Đề tài Giải pháp hạn chế và phòng ngừa rủi ro trong thanh toán quốc tế theo phương thức Tín Dụng Chứng Từ tại các Ngân hàng thương mại Việt Nam

- Phương thức thanh toán bằng tiền mặt (Cash Payment) + CIA: cash in advance + CBD: Cash before delivery + COD: Cash on delivery + CAD: Cash against document - Phương thức chuyển tiền ( Remittance ) - Phương thức ghi sổ ( Open account ) - Phương thức nhờ thu ( Collection of payment ) + Nhờ thu phiếu trơn ( clean collection ) + Nhờ thu kèm chứng từ ( documentary collection ) - Phương thức tín dụng chứng từ ( Documentary credit ) Mỗi phương thức thanh toán có những đặc trưng riêng về các bên tham gia, cách áp dụng cũng như ưu, nhược điểm riêng. Tuy nhiên dưới đây chỉ đề cập đến ba phương thức thanh toán quốc tế phổ biến nhất. Trong mục này, phương thức Tín dụng chứng từ được phân tích một cách khái quát nhất về đặc trưng nhằm mục đích so sánh với đặc trưng của phương thức chuyển tiền và phương thức nhờ thu.

doc94 trang | Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 968 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp hạn chế và phòng ngừa rủi ro trong thanh toán quốc tế theo phương thức Tín Dụng Chứng Từ tại các Ngân hàng thương mại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đã không cung cấp được đủ số lượng cho bên nước ngoài theo đúng thời hạn. Bên Đài Loan đã căn cứ vào đó để phạt thanh toán chậm 20 ngày, gây thiệt hại về tài chính cho doanh nghiệp. Cùng với mất mát tài chính của đơn vị xuất khẩu, uy tín của VCB với tư cách là ngân hàng thông báo cũng bị ảnh hưởng. Bên cạnh sự thiếu nhất quán về các quy định ban hành có liên quan đến hoạt động xuất nhập khẩu thì bản thân việc vận dụng UCP500 vào hoạt động thanh toán L/C của các ngân hàng (trong đó có Ngân hàng Ngoại thương và NHTMCP Quân đội) cũng còn có nhiều bất cập, đặc biệt trong việc giải quyết các tranh chấp có liên quan đến tín dụng chứng từ. Những khó khăn, vướng mắc này không phải lúc nào cũng gây thiệt hại về tài chính của ngân hàng nhưng chúng thường xuyên làm ảnh hưởng tới tiến độ thanh toán L/C cũng như uy tín của ngân hàng.Trong năm 2000, đối với L/C nhập khẩu ở VCB có tới 50% bộ chứng từ của người xuất khẩu nước ngoài xuất trình theo L/C do ngân hàng Ngoại thương mở có khác biệt. Trong số các chứng từ có sự khác biệt đó, chỉ có tỷ lệ rất nhỏ khoảng 1% trường hợp tranh chấp được xử lý theo nguyên tắc thực hành của bản thân từng ngân hàng, 80% các trường hợp xử lý theo UCP500 không hiệu quả, tức là phía nước ngoài đã chấp nhận những sai sót mà Vietcombank đưa ra. Tỷ lệ áp dụng UCP500 không có hiệu quả là 19%. Như vậy, nếu xét riêng trong phạm vi giải quyết tranh chấp L/C theo quy định của UCP500 thì tỷ lệ không hiệu quả là 20%. Đây không phải là con số đáng lo ngại nhưng nó gây ra ảnh hưởng không tốt đến uy tín của ngân hàng và gây ra những thiệt hại lớn tới doanh nghiệp xuất nhập khẩu trong nước. Đối với L/C xuất khẩu, có đến 40% bộ chứng từ của các nhà xuất khẩu Việt Nam mà VCB đóng vai trò là ngân hàng thông báo và ngân hàng xác nhận bị phía bạn thông báo là có sai sót. Trong đó, 1,2% tranh chấp được giải quyết không dùng UCP500; 17,8% tranh chấp được ngân hàng giải quyết ổn thoả dựa trên cơ sở UCP500, bác bỏ hợp lý những khác biệt mà ngân hàng nước ngoài thông báo, bảo vệ được quyền lợi của các doanh nghiệp xuất khẩu trong nước; còn lại khoảng 40% tranh chấp mà vận dụng UCP500 giải quyết không có hiệu quả. Nhiều trường hợp các nhà xuất khẩu Việt Nam phải lập lại bộ chứng từ hoặc chuyển sang nhờ thu. Có những trường hợp tranh chấp gây thiệt hại nặng cho khách hàng của Vietcombank cũng như bản thân ngân hàng. Như vậy, những vướng mắc về các văn bản pháp lý cũng như những bất cập trong việc vận dụng UCP500 vào giao dịch tín dụng chứng từ đã có những ảnh hưởng đáng kể đến hoạt động thanh toán L/C nói riêng, hoạt động ngân hàng nói chung. Chúng ta rất cần có những giải pháp thích hợp để khắc phục những khó khăn này nhằm giảm thiểu rủi ro trong thanh toán L/C. 4. Nguyên nhân gây ra rủi ro trong thanh toán Tín dụng chứng từ 4.1. Nguyên nhân chủ quan từ phía Ngân hàng v Việc thu thập, phân tích thông tin, đánh giá tình hình hoạt động trong kinh doanh của các doanh nghiệp nhiều khi chưa được quan tâm đúng mức. Các cán bộ trong lĩnh vực thanh toán quốc tế hầu hết có tuổi đời còn rất trẻ. Vì vậy nếu xét về mặt kiến thức nói chung, họ đều có được một sự hiểu biết rất đầy đủ về nghiệp vụ của mình. Nhưng phần quan trọng không kém bên cạnh nghiệp vụ chính là kinh nghiệm làm việc. Bên cạnh đó cũng cần nói đến sự xuống cấp về phẩm chất đạo đức của một số cán bộ ngân hàng. Đây chính là hậu quả của việc kém rèn luyện tu dưỡng, phấn đấu của bản thân trong suốt cả quá trình được giao việc. Vì vậy, đã và đang tồn tại những cán bộ chỉ biết làm nghiệp vụ chuyên môn đơn thuần còn các kiến thức xã hội khác lại rất hạn hẹp. v Một số cán bộ ngân hàng còn yếu về trình độ chuyên môn nghiệp vụ, chưa có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực thanh toán L/C, có sự xuống cấp về tư cách đạo đức. 4.2. Nguyên nhân khách quan từ phía khách hàng v Do thiếu thông tin về thị trường, về đối tác nước ngoài Một thực tế đáng ngại hiện nay là các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu ở nước ta hiện nay vẫn còn gặp nhiều khó khăn trong việc thu thập, nắm bắt các thông tin về thị trường, về đối tác nên dễ gặp phải rủi ro trong hoạt động kinh doanh của mình, từ đó gián tiếp ảnh hưởng tới hoạt động thanh toán. Do không nắm bắt được các thông tin về thị trường, về đối tác nên đã dẫn đến việc chọn nhầm đối tác là các công ty lừa đảo, công ty ma dẫn đến việc xuất nhập hàng bị mất hoặc mất tiền gây rủi ro cho cả ngân hàng phục vụ. v Do trình độ nghiệp vụ còn yếu kém, việc vận dụng UCP500 của khách hàng tham gia vào thanh toán thư tín dụng còn nhiều hạn chế. Một số khách hàng kinh doanh xuất nhập khẩu nhưng chưa hiểu biết sâu sắc về kỹ thuật buôn bán thương mại quốc tế. Biểu hiện: Nghiệp vụ thanh toán đối ngoại của khách hàng còn yếu nên trong một số giao dịch đã không gắn các điều kiện ràng buộc trong hợp đồng vào L/C (điều kiện và điều khoản trong L/C khác với các điều kiện trong hợp đồng). Không triệt để tuân thủ theo quy định của UCP500 mà L/C đã dẫn chiếu. Hàng hoá giao không đúng quy định chất lượng, chủng loại hay thời hạn. Lập bộ chứng từ thanh toán có nhiều sai sót, tạo điều kiện cho khách hàng nước ngoài có lý do từ chối thanh toán, gây khó khăn không nhỏ cho ngân hàng trong việc chiết khấu bộ chứng từ. v Do bản thân các doanh