể thực hiện được. 2.5. Cải tạo bộ máy tín dụng: Cải cách bộ máy quản trị rủi ro tín dụng tức là làm cho bộ máy gọn nhẹ nhưng vẫn hoạt động một cách hiệu quả, linh hoạt. Hiện nay, tại các NHTM, các bộ phận hoạt động chưa được ăn khớp với nhau, nhiều thủ tục hành chính rườm rà gây khó khăn cho người đi vay, việc phân công trách nhiệm cho các cá nhân, bộ phận chưa rõ ràng, còn chồng chéo. Giả sử như việc kiểm tra chất lượng tín dụng đang được cho vay, chính bộ phận kiểm tra khoản vay sẽ kiểm tra chứ không phải cán bộ tín dụng. Lý do là vì cán bộ tín dụng là những người có những thông tin bí mật về điều kiện tài chính của người vay và họ cũng là người đầu tiên trong ngân hàng biết về những thay đổi trong chất lượng tín dụng. Nếu chính họ là người theo dõi những khoản vay mà họ thực hiện sẽ không khác quan, họ sẽ vừa tốn thời gian để nghiên cứu các khoản xin vay của khách hàng vừa lo sợ phát hiện sự suy giảm chất lượng có thể phát sinh từ những đánh giá tín dụng ban đầu sai lệch hoặc những mối quan hệ cá nhân và các mối quan hệ phát sinh giữa cán bộ tín dụng và người vay. Giải pháp cho việc này, NHTM cần phải tách các chức năng tiếp thị, quan hệ khách hàng với thẩm định rủi ro, quyết định tín dụng với theo dõi chất lượng các khoản vay. Đồng thời, phân định rõ trách nhiệm cho các phòng ban, cá nhân, đảm bảo khách quan và độc lập. Ngoài ra, các NHTM NN cần giảm bớt các thủ tục hành chính tạo điều kiện thuân lợi cho những người đi vay. Các cán bộ các cấp liên quan đến tín dụng thường xuyên kiểm tra, giám sát tình hình tín dụng của NHTM giúp NHTM phát hiện ra thiếu sót và tự điều chỉnh. 2.6. Nâng cao chất lượng cán bộ tín dụng: Con người là một nhân tố luôn đóng vai trò quyết định đến sự thành bại của NHTM, nhất là trong hoạt động tín dụng. Những cán bộ tín dụng sẽ quyết định đến chất lượng của các khoản cho vay, phát hiện kịp thời rủi ro của những khoản đang cho vay từ đó có biện pháp xử lý kịp thời giảm thiểu rủi ro cho NHTM, nâng cao lợi nhuận cho hoạt động kinh doanh của NHTM. Thậm chí còn nâng cao hình ảnh của ngân hàng trên thị trường tài chính. Chính vì vậy, việc nâng cao chất lượng cán bộ tín dụng là việc làm thường xuyên và mang tính lâu dài. Việc nâng cao về trình độ chuyên môn nghiệp vụ mà còn là khía cạnh đạo đức, sự tâm huyết, nhiệt tình, tận tâm với công việc. Các NHTM nên thường xuyên tổ chức các buổi tập huấn đào tạo, đào tạo lại cho cả những cán bộ lâu năm và những nhân viên mới vào làm việc, nhưng các buổi tập huấn cần được phân chia ra thành nhiều cấp bậc khác nhau tương ứng với trình độ chuyên môn của nhân viên. Tổ chức các buổi hội thảo, buổi chia sẻ kinh nghiệm… giúp các nhân viên vừa có thể trao đổi nghiệp vụ, vừa cập nhật được tin tức mới bên ngoài NHTM để nâng cao hiểu biết về nghiệp vụ. Ngoài việc đào tạo cán bộ tín dụng, NHTM còn nên kiểm tra, giám sát chặt chẽ thường ngày của cán bộ tín dụng từ đó kiên quyết xa thải những nhân viên có trình độ nghiệp vụ kém, đạo đức tồi ra khỏi bộ máy tín dụng và thường xuyên có những chính sách đãi ngộ xứng đáng với đóng góp của cán bộ tín dụng trong hoạt động tín dụng của NHTM.Có nhiều chính sách ưu đãi để thu hút những cán bộ lâu năm có kinh nghiệm về ngân hàng. Với đội ngũ công nhân viên chất lượng, hoạt động của NHTM chắc chắn sẽ sinh nhiều lợi nhuận. 