Đề tài Giải pháp huy động và sử dụng hiệu quả vốn FDI đáp ứng yêu cầu phát triển của nền kinh tế

Quốc tế hóa đời sống kinh tế là một xu hướng khách quan, là sự phát triển tất yếu của nền sản xuất xã hội, trên cơ sở sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất. Xu hướng này đã lôi kéo tất cả các nước trên thế giới, dù muốn hay không cũng phải từng bước hội nhập vào quỹ đạo của nền kinh tế thế giới. Trong quá trình quốc tế hóa đời sống kinh tế quốc tế, hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài có vị trí và vai trò ngày càng quan trọng, nó đã và đang là nhân tố cơ bản cấu thành và quy định xu hướng phát triển của các quan hệ kinh tế quốc tế. Một mặt, đầu tư nước ngoài hiện là hoạt động cơ bản của quan hệ kinh tế quốc tế, mặt khác nó là nhân tố đẩy nhanh quá trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới của các nước đang phát triển. Đầu tư trực tiếp nước ngoài đã đóng góp một phần tích cực trong công cuộc đổi mới kinh tế của Việt Nam hơn 10 năm qua. Ý nghĩa của nó không chỉ dừng lại ở những kết quả thống kê về mức sản lượng, doanh thu, giá trị kim ngạch xuất khẩu tỷ lệ đóng góp vào GDP, số chỗ làm việc tạo ra.mà điều quan trọng là từ một “cú hích” ban đầu, ĐTTTNN đã đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam để có thể thoát ra khỏi cái vòng luẩn quẩn, tránh nguy cơ tụt hậu phát triển so với các nước và từng bước hội nhập với kinh tế khu vực và thế giới.

doc45 trang | Chia sẻ: haianh_nguyen | Lượt xem: 1297 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp huy động và sử dụng hiệu quả vốn FDI đáp ứng yêu cầu phát triển của nền kinh tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ũy, chúng ta mới có thể tạo ra khả năng tự lực về kinh tế cho mình trong các giai đoạn phát triển tiếp theo. Để có thể làm được điều này thì việc thu hút mạnh mẽ hơn nữa nguồn vốn FDI là một trong những yêu cầu cấp bách. Những kết quả trên cho thấy trong những năm qua, vốn đầu tư nước ngoài là nguồn vốn bổ sung quan trọng giúp Việt Nam phát triển một nền kinh tế cân đối, bền vững theo yêu cầu của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa. * Đầu tư trực tiếp nước ngoài với tăng trưởng GDP Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài đã góp phần tạo ra những năng lực sản xuất mới, ngành nghề mới, sản phẩm mới, công nghệ mới và phương thức sản xuất kinh doanh mới, từ đó làm tăng năng suất lao động xã hội, tăng tổng sản phẩm quốc nội và làm cho nền kinh tế nước ta từng bước chuyển biến theo hướng kinh tế thị trường hiện đại. Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài luôn có chỉ số phát triển cao hơn chỉ số phát triển của các thành phần kinh tế khác và cao hơn hẳn chỉ số phát triển chung của cả nước. Năm 1995, chỉ số phát triển của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là 114,98% thì chỉ số phát triển chung của cả nước là 109,54%. Số liệu tương ứng của năm 1996 là 119,42% và 109,34%, của năm 1997 là 120,75% và 108,15%, của năm 1998 là 116,88% và 105,8%. Đầu tư trực tiếp nước ngoài đã góp phần đưa nền kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng cao. Trong giai đoạn 1991-1997, nước ta đạt mức tăng trưởng kinh tế bình quân hàng năm khoảng 8,4%. Trong giai đoạn này nguồn vốn FDI chiếm khoảng 26% -30% tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội. Những tính toán sơ bộ cho thấy nếu thời gian qua không có nguồn vốn này thì mức tăng trưởng có thể không vượt quá 5% bình quân năm và nếu không có cả nguồn ODA thì mức tăng trưởng hàng năm có thể chỉ khoảng 3% - 4% trong điều kiện phát huy tốt nội lực. Tỷ trọng đóng góp của khu vực FDI trong GDP ngày càng gia tăng và có xu hướng tương đối ổn định, từ 2% năm 1992 lên trên 9% năm 1997 và đạt 12,7% năm 2000. Điều đó cho thấy hoạt động FDI giữ vai trò ngày càng quan trọng đối với sự tăng trưởng của nền kinh tế nước ta. Bảng 4: Tốc độ tăng trưởng GDP qua các năm (%) Năm 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 Tốc độ 8.7 8.08 8.83 9.54 9.34 8.15 5.76 4.77 6.75 Đóng góp của FDI 2.0 3.6 6.1 6.3 7.39 9.07 10.03 11.75 12.7 Nguồn : Kinh tế VN và Thế giới 2000-2001 - Thời báo kinh tế Việt Nam Một số lượng lớn các dự án FDI sau thời gian chuẩn bị triển khai và xây dựng cơ bản đã đi vào hoạt động, tạo ra sản phẩm và nguồn thu đáng kể. Doanh thu của khu vực FDI liên tục gia tăng với tốc độ nhanh chóng, từ 151 triệu USD năm 1991 lên 2063 triệu USD năm 1995, 3910 triệu USD năm 1998 và đạt 5500 triệu USD trong năm 2000. Tổng doanh thu thời kỳ 1998-2000 đạt 21.641 triệu USD. Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đã đóng góp một phần đáng kể vào ngân sách Nhà nước: 195 triệu USD năm 1995, 263 triệu USD năm 1996, 317 triệu USD năm 1998. Trong giai đoạn 1988-2000, các doanh nghiệp FDI đã đóng góp vào ngân sách tổng cộng khoảng 1749 triệu USD, đây là một con số thực sự có ý nghĩa, góp phần làm giảm bớt tình trạng thâm hụt và nâng cao khả năng chi cho đầu tư phát triển từ ngân sách nhà nước. Số liệu về doanh thu và nộp ngân sách Nhà nước của khu vực FDI: Bảng 5: Doanh thu và nộp NSNN của khu vực FDI Đơn vị : triệu USD Năm 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 Doanh thu 228 505 1026 2063 2743 3851 3910 4600 5500 Nộp NSNN - - 128 195 263 315 317 271 260 Nguồn : Kinh tế VN và Thế giới 2000-2001 - Thời báo kinh tế Việt Nam Ta sẽ đi xem xét cụ thể hơn vai trò của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đối với sự tăng trưởng của các ngành kinh tế nước ta trong những năm vừa qua: Đối với ngành công nghiệp Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài không những chiếm tỷ trọng cao mà còn có xu hướng tăng lên đáng kể trong tổng giá trị sản xuất của toàn ngành. Khu vực FDI luôn tạo ra hơn 25% giá trị sản xuất của toàn ngành công nghiệp. Tỷ trọng giá trị sản xuất của khu vực này đạt được từ 25,1% năm 1995; 26,73% năm 1996; 28,9% năm 1997 đã tăng lên 31,98% năm 1998; 34,73% năm 1999 và 35,5% năm 2000. Tỷ trọng khu vực FDI trong GTSX công nghiệp (%) Năm 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 Tỷ trọng 26.2 26,4 26,2 25,1 26,7 28,9 32 34,7 35,5 Trong ngành công nghiệp khai thác, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đang có vị trí hàng đầu, với tỷ trọng 79% giá trị sản xuất của toàn ngành. Tiêu biểu mức tỷ trọng ở một số năm như sau: 77,8% (năm 1995); 78% (năm 1996); 77,7% ( năm 1997) và 81,4% (năm 1998). Đặc biệt, giá trị sản xuất của ngành khai thác dầu thô và khí tự nhiên chủ yếu do các doanh nghiệp có vốn FDI tạo ra, với các mức cụ thể như sau: 99,7% năm 1995; 99,7% năm 1996; 99,8% năm 1997 và 99,8% năm 1998. Trong