nghiệp cố tình không thanh toán cho ngân hàng hoặc cố tình trì hoãn việc thanh toán. 4.3. Nguyên nhân khách quan trên giác độ vĩ mô v Môi trường pháp lý cho hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức L/C chưa được hoàn thiện, còn thiếu những điều kiện cần thiết để vận dụng UCP500 đạt hiệu quả cao. Hiện nay, một hệ thống văn bản pháp lý nhằm hướng dẫn thực hiện nghiệp vụ tín dụng chứng từ mang tính thống nhất cho toàn hệ thống ngân hàng thương mại ở Việt Nam còn thiếu, thậm chí chưa có. Các ngân hàng thương mại tự tạo cho mình một quy định riêng dựa trên cơ sở pháp lý duy nhất là UCP500. Các quy trình thực hiện nghiệp vụ thanh toán quốc tế của mỗi ngân hàng có sự khác nhau tuỳ theo trình độ và đặc điểm của mỗi ngân hàng. Chúng ta chưa có riêng một quy chế, văn bản pháp lý hướng dẫn thực hiện giao dịch thanh toán xuất nhập khẩu, chưa có văn bản pháp lý công nhận và hướng dẫn áp dụng UCP500 v Thông tin tín dụng không đầy đủ: nguyên nhân chủ yếu là do trung tâm CIC của ngân hàng nhà nước cung cấp số liệu thiếu tính cập nhật, ngay cả bản thân Ngân hàng Ngoại thương cũng chưa cung cấp thông tin một cách thường xuyên cho trung tâm CIC chính vì vậy còn tạo một số khe hở cho khách hàng vay vốn ở nhiều nơi và do đó gây ra rủi ro đối với ngân hàng. 5. Những bài học kinh nghiệm trong hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ: Nghiệp vụ TTQT góp phần quan trọng trong việc mở rộng kinh doanh dịch vụ, thu phí ngân hàng, nâng cao uy tín quốc tế và tạo thuận lợi trong vấn đề thu hút khách hàng, thực hiện cho vay dịch vụ khép kín. Tuy nhiên mặt khác nó tiềm ẩn nhiều yếu tố rủi ro lớn. Trên cơ sở xem xét và đánh giá thực trạng hoạt động trong ngành ngân hàng đến phân tích những rủi ro có thể xảy ra trong hoạt động TTQT mà đặc biệt là theo phương thức TDCT đối với VCB, NHTMCP Quân đội nói riêng và hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam nói chung, chúng ta có thể rút ra những bài học kinh nghiệm hữu ích sau: 5.1. Đối với đơn vị nhập khẩu: Trước khi ký hợp đồng, doanh nghiệp phải tìm hiểu kỹ đối tác về tình hình sản xuất kinh doanh, khả năng tài chính cũng như uy tín của đối tác; dự tính những ảnh hưởng xấu của các nhân tố khách quan như bạo động chính trị, sự thay đổi tỷ giáđể có giải pháp: mua bảo hiểm, chọn phương thức tính tỷ giá có lợi nhất... Khi mở L/C, có thể xin tư vấn của các chuyên gia trong các lĩnh vực ngoại thương, Ngân hàng mở hoặc ngân hàng phục vụ bên bán để tránh được những điều khoản bất lợi, lường trước được những trường hợp bất thường xảy ra và tránh được những sai sót về mặt nghiệp vụ của cán bộ trong doanh nghiệp. Khi nhận bộ chứng từ để nhận hàng, doanh nghiệp phải nắm được tình trạng sơ bộ của hàng hoá, kiểm tra kỹ về chứng từ để tránh những tranh chấp về pháp lý sau này. Ngay khi phát hiện có sai sót về hàng hoá hoặc chứng từ, tuỳ theo mức độ nghiêm trọng mà thông báo cho Ngân hàng để tìm cách giải quyết hoặc khiếu nại Ngươì bán. 5.2. Đối với các đơn vị xuất khẩu: Trước khi ký hợp đồng, doanh nghiệp phải tìm hiển kỹ về tình hình thị trường, khả năng taìi chính và uy tín kinh doanh của người mua. Trong khi thoả thuận các điều kiện quy định trong L/C đối với hàng hoá và xuất trình chứng từ, doanh nghiệp cần có sự cố vấn của các chuyên gia trong ngành cũng như của ngân hàng để có những điều khoản có lợi cho mình, tránh những tranh chấp về sau. Khi nhận được thông báo về việc mở L/C của người mua, doanh nghiệp cần kiểm tra kỹ các điều kiện và điều khoản của L/C để có thể kịp thời sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện các quy định trong L/C. Khi lập cũng như xuất trình bộ chứng từ cần tìm mọi biện pháp hợp lý để có được bộ chứng từ hoàn hảo theo đúng yêu cầu của L/C và xuất trình đúng thời hạn. Nếu phát hiện có sai sót cần kịp thời thông báo cho ngân hàng thông báo hoặc ngân hàng phục vụ bên bán để có biện pháp xử lý hoặc khiếu nại người mua. 5.3. Đối với các ngân hàng thương mại: 5.3.1. Với vai trò là ngân hàng mở: Ngân hàng phải thẩm định để nắm vững tình hình tài chính của nhà nhập khẩu để định mức ký quỹ một cách hợp lý, một trong những biện pháp cần thiết và hiệu quả nhất thể hiện bản chất của thư tín dụng là hoàn toàn độc lập với hợp đồng ngoại thương và hàng hóa. Khi mở L/C Ngân hàng cần cân nhắc những điều kiện bất lợi có thể xảy ra như việc kiểm soát hàng hoá và chứng từ sở hữu hàng hoá, bảo lãnh cho nhà nhập khẩu nhận hàng trước khi nhận được chứng từ, hoặc là trong hình thức đòi tiền có bảo lưu quyền đòi lại, và trong trường hợp nhà nhập khẩu không mua bảo hiểm khi nhập hàng theo điều kiện FOB hoặc C&F. Ngân hàng cần tuân thủ theo đúng quy định của UCP hoặc URC mà ngân hàng đã dẫn chiếu tránh gây ra những tranh chấp, phát sinh những chi phí vô ích. 5.3.2. Với vai trò là ngân hàng thông báo: Nếu vì lý do nào đó mà ngân hàng thông báo thiếu sự cẩn trọng trong việc kiểm tra mã khoá giao dịch với ngân hàng mở mà thực tế thông báo L/C thì theo thông lệ quốc tế ngân hàng thông báo phải hoàn toàn chịu trách nhiệm vật chất với bên liên quan. Do vậy, ngân hàng thông báo cần thực hiện những nguyên tắc sau: (1) Cần xác thực rõ những thông tin không đầy đủ và không rõ ràng do bị thiết sót hay do sơ suất từ phía ngân hàng mở. (2) Phải thông báo kịp thời khi không đồng ý thông báo L/C hay khi không có khả năng thông báo L/C. 5.3.3. Với vai trò là ngân hàng xác nhận Những rủi ro có thể xảy đến với ngân hàng xác nhận như khi không nắm chắc năng lực tài chính và điều hành của ngân hàng mở, mà đợi đi xác nhận theo yêu cầu của họ, thì phải thanh toán ngay cho ngân hàng mở thiếu thiện chí hay mất khả năng thanh toán hay thậm chí phá sản...Vì vậy, để phòng và tránh những rủi ro trên, ngân hàng chỉ xác nhận khi: Ngân hàng mở thể hiện được khả năng thanh toán của mình Ngân hàng mở đã ký quỹ đủ số tiền của L/C Ngân hàng mở được ngân hàng xác nhận cấp tín dụng Ngân hàng mẹ cấp vốn cho ngân hàng con Ngoài những trường hợp nêu trên, ngân hàng phải tìm hiểu rõ mọi điều kiện, mọi tình huống như ngân hàng mở: từ việc xem xét yêu cầu xác nhận, nghiên cứu khách hàng, đảm bảo thanh toán, kiểm tra điều kiện của L/Cđến việc giành quyền kiểm tra chứng từ và thực hiện vai trò của ngân hàng chiết khấu. 5.3.4. Với vai trò là ngân hàng chiết khấu: Để tránh một số rủi ro có thể xảy ra đối với ngân hàng chiết khấu như: thiên tai, nổi loạn, chiến tranh;do ngân hàng mở bị phá sản, mất khả năng thanh toán; do nhà nhập khẩu trì hoãn thậm chí từ chối thanh toán qua việc “bới bèo ra bọ” trong việc kiểm tra chứng từ hoặc do nhà