Đề tài Giải pháp hoàn thiện và phát triển thị trường tài chính ở Việt Nam hiện nay

“Thị trường tài chính” vẫn còn là một vấn đề còn khá mới mẻ cho một nền kinh tế 20 năm mở cửa đổi mới, song bước đầu TTTC ở Việt Nam đã có bước hình thành và chuyển biến mạnh mẽ, góp phần đắc lực vào công cuộc công nghiệp hóa-hiện đại hóa. Khẳng định vai trò to lớn của TTTC không chỉ là huy động mọi nguồn lực xã hội và công cuộc phát triển đất nước mà còn nâng cao hiệu quả nền kinh tế, điều hòa hoạt động kinh tế vĩ mô và mở cửa hội nhập khu vực quốc tế là một tất yếu khách quan; đó là điều mà Đảng và Nhà nước đã kịp thời nhìn nhận, đánh giá kịp thời và đang từng bước xây dựng, phát triển hoàn thiện TTTC ở Việt Nam.Chúng ta đang ở vào thế kỷ XXI với nhiều khó khăn , thách thức lẫn trách nhiệm nặng nề. Muốn nâng cao và phát huy được nội lực trong nền kinh tế cũng như thu hút tối đa nguồn lực đầu tư nước ngoài, hơn bao giờ hết xây dựng một TTTC phát triển , ổn định, lành mạnh và hoàn thiện là yêu cầu cất bách hiện nay. Điều quan trọng nhất để có được một TTTC theo đúng nghĩa của nó chính là lòng tin của dân chúng, của các nhà đầu tư trong và ngoài nước và sự an toàn, lành mạnh, hấp dẫn của nền kinh tế thị trường.Yếu tố này chỉ có thể có được trong một môi trường kinh tế xã hội ổn định, một môi trường đã được đảm bảo bằng pháp lý với cơ sở hạ tầng kinh tế phát triển. Nhà nước là trọng tài trung tâm của nền kinh tế cần phát huy đúng vai trò kinh tế của mình, hài hòa giữa quản lý kinh tế và quản lý hành chính, tạo cho đất nước một thế và lực mới với những cơ hội lớn lao bước vào thế kỷ XXI.

doc66 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1761 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp hoàn thiện và phát triển thị trường tài chính ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iá lên tới 4,5 tỉ USD. Liệu rằng sau này hợp đồng giá cổ phiếu, trái phiếu của công ty này có tăng lên không? Theo các chuyên gia kinh tế thì để hấp thụ được một đồng vốn của đầu tư nước ngoài thì nước sở tại cần phải có từ 1 đến 2 đồng tương ứng. Như vậy là nảy sinh nhu cầu nguồn vốn lớn trong nước để hấp thụ dòng đầu tư này, cho nên cung về trái khoán sẽ tăng làm tăng lãi suất theo lý thuyết trên. Thị trường tài chính cũng chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của yếu tố tâm lý. Mặc dù theo lý thuyết kinh tế thì mọi thứ đều đáng nhưng yếu tố tâm lý nhiều khi lại đi ngược với dự đoán. Trong lúc giá trái khoán đang xuống dốc thì có nhà đầu tư vẫn tung tiền thu gom về bất chấp những lời tiên đoán có khủng hoảng kinh tế. Các yếu tố tâm lý cũng chịu ảnh hưởng bởi nhân tố chính trị. Sau khi Thái Lan xảy ra đảo chính tháng 9/2006. Nền kinh tế đã lâm vào suy thoái, đồng Bạt liên tục mất giá. Trên thị trường tài chính nhiều khi chỉ một lời tuyên bố của những người có tên tuổi cũng ảnh hưởng tới lãi suất của các hàng hoá của nó. Cơn khủng hoảng tài chính tiền tệ ở Đông Nam Á 1997-1999 đã gây chấn động các thị trường tài chính trên toàn thế giới thậm chí làm sụt cả chỉ số Dove - Jone và thị trường chứng khoán New york phải ngừng giao dịch trong 30 phút. Trước tình hình đó vào ngày 29 - 10 - 97. Tổng thống Mỹ Bill lintơn đã xuất hiện trên thị trường chấn an các nhà đầu tư bằng các thông báo rằng nền kinh tế Hoa kỳ đang trong giai đoạn phát triển, thất nghiệp đang ở mức thấp và hệ thống ngân hàng vững mạnh, ngay sau lời tuyên bố các thị trường chứng khoán trên thế giới như được hồi phục chỉ số Dove - Jone tăng 4,7%, Heng Shang (HongKong) tăng 18,7%, Franfurt (Đức) tăng 3,5%. Như vậy, yếu tố chính trị xã hội là nhân tố gián tiếp ảnh hưởng đến lãi suất của các công cụ tài chính trên thị trường. Tình hình chung của các công ty : Theo các phân tích trên đó thì chỉ là các nhân tố chung ảnh hưởng đến lãi xuất của các công cụ tài chính. Nhưng lãi xuất cụ thể của công cụ phát hành của một công ty không hoàn toàn phụ thuộc vào những nhân tố trên. Với những đầu tư nhỏ thì tình hình của công ty là nhân tố quyết định xem có đem của cải của mình ra mua các hàng hoá được công ty phát hành không. Trước khi quyết định đầu tư thì người mua phải cân nhắc và xem xét tình hình làm ăn kinh doanh của công ty có phát đạt hay không? có tương lai sáng sủa hay không? có lẽ là người ta sẽ không ngần ngại lắm khi quyết định đầu tư mua cổ phiếu hay trái phiếu của công ty do GEROGE-SOROS người bị tình nghi dính líu đến cơn khủng khoảng tài chính tiền tệ ở châu áđiều hành khi đưọc nghe dẫn chứng về biện tài kinh doanh của ong ta" nếu ai đó đã đầu tư 100 ngàn USDvào năm 1989 khi SOROS thành lập quỹ định lượng và đầu tư trực tiếp vào đó các phần lãi được chia của mình thì người đó sẽ thu được cả thay khoảng130 triệu USDvào năm 1994 vì vậy khi biết những tin tốt lành về công ty người ta sẽ tìm mua những cổ phiếu trái phiếu của công ty làm cho cầu về những trái khoán của công ty phát hành tăng lên. Do vậy, đứng dưới góc độ vi mô thì công ty mới là yếu tố chủ yếu quyết định đến thái độ của nhà đầu tư. Ngày nay cùng với tiến bộ của khoa học kỹ thuật mỗi phát minh có thể cho ra đời một ngành mới vậy các công ty đang hoạt động trên hàng ngàn lĩnh vực cho nên mỗi công ty ngoài những đặc trưng riêng của nói còn mang đặc trưng của lĩnh vực mà nó hoạt động. Do đó các loại hình, qui mô của các công ty là muôn hình muôn vẻ tồn tại, hợp tác và cạnh tranh lẫn nhau. Để đáp ứng lại các tín hiệu thị trường mỗi công ty có phản ứng khác nhau, có các chiến lược kinh doanh khác nhau. Vì vậy cho nên nhu cầu về vốn tại mỗi thời điểm của công ty cũng không giống nhau. Nếu xét theo những tiêu thức này thì lãi suất quy mô nhỏ từng công ty phát hành cũng diễn biến không ngừng. Chương 2 Thực trạng thị trường Tài chính ở Việt Nam hiện nay 2.1 Quá trình phát triển của thị trường Tài chính Việt Nam : Giai đoạn 1986 – 1997 Đại hội Đảng VI đã đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong công cuộc đổi mới phát triển kinh tế xã hội của đất nước.Trong những năm sau đó , nền kinh tế VN đã đạt tốc độ tăng trưởng cao và ổn định, mức tăng trưởng GDP bình quân giai đoạn 1986-1997 đạt 8-9%, lạm phát kìm chế ở mức thấp, đời sống của nhân dân không ngừng được cải thiện. TTTC Việt Nam được hình thành trong thời kỳ đổi mới, ngày càng gia tăng về quy mô; đồng bộ về cơ cấu, hiện đại hơn về công nghệ, nghiệp vụ và cũng ngày càng khẳng định đậm nét hơn vị thế không thể thiếu được trong tổng thể nền kinh tế thị trường, đặc biệt trong tạo động lực định hướng và thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, cả hiện tại lẫn tương lai... Giai đoạn 1998 – 2006 Khủng hoảng kinh tế ở khu vực châu á xảy ra , các nước như Thái Lan , Philippines , Malaysia , Indonesia và Hàn Quốc.Nguyên nhân là sự rút vốn hàng loạt của các công ty đa quốc gia , các quốc gia thiếu dự trữ ngoại tệ cùng các chính sách kinh tế quá cũ, v.v… đã gây ảnh hưởng xấu đến tốc độ phát triển của kinh tế Việt Nam.Các công cụ tài chính lỗi thời , lạc hậu cùng sự kiểm soát vốn đầu tư nước ngoài cũ bị thay thế , sửa đổi , bổ sung cho phù hợp với tình hình mới.Kinh tế Việt Nam liên tục tăng trưởng với tốc độ cao 7-8% năm .