công nghiệp chế biến, tỷ trọng giá trị sản xuất của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chiếm khoảng 22% và có xu hướng ngày càng tăng, từ 18,1% (năm 1995); 20,1% (năm 1996); 22,9% (năm 1997) lên 25,3% (năm 1998). Trong đó, ở một số ngành quan trọng, tỷ trọng giá trị sản xuất của các doanh nghiệp FDI như sau: 71% trong ngành sản xuất và sửa chữa xe có động cơ (trong đó 100% trong sản xuất và lắp ráp xe máy, ô tô); 44,3% trong ngành sản xuất sản phẩm bằng da và giả da; 100% trong ngành sản xuất tụ điện, máy in, máy giặt, tủ lạnh, điều hòa không khí, đầu video, sản xuất sợi PE, PES; 67,6% trong ngành sản xuất radio, tivi, thiết bị truyền thông; 31% trong ngành sản xuất kim loại; 22,2% trong sản xuất thiết bị điện, điện tử; 20,1% trong ngành sản xuất hóa chất; 19,1% trong ngành may mặc và 18,6% trong ngành dệt. Các số liệu trên chứng tỏ khu vực FDI có vai trò thực sự quan trọng trong ngành công nghiệp của nước ta và đang nắm giữ hầu hết các ngành ứng dụng khoa học công nghệ tiên tiến. Đối với ngành nông nghiệp Tính đến nay, còn 298 dự án ĐTTTNN đang hoạt động trong lĩnh vực nông lâm nghiệp với tổng số vốn đăng ký gần 2 tỷ USD. Đầu tư nước ngoài đã góp phần nâng cao năng lực sản xuất cho ngành nông nghiệp, chuyển giao cho lĩnh vực này nhiều giống cây, giống con, tạo ra nhiều sản phẩm chất lượng cao, góp phần thúc đẩy quá trình đa dạng hóa sản xuất nông nghiệp và khả năng cạnh tranh của nông lâm sản hàng hóa. Vốn FDI còn góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông lâm nghiệp theo yêu cầu của nền kinh tế CNH-HĐH. Nếu như trước đây đầu tư nước ngoài chỉ chủ yếu tập trung vào lĩnh vực chế biến gỗ, lâm sản.. thì những năm gần đây nhiều dự án đã đầu tư vào các lĩnh vực sản xuất giống, trồng trọt, sản xuất thức ăn chăn nuôi, mía đường, trồng rừng, sản xuất nguyên liệu giấy, chăn nuôi... Như vậy đầu tư trực tiếp nước ngoài đã đóng góp một phần rất lớn vào những thành tựu về tăng trưởng kinh tế mà chúng ta đạt được trong thời gian qua và đang khẳng định vai trò quan trọng của mình trong sự nghiệp phát triển kinh tế của đất nước các giai đoạn tiếp theo. * Đầu tư trực tiếp nước ngoài với chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế Trong các mục tiêu kinh tế vĩ mô, quan trọng hàng đầu là tốc độ tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu có quan hệ mật thiết với nhau: tăng trưởng khác nhau giữa các ngành, lĩnh vực và vùng lãnh thổ sẽ làm thay đổi cơ cấu kinh tế; ngược lại, chuyển dịch cơ cấu kinh tế sẽ làm thay đổi tốc độ tăng trưởng, nếu chuyển dịch cơ cấu theo hướng tiến bộ phù hợp với những điều kiện kinh tế đất nước và quan hệ quốc tế của mỗi thời kỳ sẽ thúc đẩy tăng trưởng nhanh, hiệu quả cao và bền vững. Trong điều kiện nền kinh tế mở, các quan hệ kinh tế quốc tế tạo ra động lực và điều kiện cho sự dịch chuyển nhanh cơ cấu kinh tế của các quốc gia. Trong đó ĐTTTNN là một động lực mạnh mẽ, có ý nghĩa to lớn đến sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế. Đầu tư nước ngoài đã góp phần tích cực thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu theo hướng tiến bộ, phù hợp với định hướng chiến lược CNH-HĐH của nước ta. Bảng 6: Tốc độ tăng trưởng các ngành kinh tế Năm Tốc độ tăng trưởng so với năm trước (%) Nông lâm nghiệp và thủy sản Công nghiệp và xây dựng Dịch vụ 1991 2.18 7.71 7.38 1992 6.88 12.79 7.58 1993 3.28 12.62 8.64 1994 3.37 13.39 9.56 1995 4.80 13.60 9.83 1996 4.40 14.46 8.80 1997 4.33 12.62 7.14 1998 3.53 8.33 5.08 1999 5.23 7.68 2.25 2000 4.04 10.07 5.57 Nguồn : Kinh tế VN và Thế giới 2000-2001 - Thời báo kinh tế Việt Nam Đầu tư trực tiếp nước ngoài thúc đẩy sự phát triển của công nghiệp và các hoạt động dịch vụ trong nền kinh tế. Hai khu vực này luôn có tốc độ tăng trưởng nhanh hơn khu vực nông nghiệp, chỉ trừ năm 1998, nhịp tăng của dịch vụ trong tổng sản phẩm xã hội giảm xuống còn 5,08% và năm 1999 còn 2,25%, thấp hơn so với khu vực nông nghiệp mà nguyên nhân trực tiếp và gián tiếp là do sự giảm sút luồng FDI đã ảnh hưởng đến vốn đầu tư, gián tiếp đến công ăn việc làm, thu nhập và như vậy làm giảm sức mua trong nước. FDI giảm kéo theo lượng khách du lịch (kết hợp với kinh doanh) giảm, gián tiếp làm giảm doanh thu ngành vận tải, du lịch, khách sạn, nhà hàng... Điều này một lần nữa cho thấy vai trò quan trọng của nguồn vốn FDI. Cơ cấu vốn FDI ngày càng thay đổi phù hợp với yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế của đất nước, phân bố FDI thực hiện đến nay cho thấy: công nghiệp, xây dựng chiếm 48,5%; dịch vụ chiếm 47,5%. Tính đến ngày 15/03/2001, trong số các dự án FDI còn hiệu lực thì khu vực công nghiệp có 1715 dự án, với tổng vốn đầu tư 19430,413 triệu USD, chiếm 53,5% tổng vốn FDI cả nước; tiếp theo là ngành dịch vụ với 638 dự án và lượng vốn đầu tư 14796,008 triệu USD, chiếm 40,73%; khu vực nông lâm nghiệp có 348 dự án với số vốn đầu tư 2103,353 triệu USD, chiếm 5,77%. Vốn đầu tư nước ngoài vào các ngành như trên đã biểu hiện phù hợp các chỉ số của cơ cấu kinh tế hiện đại, công nghiệp hóa: Công nghiệp - Dịch vụ - Nông nghiệp. Những năm gần đây, đầu tư nước ngoài vào khu vực công nghiệp ngày càng gia tăng (khoảng 2/3 nguồn vốn đầu tư) đã nâng tỷ trọng khu vực FDI trong giá trị sản xuất công nghiệp lên khoảng 34,7% vào năm 1999. Trong những năm 1996-1999, giá trị sản xuất công nghiệp ở khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng khá cao đạt mức 22,3% bình quân năm. Nguồn vốn FDI cũng góp phần thúc đẩy ngành dịch vụ phát triển, nâng tỷ trọng của ngành này trong GDP lên trên 42% vào những năm 1995-1997. Cơ cấu ngành kinh tế đã có sự chuyển dịch đáng kể: nông nghiệp tăng khá về giá trị tuyệt đối, song tỷ trọng trong GDP giảm từ 38,7% năm 1990 xuống còn khoảng 25% vào năm 2000, tương ứng công nghiệp và xây dựng tăng từ 22,7% lên khoảng 34,5% và dịch vụ từ 38,6% lên 40,5%. Bảng 7: Cơ cấu ngành kinh tế qua các năm (đơn vị %) Cơ cấu ngành kinh tế Năm 1990 Năm 1995 Năm 2000 (ước tính) Thay đổi sau 10 năm Tổng số 100,0 100,0 100,0 Nông lâm ngư nghiệp 38,7 27,2 25,0 - 13,7 Công nghiệp và xây dựng 22,7 28,8 34,5 + 11,8 Dịch vụ 38,6 44,0 40,5 + 1,90 Nguồn : Tổng kết tình hình thực hiện chiến lược 10 năm (1991-2000) - Bộ KH & ĐT Nhà nước ta đã có chính sách thu hút nhiều nguồn vốn khác nhau tài trợ cho các vùng chậm phát triển, vùng khó khăn. Xu hướng thu hút vốn đầu tư nước ngoài đã từng bước lan ra các vùng ngoài các vùng phát triển trọng điểm. Nếu trong những năm đầu khi có Luật đầu tư nước ngoài, ở các tỉnh phía Bắc chỉ chiếm 25% số dự án với 20% tổng vốn đầu tư, thì đến hết năm 1999 các tỉnh phía Bắc thu hút