nhập khẩu mất khả năng thanh toán hay do nhà xuất khẩu cố tình lừa gạt, giao hàng xấu, kém chất lượng, giả mạo chứng từVì vậy, ngân hàng chiết khấu cần: Nghiên cứu tình hình kinh tế, chính trị của nước nhà nhập khẩu để quyết định chiết khấu bộ chứng từ cho nhà xuất khẩu. Nắm vững tình hình tài chính và khả năng thanh toán của nhà nhập khẩu. TTQT cần thực hiện trên cơ sở nguyên tắc chặt chẽ, bảo đảm an toàn tối đa. Không mở rộng tràn lan ở những nơi chưa đủ điều kiện như là cán bộ và công cụ. Tổ chức đào tạo, tập huấn thường xuyên nghiệp vụ thanh toán quốc tế như một kênh đào tạo chuyên đề nhằm bổ sung kiến thức trao đổi nghiệp vụ. Về biện pháp cụ thể, chi nhánh chỉ mở L/C khi đảm bảo nguồn vốn thanh toán chắc chắn 100%, hạn chế tối đa trường hợp đề nghị thanh toán bằng nguồn vốn tự có, yêu cầu phải có tiền gửi ký quỹ. Chương III: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm phòng ngừa và hạn chế rủi ro trong thanh toán tín dụng chứng từ tại các Ngân hàng thương mại việt nam 1. Định hướng phát triển hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ tại các Ngân hàng thương mại Việt Nam Không tự bằng lòng với những thành tựu đã đạt được, các Ngân hàng thương mại Việt Nam điển hình là ngân hàng Ngoại thương và Ngân hàng thương mại cổ phần quân đội vẫn đang nỗ lực tự hoàn thiện và phát triển hơn nữa để đáp ứng trọng trách quan trọng mà Nhà nước và Nhân dân đã tin tưởng giao phó. Để tiếp tục giữ vững truyền thống là những ngân hàng đứng đầu trong lĩnh vực thanh toán quốc tế, ban lãnh đạo cùng toàn thể các cán bộ công nhân viên chức của hai ngân hàng đã thống nhất đề ra những mục tiêu, định hướng hoạt động và quyết tâm thực hiện một cách có hiệu quả các nội dung sau: * Tiếp tục thực hiện định hướng phát triển của Ngân hàng theo phương châm “An toàn - Hiệu quả - Phát triển”. Căn cứ vào mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước trong những năm tới và nhiệm vụ của ngành ngân hàng, Ngân hàng Ngoại thương đề ra mục tiêu cho năm 2002 đối với lĩnh vực thanh toán xuất nhập khẩu là giữ một thị phần thanh toán xuất nhập khẩu là 29% hoặc có thể nâng cao hơn nữa; Ngân hàng TMCP Quân đội đề ra mục tiêu tổng kim ngạch thanh toán xuất nhập khẩu năm 2002: 200-250 triệu USD trong đó phấn đấu tăng kim ngạch thanh toán xuất khẩu đến 20 triệu USD. * Duy trì thế mạnh trong thanh toán xuất nhập khẩu, phấn đấu giữ vững thị phần thanh toán xuất nhập khẩu trong điều kiện ngày càng có nhiều ngân hàng thương mại tham gia vào lĩnh vực này. Kịp thời tháo gỡ những vướng mắc trong thẩm quyền giải quyết của Ngân hàng để giữ vững những khách hàng truyền thống, thu hút khách hàng mới để nâng cao doanh số thanh toán xuất nhập khẩu. Kiến nghị ngân hàng Nhà nước ban hành quy định về thanh toán quốc tế, bổ sung biểu phí thanh toán qua ngân hàng phù hợp với mức độ phát triển các nghiệp vụ thanh toán của ngân hàng thương mại. * áp dụng công nghệ mới để nâng cao chất lượng phục vụ tạo uy tín đối với khách hàng. Để duy trì thế mạnh trong công tác thanh toán, hai Ngân hàng cần đẩy mạnh việc áp dụng công nghệ hiện đại vào công tác thanh toán để nâng cao hơn nữa chất lượng phục vụ khách hàng; đổi mới hơn nữa về phong cách, thái độ phục vụ; áp dụng rộng rãi hơn trong hệ thống các biện pháp thu hút khách hàng như miễn giảm ký quỹ, giảm phí thanh toán, ưu tiên mua bán ngoại tệ... * Thống nhất trong toàn hệ thống về phương pháp đánh giá, phân loại khách hàng và ngân hàng đại lý để tăng cường quản lý rủi ro trong công tác thanh toán. * Thường xuyên tổ chức nghiên cứu các tập quán về thanh toán xuất nhập khẩu, nâng cao trình độ nghiệp vụ trao đổi kinh nghiệm nhằm nâng cao chất lượng, đảm bảo an toàn trong thanh toán xuất nhập khẩu. * Tăng cường mối quan hệ với các ngân hàng đại lý hiện có và mở rộng quan hệ đại lý với các ngân hàng khác trên thế giới nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn trong hoạt động thanh toán quốc tế. 2. Một số biện pháp các Ngân hàng thương mại Việt Nam đã thực hiện Nhằm đáp ứng những yêu cầu hoàn thiện và đổi mới trong bối cảnh hiện tại, các Ngân hàng thương mại Việt Nam đã từng bước thực hiện một cách có hiệu quả những biện pháp nhằm hạn chế đến mức tối đa các rủi ro trong hoạt động thanh toán quốc tế. Các biện pháp tập trung trên một số khía cạnh sau: Ngân hàng đã ra những quy định hạn chế mở L/C trả chậm. Việc mở L/C phải được thẩm định kỹ lưỡng về nguồn vốn, uy tín, tình hình kinh doanh của doanh nghiệp cũng như về thị trường trong nước của các mặt hàng nhập khẩu. Các L/C trả chậm phải thông qua ngân hàng Nhà nước. Các ngân hàng đã thực hiện chiến lược hạn chế cho vay nhập khẩu, mở rộng cho vay làm hàng xuất khẩu. Đây cũng là một biện pháp vừa tài trợ cho sản xuất trong nước, đẩy mạnh xuất khẩu theo chính sách của nhà nước, vừa hạn chế rủi ro trong nghiệp vụ bảo lãnh nhập khẩu của ngân hàng. Ngân hàng đã từng bước hoàn thiện quy trình thanh toán tín dụng chứng từ trong toàn hệ thống, tìm ra những văn bản hướng dẫn thanh toán thống nhất cho tất cả các chi nhánh, tránh trường hợp chi nhánh này thực hiện nhiệm vụ này, chi nhánh khác thì không. Việc xem xét mức ký quỹ và ứng tiền cho khách hàng được quy định cụ thể, các mẫu giấy tờ được in sẵn nhằm hạn chế tới mức tối đa những sai sót trong quá trình lập chứng từ. Ngân hàng đã chú trọng tới công tác đào tạo cán bộ thanh toán quốc tế, nâng cao trình độ nghiệp vụ của thanh toán viên, thường xuyên tổ chức các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ, các cuộc thi thanh toán viên giỏi, cử cán bộ đi học...Nhìn chung cho tới nay đội ngũ thanh toán viên của các ngân hàng đã tương đối đồng đều, có kinh nghiệm trong thanh toán, được đào tạo về nghiệp vụ, ngoại ngữ, tin học... dần dần đáp ứng được các yêu cầu của nhiệm vụ đặt ra. Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam cũng không ngừng đổi mới công nghệ ngân hàng trong lĩnh vực thanh toán quốc tế, áp dụng phần mềm thanh toán SWIFT hiện đại nhất Việt Nam hiện nay, phù hợp với công nghệ của các ngân hàng đại lý của Vietcombank, bảo đảm cho các công tác thanh toán hàng ngày nhanh chóng, an toàn. NHTMCP Quân đội cũng tiếp tục sử dụng đa dạng các loại hình L/C đặc biệt chú trọng tới L/C điều khoản đỏ. Có như vậy, ngân hàng Quân đội mới có thể tăng được lượng thanh toán L/C xuất. Hệ thống thông tin trong ngân hàng đã từng bước được xây dựng và hoàn thiện nhằm cung cấp các thông tin kịp thời và chính xác về các ngân hàng đại lý, các khách hàng trong nước và ngoài nước. 3. Giải pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro trong thanh toán L/C tại các ngân hàng thương mại Việt Nam Rủi ro trong hoạt động ngân hàng nói chung và rủi ro trong nghiệp vụ thanh toán L/C nói riêng là rất khó tránh khỏi. Tuy nhiên chúng ta vẫn có thể phòng ngừa, hạn chế rủi ro nếu như biết vận dụng tổng hợp các biện pháp phòng ngừa rủi ro một cách thích hợp trong hoạt động thực tiễn. Các biện pháp Ngân hàng cần thực hiện: 3.1. Chú trọng nâng cao chất lượng công tác thẩm định đánh giá khách hàng Biện pháp quan trọng mang lại hiệu quả cao nhất để phòng ngừa rủi ro trong nghiệp vụ thanh toán L/C là các Ngân hàng thương mại nên chú trọng nâng cao chất lượng công tác thẩm định đánh giá khách hàng. Có thể thấy rằng trong thực tế những năm gần đây, rủi ro gây thiệt hại nặng nề về tài chính cũng như uy tín của các Ngân hàng thương mại chủ yếu xuất phát từ phía khách hàng. Và cũng chủ yếu là do khách hàng không có đủ khả năng thanh toán hoặc không muốn thanh toán. Chính vì vậy, chất lượng công tác thẩm định đánh giá khách hàng có một ý nghĩa vô cùng to lớn trong việc phòng ngừa và hạn chế rủi ro trong thanh toán L/C tại các ngân hàng thương mại nói chung, Ngân hàng Ngoại thương và Ngân hàng thương mại cổ phần quân đội nói riêng. Trong công tác thẩm định, đánh giá khách hàng, ngân hàng cần tiến hành phân tích một cách kỹ lưỡng năng lực tài chính cũng như kết quả hoạt động kinh doanh của khách hàng đến giao dịch với ngân hàng. Song việc đánh giá khách hàng cũng không chỉ dừng ở lần đầu tiên khách hàng đặt quan hệ giao dịch với ngân hàng mà còn cần được tiến hành một cách thường xuyên, liên tục trong suốt quá trình ngân hàng quan hệ với khách hàng. Bên cạnh đó, ngân hàng không chỉ quan tâm phân tích đánh giá năng lực tài chính, phương án kinh doanh, mặt hàng nhập của khách hàng, mà còn phải đặc biệt quan tâm đến tư cách của khách hàng mở L/C cũng như đối tác nước ngoài của khách hàng nữa. Trên cơ sở đó có quyết định đúng đắn cho mở L/C với những điều kiện cụ thể phù hợp với từng ngân hàng, vừa đảm bảo an toàn trong thanh toán, vừa đảm bảo được chính sách khách hàng. Tuy nhiên để có thể tiến hành công tác thẩm định, đánh giá khách hàng một cách có hiệu quả thì cần phối hợp đồng bộ với việc xây dựng đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn cao, tư cách đạo đức nghề nghiệp tốt. Vì cán bộ ngân hàng mới chính là những người trực tiếp thẩm định đánh giá khách hàng và cũng là người có quyền quyết định cuối cùng trong việc đồng ý hay không đồng ý mở L/C cho khách hàng. 3.2. Xây dựng đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp Con người luôn là nhân tố quyết định sự thành công trong mọi lĩnh vực, đặc biệt là trong quá trình đổi mới đầy khó khăn của ngân hàng. Yêu cầu của giao dịch thương mại quốc tế đòi hỏi cán bộ lãnh đạo cũng như cán bộ trực tiếp làm công tác thanh toán L/C không chỉ có trình độ ngoại ngữ, năng lực chuyên môn nghiệp vụ mà còn phải có phẩm chất đạo đức, có tinh thần trách nhiệm cao, có kinh nghiệm trong thanh toán quốc tế, họ phải có kỹ năng phân tích, am hiểu tường tận 49 điều khoản của Bản điều lệ thực hành thống nhất về Tín dụng chứng từ được sửa đổi (UCP.500). Đồng thời họ phải am hiểu luật pháp, tập quán và thực tiễn hoạt động ngân hàng của từng nước, từng vùng, từng khu vực để vừa có khả năng tư vấn cho khách hàng, đồng thời tránh được rủi ro cho ngân hàng. Để đạt được điều này, các ngân hàng thương mại cần xây dựng cho mình một chiến lược đào tạo đội ngũ cán bộ có trình độ cao, am hiểu nghề nghiệp và có tư cách đạo đức nghề nghiệp tốt. Trước hết là việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn ngành từ đội ngũ cán bộ lãnh đạo đến các nhân viên, từ trung ương đến các chi nhánh và công ty trực thuộc. Đoàn kết để tạo nên sức mạnh tổng hợp. Điều này không chỉ có ý nghĩa đối với các cán bộ làm công tác thanh toán mà cho bất kỳ một bộ phận nào trong ngân hàng. Những cán bộ còn hạn chế về mặt này hay mặt khác sẽ nhận được sự giúp đỡ từ đồng nghiệp của mình để tiến bộ hơn, và điều quan trọng là cùng nhau tiến bộ. Những chi nhánh hoạt động hiệu quả chưa cao sẽ nhận được sự hỗ trợ của các chi nhánh khác. Mọi người cùng làm việc và cùng tin tưởng lẫn nhau, khách hàng tin tưởng vào họ, niềm tin ấy tạo nên một sức mạnh lớn lao, góp phần hạn chế được những rủi ro có thể xảy ra. Thứ hai là nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn, ngoại ngữ, áp dụng công nghệ thông tin của thanh toán viên để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của phát triển kinh tế và hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu qua ngân hàng. Để có được một đội ngũ cán bộ đủ mạnh, các ngân hàng thương mại cần có một chiến lược đào tạo phù hợp. Nội dung đào tạo cần được chú trọng cả về kiến thức kinh tế, nghiệp vụ chuyên môn, đồng thời đặc biệt coi trọng công tác quản lý giáo dục lý tưởng đạo đức nghề nghiệp cho thanh toán viên. Ví dụ như trong công tác đào tạo nghiệp vụ, Ngân hàng Ngoại thương đã thực hiện nhiều biện pháp như: tổ chức các lớp học nghiệp vụ ngắn hạn và dài hạn, cử cán bộ đi học ở nước ngoài, mời chuyên gia giỏi về đào tạo nghiệp vụ mới cho thanh toán viên... Trong thời gian tới, các công tác này nên tiếp tục được tăng cường hơn nữa nhằm theo kịp và đáp ứng được các diễn biến phức tạp của nền kinh tế nói chung, hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu nói riêng. Trong công tác đào tạo cán bộ, một vấn đề cần được đưa lên hàng đầu là đạo đức, phẩm chất của thanh toán viên, hình thành nên trong mỗi cán bộ ngân hàng một lý tưởng chính trị, đạo đức nghề nghiệp để họ gắn chặt tương lai và sự nghiệp của mình vào tương lai và sự nghiệp chung của ngân hàng, coi mỗi thành tựu, tồn tại của ngân hàng là của chính mình, có sự đóng góp và trách nhiệm của mình trong đó. Từ đó mỗi cán bộ phải cố gắng hết mình nhằm hoàn thiện hơn nữa công việc hoặc lĩnh vực mà mình phụ trách, luôn suy nghĩ và hành động vì sự phát triển không ngừng của hệ thống. 