2.7. Giám sát. kiểm tra khoản cho vay: Sau khi đưa ra các quyết định tín dụng, để giảm thiểu rủi ro tín dụng xảy ra ở mức tối thiểu, cán bộ tín dụng cần phải giám sát, theo dõi khắt khe khoản tín dụng đó trong quá trình cho vay và có những biện pháp xử lý kịp thời. Như trên đã phân tích, với một sự kiểm tra kiểm soát tốt, cán bộ tín dụng có thể phát hiện ra những khoản tín dụng đã cho vay có vấn đề một cách sớm nhất dựa vào những dấu hiệu như: thanh toán chậm tiền gốc và lãi, sự chậm trễ bất thường của người vay trong việc nộp các BCTC định kỳ như trong hợp đồng cho vay thể hiện sự trốn tránh không muốn nộp cho ngân hàng những kết quả tài chính không thuận lợi. Khi xảy ra những sự việc trên, cán bộ cho vay phải lập tức tìm hiểu lý do, có thể người vay đang trải qua một cuộc khủng hoảng tài chính. Sau đó cán bộ cho vay nên thực hiện hành động khắc phục kịp thời để ngăn chặn sư suy giảm tiếp tục và giảm thiểu tổn thất tiềm tàng. Cán bộ cho vay nên thương lượng một kế hoạch hành động để bảo vệ cả ngân hàng và người vay khỏi tổn thất như: thiết lập lại một lịch trình trả nợ phù hợp với tình hình của khách hàng bây giờ sao cho khách hàng có điều kiện tốt nhất để trả được nợ, đưa ra một số điều khoản hạn chế đối với khách hàng, xác đinh lại mức độ can thiệp của ngân hàng vào quyết định quản lý của khách hàng nhất là đối với khách hàng là những tập đoàn công ty lớn. Đối với tài sản bảo đảm (TSBĐ), giá trị TSBĐ mà giảm ví dụ như TSBĐ là các chứng khoán khi TTCK giảm giá làm cho chứng khoán là TSBĐ cũng giảm giá, cần đưa ra quyết định nhận thêm tài sản thế chấp. Các tài sản thế chấp có thể là các chứng khoán có giá, các khoản phải thu, giá trị tiền mặt của hợp đồng bảo hiểm (HĐBH) nhân thọ, hàng lưu kho hay vốn tự có bằng bất động sản. Cán bộ cho vay nên thận trong và sớm phát hiện ra các sai phạm do lỗi cố ý của người đi vay như: BCTC giả, chứng từ, chứng khoán, quyền sở hữu tài sản thế chấp giả. Tóm lại trong bất kỳ trường hợp nào, cán bộ ngân hàng luôn phải đặt ra nghi ngờ đối với các khoản cho vay và càng phát hiện sớm đối với những khoản cho vay càng nhanh bao nhiêu thì có thể đưa ra những hành động giải quyết kịp thời để bảo vệ uy tín của ngân hàng. 2.8. Quy định đối tượng phải mua bảo hiểm các khoản tín dụng: Để đảm bảo an toàn cho các khoản tín dụng, một hình thức rất được ưa chuộng hiện nay là mua bảo hiểm cho các khoản tín dụng. Rủi ro tín dụng là điều không mong muốn của các NHTM và thậm chí là của khách hàng khi họ không thể lường trước được những sự việc khách quan xảy ra như lạm phát, kinh tế suy thoái… Chẳng hạn như một khách hàng rất có uy tín cũng có thể mắc phải rủi ro tín dụng khi ông ta bị chết hoặc tàn phế. Hoặc là hỏa hoạn, lũ lụt cũng có thể làm gián đoạn hoạt động của doanh nghiệp. Trong những trường hợp như vậy công ty bảo hiểm sẽ trả cho Ngân hàng khoản nợ của khách hàng giúp Ngân hàng tránh được tổn thất. Các NHTM cần phải xác định những loại hình người vay phải được bảo hiểm. Hình thức bảo đảm