trên 30% số dự án với trên 35% vốn đầu tư. Đến nay đã có 59 trong tổng số 61 tỉnh và thành phố trực thuộc TW có dự án đầu tư nước ngoài. Tốc độ tăng vốn đầu tư bình quân hàng năm trong 10 năm qua, nhanh nhất là Trung du miền núi phía Bắc, khoảng 19% năm, các vùng khác từ 15-17% / năm. Bên cạnh đó, ĐTTTNN còn góp phần chủ yếu đẩy nhanh quá trình hình thành các khu công nghiệp (KCN), khu chế xuất (KCX), vùng kinh tế trọng điểm, ngành công nghiệp mũi nhọn của nền kinh tế Việt Nam. Đến cuối tháng 7/1998, Việt Nam đã có 54 KCN, KCX trong đó 48 KCN-KCX đã đi vào hoạt động, phân bố rộng khắp từ Bắc vào Nam. Đến hết tháng 6/1998 trong các KCN đã có 609 doanh nghiệp hoạt động với tổng vốn đầu tư khoảng 5,8 tỷ USD, vốn thực hiện 3,5 tỷ USD, thu hút 120.000 lao động, đạt giá trị sản xuất công nghiệp 890 triệu USD, xuất khẩu 552 triệu USD trong 6 tháng đầu năm 1998. ĐTNN đã góp phần hình thành 3 vùng kinh tế trọng điểm của 3 miền Bắc-Trung-Nam, mỗi vùng là một khu vực kinh tế tăng trưởng nhanh, có tác dụng đầu tàu đối với kinh tế Việt Nam. Cơ cấu kinh tế theo vùng lãnh thổ bước đầu có sự chuyển biến theo hướng khai thác thế mạnh của từng vùng, các vùng phát triển trọng điểm. Năm 1999, ba vùng kinh tế trọng điểm tạo ra khoảng 48% GDP, 69,2% giá trị gia tăng công nghiệp. Như vậy, bên cạnh vai trò là nguồn bổ sung vốn quan trọng, góp phần đáng kể vào tăng trưởng GDP, hoạt động ĐTTTNN còn có tác động tích cực thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế theo hướng CNH-HĐH. * Đầu tư trực tiếp nước ngoài với hoạt động xuất nhập khẩu và quá trình mở cửa, hội nhập nền kinh tế thế giới Đầu tư trực tiếp nước ngoài thúc đẩy quá trình mở cửa và hội nhập của nền kinh tế Việt Nam với thế giới, nó là một trong những phương thức đưa hàng hóa sản xuất tại Việt Nam thâm nhập thị trường nước ngoài một cách có lợi nhất. Các nhà đầu tư nước ngoài thông qua thực hiện dự án đầu tư đã trở thành “cầu nối”, là điều kiện tốt để Việt Nam nhanh chóng tiếp cận và tiến hành hợp tác được với nhiều quốc gia, nhiều tổ chức quốc tế cũng như những trung tâm kinh tế, kỹ thuật, công nghệ mạnh của thế giới. Đầu tư trực tiếp nước ngoài đã giúp Việt Nam mở rộng hơn thị phần ở nước ngoài. Đối với những hàng hóa xuất khẩu của các doanh nghiệp FDI, vô hình chung đã biến các bạn hàng truyền thống của các nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam thành bạn hàng của Việt Nam. Sự ra đời và hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đã làm cho thị trường xuất khẩu của Việt Nam không ngừng được mở rộng. Trong những năm qua kim ngạch xuất khẩu của nước ta liên tục có sự tăng trưởng với tốc độ khá cao. Năm 2000 kim ngạch xuất khẩu tăng 24% so với năm 1999. Tỷ trọng xuất khẩu/ GDP giai đoạn 1991-1999 cho thấy xu thế mở cửa của nền kinh tế Việt Nam ngày càng gia tăng. Đến năm 1999, tỷ trọng xuất khẩu so với GDP đạt mức 40,7%. Bảng 8: Tình hình xuất khẩu của Việt Nam thời gian qua Năm 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 Xuất khẩu (triệu USD) 2581 2985 4054 5449 7256 9145 9361 11540 14308 Xuất khẩu so GDP (%) 26,1 23,3 26,1 26,3 29,5 35 34,3 40.7 _ Tốc độ tăng trưởng (%) 23,7 15,7 35,8 34,4 33,2 26,6 1,9 23,3 24 Nguồn : Cơ sở khoa học của một số vấn đề trong chiến lược phát triển KT-XH Việt Nam đến năm 2010 và tầm nhìn 2020 - Viện chiến lược phát triển Nhờ có những lợi thế trong hoạt động thị trường thế giới nên tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu (KNXK) của các doanh nghiệp có vốn FDI cao hơn tốc độ tăng KNXK của cả nước và cao hơn hẳn KNXK của các doanh nghiệp trong nước. Năm 1996, KNXK của các doanh nghiệp FDI tăng 78,6% so với năm trước, thì KNXK của cả nước tăng 33,2%, còn KNXK của các doanh nghiệp trong nước chỉ tăng 29,5%. Số liệu tương ứng của năm 1997 là: 127,7%; 26,6% và 14%; của năm 1998 là: 10,7%; 2,4% và 1,8%; năm 1999 là: 30,2%; 23% và 21,1%. Về số tuyệt đối, KNXK của các doanh nghiệp FDI đã tăng một cách đáng kể qua các năm. Nếu năm 1991 đạt 52 triệu USD, năm 1995 đạt 445 triệu USD, năm 1997 đạt 1790 triệu USD thì năm 1999 đạt 2590 triệu USD và năm 2000 đạt tới 3320 triệu USD. Như vậy, KNXK của các doanh nghiệp loại này đạt được trong năm 2000 gấp 7,4 lần của năm 1995 và gần bằng 64 lần của năm 1991. Dưới đây là số liệu về tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu của khu vực FDI : Năm 92 93 94 95 96 97 98 99 Tóc độ tăng(%) 115 129 37 25 79 128 11 30 Nguồn : Vụ Quản lý dự án - Bộ KH-ĐT Về số tương đối, tỷ trọng KNXK của các doanh nghiệp có vốn FDI trong tổng KNXK của cả nước đang có xu hướng tăng lên. Năm 1992 chiếm 4,3%, năm 1996 chiếm 12,7% và đến năm 2000 đã chiếm 23,2% tổng KNXK của cả nước. Bảng 9: Xuất khẩu của các doanh nghiệp FDI Năm 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 Xuất khẩu (triệu USD) 112 269 352 445 920 1790 1982 2590 3320 So với cả nước (%) 4,3 9 8,7 8,1 12,7 19,6 21,2 22,4 23,2 Nguồn : Vụ Quản lý dự án - Bộ KH-ĐT Như vậy, các doanh nghiệp ĐTTTNN đang đóng vai trò quan trọng trong sản xuất và xuất khẩu hàng hóa ở nước ta. Kết quả đáng khích lệ đó một phần do nỗ lực của bản thân các doanh nghiệp, một phần do chính sách Nhà nước ngày một thông thoáng nhằm khuyến khích mạnh mẽ các doanh nghiệp FDI tham gia sản xuất và xuất khẩu. Khoảng gần 2/3 số dự án mới cấp phép trong hơn một năm nay là đầu tư tại các khu công nghiệp, khu chế xuất và đều gắn với mục tiêu xuất khẩu ít nhất từ 50% sản phẩm trở lên. Điều đó báo hiệu khả năng gia tăng xuất khẩu của nước ta nói chung, của khu vực doanh nghiệp FDI nói riêng trong những năm tới. * Đầu tư trực tiếp nước ngoài với giải quyết công ăn việc làm, nâng cao năng lực của người lao động Hoạt động của các dự án ĐTTTNN đã tạo ra một số lượng lớn chỗ làm việc trực tiếp và gián tiếp có thu nhập cao, đồng thời góp phần hình thành cơ chế thúc đẩy việc nâng cao năng lực cho người lao động Việt Nam. Tính đến ngày 31-12-2000, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã tạo ra cho Việt Nam khoảng 349.000 chỗ làm việc trực tiếp và khoảng 1 triệu lao động gián tiếp (bao gồm công nhân xây dựng và các ngành sản xuất, dịch vụ phụ trợ có liên quan) - theo tính toán của Ngân hàng thế giới. Như vậy, số lao động làm việc trong các bộ phận có liên quan đến hoạt động của các dự án đầu tư nước ngoài bằng khoảng 39% tổng số lao động bình quân hàng năm trong khu vực nhà nước. Ngành công nghiệp nhẹ là ngành tạo ra nhiều việc làm nhất, với hơn 15 vạn chỗ làm việc, chiếm gần 50% số lao động trong khối FDI. Đây là một kết quả nổi bật của hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài. Bảng 10: Giải quyết việc làm khu vực FDI (1000 người) Năm 1996 1997 1998 1999 2000 Số việc làm 220 250 270 296 349 Nguồn : Vụ Quản lý dự án - Bộ KH-ĐT Thu nhập bình quân của lao động làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là 70 USD/ tháng (tương đương khoảng 980.000 đồng), bằng khoảng 150% mức thu nhập bình quân của lao động trong khu vực nhà nước. Đây là yếu tố hấp dẫn đối với lao động Việt Nam, do đó đã tạo ra sự cạnh tranh nhất định trên thị trường lao động. Tuy nhiên, lao động làm việc trong các doanh nghiệp này đòi hỏi cường độ lao động cao, kỷ luật lao động nghiêm khắc...