Đồng thời với sự góp mặt của thị trường CK , sự gia tăng hoạt động mạnh mẽ trong lĩnh vực kinh doanh vốn của các ngân hàng TM , luồng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng cùng sự nóng lên của thị trường BĐS đã góp phần giúp nền kinh tế Việt Nam khởi sắc và bùng nổ. Giai đoạn 2007 – nay Sau 1 thời gian dài tăng trưởng liên tục và nóng , từ đầu năm 2008 đến trung tuần tháng 6 , sự tụt dốc không phanh của thị trường CK ,sự mất giá của VND cùng sự tăng giá của USD và vàng , sự nguội lạnh đến đóng băng của thị trường nhà đất đã thực sự ảnh hưởng nặng nề đến kinh tế Việt Nam.Ngay lập tức NHTW Việt Nam cùng các NHTM đã tăng lãi suất để kiềm chế lạm phát , kết hợp các chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước đã có hiệu quả.Chỉ số giá tiêu dùng những tháng đầu năm 2008 cao từ 15-20%/tháng thì đến giữa năm đã giảm chỉ còn 4-5%/tháng.Nhưng đồng thời trên thế giới , cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới lại xảy ra đúng vào lúc nhân dân ta đang chống chịu với đà lạm phát.Giá dầu giảm , các công ty bảo hiểm và ngân hàng lớn của thế giới đồng loạt phá sản , các công ty đa quốc gia rút vốn , cắt giảm nhân lực v.v… gây ra đà giảm phát lớn chưa từng có trong lịch sử , đẩy hàng triệu người mất việc , các công ty lâm vào cảnh kinh doanh khó khăn , giá cả đắt đỏ ,v.v…Trong tình hình đó Nhà nước Việt Nam đã kịp thời sửa đổi các chính sách tiền tệ và công cụ tài chính hiện hành để phù hợp với cuộc chiến chống khủng hoảng kinh tế thế giới và đà lạm phát trong nước. 2.2 Thực trạng thị trường Tài chính Việt Nam : 2.2.1 Về các công cụ của thị trường : - Trái phiếu kho bạc ( tín phiếu kho bạc ) Được phát hành từng đợt , cách nhau nhiều năm , với lãi suất cao hơn lãi suất thị trường tại thời điểm phát hành , với thời hạn từ 5-10 năm , nhằm huy động vốn cho các công trình trọng điểm của nhà nước , tuy nhiên cách phát hành còn khép kín khiến cho việc huy động hiệu quả ko được cao. - Kỳ phiếu ngân hàng Được các NHTM hiện nay tập trung phát triển với tầm vóc và quy mô ngày càng lớn , được xem là 1 kênh huy động vốn hiệu quả và nhanh như tiền gửi ngân hàng. - Tiền gửi ngân hàng Là kênh huy động vốn chính của các NHTM hiện nay , với đặc điểm lãi suất thay đổi liên tục , được sự bảo hộ lớn từ NHTW nên tiền gửi ngân hàng được xem là 1 kênh đầu tư an toàn nhưng kém hiệu quả trong thời điểm hiện tại khi tình hình lạm phát vẫn còn có xu hướng quay trở lại. - Cổ phiếu Là 1 kênh đầu tư vốn mới , khi TTCK được thành lập năm 2001 , cổ phiếu được biết đến như là 1 kênh đầu tư vốn của các đại gia lắm tiền nhiều của .Nhưng sau đợt bùng phát TTCK từ năm 2006-2007 , TTCK ngày càng được xem như 1 kênh huy động vốn quan trọng và hiệu quả cho nền kinh tế khi quy mô và số lượng các mã CK được lên sang và số lượng tiền gd ngày 1 lớn hơn.Tuy nhiên , nhận thức được đây là 1 thị trường đẩy rủi ro nên Nhà nước Việt Nam đã có những chính sách quản lý hiệu quả. - Các công cụ tài chính khác Việt Nam hiện nay ngoài các công cụ tài chính trên thì chưa có nhiều ứng dụng các công cụ tài chính.Tuy nhiên công cụ tài chính phái sinh nổi lên được xem là công cụ có triển vọng nhất trong thời gian sắp tới khi các ưu điểm như phân tán rủi ro , bảo toàn vốn và tạo ra lợi nhuận với 2 loại hợp đồng thường được sử dụng cao nhất là hợp đồng kỳ hạn (forward contracts), hợp đồng tương lai (future contracts). 2.2.2 Về cấu trúc của thị trường : - Thị trường nợ Việt Nam, một trong những thị trường mua bán nợ nổi bật nhất châu Á, đang thu hút các quỹ trái phiếu toàn cầu vì tỉ lệ tăng trưởng kinh tế ngày một tăng cũng như mức định giá tín nhiệm ngày một cao hơn. Fortis Investments, thuộc công ty dịch vụ tài chính của Bỉ, đang tích cực gia tăng đầu tư vào trái phiếu Việt Nam đồng. Oppenheim, thuộc ngân hàng tư nhân lớn nhất ở châu Âu cũng có kế hoạch trái phiếu Việt Nam khi quốc gia này bán trái phiếu USD lần thứ hai Giới đầu tư được tăng cường thêm quyết tâm hướng tới thị trường Việt Nam bởi dự báo của chính phủ về tỉ lệ tăng trưởng kinh tế sáu năm liên tiếp vượt quá 7% cũng như tư cách thành viên của WTO. Việt Nam đang thu hút rất nhiều tiền để kiềm chế ""mức độ quá tải"" trên thị trường trái phiếu và chứng khoán, các nhà phân tích thuộc Credit Suisse nhận xét trong một báo cáo gần đây. Mức chênh lệch lãi suất giữa trái phiếu Việt Nam và Mỹ đã giảm xuống chỉ còn 1,32% so với mức chênh lệch 2,56% khi mà Chính phủ Việt Nam phát hành hồi tháng 10/2005 (mức lãi suất khi đó là 6,875%, đáo hạn 2016). Giới đầu tư đang rất chú tâm vào dự báo lãi suất trong khoản nợ của quốc gia. Trái phiếu USD của Việt Nam đã trở lại mức 9,6% trong năm ngoái, theo số liệu của J.P. Morgan Chase. Lãi suất trái phiếu Việt Nam thời hạn 10 giảm 0,45% xuống còn 8,35% trong năm nay. Chỉ Thái Lan có mức lãi suất giảm lớn hơn trong số 11 thị trường hấp dẫn nhất châu Á. Lãi suất trái phiếu tiền đồng Việt Nam đã khôi phục ở mức 0,25% trong tháng 12, mức tăng hàng tháng lớn nhất trong hơn 11 năm qua. Lãi suất trái phiếu USD của Việt Nam giảm 0,25% tương tự như mức giảm của trái phiếu Indonesia, ít hơn mức 0,87% của trái phiếu Pakistan, và mức 0,91% của trái phiếu Thổ Nhĩ Kỳ. Tỉ lệ lãi suất giảm ít hơn khiến giới đầu tư đánh giá trái phiếu của Việt Nam có ít rủi ro hơn. Theo Quỹ Tiền tệ Quốc tế, Việt Nam đã thông báo đạt thặng dư trong tài khoản vãng lai vào năm 2005 - lần đầu tiên trong vòng bốn năm. Chính phủ Việt Nam tỏ ra khá lạc quan rằng, nước này sẽ đạt tỉ lệ cao hơn khi giao dịch thương mại mở rộng. Tháng 9 vừa qua, Standard & Poor"s đã nâng Việt Nam 1 bậc trên bảng xếp hạng nợ ngoại tệ dài hạn lên BB, 2 bậc dưới mức đầu tư. Tháng 1 năm nay, Việt Nam chính thức trở thành thành viên WTO sau một năm cam kết đầu tư nước ngoài tăng 49% đạt 10,2 tỉ USD và dự trữ tiền tệ tăng tới 11,5 tỉ USD. Chỉ số chứng khoán chuẩn của Việt Nam đã tăng 52% - cao nhất trên thế giới. Trong tháng này, Việt Nam có thể bán khoảng 1 tỉ USD trái phiếu (theo Vietnam Investment Review). Trong năm 2006, Việt Nam đã đạt mức tăng trưởng 8,2%, đồng thời giành được nhiều cam kết đầu tư, xây dựng