3.3. Thành lập bộ phận quản lý và phòng ngừa rủi ro Ngân hàng nên thành lập một bộ phận quản lý rủi ro thanh toán chuyên trách lưu giữ, khai thác, cung cấp thông tin về những vụ lừa đảo tranh chấp trên thế giới cũng như ở Việt Nam liên quan đến lĩnh vực thanh toán quốc tế nhằm trước hết là phục vụ cho hoạt động nội bộ ngân hàng, sau đó là các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu muốn sử dụng dịch vụ này. Khi cung cấp dịch vụ này cho các doanh nghiệp, ngân hàng đã giúp doanh nghiệp trong việc lựa chọn bạn hàng, tránh được những rủi ro do bạn hàng làm ăn không uy tín, là những công ty ma hay những đối tượng lừa đảo... Để có được lượng thông tin đầy đủ, chính xác, bộ phận này cần có sự phối hợp chặt chẽ với: mạng lưới các ngân hàng nước ngoài, các ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam, các ngân hàng thương mại Việt Nam, Bộ thương mại và các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu... bằng con đường giao dịch xin hoặc mua thông tin trực tiếp, hoặc thông qua trung tâm phòng ngừa rủi ro của ngân hàng Nhà nước (CIC)... Khi có thông tin phong phú, chính xác, bộ phận này có thể thực hiện nghiệp vụ hướng dẫn, tư vấn trong lĩnh vực thanh toán quốc tế. Việc cung cấp thông tin, tư vấn trong nội bộ cũng như cho doanh nghiệp, cho các ngân hàng với nhau ngoài việc giúp hạn chế rủi ro trong thanh toán còn đem lại cho các ngân hàng thương mại một nguồn thu dịch vụ mới, góp phần đa dạng hoá các loại hình dịch vụ ngân hàng, thu hút khách hàng cũng như khẳng định thêm vị thế của ngân hàng trên thương trường. 3.4. Đẩy mạnh công tác tư vấn cho khách hàng Trước thực trạng kinh tế như hiện nay, thông tin đóng vai trò vô cùng quan trọng trong hoạt động kinh doanh. Các ngân hàng thương mại nói chung, ngân hàng Ngoại thương và Ngân hàng TMCP Quân đội nói riêng với vai trò là trung gian giữa người xuất khẩu và người nhập khẩu và là một chủ thể tham gia trực tiếp vào hoạt động kinh doanh ngân hàng cần tư vấn cho khách hàng một cách có hiệu quả nhất, cụ thể: * Ngân hàng thông qua việc hướng dẫn các quy định, quy chế, thủ tục, hồ sơ cho khách hàng sẽ giúp khách hàng nắm bắt nhanh và cụ thể hơn những yêu cầu về mặt thủ tục và pháp lý trong thanh toán L/C, tiết kiệm được cả thời gian, công sức và chi phí. * Ngân hàng với nguồn thông tin đa dạng và chuyên môn nghiệp vụ của mình có thể tư vấn cho khách hàng trong việc xem xét tính hiệu quả của dự án so sánh với các chỉ tiêu kinh tế của các dự án cùng loại (đặc biệt đối với các dự án có giá trị lớn), có tính đến các yếu tố thị trường trong và ngoài nước. Lợi ích của ngân hàng gắn liền với hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có hiệu quả thì mới đảm bảo khả năng thanh toán cho người bán khi đến hạn. Có thể kể ra đây một số vấn đề mà ngân hàng có thể tiến hành tư vấn cho khách hàng của mình: ă Đối với các doanh nghiệp xuất khẩu: Tư vấn cho doanh nghiệp xuất khẩu yêu cầu bên mua mở cho mình một L/C đảm bảo nhất Tư vấn cho doanh nghiệp trong việc chọn ngân hàng mở L/C và ngân hàng thanh toán. Những ngân hàng càng lớn, càng có uy tín, quan hệ tốt và thường xuyên thanh toán sòng phẳng thì việc thanh toán sẽ dễ dàng và thuận lợi hơn. Tư vấn cho doanh nghiệp cách thức đòi tiền bằng thư hay bằng điện. L/C cho phép đòi tiền bằng điện là loại có lợi hơn cả vì tiền thu được nhanh hơn, tạo điều kiện tăng nhanh vòng quay của vốn Tư vấn cho doanh nghiệp cân nhắc các điều kiện bất lợi của L/C Ngân hàng cũng nên tư vấn cho khách hàng cách giải quyết khi bộ chứng từ có sai sót ă Đối với các doanh nghiệp nhập khẩu: Tư vấn cho nhà nhập khẩu nên mở loại L/C nào Tư vấn cho doanh nghiệp trong việc đưa các điều khoản vào L/C Tư vấn cho doanh nghiệp trong việc chấp nhận các yêu cầu của bên bán khi mở L/C, sửa đổi L/C sao cho không làm tổn hại đến lợi ích của mình... Để góp phần phòng ngừa rủi ro, ngay từ ban đầu ngân hàng không chỉ làm tốt công tác thẩm định mà còn phải tư vấn cho khách hàng những nội dung nằm trong khả năng của ngân hàng ngay từ khi khách hàng ký kết các hợp đồng ngoại thương. Có nghĩa là ngân hàng không chỉ thụ động ngồi chờ khách hàng tìm đến với mình mà phải chủ động giữ mối quan hệ thường xuyên với khách hàng, hỗ trợ ngay khi khách hàng có yêu cầu. Với vốn kiến thức và kinh nghiệm về các lĩnh vực có liên quan như phương thức thanh toán, điều kiện ràng buộc, thời hạn trả nợ, lãi suất,...ngân hàng có thể tư vấn cho khách hàng, thậm chí nếu cần có thể tham gia đàm phán để có những điều khoản hợp đồng chặt chẽ hơn giảm thiểu sự bất lợi cho khách hàng Việt Nam. Đây có thể coi là một trong những biện pháp hữu hiệu để phòng ngừa rủi ro, vừa giải quyết được nhu cầu xuất - nhập khẩu hàng hoá cho các doanh nghiệp, vừa phát triển được nghiệp vụ cho bản thân ngân hàng. Chúng ta cũng đã thấy một thực tế là hiện nay các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu ở nước ta hiện nay còn có nhiều hạn chế về nghiệp vụ ngoại thương, đặc biệt trong lĩnh vực thanh toán. Do đó, đồng thời với việc tư vấn cho khách hàng thì ngân hàng cũng có thể mở các lớp tập huấn nghiệp vụ nhằm nâng cao trình độ ngoại thương cho khách hàng. Thông qua hoạt động này, trình độ nghiệp vụ ngoại thương của khách hàng được nâng cao và ngân hàng cũng tạo được mối quan hệ tốt với khách hàng. Có thể nói đây là một biện pháp phòng ngừa rủi ro khá hữu hiệu, đồng thời uy tín của ngân hàng trong con mắt của khách hàng cũng được nâng lên. 3.5. Tiếp tục đổi mới công nghệ ngân hàng Trong những năm qua, không chỉ các ngân hàng thương mại mà toàn bộ hệ thống Ngân hàng đã và đang vươn lên về mọi mặt trong đó nổi bật nhất là áp dụng công nghệ kỹ thuật cao trong kinh doanh đưa mối quan hệ giao dịch của toàn hệ thống đi trước một bước, phục vụ đắc lực mục tiêu sớm hoà nhập vào cộng đồng khu vực và thế giới. Các ngân hàng đã áp dụng phần mềm SWIFT tiên tiến phù hợp với công nghệ của các Ngân hàng đại lý ở nước ngoài. Với phương châm đổi mới và áp dụng công nghệ vào hoạt động ngân hàng để nâng cao chất lượng phục vụ, nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý qua đó tăng sức cạnh tranh, từ nhiều năm nay, các ngân hàng thương mại Việt Nam đã đầu tư một số vốn rất đáng kể cho việc nâng cấp trang thiết bị máy móc, cải tiến và nâng cấp chương trình tin học chuẩn hoá đáp ứng yêu cầu hoạt động của các ngân hàng thương mại hiện đại. Những kỹ thuật tiên tiến này đã giúp cho hoạt động thanh toán quốc tế của ngân hàng hoạt động ngày càng hiệu quả hơn. Tuy nhiên, việc đầu tư cho công nghệ như vậy vẫn mới ở mức ban đầu so với quốc tế. Do vậy, trong những năm tới, các NHTM cần tiếp tục đầu tư vào việc đổi mới công nghệ nhằm đáp ứng các yêu cầu phát triển không ngừng của hoạt động ngân hàng nói chung, hoạt động thanh toán quốc tế nói riêng. 