đúng với yêu cầu của lao động làm việc trong nền sản xuất hiện đại. Trong một số lĩnh vực còn yêu cầu đối với lực lượng lao động phải có trình độ cao về tay nghề, học vấn và ngoại ngữ. Các nhân viên trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã tiếp thu được công nghệ quản lý hiện đại, nâng cao trình độ tin học, ngoại ngữ, có điều kiện cập nhật các kiến thức, phương tiện, công cụ mới trong quản lý kinh tế, có điều kiện làm quen và tự rèn luyện tác phong công nghiệp, sử dụng thành thạo các máy móc thiết bị hiện đại. Sự hấp dẫn về thu nhập cùng với đòi hỏi cao về trình độ là những yếu tố tạo nên cơ chế buộc người lao động Việt Nam có ý thức tự tu dưỡng, rèn luyện, nâng cao trình độ và tay nghề để có thể đủ điều kiện được tuyển chọn vào làm việc tại các doanh nghiệp loại này. Số công nhân hiện còn làm việc tại các doanh nghiệp FDI đều được bồi dưỡng trưởng thành và tạo nên một đội ngũ công nhân lành nghề, đáp ứng được yêu cầu đối với người lao động trong nền sản xuất tiên tiến. Về đội ngũ các cán bộ quản lý, kinh doanh: trước khi bước vào cơ chế thị trường, chúng ta chưa có nhiều nhà doanh nghiệp giỏi có khả năng tổ chức sản xuất kinh doanh có hiệu quả trong môi trường cạnh tranh. Khi các dự án đầu tư nước ngoài bắt đầu hoạt động, các nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam những chuyên gia giỏi, đồng thời áp dụng những chế độ quản lý, tổ chức, kinh doanh hiện đại nhằm thực hiện dự án có hiệu quả. Đây chính là điều kiện tốt một mặt để các doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận, học tập và nâng cao trình độ, kinh nghiệm quản lý; mặt khác, để liên doanh có thể hoạt động tốt, nhà đầu tư nước ngoài cũng buộc phải đào tạo cán bộ quản lý cũng như lao động Việt Nam đến một trình độ đủ để đáp ứng được yêu cầu kỹ thuật, công nghệ đang sử dụng trong các dự án. Như vậy dù không muốn thì các nhà đầu tư nước ngoài cũng phải tham gia vào công tác đào tạo nguồn nhân lực Việt Nam. Đến nay, chúng ta có khoảng 6.000 cán bộ quản lý, 25.000 cán bộ kỹ thuật đang làm việc tại các doanh nghiệp có vốn FDI. Như vậy, thông qua việc thu hút và tạo ra thu nhập ổn định cho một lượng lớn lao động xã hội, ĐTTTNN đã góp phần đào tạo và nâng cao tay nghề cho người lao động Việt Nam, chuyển đổi cơ cấu lao động xã hội theo hướng giảm lao động nông nghiệp, tăng lao động công nghiệp và dịch vụ cả về số lượng, tỷ trọng lẫn chất lượng, góp phần giảm các tệ nạn xã hội cũng như giảm các tội phạm về kinh tế, tăng sự ổn định chính trị - xã hội của cả nước cũng như từng địa phương. * Đầu tư trực tiếp nước với hoạt động chuyển giao công nghệ, nâng cao trình độ kỹ thuật của nền sản xuất Khi đầu tư vào Việt Nam, chủ đầu tư không chỉ chuyển vào nước ta vốn bằng tiền mà còn chuyển cả vốn hiện vật như máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu...(còn gọi là công nghệ cứng) và vốn vô hình như chuyên gia kỹ thuật công nghệ, tri thức khoa học, bí quyết quản lý...(còn gọi là công nghệ mềm). Thông qua hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài, quá trình chuyển giao công nghệ được thực hiện tương đối nhanh chóng và thuận tiện cho cả bên Việt Nam và bên chủ đầu tư. Về vấn đề những công nghệ đang được sử dụng ở các doanh nghiệp FDI thuộc ngành công nghiệp nói riêng và trên toàn bộ nền kinh tế Việt Nam nói chung cũng còn nhiều ý kiến đánh giá khác nhau. Nhưng qua đánh giá thực tế của một số cơ quan chuyên môn và phân tích theo logic ta thấy rằng: - Các nhà đầu tư nước ngoài bao giờ cũng đặt lợi nhuận và thời gian thu hồi vốn làm mục tiêu hàng đầu. Những thiết bị công nghệ mà họ đưa vào sử dụng tại các dự án đầu tư ở ta tuy có thể đã đến lúc cần thay thế ở nước họ, nhưng vì đi cùng với những thiết bị, công nghệ này thường là một số lượng nhất định tiền vốn phải bỏ ra, xuất phát từ sự gắn liền với lợi ích của mình như vậy nên khi chuyển thiết bị, công nghệ vào nước ta, bên nước ngoài cũng cân nhắc tính toán kỹ. chúng ta tin rằng họ chỉ chuyển vào những thiết bị công nghệ mà họ thấy còn phù hợp với trình độ và phát huy được hiệu quả tại Việt Nam, để chí ít họ cũng còn khả năng thu hồi được vốn và có lãi (tất nhiên ta không loại trừ những trường hợp cá biệt, ngoại lệ). - Thực tế, những thiết bị, công nghệ của nước ngoài chuyển vào thực hiện dự án đầu tư tại Việt Nam lâu nay chưa phải là những loại thuộc thế hệ hiện đại nhất của thế giới nhưng phần lớn là hiện đại hơn rất nhiều những thiết bị có trước đây tại Việt Nam. Kết quả hoạt động chuyển giao công nghệ qua các dự án FDI thời gian qua đã góp phần nâng cao một cách rõ rệt trình độ công nghệ của sản xuất trong nước so với thời kỳ trước. Nhiều công nghệ mới đã được thực hiện và nhiều sản phẩm mới đã được sản xuất trong các xí nghiệp FDI. Một số ngành đã tiếp thu được công nghệ tiên tiến, tiếp cận với trình độ hiện đại của thế giới như ngành bưu chính viễn thông, thăm dò và khai thác dầu khí...Hầu hết các trang thiết bị được đưa vào các xí nghiệp FDI tương đối đồng bộ và là các thiết bị có trình độ cơ khí hóa trung bình, cao hơn các trang thiết bị cùng loại đã có trong nước và thuộc loại phổ cập ở các nước trong khu vực. Phần lớn các thiết bị được trang bị các bộ gá chuyên dùng kèm theo các phương tiện nâng-hạ-vận chuyển phục vụ cho dây chuyền sản xuất chuyên môn hóa. Một số dây chuyền được trang bị các thiết bị riêng lẻ có trình độ tự động hóa cao, như các dây chuyền lắp ráp các bản mạch điện tử, tổng đài điện thoại kỹ thuật số, lắp ráp các mặt hàng điện tử. Một số ít có các thiết bị tự động hóa hoàn toàn, sản phẩm thiết kế và sản xuất được điều khiển bằng kỹ thuật vi tính. Hoạt động chuyển giao công nghệ trong đầu tư nước ngoài đã tạo ra nhiều sản phẩm có chất lượng tốt và hình thức, mẫu mã đẹp, đáp ứng tốt hơn nhu cầu của thị trường trong nước và xuất khẩu ra nước ngoài. Đồng thời hạn chế đến mức tối đa các loại hàng trước đây ta phải nhập khẩu với khối lượng lớn như bia, sắt thép xây dựng, sứ vệ sinh, xi măng... Chất lượng các loại sản phẩm của khu vực FDI hầu hết đạt tiêu chuẩn Việt