nhà máy sản xuất từ các tập đoàn lớn như Intel - nhà sản xuất chip bán dẫn lớn nhất thế giới và Posco, nhà sản xuất thép Hàn Quốc. Chính phủ Việt Nam dự báo mức tăng trưởng kinh tế trong năm nay sẽ đạt khoảng 8,5% - Thị trường vốn cổ phần Có lịch sử hình thành và phát triển lâu nhất ở Việt Nam , nhưng đến nay , với sự bùng phát mạnh mẽ của TTCK và thị trường tiền tệ cùng các công cụ tài chính của ngân hàng , thị trường vốn cổ phần tuy vẫn phát triển nhưng so với mặt bằng chung thì có phần giảm sút .Nguyên nhân là sự cạnh tranh cùng các yếu tố kinh tế chính trị xã hội .Tuy nhiên thị trường vốn cổ phần vẫn chiếm 1 phần quan trọng trong huy động vốn sản xuất ở Việt Nam hiện nay. - Thị trường cấp 1 ( sơ cấp ) Hay còn gọi là thị trường OTC , đã phát triển mạnh mẽ và bùng nổ trong giai đoạn CK lên ngôi 2006-2007.Tuy nhiên việc tham gia của quá nhiều thế lực và đại gia đã biến thị trường OTC gần như đóng kín với nhà đầu tư phổ thông. Thị trường sơ cấp Việt Nam thực hiện chức năng quan trọng nhất của thị trường chứng khoán, đó là huy động vốn cho đầu tư , ngoài ra còn giúp chính phủ huy động vốn cho các công trình trọng điểm bằng việc phát hành trái phiếu. - Thị trường cấp 2 ( thứ cấp ) Đây là thị trường sôi động nhất trong năm 2006-2007 khi CK lên ngôi cùng thị trường OTC.Tuy nhiên , sự tham gia 1 cách thiếu hiểu biết của nhà đầu tư Việt Nam đã gây nên hậu quả là “bong bóng CK” khiến TTCK Việt Nam tụt dốc không phanh trong năm 2008.Ở thị trường này , chủ yếu các giao dịch là giao dịch cổ phiếu , các giấy tờ có giá và 1 phần nhỏ trái phiếu chính phủ.Tuy nhiên hình thức trao tay và tin đồn đã gây nên sự thổi phồng về giá khiến không ít nhà đầu tư hiểu lầm và chịu thiệt.Đây cũng là thị trường được quản lý chặt chẽ nhất của Nhà nước Việt Nam. - Thị trường tiền tệ Mới phát triển không lâu ở Việt Nam , mang yếu tố ngắn hạn ,nhưng đã mang lại 1 số hiệu quả tích cực cùng các ưu điểm và các con số ấn tượng , như dự đoán trước được rằng , đây sẽ là thị trường sôi động nhất sau TTCK.Với sự tham gia tích cực của các NHTM , thị trường tiền tệ sắp tới sẽ đóng vai trò tăng tính lỏng cho các khoản vốn và đưa nó vào lưu thông 1 cách nhanh nhất góp phần thúc đẩy đầu tư và sản xuất. - Thị trường vốn Đây là thị trường thứ 2 , mang yếu tố dài hạn , là cặp song hành với thị trường tiền tệ để góp phần quay vòng vốn và tái đầu tư.Tuy nhiên với yếu tố dài hạn , sự rủi ro của các công cụ tài chính cùng yếu tố khách quan của người Việt Nam khiến thị trường này còn nằm ngoài tầm tay của các nhà đầu tư nhỏ lẻ , chỉ tập trung vào tay các nhà đầu tư chuyên nghiệp , các đại gia và thế lực ngầm. 2.2.3 Về các chủ thể của thị trường : Chính phủ , các hộ gia đình và các doanh nghiệp đang tham gia 1 cách tích cực và sôi nổi trong toàn bộ thị trường tài chính Việt Nam. Trước cơ hội mới : gia nhập là thành viên tổ chức thương mại thế giới WTO , thành viên tổ chức thành công APEC , đồng thời là thành viên quan trọng của ASEAN , ASEAN + , diễn đàn hợp tác phát triển kinh tế châu Á , Á – Âu , Á – Phi , v.v… đã mang lại những cơ hội mới. Tuy nhiên trước những thách thức khó khăn đang đặt ra trước mắt như khủng hoảng kinh tế thế giới 2008-? , đà lạm phát và giảm phát tăng cao , giá cả và thị trường đóng băng khiến cho các chủ thể của thị trường tài chính phải biết vận dụng linh hoạt các nguồn lực của mình để tồn tại và phát triển trong thị trường đầy biến động này. 2.2.4 Về các nhân tố ảnh hưởng đến thị trường : Lãi suất Ở nước ta hiện nay mối liên hệ giữa kỳ hạn của một số công cụ tín dụng, cụ thể là lãi suất tiền gửi được công bố bởi ngân hàng Vietcombank như sau: Kỳ hạn Lãi suất 3 tháng 16%/năm 6 tháng 16.1%/năm Không kỳ hạn 3%/năm Hiện nay kho bạc nhà nước ta cũng đang phát hành loại trái phiếu kho bạc nhà nước kỳ hạn 2 năm lãi suất 18%/năm. Như vậy là trái phiếu kho bạc nhà nước đã phát hành loại công cụ có kỳ hạn dài hơn và lãi suất cao hơn so với các chứng chỉ tiền gửi ở trên, điều này hoàn toàn phù hợp với lý thuyết đã phân tích ở trên. Nếu xem xét ngânhàng là người cho vay thì trước năm 1996, lãi suất cho vay giữa ngắn hạn và dài hạn hoàn toàn khác với lý thuyết trên, lãi suất cho vay dài hạn nhỏ hơn cho vay ngắn hạn. Tuy nhiên hiện nay từ 2000 trở đi đã được điều chỉnh lại, đây là chuyển biến tích cực khuyến khích các ngân hàng thương mại mạnh dạn hơn trong việc huy động vôn cho vay trong dài hạn. Ở Việt Nam hiện nay thị trường tài chính đã phát triển và ta cũng có thị trường chứng khoán. Tuy nhiên các công cụ và giải pháp cũng như hiệu quả mà nó mang lại chưa lớn so với tầm vóc kinh tế Việt Nam.Trên thị trường tài chính thiếu vắng các công cụ tài chính trung và dài hạn. Với người dân Việt Nam hay cũng giống như người dân ở các nước khác trên thế giới thật khó mà kiên trì đợi đến 5 năm hay 10 năm để thu hồi khoản vốn cho vay. Có nghĩa rằng ở nước ta hiện nay thông thường thì lãi suất hoàn vốn đúng bằng mức lợi tức hay là người dân sẽ gửi nó trong suốt thời hạn. Mặt khác ở nước ta vừa thoát ra khỏi lạm phát thì lại phát hành các công cụ tài chính dài hạn chúng chưa có tính khả thi vì nhân dân còn nghi ngại lạm phát có thể hoành hành trở lại. Giá cả Như đã biết , đặc biệt là năm 2008 đầy biến động đã qua , Việt Nam chúng ta đã phải gánh chịu 2 đợt khủng hoảng kinh tế , 1 là đợt kinh tế siêu lạm phát 6 tháng đầu năm 2008 , 2 là đợt kinh tế thế giới đi vào giảm phát và khủng hoảng trên phạm vi toàn cầu.6 tháng đầu năm CPI liên tục ở mức 2 con số khiến cuộc sống nhân dân rất khó khăn , giá cả các mặt hàng tiêu dùng tăng đột biến , giá xăng dầu và các nguyên vật liệu xây dựng đều tăng chóng mặt.Khi các chính sách kinh tế vĩ mô lẫn vi mô cùng các công cụ tài chính chống lạm phát được đưa vào áp dụng và bước đầu có hiệu quả thì đợt khủng hoảng kinh tế thứ 2 diễn ra với mức độ và phạm vi rộng lớn hơn.Giảm phát xảy ra trên toàn cầu , giá xăng dầu và các nguyên vật liệu giảm giá , giá cả tiêu dùng thì lại chưa giảm ngay , các công ty rút vốn đầu tư , thị trường đóng băng v.v… khiến cho cuộc sống nhân dân thêm phần cực khổ .Các chính sách và công cụ mới áp dụng lại phải sửa đổi để phù hợp với tình hình mới Lạm phát và lãi suất là biến số luôn đi song hành với nhau. Thực tế ở Việt Nam đã chứng minh điều đó, vào cuối những năm 1980 khi lạm phát ở nước ta lên đến mức hai con số thì lãi suất được NHTW công bố lên đến 10% tháng. Vào thời điểm hiện nay thì lạm phát đã được đẩy lùi chỉ số lạm phát 6 tháng đầu năm 2008 là 8% thì 6 tháng cuối năm là 2% Tỷ giá Ở Việt Nam khi ngân hàng nhà nước nới rộng biên độ giao động của VND so với USD từ 5% lên 10% gía thị