4. Một số kiến nghị nhằm hạn chế rủi ro trong thanh toán tín dụng chứng từ và đẩy mạnh hoạt động thanh toán quốc tế tại các NHTM Việt Nam 4.1. Một số kiến nghị đối với Nhà nước Với chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vai trò điều tiết vĩ mô nền kinh tế của nhà nước ngày càng được khẳng định. Xu hướng hội nhập vào nền kinh tế thế giới đem lại một cơ hội lớn cho sự phát triển của mỗi quốc gia nhưng đồng thời cũng là một thách thức lớn đối với khả năng tồn tại và phát triển của quốc gia đó. Các chính sách kinh tế của Nhà nước có tác động trực tiếp đến hoạt động sản xuất kinh doanh của mọi tổ chức, cá nhân trong nước, đặc biệt là trong lĩnh vực xuất nhập khẩu, từ đó tác động mạnh mẽ đến hoạt động thanh toán quốc tế của các ngân hàng. Xuất phát từ thực tế đó, thanh toán xuất nhập khẩu nói chung, tín dụng chứng từ nói riêng rất cần đến những chính sách thích hợp, phù hợp với mục tiêu của từng thời kỳ để hoạt động ngày càng được mở rộng và ngày càng phát triển, đồng thời phòng tránh được những rủi ro có thể xảy ra cho các đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu và ngân hàng. Thứ nhất, cần tạo hành lang pháp lý đồng bộ cho hoạt động thanh toán tín dụng chứng từ của toàn Hệ thống NHTM Một trong những nguyên nhân dẫn đến rủi ro pháp lý trong giao dịch tín dụng chứng từ là sự thiếu vắng các văn bản pháp luật điều chỉnh quan hệ giữa các bên trong quy trình thanh toán. ở Việt Nam hiện nay, ngoài UCP.500 và một số thông lệ quốc tế khác, ta không có một luật hay văn bản dưới luật nào điều chỉnh mối quan hệ pháp lý giữa giao dịch hợp đồng ngoại thương của người mua và người bán với giao dịch tín dụng chứng từ của ngân hàng. Khi có tranh chấp thương mại quốc tế xảy ra, Trọng tài quốc tế có thể ra phán quyết đối với quan hệ hai bên mua bán mà không đề cập đến quan hệ thanh toán giữa các ngân hàng. Như vậy chỉ áp dụng UCP500 vào giao dịch tín dụng chứng từ là chưa đủ với các ngân hàng Việt Nam khi có phát sinh tranh chấp. Chính phủ cần sớm ban hành những văn bản pháp lý điều chỉnh mối quan hệ giữa hợp đồng ngoại thương và hoạt động thanh toán tín dụng chứng từ, nêu lên nghĩa vụ, quyền hạn của các bên tham gia vào quan hệ tín dụng chứng từ: nhà nhập khẩu, nhà xuất khẩu và các ngân hàng trung gian. Trước hết nên đề cập đến một số vấn đề sau: v Quyền được miễn thanh toán của ngân hàng mở khi quan hệ giao nhận bị trọng tài tuyên án huỷ bỏ. v Quyền được nhận hàng của ngân hàng mở khi người thế chấp lô hàng bị mất khả năng thanh toán. v Quyền được bảo lưu số tiền chiết khấu của ngân hàng trong quan hệ mua bán đứt đoạn. Cần phải có quy chế chiết khấu hối phiếu lập theo thư tín dụng cụ thể hoá luật quốc tế làm cơ sở giải quyết tranh chấp giữa ngân hàng chiết khấu và doanh nghiệp xuất khẩu. v Cần tạo hành lang pháp lý cho giao dịch giữa ngân hàng và khách hàng trong quan hệ tín dụng chứng từ. Cho đến nay, hầu hết các khách hàng đến ngân hàng yêu cầu mở L/C đều không có văn bản pháp lý có tính chất hợp đồng được thoả thuận bằng văn bản. Ngay như ở Ngân hàng Ngoại thương chỉ có các loại giấy tờ như: đơn yêu cầu mở L/C, giấy cam kết thanh toán, đơn xin bảo lãnh nhận hàng và ký hậu vận đơn, thông báo thư tín dụng, đơn xin chiết khấu chứng từ... Các chứng từ này chỉ đơn giản là các giao dịch ngân hàng, không thể hiện được tính pháp lý và ràng buộc giữa hai bên nên gây khó khăn cho toà án khi xét xử tranh chấp. Thứ hai, cần có chính sách khuyến khích và kiểm soát hoạt động xuất nhập khẩu. Để thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu, Nhà nước cần tăng cường hiệu lực các văn bản và thủ tục xuất nhập khẩu. Cần có quy chế bắt buộc đối với các doanh nghiệp phải có đủ điều kiện về tài chính, trình độ quản lý, phương hướng phát triển kinh doanh... thì mới cấp giấy phép xuất nhập khẩu trực tiếp (trở thành các bên tham gia vào quan hệ tín dụng chứng từ). Thực tế cho thấy, thực lực tài chính của các doanh nghiệp nước ta hiện nay vẫn còn yếu, hoạt động kinh doanh chủ yếu bằng vốn vay ngân hàng. Nếu kinh doanh thua lỗ sẽ trực tiếp có ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng, uy tín thanh toán đối với ngân hàng. Theo thống kê gần đây, cả nước hiện có khoảng 34.000 doanh nghiệp với mức vốn bình quân của mỗi doanh nghiệp khoảng 2,7 tỷ đồng. Riêng khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ, mức vốn bình quân càng thấp, khoảng 165 triệu đồng. Do vậy, trước mắt Chính phủ cần rà soát lại các đơn vị, tổ chức kinh tế không đủ điều kiện tham gia hoạt động xuất nhập khẩu trực tiếp thì chuyển sang uỷ thác xuất khẩu, tránh những rủi ro có thể xảy ra. Bên cạnh đó, các thể chế, thủ tục xuất nhập khẩu cần phải tạo nên sự cân bằng giữa khuyến khích và kiểm soát xuất nhập khẩu. Hiện nay một số chủ trương khuyến khích xuất khẩu của Nhà nước đang tạo lợi thế cho doanh nghiệp này nhưng lại bất lợi đối với doanh nghiệp khác làm mất cân đối giữa cung và cầu gây nên tồn đọng một số loại vật tư gây lãng phí và kém hiệu quả. Tình trạng nhập khẩu tràn lan làm cho sản xuất và tiêu thụ hàng hoá bị đình trệ, hàng hoá trong nước sản xuất ra không tiêu thụ được. Điều đó có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của nền kinh tế nói chung, hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu nói riêng. Thứ ba, cần tăng cường chất lượng hoạt động của trung tâm thông tin tín dụng Ngân hàng Nhà nước (CIC). Việc thu thập, phân tích, xử lý kịp thời và chính xác các thông tin về tình hình tài chính, quan hệ tín dụng, khả năng thanh toán, tư cách pháp nhân của các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài là vô cùng quan trọng. Để công tác thông tin phòng ngừa rủi ro đạt hiệu quả cao, cần tăng cường trang bị các phương tiện thông tin hiện đại cho trung tâm. Đồng thời cũng nên có cơ chế khuyến khích và bắt buộc đối với các tổ chức tín dụng về việc cung cấp thường xuyên các thông tin về tình hình dư nợ của doanh nghiệp tại tổ chức tín dụng... 4.2. Một số kiến nghị đối với các đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu: Rủi ro trong thanh toán quốc tế một phần là do những nguyên nhân chủ quan từ phía các đơn vị kinh doanh XNK. Chính những yếu kém về nghiệp vụ đã khiến họ là người phải gánh chịu những thiệt hại nặng nề nhất. Vì vậy, những biện pháp hữu hiệu nhằm ngăn ngừa rủi ro và đẩy mạnh hoạt động thanh toán XNK không thể không xuất phát từ phía các khách hàng. Hiện nay có rất nhiều các đơn vị tham gia hoạt động XNK nhưng có không ít các giám đốc của các đơn vị này lại chưa sử dụng thành thạo ngoại ngữ do vậy khi đàm phán ký kết hợp đồng với bạn hàng phải qua phiên dịch. Bên cạnh đó trình độ của cán bộ cũng chưa đáp ứng được yêu cầu của thương mại quốc tế. Như vậy, việc nâng cao trình độ nghiệp vụ ngoại thương và nghiệp vụ thanh toán quốc tế trong các đơn vị kinh doanh XNK hiện nay mang tính cấp thiết. Cụ thể phải chú trọng những vấn đề sau: Các đơn vị khi tham gia XNK phải có cán bộ chuyên trách về XNK. Các