Nam (TCVN), một số đạt tiêu chuẩn quốc tế (ISO). Một vấn đề có ý nghĩa nữa là nếu như trước đây, các doanh nghiệp Việt Nam chỉ biết sản xuất kinh doanh thụ động, theo sự chỉ định kế hoạch của cấp trên, không cần đầu tư, cải tiến, không cần tìm hiểu thị trường, quảng cáo, tiếp thị sản phẩm, sản phẩm sản xuất ra không bị cạnh tranh...thì sự xuất hiện của các doanh nghiệp có vốn FDI đã thực sự trở thành nhân tố tác động mạnh làm thay đổi căn bản phương thức sản xuất- kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam theo hướng tích cực và ngày càng thích nghi với nền kinh tế thị trường. Như vậy, bên cạnh một số tồn tại, các công nghệ và thiết bị được nhập vào nước ta qua các dự án đầu tư nước ngoài là những công nghệ đã ổn định và phổ cập ở các nước đang phát triển, phù hợp với quy mô sản xuất và thị trường tiêu thụ sản phẩm ở nước ta. Các công nghệ này đã nhanh chóng tạo ra lợi nhuận, phù hợp với giai đoạn phát triển ban đầu của nền kinh tế thị trường, tạo ra công ăn việc làm cho người lao động, đáp ứng nhu cầu của đời sống xã hội. Đồng thời hoạt động đầu tư nước ngoài cũng có tác động thúc đẩy phát triển công nghệ trong nước trong bối cảnh có sự cạnh tranh của cơ chế thị trường. Nước ta có lợi thế so sánh về nguồn lực con người nên trước mắt, các công nghệ hiện đại có thể tác động không tốt đến công ăn việc làm nhưng về lâu dài, chúng ta cần phải có chính sách chú trọng tìm kiếm, đầu tư và thu hút các nhà đầu tư có công nghệ tiên tiến, kỹ thuật cao để đưa nền sản xuất nước ta theo kịp sự phát triển của khu vực và thế giới. Trên đây là những tác động chủ yếu của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với nền kinh tế Việt Nam. Ngoài ra hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài còn có tác động đến nhiều mặt, nhiều lĩnh vực khác của nền kinh tế như ảnh hưởng đến cán cân thanh toán quốc tế, tỷ giá hối đoái, phát triển cơ sở hạ tầng, mở rộng các mối quan hệ ngoại giao... Cần phải hiểu rằng, FDI không thể là phương thuốc thần kỳ có thể giúp giải quyết hết tất cả các vấn đề còn tồn tại của một nền kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi như Việt Nam, và thậm chí nó còn gây ra nhiều tác động tiêu cực đang được xem xét và đánh giá cụ thể. Tuy nhiên, trong sự tăng trưởng kinh tế đáng khích lệ những năm vừa qua, FDI đã giữ một vai trò hết sức quan trọng. Những phân tích trên chưa thể đánh giá hết vai trò tích cực và tầm quan trọng của ĐTTTNN đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế của nước ta. Tuy nhiên ta có thể khẳng định lại một điều đầu tư trực tiếp nước ngoài đã góp một phần tích cực và vô cùng quan trọng trong công cuộc đổi mới kinh tế của Việt Nam hơn 10 năm qua, nó như một nguồn năng lượng quyết định khởi động cho cỗ máy kinh tế Việt Nam đi vào quỹ đạo của sự tăng trưởng và phát triển. ĐTTTNN là một trong những điều kiện đảm bảo cho sự thành công của công cuộc CNH-HĐH, là một kênh đưa kinh tế Việt Nam hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới. 3. Sự sụt giảm của dòng FDI vào Việt Nam Sau những năm phát triển mạnh mẽ, từ năm 1997 đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam có biểu hiện suy giảm, nhất là đến các năm 1998, 1999 thì xu hướng giảm đó càng rõ rệt hơn. Nếu so với năm 1997 số dự án được duyệt của năm 1998 chỉ bằng 79,71%; năm 1999 chỉ bằng 80,58%. Số liệu tương ứng của vốn đăng ký là 83,83% và 30,01%. Quy mô dự án theo vốn đăng ký bình quân của năm 1999 nhỏ đi một cách đột ngột và ở mức thấp nhất từ trước đến nay (5,52 triệu USD / dự án), bằng 41,19% quy mô bình quân của thời kỳ 1988-1999. Đã có nhiều lý giải về nguyên nhân của xu hướng này: Kinh tế Mỹ, Nhật, Tây Âu đang phục hồi sau một thời gian suy thoái đã thúc đẩy các chủ đầu tư trên thế giới đưa trên 70% tổng số vốn FDI vào các nước công nghiệp phát triển. Các nước đang phát triển cạnh tranh gay gắt với nhau để thu hút 30% lượng vốn FDI còn lại, nhất là khu vực Đông Nam á, Trung Quốc và ấn Độ. Môi trường đầu tư của Việt Nam chưa phải là hấp dẫn so với các nước khác dẫn tới thu hút FDI gặp khó khăn. ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực Châu á. Việc Việt Nam gia nhập ASEAN, cùng xây dựng AFTA thống nhất vào năm 2006, khiến cho các nhà đầu tư nước ngoài phải tính toán: nếu môi trường đầu tư ở Việt Nam chưa hấp dẫn thì có thể đầu tư vào các nước thành viên khác của ASEAN, vốn có môi trường đầu tư tốt và quen thuộc hơn, hoặc mở rộng quy mô, năng lực sản xuất tại các cơ sở hiện có của họ tại các nước này, sau đó thâm nhập vào thị trường Việt Nam bằng con đường thương mại. Việt Nam chưa phải thành viên của Tổ chức thương mại quốc tế (WTO), chưa được hưởng chế độ Tối huệ quốc của Mỹ, cũng là trở ngại cho các nhà đầu tư nước ngoài xây dựng cơ sở sản xuất hàng xuất khẩu tại Việt Nam. Sau hơn mười năm kể từ ngày ban hành, Luật đầu tư nước ngoài của Việt Nam đã thay đổi hai lần và chi tiết thi hành luật đầu tư thay đổi 4 lần, đặc biệt chủ trương gần đây của Chính phủ điều chỉnh chính sách để đầu tư nước ngoài hướng mạnh vào xuất khẩu, tăng tỷ lệ góp vốn của bên Việt Nam, quản lý chặt việc chuyển đổi ngoại tệ...khiến cho dư luận nước ngoài đánh giá chính sách đầu tư thiếu ổn định và nhất quán, việc thắt chặt các điều kiện đầu tư không phù hợp với thông lệ quốc tế . So với các nước trong khu vực, thuế lợi tức và giá nhân công của Việt Nam thấp nhưng cường độ lao động và kỹ năng lao động của người Việt Nam cũng thấp, giá thuê dịch vụ văn phòng, cước phí viễn thông cao, chi phí đền bù và giải toả mặt bằng lớn. Còn có quá nhiều lệ phí (theo thống kê chưa đầy đủ, hiện có khoảng 200 loại lệ phí đang thực hiện, một số lệ phí thậm chí còn cao hơn thuế) gây cho nhà đầu tư cảm giác mình phải đóng quá nhiều thuế. Mức thuế xuất nhập khẩu ở nhiều khâu bất hợp lý gây thiệt hại cho các doanh nghiệp. Thủ tục hải quan không rõ ràng, tùy tiện áp mã số để tính thuế. Thủ tục triển khai dự án phức tạp, kéo dài nhất là khâu cấp đất, giải phóng mặt bằng, xét duyệt và sửa chữa thiết kế, thủ tục hải quan, đăng ký các loại hình kinh doanh sau giấy phép. Việc chưa cho phép các doanh nghiệp ngoài quốc doanh được góp vốn bằng quyền sử dụng đất đai hợp pháp cũng hạn chế khả năng thu hút vốn đầu tư FDI. Quản lý đầu tư nước ngoài thiếu thống nhất, mỗi địa phương có lệ riêng, thêm vào đó là nạn tham nhũng, khiến các nhà đầu tư nước ngoài không lường hết các khó khăn khi triển khai dự án đầu tư tại Việt Nam. Thiếu một quy hoạch thu hút vốn đầu tư thống nhất theo ngành và theo lãnh thổ để hướng dẫn đầu tư, khiến nhiều dự án được cấp phép vào các ngành hàng còn dư thừa công suất, khâu