trường chợ đen có lúc lên tới 18000 VND/USD khiến cho các doanh nghiệp ở ta lúng túng không biết nên vay bằng VND hay USD. Rõ ràng là tỷ giá hối đoái đã ảnh hưởng lớn đến quyết định vay ở đâu, các ngân hàng quốc doanh hay các ngân hàng nước ngoài. Chính trị - xã hội Với Việt Nam chuyến viếng thăm chính thức của tổng thống Mỹ G.W.Bush và cựu tống thổng Bill.Clinton đã gia tăng khối lượng đầu tư của Mỹ vào Việt nam. Các hợp đồng được ký kết và các cam kết viện trợ cũng như hỗ trợ trị giá gần 20 tỉ USD trong nhiều lĩnh vực. Các chính sách kinh tế Khuyến khích xuất khẩu , đẩy mạnh sản xuất các mặt hàng chủ lực như lúa gạo , xuất khẩu thủy sản , nông lâm ngư sản , đồ mỹ nghệ , hàng da giầy , giảm nhập siêu , tăng cường hàm lượng nội địa hóa , đẩy mạnh phát triển các ngành có hàm lượng chất xám cao như tin học , năng lượng nguyên tử v.v…Các chính sách đó đã thúc đẩy cả nền kinh tế Việt chuyển mình trong thời đại mới 2.3 Đánh giá thực trạng thị trường Tài chính Việt Nam hiện nay : Thực tế ở nước ta trong giới khoa học kinh tế nói chung và chuyên ngành tài chính - tiền tệ nói riêng đang tồn tại một số quan niệm không trùng khớp nhau về thị trường vốn và thị trường tài chính. Một số người quan niệm rằng, thị trường vốn bao gồm thị trường vốn ngắn hạn và thị trường vốn dài hạn; trong đó thị trường vốn dài hạn là thị trường chứng khoán. Một số khác thì cho rằng, thị trường vốn bao gồm thị trường tiền tệ và thị trường tài chính; trong đó, thị trường tài chính là thị trường chứng khoán... Dù quan niệm nào đi nữa, thì nó vẫn phải bao gồm thị trường vốn ngắn hạn và thị trường vốn dài hạn. Vì vậy, nếu quan niệm thị trường tài chính bao gồm thị trường vốn ngắn hạn và thị trường vốn trung hạn, thì thị trường tiền tệ và thị trường chứng khoán chính là hai bộ phận thị trường đó. Thực hiện công cuộc đổi mới nền kinh tế, chuyển sang phát triển theo cơ chế thị trường, nhanh chóng hội nhập khu vực và quốc tế, Đảng và Chính phủ ta đã chú trọng phát triển cả thị trường tiền tệ và thị trường chứng khoán ngay từ đầu thập kỷ 90 của thế kỷ trước, từ khi hai Pháp lệnh Ngân hàng, HTX tín dụng và công ty tài chính có hiệu lực thi hành tháng 5-1990. Về thực trạng phát triển thị trường tiền tệ Tham gia là thành viên của các dạng thị trường tiền tệ có 5 Ngân hàng thương mại Nhà nước, Ngân hàng chính sách xã hội, 36 Ngân hàng thương mại cổ phần, 4 Ngân hàng liên doanh, 27 chi nhánh Ngân hàng nước ngoài, Qũy tín dụng TW, 900 Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở, một số công ty bảo hiểm và tái bảo hiểm, Quỹ đầu tư... Tuy nhiên tham gia là thành viên của thị trường liên ngân hàng, thị trường đấu thầu tín phiếu Kho bạc nhà nước, thị trường mở... thì không phải tất cả các tổ chức trên, hầu như chỉ có các NHTM NN, NHTM cổ phần đô thị, ngân hàng liên doanh, chi nhánh Ngân hàng nước ngoài, một số công ty bảo hiểm... Về cơ chế tác động và can thiệp trên thị trường tiền tệ, được thể hiện tập trung ở các công cụ điều hành chính sách tiền tệ và nghiệp vụ Ngân hàng Trung ương. Theo đó, dần dần phù hợp với thông lệ quốc tế, từ tháng 6-2002, Ngân hàng Nhà nước chuyển sang thực hiện cơ chế điều hành lãi suất cơ bản trước đó. Hàng tháng Ngân hàng Nhà nước công bố lãi suất cơ bản, vẫn quy định lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu; cùng với lãi suất nghiệp vụ hoán đổi ngoại tệ Swap, lãi suất thị trường mở, lãi suất thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc nhà nước tác động vào lãi suất thị trường, lãi suất huy động vốn và lãi suất cho vay của các Tổ chức tín dụng Tác động vào lãi suất còn có công cụ dự trữ bắt buộc. Khi Ngân hàng Nhà nước điều chỉnh tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, có tác động làm tăng chi phí đầu vào của các TCTD. Do đó hoặc là các TCTD giữ nguyên lãi suất huy động vốn thì phải tăng lãi suất cho vay; hoặc là đồng thời vừa phải tăng lãi suất cho vay, vừa phải tăng lãi suất huy động vốn. Công cụ điều hành tỷ giá cũng có tác động vào lãi suất của các TCTD trên thị trường tiền tệ, nhưng không rõ nét. Với sự phát triển của các tổ chức trung gian tài chính, đặc biệt là các TCTD, với cơ chế điều hành chính sách tiền tệ và nghiệp vụ Ngân hàng Trung ương tiến dần tới phù hợp với thông lệ quốc tế, các Ngân hàng thương mại và Tổ chức tín dụng được chủ động trong các hoạt động huy động vốn và cho vay của mình, tham gia tích cực, năng động và cạnh tranh mạnh mẽ với nhau trên thị trường tiền tệ, theo đó, nó cũng có điều kiện thúc đẩy thị trường tiền tệ phát triển. Về thực trạng phát triển thị trường tiền gửi và huy động vốn: Đây là thị trường có sự cạnh tranh mạnh mẽ nhất và sôi động nhất giữa các tổ chức trung gian tài chính trong việc thu hút tiền nhàn rỗi trong dân cư. Trong thời gian gần đây, các Tổ chức tín dụng đưa ra các hình thức sau: - Cạnh tranh khuyến khích khách hàng mở tài khoản cá nhân, tài khoản sử dụng thẻ... Tính đến nay trong cả nước đã mở được khoảng trên 1.300.000 tài khoản cá nhân, trong đó có khoảng trên 750.000 tài khoản của các chủ thể. - Cạnh tranh thu hút tiền gửi không kỳ hạn của các tổ chức kinh tế - xã hội. Giữa các TCTD cạnh tranh thu hút tiền gửi của Kho bạc nhà nước, bảo hiểm xã hội Việt Nam, Bảo Việt, các công ty bảo hiểm nhân thọ, bưu chính viễn thông, điện lực... - Cạnh tranh thu hút tiền gửi tiết kiệm: đây là hình thức huy động vốn truyền thống giữa các TCTD và Công ty dịch vụ tiết kiệm bưu điện, nhất là các Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở. Thời gian gần đây, để khuyến khích khách hàng, một số ngân hàng thương mại đưa ra dịch vụ: gửi một nơi lĩnh nhiều nơi, tiết kiệm tích lũy hay còn gọi là tiết kiệm gửi góp, tiết kiệm gắn với bảo hiểm nhân thọ, tiết kiệm lũy tiến trả lãi theo số tiến gửi càng cao thì lãi suất càng cao, tiết kiệm linh hoạt tức là khách được chủ động rút tiền ra bất cứ lúc nào có nhu cầu và lãi suất tính theo số ngày thực tế gửi tương ứng với kỳ hạn gần nhất, tiết kiệm dự thưởng... - Phát hành các chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, trái phiếu... chủ yếu là huy động vốn có thời hạn từ 6 tháng trở lên, lãi suất hấp dẫn. Trong những năm gần đây, đã có sự cạnh tranh sôi động trên thị trường thu hút tiền gửi và thị trường huy động vốn, đặc biệt là các tổ chức trung gian tài chính thực hiện rất đa dạng và phong phú các sản phẩm và dịch vụ thu hút tiền gửi, huy động vốn. Tuy nhiên trong việc phát triển thị trường này, có thể thấy một tồn tại lớn là chưa thu hút được tối đa tiền gửi không kỳ hạn, tiền nhàn rỗi trong dân cư vào hệ thống ngân hàng, trên cơ sở đó lựa chọn các dịch vụ thanh toán qua