cán bộ này phải qua đào tạo nghiệp vụ ngoại thương, am hiểu luật pháp trong thương mại quốc tế và thanh toán quốc tế, có năng lực trong công tác và đặc biệt phải có phẩm chất trung thực trong kinh doanh. Kiên quyết bài trừ tư tưởng làm ăn kiểu chụp giựt, lừa đảo. Trong kinh doanh, trung thực là yếu tố quan trọng hàng đầu đảm bảo duy trì quan hệ làm ăn lâu dài với các bạn hàng và do đó nó cũng chính là cơ sở cho sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Trong quan hệ thanh toán với Ngân hàng, các doanh nghiệp cần giữ vững chữ tín, thực hiện cam kết với Ngân hàng. Phải luôn giữ quan hệ chặt chẽ với Ngân hàng, thực hiện đúng các chỉ dẫn của về các điều khoản của L/C. Khi có tranh chấp, doanh nghiệp cần thông báo ngay cho Ngân hàng và phối hợp với Ngân hàng để tìm ra nguyên nhân, giải pháp khắc phục chứ không nên quy trách nhiệm cho ngân hàng. Đối với các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu, khi lập bộ chứng từ thanh toán cần phải chú ý đến những đặc điểm của từng loại chứng từ, nhất là những chi tiết dễ bị sai sót và xuất trình bộ chứng từ theo đúng thoả thuận. Đối với doanh nghiệp nhập khẩu, khi chấp nhận bộ chứng từ để thanh toán tiền hàng cần kiểm tra hàng và/hoặc bộ chứng từ cẩn thận để tránh xảy ra tranh chấp về hàng hoá sau này đặc biệt là trong trường hợp do nhu cầu cấp thiết về hàng hoấ nên đã chấp nhận mọi điều kiện của chứng từ để ngân hàng bảo lãnh cho nhận hàng trước khi chứng từ tới. Các doanh nghiệp khi tham gia vào hoạt động thương mại quốc tế phải lường trước được những bất lợi khi có tranh chấp xảy ra và bị khởi kiện ở nước ngoài. Trong trường hợp bị khởi kiện ở nước ngoài, do khả năng về tài chính và nghiệp vụ có hạn nên phía Việt Nam ít thành công trong các phiên toà quốc tế. Do vậy, khi được quyền chọn toà xử án khi có tranh chấp nên chọn Trọng tài xét xử trong nước (Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam) để tránh những rủi ro trên. Như vậy, chỉ khi các doanh nghiệp tham gia thương mại quốc tế thực hiện đúng các điều kiện trên thì công tác thanh toán qua Ngân hàng mới nhanh chóng thuận tiện và hoạt động XNK của đơn vị mới có hiệu quả. 4.3. Một số kiến nghị cụ thể về nghiệp vụ: Quy trình thanh toán là nhân tố trực tiếp tác động đến thanh toán tín dụng chứng từ. Bất kỳ một sai sót dù nhỏ trong quá trình thực hiện quy trình cũng có khả năng dẫn đến rủi ro trong thanh toán. Đối với các NHTM, rủi ro không chỉ là những gì đã xảy ra mà còn là những gì đang tiềm ẩn cần tiếp tục được phân tích, nghiên cứu để tìm ra biện pháp ngăn ngừa thích hợp. Hoàn thiện quy trình thanh toán tín dụng chứng từ là biện pháp ngăn ngừa mang tính chất trực tiếp và sát thực nhất so với các biện pháp đã được đề ra. ă Hoàn thiện quy trình thanh toán L/C hàng nhập: Định mức ký quỹ một cách hợp lý Định mức ký quỹ một cách hợp lý sẽ giúp cho ngân hàng mở tránh được rủi ro về tỷ giá. Định mức ký quỹ là một việc làm không đơn giản bởi lẽ mức ký quỹ quá cao sẽ gây khó khăn cho nhà nhập khẩu, nhà nhập khẩu sẽ sẵn sàng từ bỏ ngân hàng chuyển sang quan hệ với các ngân hàng khác chấp nhận mức ký quỹ thấp hơn. Trong trường hợp ngược lại, nếu mức ký quỹ quá thấp sẽ không đảm bảo thực hiện cam kết của khách hàng. Vì vậy, theo em khi xác nhận định mức ký quỹ Ngân hàng cần dựa vào những yếu tố sau đây: * Uy tín và khả năng thanh toán của nhà nhập khẩu. Nếu đơn vị nhập khẩu là khách hàng quan hệ lâu năm, có uy tín thanh toán đối với ngân hàng thì có thể định mức ký quỹ thấp. Ngược lại nếu khách hàng lần đầu tiên đến quan hệ mở L/C thì phải yêu cầu ký quỹ cao, có thể lên đến 100% trị giá thanh toán hoặc phải có tài sản bảo đảm hay tìm người bảo lãnh. * Hiệu quả kinh tế của lô hàng nhập về: định mức ký quỹ phải cao hơn tỷ suất lợi nhuận mà lô hàng mang lại bởi vì trong trường hợp nhà nhập khẩu thế chấp bằng cả lô hàng không có khả năng thanh toán cho ngân hàng mở thì ngân hàng sẽ được quyền định đoạt đối với hàng hoá. Giá chuyển nhượng phải bảo đảm cho ngân hàng thanh toán với nước ngoài. * Tỷ lệ trượt giá của đồng tiền: trong thời kỳ tỷ giá biến động mạnh, ngân hàng phải điều chỉnh tỷ lệ ký quỹ để tránh rủi ro về tỷ giá. Tỷ lệ điều chỉnh phải tương ứng với tỷ lệ trượt giá của đồng tiền trong thời gian tới. Cân nhắc các điều kiện đảm bảo thanh toán Trường hợp thường xuyên xảy ra ở các Ngân hàng trong thương mại quốc tế là khi hàng hoá đến trước bộ chứng từ. Nếu để quá thời gian ân hạn nhà nhập khẩu sẽ phải chịu thêm phí lưu kho nên họ thường xuyên yêu cầu ngân hàng cho phép 1/3 bộ chứng từ được gửi trực tiếp đến người mở và 2/3 bộ chứng từ còn lại gửi qua ngân hàng mở. Trong trường hợp này, nếu chấp nhận điều kiện đó thì nhất thiết vận đơn phải theo lệnh của ngân hàng mở thông qua hình thức ký hậu. Nếu nhà nhập khẩu yêu cầu vận đơn theo lệnh của nhà nhập khẩu thì phải có biện pháp quản lý chặt chẽ tài khoản tiền gửi và tài khoản tiền vay của khách hàng. Xem xét các điều kiện đòi tiền: Đòi tiền bằng điện là hình thức trong đó bảo lưu quyền đòi lại. Nghĩa là sau khi đã chuyển tiền bằng điện thanh toán cho người bán, nếu bộ chứng từ có lỗi và nhà nhập khẩu từ chối thanh toán thì ngân hàng mở có quyền đòi nhà xuất khẩu hoàn tiền lại. Nhưng trong thực tế khả năng hoàn tiền lại của nhà xuất khẩu là rất khó, còn tuỳ thuộc vào thiện chí của họ và khó tránh khỏi những tranh chấp xảy ra. Vì vậy trước khi quyết định mở một L/C cho phép đòi tiền bằng điện, Ngân hàng phải nghiên cứu kỹ lưỡng khả năng thanh toán của nhà nhập khẩu. ăHoàn thiện quy trình L/C hàng xuất: Ngân hàng thông báo sau khi nhận được L/C bằng điện (Telex, Swift) không đầy đủ và không rõ ràng có thể tính sai mã test hoặc không xác định được mẫu điện. Trong trường hợp này ngân hàng thông báo phải yêu cầu ngân hàng mở mở lại thư tín dụng đó hoặc cung cấp mã test chính xác nhằm phòng ngừa gặp phải thư tín dụng giả. Ngoài tư cách là ngân hàng cung ứng dịch vụ thu phí, ngân hàng thông báo còn có thể được yêu cầu xác nhận thư tín dụng. Trong trường hợp này ngân hàng xác nhận sẽ phải gánh chịu rủi ro cùng ngân hàng mở. Nghiệp vụ này thường chỉ được thực hiện với những ngân hàng mở được cấp tín dụng hoặc có uy tín. Tuy nhiên vẫn có thể xác nhận đối với các ngân hàng mở không phải là khách hàng quen thuộc nhưng phải nghiên cứu kỹ khách hàng và yêu cầu được chiết khấu bộ chứng từ nhằm phòng tránh khả năng bộ chứng từ bị từ chối thanh toán. Khi quyết định chiết khấu bộ chứng từ, ngân hàng thương mại cần: Nghiên cứu tình hình kinh tế-chính trị của nước nhà nhập khẩu. Xem xét khả năng thanh