triển khai sau giấy phép gặp khó khăn, nhiều dự án hoạt động kém hiệu quả. Chính sách hai giá trong một số dịch vụ đối với người nước ngoài và Việt Nam khiến cho nhà đầu tư cảm thấy bị đối xử không công bằng. Nhiều địa phương còn có tiềm năng lợi thế thu hút FDI nhưng cơ sở hạ tầng yếu kém nên không hấp dẫn các nhà đầu tư. Năng lực của những người thi hành luật như: hải quan, thuế vụ còn yếu, cán bộ quản lý bên phía Việt Nam tham gia các dự án liên doanh trình độ hạn chế. Đây cũng là những yếu tố ảnh hưởng xấu đến môi trường đầu tư của Việt Nam. Thiếu nhiều luật cần thiết để đảm bảo cơ sở pháp lý vững chắc cho quá trình đầu tư như: Luật ngân hàng, luật bảo hiểm, luật cạnh tranh... III. Một số giảp pháp nhằm thu hút fdi đáp ứng yêu cầu phát triển nền kinh tế. 1. Mục tiêu và định hướng phát triển của nền kinh tế Với những cách tiếp cận khác nhau, dưới những tiền đề khác nhau về điểm xuất phát năm 2000 của Việt Nam, mức tăng trưởng GDP bình quân năm của các giai đoạn 2001-2010 co giãn trong một khoảng khá rộng tùy thuộc vào các yếu tố nội lực và bối cảnh quốc tế. Các yếu tố sau đây là những nhân tố tích cực thúc đẩy sự tăng trưởng cao của đất nước : Thực tiễn 10 năm qua khẳng định tính đúng đắn của đường lối đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng. Tiếp tục đường lối đổi mới một cách sâu rộng sẽ là tiền đề quan trọng cho sự phát triển đất nước ta trong những thập kỷ tới. Xem xét các yếu tố sản xuất có thể thấy, yếu tố thúc đẩy tăng trưởng cao trong giai đoạn 1991-1997 là vốn đầu tư. Yếu tố lao động (không tay nghề) đóng góp chủ yếu ở khu vực nông nghiệp và dịch vụ. Hàm lượng khoa học kỹ thuật trong tăng trưởng chưa cao, nếu có chính sách đầu tư đúng để nâng cao hàm lượng này thì đây là một yếu tố tích cực tác động tới tăng trưởng cao trong những thập kỷ tới. Tiềm lực khu vực dịch vụ, đặc biệt là các dịch vụ sản xuất vẫn còn to lớn Tạo được sự bổ sung lẫn nhau giữa các thành phần kinh tế. Để tính toán cho các nước đang phát triển, các chuyên gia quốc tế thường ước tính đối với các yếu tố đầu vào: vốn đóng vai trò lớn hơn, từ 60%-70%, lao động đóng góp 30-40%. Khảo sát tình hình tăng trưởng của các nước khu vực trong vòng 30 năm qua cho thấy có thể lấy mức đóng góp của lao động là 35%, của vốn 65% và TFP trong khoảng từ 2% đến 2,5% để mô phỏng cho Việt Nam. Kết quả mô phỏng cho thấy về trung bình mức tăng trưởng 7%-8% năm cho giai đoạn 2001-2010 đối với Việt Nam có thể coi là mức cơ sở. Dựa trên các kết quả phân tích, đánh giá đó Đảng và Nhà nước đã xác định phương án tăng trưởng cho nền kinh tế đến 2010 với giả thiết hết năm 2000 đất nước ta về cơ bản đã chặn được đà suy giảm tăng trưởng; trong giai đoạn đầu đến 2005 các yếu tố nội lực được phát huy tốt, các yếu tố ngoại lực ở mức trung bình (tương ứng với mức tăng trưởng vốn cố định khoảng 7% bình quân năm, thu hút lao động thêm vào các ngành kinh tế quốc dân khoảng 2,5% năm và đóng góp của khoa học công nghệ vào tăng trưởng khoảng 1,8%), việc thực hiện các thoả thuận AFTA vào năm 2006 có thể hạn chế mức tăng trưởng đến 2010. Nhờ chuyển dịch cơ cấu đầu tư nên hiệu quả vốn tăng dần. Theo phương án này, trong giai đoạn 2001-2005 tốc độ tăng trưởng GDP bình quân năm ở mức 7,0%-7,5%. Trong đó, nông nghiệp 3,3%-3,6%, công nghiệp và xây dựng tăng 9%-10%, dịch vụ tăng 6,3%-6,7%. Giai đoạn 2006-2010 tốc độ tăng trưởng GDP bình quân năm đạt 7%-7,5%, trong đó, nông lâm ngư nghiệp tăng 3,2% - 3,4%, công nghiệp và xây dựng tăng 9,5%-10%, dịch vụ tăng 6,4%-6,8%. Với tốc độ tăng trưởng như trên, đến năm 2005 tỷ trọng các ngành nông lâm ngư nghiệp, công nghiệp và xây dựng, dịch vụ trong GDP tương ứng là 21% - 36,9% - 42,1% và đến 2010 là 17,3% - 39,6% - 43,2%. Để tăng gấp đôi GDP trong khoảng 10 năm đòi hỏi một nhịp tăng trưởng bình quân năm khoảng 7,2% trong cả giai đoạn 2001-2010. Để đạt được mục tiêu tăng trưởng đã đề ra, Đảng và Nhà nước ta xác định phải huy động được vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài khoảng 10-12 tỷ USD cho giai đoạn 2001-2005 và 14-16 tỷ USD giai đoạn 2006-2010. Đây là một nhiệm vụ hết sức khó khăn nhất là trong điều kiện nước ta đang phải chịu ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính-tiền tệ khu vực và dòng vốn đầu tư nước ngoài có xu hướng giảm xuống trong những năm gần đây. Tuy nhiên, nếu có những giải pháp đúng đắn và đồng bộ, chúng ta hoàn toàn có khả năng đạt được mục tiêu này. Sự ổn định chính trị - xã hội cùng với chính sách nhất quán và lâu dài của Việt Nam trong hội nhập với khu vực và thế giới và những lợithế vốn có về tài nguyên, con người sẽ vẫn là những thế mạnh của môi trường đầu tư Việt Nam. 2. Giải pháp huy động và sử dụng hiệu quả vốn fdi đáp ứng yêu cầu phát triển của nền kinh tế Trên cơ sở phân tích những thuận lợi, khó khăn và dựa vào kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2001-2005, các chuyên gia quản lý đầu tư nước dự kiến vốn thực hiện của các dự án đầu tư nước ngoài trong 5 năm tới sẽ có nhu cầu khoảng trên 11 tỷ USD (theo giá năm 2000), chiếm khoảng 18-20% vốn đầu tư toàn xã hội. Trong đó, vốn thực hiện từ các dự án đã cấp phép trước năm 2001 sẽ tiếp tục triển khai (khoảng 4-5 tỷ USD), từ các dự án hoạt động hiệu quả sẽ tăng vốn (khoảng 2 tỷ USD) và vốn thực hiện của các dự án cấp mới (khoảng 4-5 tỷ USD). Để thực hiện được nhiệm vụ này và nâng cao hiệu quả hoạt động trong lĩnh vực đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam, phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế lâu dài của đất nước theo hướng CNH-HĐH, từng bước hội nhập với khu vực và thế giới, cần phải nghiên cứu đề ra một hệ thống các giải pháp trước mắt và lâu dài đồng thời thực hiện các giải pháp đó một cách đồng bộ. Một trong những giải pháp hàng đầu đẩy mạnh công tác thu hút ĐTNN cho giai đoạn 2001-2005 là cần thống nhất nhận thức, xây dựng chiến lược là nâng cao chất lượng quy hoạch thu hút ĐTNN, coi việc quy hoạch ĐTNN như là một bộ phận trong quy hoạch tổng thể các nguồn lực nói chung của cả nước, gắn với quy hoạch ngành, lãnh thổ, từng sản phẩm, dịch vụ chủ yếu, kết hợp ngay từ đầu với an ninh, quốc phòng. Dưới đây sẽ xem xét cụ thể hơn: * Những giải pháp trước mắt Tiếp tục triển khai có hiệu quả Nghị định số 10/1998/NĐ-CP của Chính phủ về một số biện pháp khuyến khích và đảm bảo hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam vì trong nghị định này đã giải quyết nhiều vấn đề liên quan đến thủ tục triển khai dự án, cách đánh thuế XNK, thuế lợi tức, cụ thể hóa những ngành, những vùng ưu tiên, ưu đãi đầu tư...nhằm khuyến khích, tạo môi trường thuận lợi cho việc