ngân hàng hay rút tiền mặt ra chi tiêu bất cứ lức nào có nhu cầu. Đây là nguồn vốn rất lớn và rất quan trọng, tạo đà cho phát triển thị trường tiền tệ, bởi vì nó gia tăng nguồn tiền gửi không kỳ hạn, gia tăng vốn khả dụng cho các TCTD. Về quá trình xây dựng và phát triển thị trường chứng khoán: Sau một thời gian xây dựng và phát triển, đến nay đã có trên  100 công ty niêm yết cổ phiếu và một số loại trái phiếu được niêm yết trên trung tâm giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh. Trong lĩnh vực này, hệ thống ngân hàng tiếp tục đóng vai trò tích cực trong phát triển thị trường chứng khoán, với hầu hết trong số gần 50 công ty kinh doanh chứng khoán đang hoạt động là trực thuộc các ngân hàng thương mại, với đa dạng các nghiệp vụ: môi giới, tư vấn đầu tư, lưu ký chứng khoán, cho vay thanh toán chứng khoán... Hầu hết các công ty này đều kinh doanh có hiệu quả. Một số công ty đã tổ chức đại lý đấu thầu cổ phiếu của một số NHTM cổ phần phát hành mới tăng thêm vốn điều lệ. NHNN cũng đã ban hành quy định tạm thời về việc niêm yết cổ phiếu của NHTM cổ phần trên Trung tâm giao dịch chứng khoán. Hiện nay nhiều NHTM cổ phần đã sẵn sàng niêm yết cổ phiếu trên Trung tâm giao dịch chứng khoán. Được biết hiện nay NHTM cổ phần Sài Gòn Thương Tín đã có đơn và hồ sơ đề nghị Ngân hàng Nhà nước cho phép vấn đề này. Tuy chưa chính thức niêm yết giao dịch trên Trung tâm giao dịch chứng khoán, nhưng thời gian qua, cổ phiếu của nhiều NHTM cổ phần đã giao dịch đơn lẻ, không chính thức trên thị trường phi tập trung OTC. Mệnh giá cổ phiếu  của nhiều NHTM cổ phần được giao dịch cao gấp 1,1 lần đến 2,5 lần so với mệnh giá ban đầu. Uy tín trong và ngoài nước của nhiều ngân hàng thương mại cổ phần ngày càng tăng lên. Nhiều tổ chức tài chính quốc tế và ngân hàng nước ngoài đã và đang mua cổ phần, chuyển giao công nghệ ngân hàng hiện đại, hỗ trợ về tài chính cho các ngân hàng thương mại cổ phần. Thủ tướng Chính phủ đã chính thức có quyết định cổ phần hóa Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. Theo kế hoạch, Ngân hàng ngoại thương Việt Nam đang triển khai bước đầu tiên cổ phần hóa. Tổng giá trị cổ phiếu phát hành trên hai Trung tâm giao dịch chứng khoán để tăng vốn điều lệ vào khoảng 1.000 tỷ đồng. Với khối lượng giá trị cổ phiếu lớn như vậy nếu được giao dịch và niêm yết trên hai Trung tâm giao dịch chứng khoán, thì chứng khoán giao dịch chủ yếu của hai Trung tâm này sẽ là cổ phiếu của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. Tiếp theo đó sẽ là Ngân hàng phát triển Nhà đồng bằng sông Cửu Long và Ngân hàng Đầu tư-phát triển Việt Nam cũng đề nghị được cổ phần hóa. Khi đó chắc chắn hoạt động của hai Trung tâm giao dịch chứng khoán sẽ sôi động hẳn lên, tạo nền tảng mới cho sự phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam. Về một số đánh giá về thực trạng phát triển thị trường tài chính ở nước ta Về thị trường vốn ngắn hạn hay còn gọi là thị trường tiền tệ. Nhìn chung thị trường này chưa phát triển và Ngân hàng Nhà nước NHTW, chưa thực sự đóng vai trò can thiệp có hiệu quả vào thị trường này. Các loại lãi suất của NHTW: lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu, lãi suất nghiệp vụ thị trường mở, lãi suất đấu thầu tín phiếu kho bạc nhà nước có tác động rõ nét đến thị trường. Các công cụ điều hành chính sách tiền tệ, đặc biệt là công cụ dự trữ bắt buộc... thiếu linh hoạt. Các NHTM và Tổ chức tín dụng cạnh tranh với nhau tăng lãi suất huy động vốn một cách một chiều, tạo nguy cơ tiềm ẩn rủi ro cho chính các NHTM. Về thị trường chứng khoán. Có thể khẳng định rằng, trong tiến trình phát triển Thị trường chứng khoán Việt Nam, tiềm năng của việc tham gia của các NHTM là rất lớn. Việc các NHTM cổ phần niêm yết cổ phiếu trên Trung tâm giao dịch chứng khoán, các NHTM NN cổ phần hóa thực hiện phát hành cổ phiếu lần đầu trên Trung tâm, cũng như tới đây sẽ có thêm một số Công ty kinh doanh chứng khoán của các NHTM đi vào hoạt động... sẽ tạo đà thúc đẩy thị trường chứng khoán Việt Nam phát triển mạnh hơn nữa. Song cho đến thời điểm này, mới chỉ có gần 100 công ty cổ phần niêm yết cổ phiếu trên Trung tâm giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh là quá ít, tạo ra sự nghèo nàn hàng hóa trên thị trường chứng khoán. Cổ phiếu của các NHTM chưa được niêm yết và giao dịch cũng phần nào hạn chế tính sôi động của thị trường. Tính thanh khoản của thị trường chưa cao. Thông tin chưa thật sự minh bạch. 2.3.1 Những kết quả đạt được : Việc tăng trưởng của nền kinh tế Việt Nam những năm qua là nhờ những cải cách của Chính phủ đã thúc đẩy công nghiệp hoá và thu hút đầu tư nước ngoài. Các ngành dịch vụ, công nghiệp, xây dựng chiếm gần 80%, trong đó sản lượng nông nghiệp chỉ còn chiếm 20% tỷ trọng kinh tế. Với đà phát triển này đến năm 2010, nông nghiệp chỉ chiếm 15% tương đương các nền kinh tế trong khu vực. Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh và có vốn đầu tư nước ngoài đóng góp 60% trong nền kinh tế và là thành phần kinh tế phát triển mạnh. Đầu tư của các công ty đa quốc gia tại Việt Nam sẽ dẫn tới việc gia tăng nhu cầu trong các sản phẩm và dịch vụ giao dịch, quản lý rủi ro, và tư vấn đầu tư. Việc gia tăng các luồng thương mại sẽ là một cơ hội rất lớn cho ngân hàng phục vụ doanh nghiệp. Mức lương cạnh tranh và một môi trường kinh doanh ngày một cải thiện đã thu hút rất nhiều vốn FDI, nhờ có các công ty mong đợi xây dựng cơ sở sản xuất hoặc chế tạo tại Việt Nam. tin tưởng rằng năm nay nguồn vốn FDI rất khả quan, sẽ vượt con số 10, 2 tỷ USD của năm 2006. Trong một vài năm tiếp theo, sẽ có nhiều ngân hàng nước ngoài mở rộng kinh doanh vào Việt Nam hoặc thành lập chi nhánh tại Việt Nam, và các ngân hàng trong nước sẽ phải đối mặt với cạnh tranh gay gắt hơn. Và theo quy định của Ngân hàng Nhà nước, một số ngân hàng sẽ phải nâng vốn điều lệ để đáp ứng yêu cầu. Đến năm 2008, các ngân hàng cổ phần vốn tối thiểu là 1.000 tỷ đồng và năm 2010 sẽ là 3.000 tỷ đồng để đáp ứng yêu cầu hội nhập. Để đáp ứng yêu cầu của Ngân hàng Nhà nước, một số ngân hàng cổ phần đã và đang tìm kiếm đối tác nước ngoài.Ngoài ra, các ngân hàng nội địa có thể sáp nhập hoặc cùng liên kết thành lập những liên minh vững mạnh cho các ngân hàng Việt Nam có được lợi thế, có cơ hội tiếp cận những dự án đầu tư khả thi và đặc biệt có khả năng trở thành những liên minh có thể chi phối thị trường và làm chủ lộ trình hội nhập. Tuy nhiên, các ngân hàng trong nước gặp nhiều thách thức rất lớn như áp lực cạnh tranh trên các mặt như năng lực tài chính, công nghệ, trình độ quản lý, hệ thống sản phẩm, chất lượng dịch vụ, các