ngày càng trở nên phổ biến là HĐBH nhân thọ. Nó sẽ thanh toán nốt số tiền nợ ngân hàng khi người vay chết. Hoặc giá trị tiền mặt của HĐBH nhân thọ cũng được đưa ra làm TSBĐ. Hiện nay xuất hiện một hình thức bào hiểm hơi khác. Đó là tái bảo hiểm. Nếu người vay không thể trả nợ thì tái bảo hiểm thanh toán toàn bộ và công ty bảo hiểm có quyền đòi nợ dựa trên giấy chứng nhận nợ của khách hàng. Tuy nhiên phí tái bảo hiểm là khá cao. Chính sách cho vay của ngân hàng cần quy định rõ đối tượng của tái bảo hiểm. Tóm lại, để hạn chế rủi ro tín dụng ở mức tối thiểu, nâng cao khả năng sinh lời của các NHTM là một đề tài các nhà quản trị ngân hàng đã và đang nghiên cứu không ngừng để đạt được tỉ lệ rủi ro như mong muốn. Hy vọng với những giải pháp trên đây kết hợp với các mô hình lượng hóa rủi ro sẽ giúp các NHTM nâng cao năng lực canh tranh trên TTTC khu vực. 3. Một số kiến nghị tăng cường hạn chế rủi ro tín dụng của Ngân hàng Thương mại Việt Nam 3.1 Kiến nghị với NHNN 3.1.1 NHNH cần hoàn thiện các văn bản quy định về phân loại nợ Trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng cũng như quy định về các tỷ lệ bao đảm an toàn trong hoạt động của các tổ chức tín dụng nói chung. Hiện nay việc phân loại nợ và trích lập , sử dụng dự phòng để lý rủi ro tín dụng được thực hiện theo quyết định số 493/2005/QĐ - NHNN của thống đốc Ngân hàng nông nghiệp Việt Nam ban hành ngày 22/4/2005 là một quyết định cần thiết, hợp lý trong việc hướng dẫn hoạt động tín dung của NHTM. Tuy nhiên, nhiều ngân hàng còn chưa rõ việc phân loại nợ, trích lập quỹ dự phòng rủi ro. Vì vậy, thời gian tới NHNN cần ban hành các thông tư hướng dẫn cụ thể thực hiện quyết định 493 đồng thời nghiên cứu, hoàn thiện các quy định giúp các NHTM hạn chế được rủi ro trong hoạt động quản lý của NHNN cũng dễ dàng hơn. 3.1.2 Nâng cao chất lượng hoạt động của trung tâm thông tin tín dụng Trung tâm thông tin ín dụng là tổ chức chuyên thu thập, cung cấp thông tin về rủi ro tín dụng của các doanh nghiệp các ngân hàng hay nhà đầu tư muốn có được các thông tin phải bỏ tiền ra mua. Hiện nay, ở Việt Nam NHNN cũng có trung tâm thông tin tín dụng CIC. Tuy nhiên, trung tâm này chỉ thực hiện cung cấp thông tin về các doanh nghiệp một cách sơ sài, không cập nhật. Vì vậy, hiệu quả đem lại chưa cao. Để giải quyết vấn đề này, NHNN nên đưa ra những quy định bắt buộc các nhà hàng cung cấp thường tin đầy đủ, chi tiết hơn. NHNN nên tổ chức trung tâm này dưới dạng các công ty hoạt động độc lập cạnh tranh lẫn nhau làm cho cung cấp có chất lượng giúp các NHNN hạn chế rủi ro tín dụng. 3.2. Kiến nghị với chính phủ. 3.2.1. Nhà nước cần hoàn thiện môi trường pháp lý. Hiện nay, các NHTMVN đang chịu sự điều chỉnh của luật các tổ chức tín dụng. Sau nhiều năm đi vào hoạt động, luật này có một số điểm không còn phù hợp với sự biến động nhanh chóng của các NHTM nữa. Nhà nước nên đổi mới và hoàn thiện hành lang pháp lý điều chỉnh hoạt động của ngân hàng. Ngoài ra Nhà nước cũng cần có những biện pháp nhằm đảm bảo môi trường kinh tế ổn định cho hoạt động của các doanh nghiệp và NHTM 3.2.2.Chấn chỉnh hoạt động của hệ thống doanh nghiệp Trong vài năm