toán của nhà xuất khẩu, ngân hàng mở và nhà nhập khẩu. Ví dụ như đối với những quốc gia tình hình tài chính không ổn định, khủng hoảng kinh tế có thể dẫn đến hàng loạt các tổ chức tài chính, tín dụng bị đóng cửa. Với những thư tín dụng được mở ở ngân hàng những nước này ngân hàng không nên chiết khấu bộ chứng từ vì rủi ro cao. Trong quy chế thanh toán của các Ngân hàng đều quy định việc chiết khấu truy đòi và miễn truy đòi với các bộ chứng từ hoàn hảo. Nhưng cho tới nay, chính Ngân hàng ngoại thương là một Ngân hàng đứng đầu trong nghiệp vụ thanh toán quốc tế mà vẫn chưa thực hiện nghiệp vụ chiết khấu chứng từ theo kiểu “mua đứt bán đoạn” như nhiều Ngân hàng lớn trên thế giới. Quy định này đảm bảo cho sự an toàn của Ngân hàng nhưng lại không có tín cạnh tranh cao. Chính vì vậy theo em đây là sẽ là một nghiệp vụ mang lại lợi nhuận nếu Ngân hàng có thể thẩm định tốt các vấn đề liên quan đến việc chiết khấu bộ chứng từ này. Trong điều kiện cạnh tranh mạnh mẽ như hiện nay, các Ngân hàng muốn tồn tại và phát triển trước hết phải khắc phục được những hạn chế trên, cung cấp dịch vụ thanh toán hoàn hảo cho khách hàng trong đó đặc biệt cần chú trọng đến thực hiện đầy đủ nghiệp vụ của phương thức tín dụng chứng từ. Để trống một mảng dịch vụ nào cũng đồng nghĩa với việc Ngân hàng tạo điều kiện cho các đối thủ của mình giành chiến thắng trong cuộc cạnh tranh này. Kết luận Trong những năm qua, với việc mở rộng giao lưu hợp tác khu vực và trên thế giới, nền kinh tế nước ta đã đạt được những kết quả đáng khích lệ trong đó phải kể đến là lĩnh vực thanh toán quốc tế. Kim ngạch xuất nhập khẩu tăng mạnh qua các năm, nền kinh tế dần được cải thiện và phát triển. Đạt được kết quả đó phải kể đến sự đóng góp quan trọng của các ngân hàng thương mại với tư cách là trung gian thanh toán quốc tế, với phương thức thanh toán chủ yếu là tín dụng chứng từ, các ngân hàng đã giúp cho hoạt động thanh toán quốc tế diễn ra nhanh chóng, liên tục và đạt hiệu quả cao. Trong những năm gần đây, các Ngân hàng thương mại Việt Nam với hai đại diện là Ngân hàng Ngoại Thương và Ngân hàng thương mại cổ phần Quân đội đã không ngừng đổi mới các nghiệp vụ thanh toán quốc tế cho phù hợp với những yêu cầu của khách hàng. Bằng uy tín, nguồn vốn và kinh nghiệm dày dạn của mình trong hoạt động thanh toán quốc tế, đặc biệt trong công tác thanh toán tín dụng chứng từ, ngân hàng đã thực sự trở thành người hỗ trợ đắc lực cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, góp phần không nhỏ thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu và sản xuất hàng xuất khẩu của cả nước theo định hướng của Nhà nước. Song trước ngưỡng cửa của sự đổi mới, trước những biến đổi liên tục và mạnh mẽ của môi trường kinh tế, pháp luật, các ngân hàng thương mại Việt Nam đang phải đối mặt với không ít khó khăn, trở ngại trong nghiệp vụ thanh toán tín dụng chứng từ. Mặc dù các ngân hàng đã có những nỗ lực không ngừng trong việc nâng cao chất lượng công tác thanh toán tín dụng chứng từ, nhưng những rủi ro trong thanh toán tín dụng chứng từ vẫn là mối đe doạ thường xuyên đối với hoạt động của ngân hàng và của khách hàng. Trước thực tế đó, các ngân hàng thương mại Việt Nam cần tiếp tục cố gắng hơn nữa trong việc phòng ngừa và hạn chế rủi ro trong thanh toán tín dụng chứng từ, giải quyết những vướng mắc còn tồn đọng nhằm phát huy thế mạnh trong hoạt động kinh doanh đối ngoại, nâng cao vị thế của ngành ngân hàng trên trường quốc tế. Hy vọng rằng những ý kiến trong bản luận văn sẽ được góp một phần nhỏ vào việc phòng ngừa và hạn chế rủi ro trong thanh toán tín dụng chứng từ của các ngân hàng thương mại Việt Nam, để đưa phương thức này thực sự trở thành phương thức thanh toán nhanh chóng, thuận tiện, an toàn và đạt hiệu quả cao. Một lần nữa em xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc tới thầy giáo PGS-TS Nguyễn Đức Dỵ - người đã tận tình hướng dẫn chỉ bảo em hoàn thành luận văn này. Đồng thời em xin bày tỏ lòng biết ơn của mình tới các thầy cô giáo trong khoa Kinh tế Ngoại Thương – trường Đại học Ngoại Thương đã dạy dỗ và giúp đỡ em trong những năm học tập vừa qua. Hà Nội, tháng 12 năm 2002 Sinh viên Trần Thị Minh Hương. Tài liệu tham khảo Giáo trình thanh toán quốc tế trong Ngoại thương PGS Đinh Xuân Trình, NXB Giáo dục, Trường Đại học Ngoại thương Hà Nội - 1998 Ngân hàng thương mại GS. TS. Lê Văn Tư - Lê Tùng Vân - Lê Nam Hải, NXB Thống kê - 2000 Tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu thanh toán quốc tế và kinh doanh ngoại tệ GS. TS. Lê Văn Tư - Lê Tùng Vân, NXB Thống kê - 2000 Tiền tệ ngân hàng và thị trường tài chính Frederic S.Mishkin, NXB khoa học và kỹ thuật - 1999 The Uniform customs and practice for documentary credit (1993 revision ICC publication No-500) Luật các tổ chức tín dụng NXB Hành chính quốc gia -1998 7. Quy định chung về quy trình nghiệp vụ thanh toán xuất, nhập khẩu và chuyển tiền của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam 8. Báo cáo thường niên của Ngân hàng Ngoại thương năm 1997 - 2001 9. Báo cáo tình hình thanh toán xuất nhập khẩu năm 1997 - 2001 của Phòng thanh toán Xuất khẩu - Nhập khẩu Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam 10. Báo cáo phòng thanh toán xuất nhập khẩu Ngân hàng thương mại cổ phần Quân đội năm 1999,2000,2001. 11. Một số báo, tạp chí: - Tạp chí Ngân hàng - Tạp chí Thị trường tài chính - Tạp chí Ngân hàng Ngoại thương - Thời báo Kinh tế Việt Nam - Tạp chí Thương mại, Kinh tế phát triển 12. Những tình huống đặc biệt trong thanh toán quốc tế – Phòng thương mại quốc tế – 1995 13. Phân tích các tình huống trong giao dịch tín dụng chứng từ Nhà xuất bản thống kê - 1998 14. Nghiệp vụ Ngân hàng hiện đại David Cox – NXB Chính trị quốc gia - 1997 Bảng 10: Tốc độ phát triển thanh toán quốc tế của NHTMCP Quân đội Đơn vị: 1000 USD Phương thức Thanh toán Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 Số tiền Số tiền % Tăng/giảm 2000/1999 Số tiền %Tăng/giảm 2000/1999 Chuyển tiền 41.370 41.925 1,34 42.510 1,40 Nhờ thu 3.980 22.575 467,21 22.890 1,40 L/C xuất 48.334 81.500 68,62 84.401 3,56 Tổng thu 93.684 146.000 55,84 149.801 2,60 Nguồn: Báo cáo ngân hàng năm 1999,2000,2001 của phòng thanh toán quốc tế Tỷ trọng các phương thức thanh toán XNK qua VCB Nguồn: Báo cáo thường niên ngân hàng 1999-2001 Tỷ trọng thanh toán quốc tế tại NHTMCP Quân đội Nguồn: Báo cáo ngân hàng năm 1999,2000,2001 của phòng thanh toán quốc tế Mục lục Trang

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc190.doc
  • docBia Huong (NT).doc
Tài liệu liên quan