chuẩn mực an toàn theo thông lệ quốc tế, dự phòng rủi ro, phân loại nợ. Và ngân hàng Việt Nam cũng phải đối mặt với sự gia tăng rủi ro thuộc mảng khách hàng doanh nghiệp nhà nước bởi việc hội nhập đặt các doanh nghiệp trước thế cạnh tranh gay gắt, khả năng mất thị phần cao, khuynh hướng sáp nhập. Thị trường chứng khoán Việt Nam là một trong những thị trường phát triển nhanh nhất thế giới về vốn hoá thị trường. Sự gia tăng về số lượng các doanh nghiệp cổ phần hóa đã nâng khả năng vốn hóa của thị trường trên sàn giao dịch cổ phiếu tại Tp.HCM tăng gấp 9 lần trong một năm vừa qua lên đến 2,7 tỷ USD (chiếm khoảng 5% GDP) tính đến tháng 8. Trong năm 2006 vừa qua, số lượng công ty niêm yết tại trung tâm chứng khoán Tp.HCM và Hà Nội tăng từ 32 lên 193 công ty. Nếu tính cả 5 tỷ USD trái phiếu, vốn hoá của thị trường tài chính Việt Nam chiếm 35% GDP. Indonesia 35%, Phillipines là 45% GDP. Hy vọng trong một vài năm tới, Việt Nam cũng sẽ đạt mức ngang bằng với các đối thủ nặng ký trong khu vực. Thị trường vốn của Việt Nam đang có mức tăng trưởng mạnh, Chính phủ đang đưa ra hàng loạt các chính sách ưu đãi đầu tư và ra sức cải thiện các thị trường tài chính phát triển song song với việc xây dựng hệ thống pháp lý minh bạch và cơ sở hạ tầng tiên tiến. 2.3.2 Những tồn tại hạn chế và nguyên nhân : Hệ thống thị trường tài chính Việt Nam đang tồn tại nhiều bất cập và tụt hậu so với nhu cầu phát triển. Yêu cầu lớn nhất hiện nay là phải nhanh chóng hoàn thiện môi trường pháp lý để tạo nền tảng cho sự phát triển ổn định lâu dài. Bất cập trên nhiều phương diện Sau gần 20 năm đổi mới, hệ thống tài chính Việt Nam đã có bước chuyển từ hành chính, bao cấp sang vận hành theo cơ chế thị trường. Dẫn chứng cho quá trình chuyển đổi này, ông Nam cho biết: nước ta đã có nhiều cải cách về hệ thống thuế, đổi mới hệ thống ngân hàng và tiền tệ, phát triển thị trường bảo hiểm, xây dựng thị trường chứng khoán... có thể nói, đến nay, nước ta đã có một cấu trúc thị trường tài chính khá đầy đủ. Tuy nhiên, hệ thống thị trường tài chính Việt Nam vẫn còn thiếu đồng bộ và bất cập cả trên 3 phương diện: cơ sở pháp lý, cơ chế vận hành và năng lực tổ chức giám sát thực hiện. Có thể nói, thị trường tài chính còn tụt hậu khá xa so với nhu cầu phát triển. Có thể thấy điều đó qua những biểu hiện như: duy trì những rào cản đối với việc gia nhập của các ngân hàng nước ngoài nên 4 ngân hàng thương mại vẫn giữ thế khống chế thị trường. Ngân hàng Nhà nước đôi khi vẫn sử dụng các biện pháp hành chính để điều tiết thị trường tiền tệ. Thị trường chứng khoán tuy đã được hình thành, nhưng vẫn còn rất nhỏ bé và chưa trở thành một kênh huy động vốn hữu hiệu như mong muốn. Trong khi đó, hoạt động giao dịch cổ phiếu phi chính thức, thị trường trái phiếu vẫn còn rất sơ khai, mang tính tự phát và tiềm ẩn nhiều rủi ro do chưa có luật điều chỉnh. Trong giai đoạn tới, thị trường tài chính Việt Nam sẽ còn phải đối mặt với nhiều thách thức lớn. Một mặt vì tính phức tạp của thị trường tài chính ngày càng gia tăng, mặt khác việc hội nhập tài chính ngày càng sâu rộng đòi hỏi Nhà nước phải có nhiều sự điều chỉnh hơn nữa. Nhanh chóng hoàn thiện môi trường pháp lý Thực trạng trên đây của thị trường tài chính là do chúng ta chưa xây dựng được một môi trường pháp lý hoàn thiện. Các văn bản pháp lý chưa đồng bộ và liên tục thay đổi. Hiện nay, các ngân hàng thương mại chưa được kinh doanh theo nguyên tắc thương mại và thị trường một cách triệt để, đôi khi vẫn phải chấp nhận cho vay các khoản tín dụng chính sách. Bên cạnh đó, hệ thống pháp luật về thị trường chứng khoán chưa hoàn chỉnh và còn nhiều chồng chéo đôi khi còn mâu thuẫn nhau. Chúng ta đã có một Nghị định về chứng khoán và thị trường chứng khoán nhưng hoạt động kinh doanh chứng khoán còn phải chịu sự điều chỉnh của nhiều luật khác như: Luật Doanh nghiệp, Luật Đất đai... điều này làm cho hoạt động chứng khoán gặp khó khăn trong công tác quản lý, gây tâm lý thiếu tin tưởng cho các nhà đầu tư. Vì vậy, để thúc đẩy sự phát triển của thị trường tài chính, biện pháp quan trọng nhất được đề cập đến là phải nhanh chóng hoàn thiện môi trường pháp lý. Để làm được điều này, cần tập trung xây dựng các văn bản pháp luật, cơ chế chính sách liên quan đến sự phát triển của thị trường tài chính. Trong đó, đối với từng lĩnh vực cụ thể cần có những biện pháp xử lý phù hợp. Nếu như trong ngành ngân hàng yêu cầu lớn nhất là chấm dứt tình trạng can thiệp hành chính đối với hoạt động kinh doanh. Đối với thị trường chứng khoán cần tiếp tục hoàn thiện các văn bản pháp luật để khuyến khích doanh nghiệp phát hành và niêm yết chứng khoán trên các sàn giao dịch. Riêng đối với ngành tài chính ngân hàng, hiện chỉ có 5% dân số Việt Nam có tài khoản ngân hàng nên có thể thấy tiềm lực để khai thác đối với ngành nghề này đang rất hấp dẫn. Ước tính đến năm 2009, tỉ lệ này sẽ lên khoảng 30%. Trong thời gian tới, các ngân hàng nước ngoài sẽ được phép mở chi nhánh 100% vốn nước ngoài cộng với lợi thế về quản trị rủi ro, về sản phẩm và dịch vụ sẽ là một thách thức không nhỏ đối với các ngân hàng nội địa. Chính vì thế, việc tận dụng triệt để sự tham gia góp vốn của các nhà đầu tư nước ngoài trong các ngân hàng nội địa trong thời gian này trở nên cần thiết hơn bao giờ hết. Tuy nhiên, việc hạn chế room 30% đối với nhà đầu tư nước ngoài tại các tổ chức tài chính ngân hàng là một trong những lực cản trong việc huy động vốn và chia sẻ kinh nghiệm quản trị đối với ngành tài chính ngân hàng Việt Nam hiện nay. Nếu chúng ta không có chính sách điều chỉnh kịp thời, sẽ dẫn đến tình trạng các nhà đầu tư nước ngoài tham gia thị trường tài chính Việt Nam thông qua việc đầu tư vào các ngân hàng nước ngoài khi các ngân hàng này thành lập chi nhánh tại Việt Nam, điều này không những hạn chế việc thu hút đầu tư trực tiếp mà còn có thể dẫn đến tình trạng các ngân hàng nội địa sẽ bị lấn luớt ngay chính trên sân nhà. Một vấn đề khác mà các nhà đầu tư nước ngoài quan tâm là tỉ lệ cho vay trên tổng huy động tại các ngân hàng Việt Nam chỉ ở ngưỡng 50-68%. Tại Việt Nam tỉ lệ này càng cao thì bị đánh giá là xấu, trong khi ở nước ngoài, tỉ lệ này là 80-90% mới được xem là một ngân hàng hoạt động tốt. Nghịch lý này bắt nguồn ở chỗ hầu hết các ngân hàng Việt Nam đang cùng lúc thực hiện chức năng của ngân hàng đầu tư (investment banking) đồng thời lại kiêm luôn chức năng của ngân hàng bán lẻ (retail banking), cho nên các ngân hàng Việt Nam thường dùng tiền huy động đem đi đầu tư hơn là cho vay như các nước khác. Bên cạnh đó, vấn đề kiểm soát nợ quá hạn tại các ngân hàng Việt Nam cũng gây ngạc