thu hút vốn FDI. Tạo mọi điều kiện thuận lợi để các dự án đã triển khai hoạt động mở rộng, tăng công suất hiện có, tránh cho phép đầu tư vào các ngành còn dư thừa năng lực Xử lý linh hoạt hơn nữa hình thức đầu tư, khuyến khích hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài đối với những dự án công nghệ cao, công nghệ mới; các dự án có quy mô vốn đầu tư lớn, thời gian hoàn vốn dài, độ rủi ro cao. Cho phép linh hoạt chuyển đổi hình thức đầu tư từ liên doanh thành doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài trong trường hợp thua lỗ kéo dài hoặc mâu thuẫn nghiêm trọng, có nguy cơ đổ vỡ hoặc đang hoạt động bình thường nhưng đối tác trong nước muốn rút vốn đầu tư vào dự án khác có hiệu quả hơn. Các văn bản pháp lý của Nhà nước liên quan đến hoạt động đầu tư FDI cần được dịch ra tiếng Anh ngay từ cấp ban hành và tổ chức thông tin công khai ở tất cả các cấp, các ngành, các đơn vị có liên quan để tránh sự diễn giải và áp dụng tùy tiện gây phiền nhiễu cho các nhà đầu tư nước ngoài. Tiếp tục thành lập các hiệp hội kinh doanh của giới doanh nhân các nước tại Việt Nam, duy trì thường xuyên các cuộc tiếp xúc, hội thảo giữa Chính phủ, cán bộ với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, xử lý kịp thời các vấn đề phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh của họ. Thành lập một trung tâm đầu mối để giải quyết các vướng mắc có liên quan đến hoạt động của các doanh nghiệp có vốn FDI. Cần đổi mới và đẩy mạnh công tác vận động, xúc tiến đầu tư. Thực hiện giảm tiền thuê đất, đối với những vùng kinh tế khó khăn chỉ thu tiền thuê đất tượng trưng để giữ chủ quyền đất. Khuyến khích và ưu đãi hơn nữa các dự án đầu tư vào lĩnh vực nông-lâm-ngư nghiệp và đầu tư vào vùng núi, vùng sâu, vùng xa. Cho phép các doanh nghiệp ngoài quốc doanh góp vốn liên doanh bằng quyền sử dụng đất. Tổ chức theo dõi, rà soát khâu tổ chức thực hiện luật như: hải quan, thuế, cơ quan quản lý đất.. chống quan liêu, cửa quyền, tránh sự phiền hà và chi phí cho các nhà đầu tư. Kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng ở tất cả các khâu, các cấp. Xử lý nghiêm khắc những hiện tượng tham nhũng, làm trái với quy định pháp luật của các cán bộ thừa hành, góp phần làm trong sạch môi trường đầu tư. áp dụng các biện pháp mạnh mẽ, có hiệu quả để chống nạn buôn lậu, chống hàng giả, hàng nhái, chống gian lận thương mại... * Các biện pháp lâu dài Sớm xây dựng một hệ thống luật thống nhất và hoàn chỉnh, ban hành những luật còn thiếu, tạo môi trường pháp lý đầy đủ cho các nhà đầu tư hoạt động. Nghiên cứu tiến tới xây dựng một luật đầu tư chung cho cả các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Chính sách đầu tư cần ổn định và nhất quán, đặc biệt chính sách thuế vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của nhà đầu tư nước ngoài. Khắc phục tình trạng chồng chéo, không thống nhất giữa các văn bản pháp luật liên quan đến hoạt động của các doanh nghiệp FDI. Ban hành quy chế tài chính riêng cho các doanh nghiệp FDI để quản lý và giám sát các doanh nghiệp này chặt chẽ hơn. Đồng thời cần có chính sách quy định về chống độc quyền, bán phá giá, chống gian lận thương mại để tránh hiện tượng chuyển giá nội bộ giữa các doanh nghiệp FDI. Đẩy mạnh khâu quy hoạch, nghiên cứu kinh nghiệm của các nước và điều kiện cụ thể của Việt Nam, sớm xây dựng và công bố công khai quy hoạch đầu tư dài hạn của Việt Nam, công bố rộng rãi, rõ ràng các danh mục ngành, lĩnh vực và dự án rất khuyến khích đầu tư, khuyến khích, không khuyến khích và không cho phép đầu tư trực tiếp nước ngoài. Mở rộng hơn nữa các loại hình doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài để tăng cơ hội lựa chọn cho các nhà đầu tư. Tiếp tục hoàn thiện thủ tục đầu tư sao cho khoa học, đơn giản và thuận tiện. Bằng những quy định được công bố công khai và các hành động cụ thể tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư. Xét duyệt và công khai chính sách thuế XNK của Việt Nam khi buôn bán với các nước và với các nước AFTA từ đây đến năm 2006 khi Việt Nam thực hiện xong chương trình cắt giảm thuế CEPT. Việc này giúp các nhà đầu tư hoạch định chính sách sản phẩm của mình trong tương lai. Tiếp tục cải tổ khu vực doanh nghiệp nhà nước, tài chính nhân hàng, phát triển khu vực kinh tế tư nhân và phải coi đây là động lực thu hút đầu tư và phát triển. Cải cách hơn nữa nền kinh tế để có đủ điều kiện gia nhập các tổ chức WTO và APEC. Nhà nước cần quan tâm hơn nữa vào phát triển hạ tầng cơ sở vì kinh nghiệm cho thấy muốn thu hút được 1 đồng vốn nước ngoài thì nước chủ nhà phải bỏ ra hơn 2 đồng để phát triển cơ sở hạ tầng. ổn định hơn nữa môi trường kinh tế vĩ mô, giữ vững tốc độ tăng trưởng kinh tế, có chế độ tỷ giá hối đoái uyển chuyển và phù hợp, những chính sách bảo hộ thương mại hữu hiệu.. Hướng hoạt động của các doanh nghiệp FDI cho phù hợp với yêu cầu hội nhập vào khu vực và thế giới của Việt Nam. Đối với những ngành hàng ta có lợi thế so sánh cao như nông sản và các sản phẩm sử dụng nhiều lao động thì nên đầu tư nhiều hơn. Đối với nông nghiệp nên tập trung cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng ở nông thôn và đặc biệt là chế biến nông sản, mở rộng đầu mối xuất khẩu nông sản. Đối với các sản phẩm sử dụng nhiều lao động như dệt may, da giày..thì điều quan trọng là thị trường, chất lượng và mẫu mã. Một số mặt hàng ta không có lợi thế so sánh cao thì không nên đầu tư xây dựng mới mà chỉ nên củng cố những dự án đã có để sử dụng hết công suất, đặc biệt là khâu cung ứng nguyên liệu. Các doanh nghiệp có vốn FDI phải hướng mạnh vào xuất khẩu hơn nữa vì sức mua của thị trường Việt Nam còn khá thấp, chưa là động lực tích cực để thúc đẩy hoạt động của các doanh nghiệp, đồng thời nó cũng đúng với kinh nghiệm thực tế của nhiều nước trong khu vực: tăng cường năng lực xuất khẩu phải là mục tiêu số một của các doanh nghiệp FDI. Muốn vậy, nhà nước cần tiếp tục có những hỗ trợ về thuế, giá cả, đơn giản hóa thủ tục xuất nhập khẩu. Chú trọng thu hút các nhà đầu tư mạnh, có những ưu đãi đặc biệt để thu hút đầu tư vào các ngành công nghệ cao, kỹ thuật hiện đại. Cần quan tâm hơn nữa đến đội ngũ trí thức trong và ngoài nước, khơi dậy và phát huy lòng yêu nước, tự hào dân tộc của lực lượng này bởi vì họ có thể làm cầu nối, lựa chọn công nghệ hiện đại và đưa các nhà đầu tư mạnh về Việt Nam. Chú trọng hơn nữa việc đào tạo đội ngũ các nhà quản trị giỏi cho nước nhà để làm đối tác với các nhà đầu tư mạnh. Cần đầu tư thích đáng và có cải cách triệt để trong hệ thống giáo dục và đào tạo. Xây dựng chương trình, cách dạy và cách học sao cho khoa học và