gần đây, hệ thống doanh nghiệp đang góp phần rất lớn trong công cuộc phát triển kinh tế, hoạt động ngày một đi vào nề nếp. Tuy nhiên,vẫn còn tồn tại một số vấn đề nhức nhối trong các doanh nghiệp hiện nay như tình trạng trốn thuế, lậu thuế diễn ra khá phức tạp, các doanh nghiệp chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ, kinh doanh chưa bài bản. Điều này khiến cho hoạt động cho vay của NHTM gặp nhiều rủi ro. Vì vậy, trong thời gian tới chính phủ một mặt cần tạo điều kiện, mặt khác chấn chỉnh hoạt động của các doanh nghiệp đó. Trước hết, Chính Phủ cần đổi mới trong việc cấp phép kinh doanh đảm bảo các doanh nghiệp phải đủ điều kiện về vốn, năng lực của cán bộ điều hành và phương án kinh doanh, tăng cường công tác kiểm tra giám soát sau khi cấp phép. Đồng thời, Nhà nước cũng cần tăng cường kiểm toán bắt buộc từ đó phát hiện sai sót, gian lận. Nếu doanh nghiệp làm ăn tốt cần khuyến khích và nhân rộng mô hình, ngược lại cũng cần có thái độ xử lý kiên quyết. Tuy nhiên,việc quản lý Nhà nước cũng cần đổi mới theo hướng tăng tính tự chủ trong doanh nghiệp không nên can thiệp quá sâu mà chỉ quản lý ở tầm vĩ mô. KẾT LUẬN Như vậy, có thể nói rủi ro tín dụng gắn liền với hoạt động của NHTM, tồn tại khách quan và không thể tránh khỏi. Rủi ro tín dụng có thể được tạo ra từ nhân tố khách quan (môi trường kinh doanh) hay nhân tố chủ quan (ngân hàng, khách hàng). Nó không chỉ làm suy giảm nền kinh tế mà còn ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triển của ngân hàng: làm uy tín của ngân hàng bị suy giảm, khả năng cạnh tranh thấp đi, lợi nhuận giảm, thậm chí có thể gây phá sản ngân hàng. Trong giai đoạn hiện nay khi rủi ro tín dụng còn cao ở hầu hết các NHTM, các ngân hàng cần có chính sách quản trị rủi ro tín dụng hợp lý để giảm tối thiểu rủi ro tín dụng có thể xảy ra. Do vậy, yêu cầu đặt ra hiện nay đối với các NHTM nước ta là cần phải xây dựng được chính sách quản trị rủi ro tín dụng phù hợp với mục tiêu và chiến lược phát triển của ngân hàng mình. Đồng thời, Nhà nước và Chính phủ cũng cần phải có những quy định, chính sách hợp lý để giúp các NHTM giảm tối thiểu rủi ro tín dụng. Và nếu các ngân hàng có thể quản trị rủi ro tín dụng hiệu quả thì chắc chắn trong tương lai các NHTM Việt Nam sẽ phát triển mạnh mẽ hơn. Danh mục các tài liệu tham khảo 1.Đại học Kinh tế Quốc Dân, khoa Ngân hàng Tài chính, chủ biên TS. Phan Thị Thu Hà (2004), giáo trình Ngân hàng thương mại, NXB Thống kê, Hà Nội. 2.Đại học Kinh tế Quốc Dân, khoa Ngân hàng Tài chính, chủ biên TS.Lưu Thị Hương(2002), giáo trình tài chính doanh nghiệp, NXB Giáo dục. 3.Học viện Ngân hàng, TS.Nguyễn Văn Tiến chủ biên (2002), Đánh giá và phòng ngừa rủi ro trong kinh doanh ngân hàng, NXB Thống kê,Hà Nội 4.Peter S Rose(2001), Quản trị ngân hàng thương mại, NXB Tài chính. Học viện ngân hàng, TS.Nguyễn Duệ, Quản trị ngân hàng, NXB Thống kê 2001 5.Trang web: mpi.gov.vn Sbv.gov.vn Vnexpress.com.vn Vneconomy.com.vn Danh mục các từ viết tắt NHTM: ngân hàng thương mại NHNN: ngân hàng nhà nước MỤC LỤC Danh mục các từ viết tắt

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc32947.doc
Tài liệu liên quan