nhiên đối với các nhà đầu tư, bởi theo thông lệ dư nợ tín dụng càng cao thì NPL (nợ quá hạn) sẽ càng tăng, trong khi ở Việt Nam lại khác. Tại các ngân hàng nước ngoài, tỉ lệ NPL thường khoảng 2% trên tổng dư nợ là hợp lý thì rất nhiều ngân hàng TMCP Việt Nam tỉ lệ này thường được kiểm soát dưới mức 1%. Rõ ràng, ngành ngân hàng tại Việt Nam cần có những điều chỉnh để hội nhập vào sân chơi tài chính toàn cầu. Chương 3 Giải pháp hoàn thiện và phát triển thị trường Tài chính ở Việt Nam hiện nay 3.1 Định hướng phát triển thị trường trong thời gian tới Đối mặt với khủng hoảng kinh tế 2008-? Thị trường tài chính Việt Nam cần tập trung vào các công cụ mang tính dài hạn và hiệu quả để giảm thiểu tối đa ảnh hưởng mà khủng hoảng mang đến , đồng thời bảo toàn cũng như phát triển nguồn vốn để có thể ngay lập tức quay trở lại đầu tư và sản xuất khi cơn bão khủng hoảng qua đi. 3.2 Giải pháp hoàn thiện và phát triển thị trường Tài chính ở Việt Nam hiện nay : 3.2.1 Giải pháp và kiến nghị cho phát triển thị trường tài chính ở nước ta trong thời gian tới: Việt Nam không thể đẩy quá nhanh việc xây dựng thị trường tài chính, cũng như thị trường chứng khoán vượt lên trên sự phát triển chung của nền kinh tế, tức là phải phát triển đồng bộ, tất nhiên là phải có sự ưu tiên xây dựng các tiền đề, cơ sở hạ tầng nào đó. Chúng ta không thể nôn nóng, cũng như không thể ngồi chờ cho đủ điều kiện được. Như phần đầu bài viết đã đề cập, thị trường tiền tệ và thị trường chứng khoán có mối liên hệ mật thiết với nhau. Khi lãi suất trên thị trường tiền tệ tăng lên, khi thị trường tiền tệ nóng lên, thì thị trường chứng khoán cũng sôi động. Phát triển thị trường tiền tệ, làm tăng tốc độ chu chuyển vốn ngắn hạn trong nền kinh tế, nâng cao khả năng kinh doanh trên thị trường tiền tệ của các tổ chức trung gian tài chính, tạo điều kiện cho các tổ chức này sẵn sàng tham gia có hiệu quả trên thị trường chứng khoán. Theo đó một số đề xuất và kiến nghị như sau: - Ngân hàng Nhà nước và Bộ Tài chính, trực tiếp là Ủy ban chứng khoán Nhà nước phối hợp chặt chẽ mạnh dạn đưa 2-4 NHTM cổ phần đầu tiên niêm yết cổ phiếu trên Trung tâm giao dịch chứng khoán. Phối hợp chặt chẽ, trên cơ sở tài trợ quốc tế, tổ chức các cuộc hội thảo, khóa đào tạo, tập huấn ngắn ngày về nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán và niêm yết cổ phiếu của NHTM trên thị trường chứng khoán. Bộ Tài chính cũng nên cùng NHNN tập trung tháo gỡ vướng mắc trong việc định giá NHTM và một số giải pháp khác đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa hai NHTM NN đầu tiên theo kế hoạch. - Ngân hàng Nhà nước và Bộ Tài chính phối hợp tăng khối lượng tín phiếu Kho bạc Nhà nước đấu thầu hàng quý, hàng năm. Có thể tăng tần suất các phiên đấu thầu từ 1 phiên/1tuần hiện nay lên 2 phiên/tuần. Linh hoạt hơn nữa lãi suất đấu thầu qua các phiên theo sát diễn biến trên thị trường. Thời hạn tín phiếu cũng có thể đa dạng hơn, như kỳ hạn 60 ngày, 90 ngày... thay cho chỉ có loại 360 ngày như hiện nay. Cần có cơ chế để các NHTM cổ phần và Ngân hàng khác có quy mô nhỏ hơn có thể trúng thầu tín phiếu trên thị trường này. Đặc biệt là Bộ Tài chính cần có biện pháp đưa các Công ty bảo hiểm, tổ chức bảo hiểm tham gia đấu thầu tín phiếu, không nên để tình trạng lãng phí vốn hay quan hệ tiền gửi không kỳ hạn trực tiếp với các TCTD như hiện nay. - Ngân hàng Nhà nước có biện pháp bảo đảm tính hệ thống của Quỹ tín dụng, có cơ chế điều hòa vốn linh hoạt hơn của hệ thống này. Trên cơ sở đó tạo điều kiện thu hút Quỹ tín dụng tham gia thị trường liên ngân hàng và các dạng khác của thị trường tiền tệ so NHNN tổ chức, vận hành. - NHNN nâng cấp thị trường nội tệ liên ngân hàng, thể hiện rõ vai trò can thiệp cuối cùng của NHNN trên thị trường này. Tiến tới công bố được lãi suất thị trường nội tệ liên ngân hàng ở Việt Nam do là lãi suất chủ đạo của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. - Bản thân các Tổ chức trung gian tài chính cần phải nhanh chóng đa dạng hóa các nghiệp vụ kinh doanh của mình, nhất là nghiệp vụ kinh doanh trên thị trường tiền tệ theo thông lệ quốc tế. Các NHTM mạnh dạn đầu tư hơn nữa cho các nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán và thu hút tiền gửi không kỳ hạn, dịch vụ thanh toán cho khách hàng. Đây cũng chính là các nhà đầu tư cá nhân trên thị trường chứng khoán trong thời gian tới, cũng như là khách hàng tiềm năng của nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán mà Ngân hàng thương mại cần nhằm tới thu hút. 3.2.2 Kiến nghị - Đa dạng hoá hơn nữa hàng hoá cho thị trường mở, mở rộng phạm vi các giấy tờ có giá có thể thực hiện chiết khấu và tái chiết khấu tại NHNN,xoá bỏ các hạn chế huy động ngoại tệ đối với ngân hàng liên doanh và chi nhánh nước ngoài để tăng sự sôi động của thị trường. Chỉnh sửa một số quy định bất lợi tới sự phát triển của thị trường tiền tệ. - Thực hiện dự báo về diễn biến cung cầu trên thị trường, hoàn thiện thanh toán điện tử liên ngân hàng và tăng cường sử dụng các công cụ tiền tệ gián tiếp, xây dựng và thực hiện nghiêm túc chặt chẽ những quy định phối hợp giữa NHNN và Bộ tài chính. - Xác định mục tiêu ổn định giá cả và mục tiêu tăng trưởng, làm rõ quyền của NHNN trong việc hoạch định và điều chỉnh chính sách tiền tệ, cùng với đó là phải đổi mới tổ chức của NHNN. - Tăng cung cầu trên thị trường.Nới rộng điều kiện và khuyến khích thành viên tham gia đấu thầu trái phiếu chính phủ. Nghiên cứu xây dựng các khuôn khổ pháp lý thông thoáng hơn cho việc mua bán cầm đồ các trái phiếu chính phủ, cho phép trái phiếu chính phủ được chiết khấu tại NHNN. Khuyến khích các công ty lớn làm ăn có hiệu quả, nhất là các tổng công ty nhà nước phát hành và niêm yết trái phiếu công ty, trái phiếu công trình. Đa dạng hoá việc giao dịch các loại trái phiếu mới như trái phiếu có khả năng chuyển đổi, trái phiếu đô thị, nhất là trái phiếu xây dựng, trái phiếu của các NHTM nhà nước. - Hỗ trợ thúc đẩy phát triển thị trường trái phiếu: Thành lập tổ chức định mức tín nhiệm dưới hình thức công ty cổ phần độc lập với sự tham gia của các định chế tài chính. Lập chương trình,kế hoạch phát hành trái phiếu Chính phủ có thười hạn khác nhau để có thể tạo đường cong lãi suất tham chiếu cho TTTC, hỗ trợ phát triển các tổ chức trung gian tài chính. Phát triển và xây dựng quy chế hoạt động cho “các nhà tạo lập thị trường”.Hợp lý hoá và nới lỏng các điều kiện niêm yết trên thị trường và dưa ra nhiều ưu đãi hơn cho các công ty niêm yết. - Loại bỏ hoặc nới lỏng hơn nữa những ngành hạn chế đầu tư nước ngoài nhằm thuận lợi hoá việc đầu tư chứng khoán của các công ty