phù hợp ở các cấp đặc biệt là các trường dạy nghề, công nhân kỹ thuật nhằm nâng cao chất lượng lao động Việt Nam. Trên đây chỉ là những giải pháp có tính định hướng cơ bản. Để thực hiện được mục tiêu thu hút và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế đất nước, chúng ta cần phải cụ thể hóa những giải pháp định hướng trên nhằm quản lý và điều hành FDI một cách hữu hiệu, đảm bảo cân bằng giữa các ngành, các vùng cũng như các loại hình đầu tư, phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế xã hội và đóng góp ngày càng nhiều vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trong quá trình thực hiện phải thực sự sáng suốt, linh hoạt, đảm bảo các chính sách quy định luôn phù hợp với điều kiện cụ thể trong nước và bối cảnh quốc tế của từng giai đoạn, từng thời kỳ. Điều này đòi hỏi sự nỗ lực và quyết tâm của tất cả các cơ quan, bộ ngành, các doanh nghiệp và của mỗi cá nhân vì sự phát triển chung của đất nước Việt Nam. ********* kết luận Quốc tế hóa đời sống kinh tế là một xu hướng khách quan, là sự phát triển tất yếu của nền sản xuất xã hội, trên cơ sở sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất. Xu hướng này đã lôi kéo tất cả các nước trên thế giới, dù muốn hay không cũng phải từng bước hội nhập vào quỹ đạo của nền kinh tế thế giới. Trong quá trình quốc tế hóa đời sống kinh tế quốc tế, hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài có vị trí và vai trò ngày càng quan trọng, nó đã và đang là nhân tố cơ bản cấu thành và quy định xu hướng phát triển của các quan hệ kinh tế quốc tế. Một mặt, đầu tư nước ngoài hiện là hoạt động cơ bản của quan hệ kinh tế quốc tế, mặt khác nó là nhân tố đẩy nhanh quá trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới của các nước đang phát triển. Đầu tư trực tiếp nước ngoài đã đóng góp một phần tích cực trong công cuộc đổi mới kinh tế của Việt Nam hơn 10 năm qua. ý nghĩa của nó không chỉ dừng lại ở những kết quả thống kê về mức sản lượng, doanh thu, giá trị kim ngạch xuất khẩu tỷ lệ đóng góp vào GDP, số chỗ làm việc tạo ra...mà điều quan trọng là từ một “cú hích” ban đầu, ĐTTTNN đã đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam để có thể thoát ra khỏi cái vòng luẩn quẩn, tránh nguy cơ tụt hậu phát triển so với các nước và từng bước hội nhập với kinh tế khu vực và thế giới. Tất nhiên bên cạnh những ưu điểm của đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng còn nhiều vấn đề còn phải bàn như hiện tượng chảy máu chất xám, ô nhiễm môi trường, vi phạm quyền lợi của người lao động cả về vật chất lẫn phẩm giá và lòng tự trọng dân tộc...Mặc dù vậy, không thể chối cãi một điều là đầu tư rực tiếp nước ngoài đã trở thành một bộ phận của nền kinh tế quốc dân. Mỗi chính sách kinh tế, mỗi biến động tài chính tiền tệ, mỗi chiến lược phát triển đều có bóng dáng của đầu tư trực tiếp nước ngoài. Đảng và Nhà nước ta xác định sự thành đạt của các nhà đầu tư gắn liền với sự thành công của Việt Nam , mọi mất mát rủi ro của nhà đầu tư cũng là rủi ro mất mát của Việt Nam và đã tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất, thông thoáng nhất cho các nhà đầu tư nước ngoài làm ăn tại Việt Nam nhằm khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn FDI phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế đất nước. Chúng ta cần nghiên cứu và giải quyết một cách triệt để những vấn đề đang đặt ra và hoàn thiện các chính sách đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài để thu hút ngày càng nhiều vốn đầu tư nước ngoài, phát huy tốt nhất những mặt tích cực và hạn chế tối đa mặt tiêu cực của FDI . Hy vọng rằng cùng với tiến trình phát triển của đất nước, các doanh nghiệp FDI không ngừng hoàn thiện, phát triển và khẳng định mình, góp phần vào tăng trưởng kinh tế, thúc đẩy công cuộc đổi mới đất nước, đưa Việt Nam bước lên tầm cao mới. tài liệu tham khảo 1. Cơ sở khoa học của một số vấn đề trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam đến năm 2010 và tầm nhìn 2020 -Viện Chiến lược Phát triển - NXB Chính trị quốc gia 2001. 2. Đầu tư trực tiếp nước ngoài với tăng trưởng kinh tế Việt Nam - Vũ Trường Sơn- NXB Thống kê 1997. 3. Vốn nước ngoài và chiến lược phát triển kinh tế ở Việt Nam - PTS Lê Văn Châu - NXB Chính trị quốc gia 1995. 4. Dự thảo Báo cáo chính trị Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX. 5. Chuyên san Kinh tế Việt Nam và Thế giới 1997-1998, 1998-1999, 1999-2000 và 2000-2001 - Thời báo Kinh tế Việt Nam. 6. Kinh tế xã hội Việt Nam 10 năm 1991- 2000. Bộ KH-ĐT- NXB Thống kê 2001 7. Niên giám thống kê 1998, 1999 - Tổng cục Thống kê . 8. Tạp chí Nghiên cứu kinh tế - Các số tháng 4, 9, 11 năm 1996; tháng 1, 4, 7, 9, 9 năm 1997; tháng 1, 4, 5, 9 năm 1998 và các tháng 5, 6, 9 năm 2000. 9. Tạp chí Kinh tế và Dự báo - Số tháng 10, 12 năm 1997, các tháng 4, 8, 9, 11 năm 1998; tháng 1, 3, 7, 8, 9 năm 2000. 10. Tạp chí Phát triển kinh tế số các năm 1995 - 2000. 11. Tạp chí Doanh nghiệp đầu tư nước ngoài số tháng 6/2000, 8/2000 và 10/2000. 12. Các tạp chí Kinh tế và phát triển, Ngân hàng, Thương mại, Những vấn đề kinh tế thế giới, Kinh tế Châu á- Thái Bình Dương, Thị trường Tài chính- tiền tệ, Con số & Sự kiện, Thông tin Kinh tế - xã hội, số các năm 1996 - 2000 Mục lục Lời mở đầu. Nội dung I. Đầu tư trực tiếp nước ngoài và tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam..................................................................................................... 1. Khái niệm và các đặc trưng...................................................................... 2. Đánh giá bản chất và vai trò của FDI đối với các nước đang phát triển.......... II. Tình hình thực hiện đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam thời gian qua.. 1. Tình hình chung................................................................................. 2. Đánh giá tác động của FDI tới tăng trưởng và phát triển kinh tế.................... 3. Sự thụt giảm của dòng FDI vào Việt Nam............... III. Một số giải pháp nhằm thu hút FDI đáp ứng yêu cầu phát triển của nền kinh tế................................................................................... 1. Mục tiêu và định hướng phát triển của nền kinh tế giai đoạn từ nay đến năm 2005.......................................................................................... 2. Giải pháp huy động và sử dụng hiệu quả vốn FDI đáp ứng yêu cầu phát triển của nền kinh tế.......................................................................... Kết luận Tài liệu tham khảo

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docC0235.doc
Tài liệu liên quan