đầu tư mạo hiểm nước ngoài. - Tăng cường công khai tài chính doanh nghiệp nhằm tạo điều kiện quản lý và thuận lợi hoá việc phát hành và niêm yết chứng khoán trên thị trường. Đẩy mạnhquá trình cổ phần hoá DNNN gắn liền với việc thực hiện niêm yết trên thị trường chứng khoán; cổ phần hóa một số công ty nhà nước lớn và tổng công ty nhà nước để đưa ra niêm yết(có thể cần cưỡng chế) - Cổ phần hoá và đưa ra niêm yết tiếp một số NHTM nhà nước, khuyến khích một số NHTM cổ phần đủ điều kiện niêm yết trên thị trường. - Xây dựng và phát triển trung tâm giao dịch chứng khoán cho cổ phiếu của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. - Phát triển các nhà đầu tư có tổ chức, đưa ra các ưu đãi về thuế để thu hút các nhà đầu tư chuyên nghiệp, nhất là các công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán. - Tạo dựng niềm tin cho các nhà đầu tư bằng việc sớm đưa ra những cam kết, định hướng cụ thể và chính sách phát triển thị trường chứng khoán. - Sớm xây dựng hệ thống công bố công khai thông tin, nâng cao chất lượng, chuẩn hoá nội dung thông tin được công bố.Nâng cao năng lực nghiệp vụ chuyên môn và quản lý tài sản đối với công ty chứng khoán, áp dụng các thông lệ chuẩn mực kế toán, kiểm toán. Hỗ trợ phát triển năng lực của các công ty chứng khoán đầu tư. - Sự thay đổi phương pháp phát triển ở nhiều nước cho thấy những thay đổi quan trọng trong các khu vực tài chính của họ. Nhưng quốc gia muốn dựa hơn nữa vào sự quyết định của khu vực tư nhân cần phải có các hệ thống tài chính hoạt động trên một cơ sở nhất trí hơn. Để thực hiện được điều đó cần có lòng tin-lòng tin rằng giá trị các hợp đồng tài chính sẽ không bị xói mòn do lạm phát và các hợp đồng đó sẽ được tôn trngj thực hiện. Việc xác định đúng mức giá - ở đây là tỉ lệ lãi suất là một điều hết sức quan trọng đối với việc phát triển tài chính, nhưng để đạt được mục đích này cần phải có sự hỗ trợ từ các chính sách khác nữa. Các quốc gia còn phải tạo dựng các tổ chức tài chính phù hợp, phát triển các hệ thống tốt hơn để thực hiện các quy chế và việc giám sát một cách thận trọn, cải thiện, nâng cấp hệ thống cung cấp thong tin tài chính, phát triển những kỹ năng quản lý các hoật động tài chính phức tạp và khuyến khích các tập quán tài chính tốt. Và không có bất kỳ một thay đổi nào trong số này có thể được hoàn thành một cách dễ dàng hay nhanh chóng. Kết Luận “Thị trường tài chính” vẫn còn là một vấn đề còn khá mới mẻ cho một nền kinh tế 20 năm mở cửa đổi mới, song bước đầu TTTC ở Việt Nam đã có bước hình thành và chuyển biến mạnh mẽ, góp phần đắc lực vào công cuộc công nghiệp hóa-hiện đại hóa. Khẳng định vai trò to lớn của TTTC không chỉ là huy động mọi nguồn lực xã hội và công cuộc phát triển đất nước mà còn nâng cao hiệu quả nền kinh tế, điều hòa hoạt động kinh tế vĩ mô và mở cửa hội nhập khu vực quốc tế là một tất yếu khách quan; đó là điều mà Đảng và Nhà nước đã kịp thời nhìn nhận, đánh giá kịp thời và đang từng bước xây dựng, phát triển hoàn thiện TTTC ở Việt Nam.Chúng ta đang ở vào thế kỷ XXI với nhiều khó khăn , thách thức lẫn trách nhiệm nặng nề. Muốn nâng cao và phát huy được nội lực trong nền kinh tế cũng như thu hút tối đa nguồn lực đầu tư nước ngoài, hơn bao giờ hết xây dựng một TTTC phát triển , ổn định, lành mạnh và hoàn thiện là yêu cầu cất bách hiện nay. Điều quan trọng nhất để có được một TTTC theo đúng nghĩa của nó chính là lòng tin của dân chúng, của các nhà đầu tư trong và ngoài nước và sự an toàn, lành mạnh, hấp dẫn của nền kinh tế thị trường.Yếu tố này chỉ có thể có được trong một môi trường kinh tế xã hội ổn định, một môi trường đã được đảm bảo bằng pháp lý với cơ sở hạ tầng kinh tế phát triển. Nhà nước là trọng tài trung tâm của nền kinh tế cần phát huy đúng vai trò kinh tế của mình, hài hòa giữa quản lý kinh tế và quản lý hành chính, tạo cho đất nước một thế và lực mới với những cơ hội lớn lao bước vào thế kỷ XXI. Chính vì vậy, mỗi chúng ta, đặc biệt là các nhà doanh nghiệp tương lai luôn phải ý thức tìm tòi, nghiên cứu các phạm trù về thị trường tài chính-tiền tệ, không ngừng học hỏi nâng cao chuyên môn nghiệp vụ để có thể tham gia và đóng góp nhiều nhất năng lực của mình vào việc xây dựng phát triển và hoàn thiện TTTC ở Việt Nam. Trước mắt cần phải tìm cách để đưa các hoạt động tài chính vào các phương tiện thông tin đại chúng, vào cuộc sống hàng ngày của dân chúng làm cơ sở, tiền đề để có thể huy động tối đa nguồn lực con người cho sự phát triển nền kinh tế thị trường. Đó cũng là con đường để đưa nền kinh tế thị trường của Việt Nam có vị trí trong khu vực cũng như trên toàn thế giới. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. SGK Tài chính tiền tệ (Trường Đại học Kinh tế quốc dân Hà nội) 2. Thị trường Tài chính (NXB Thông tin lý luận 2000) 3 . Sự hình thành và phát triển TTTC của nền kinh tế chuyển đổi Việt Nam - Nguyễn Đình Tài (NXB Chính trị Quốc gia 2000) 4. Lý thuyết tiền tệ (NXB thống kê 1998) 5. Hoạt động tài chính trong nền kinh tế thị trường 6. Tiền và hoạt động ngân hàng (NXB Chính trị quốc gia 1996). 7.Lý thuyết tài chính (NXB Tài chính 2000). 8.Các kênh thông tin đa lĩnh vực 9.Thị trường tài chính thế giới 2008 1 năm nhìn lại. Mục Lục Lời nói đầu Chương 1 Tổng quan về thị trường Tài chính 1.1 Vai trò của thị trường Tài chính 1.1.1 Khái niệm 1.1.2 Chức năng 1.1.3 Vai trò 1.2 Các chủ thể của thị trường Tài chính 1.2.1 Các chủ thể đi vay 1.2.2 Các chủ thể cho vay 1.3 Cấu trúc của thị trường Tài chính 1.3.1 Thị trường nợ và thị trường vốn cổ phần 1.3.2 Thị trường cấp 1 và cấp 2 1.3.3 Thị trường tiền tệ và thị trường vốn 1.4 Các công cụ trên thị trường Tài chính 1.4.1 Các công cụ trên thị trường tiền tệ 1.4.2 Các công cụ trên thị trường vốn 1.5 Các nhân tố ảnh hưởng đến thị trường Tài chính 1.5.1 Các yếu tố nội tại 1.5.2 Các yếu tố kinh tế chung 1.5.3 Các nhân tố kinh tế xã hội 1.5.4 Tình hình chung của các công ty Chương 2 Thực trạng thị trường Tài chính Việt Nam hiện nay 2.1 Quá trình phát triển thị trường Tài chính Việt Nam 2.2 Thực trạng thị trường Tài chính Việt Nam 2.2.1 Các công cụ của thị trường 2.2.2 Cấu trúc thị trường 2.2.3 Các chủ thể của thị trường 2.2.4 Các nhân tố ảnh hưởng đến thị trường 2.3 Đánh giá thực trạng thị trường Tài chính Việt Nam hiện nay 2.3.1 Những kết quả đạt được 2.3.2 Những tồn tại hạn chế và nguyên nhân Chương 3 Giải pháp hoàn thiện và phát triển thị trường Tài chính Việt Nam 3.1 Định hướng phát triển thời gian tới 3.2 Giải pháp hoàn thiện và phát triển 3.2.1 Giải pháp 3.2.2 Kiến nghị Kết luận

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc22597.doc
Tài liệu liên quan