Đề tài Giải pháp mở rộng cho vay trung dài hạn đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại ngân hàng ngoại thương Việt Nam

Trong bối cảnh hiện nay của nền kinh tế và hoạt động kinh doanh của ngân hàng, việc mở rộng cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ là cần thiết đối với mỗi ngân hàng. Có thể nhìn nhận lợi ích của việc gia tăng cho vay nhất là cho vay trung dài hạn đối với ngân hàng và các DN V&N rất lớn. Nó góp phần đa dạng hoá khách hàng và đa dạng hoá danh mục đầu tư của ngân hàng, chia sẻ rủi ro, tăng lợi nhuận, đồng thời hỗ trợ các DN V&N đổi mới trang thiết bị công nghệ, mở rộng nâng cao năng lực sản xuất, chất lượng sản phẩm, đóng góp vào sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế hiệu quả. Ngoài ra, đối với ngân hàng cho vay DN V&N là thị trường đầy tiềm năng, hứa hẹn có thể khai thác hiệu quả vì nhu cầu vay của các doanh nghiệp rất lớn. Vậy nên, mở rộng cho vay trong đó cho vay trung dài hạn đối với nhóm khách hàng này là vấn đề cần được nhanh chóng thực hiện đối với mỗi ngân hàng trong cơ chế thị trường. Trong thời gian thực tập và nghiên cứu tại NHNT VN, tôi nhận thấy Ngân hàng đã có nhiều nỗ lực và cố gắng trong việc đa dạng hoá khách hàng cho vay trung dài hạn, đặc biệt là chú trọng đến đối tượng là các DN V&N. Tuy nhiên hoạt động tín dụng trung dài hạn của Ngân hàng còn gặp quá nhiều khó khăn từ cả nhiều phía: Ngân hàng, doanh nghiệp, môi trường pháp lý. Để tháo gỡ những khó khăn này cần sự phối hợp đồng bộ giữa Ngân hàng, doanh nghiệp, các cơ quản lý Nhà nước có thẩm quyền. Có như vậy tín dụng ngân hàng mới đạt hiệu quả cao, kích thích các doanh nghiệp phát triển và thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế. Tôi mong rằng những giải pháp và kiến nghị được nghiên cứu và trình bày ở trên, có thể phần nào giải quyết được yêu cầu cải thiện tình hình cho vay trung dài hạn đối với DN V&N tại NHNT VN. Đồng thời vì sự phát triển chung của Ngân hàng trong các hoạt động tài chính - tín dụng trong nước và quốc tế, cũng như của nền kinh tế quốc gia, đưa đất nước tiến nhanh theo con đường CNH-HĐH, hội nhập kinh tế với các quốc gia trong khu vực và thế giới./.

doc70 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1467 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp mở rộng cho vay trung dài hạn đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại ngân hàng ngoại thương Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
vị: Tỷ đồng Chỉ tiêu 1999 2000 2001 Số dư Tỷ trọng Số dư Tỷ trọng So sánh Số dư Tỷ trọng So sánh I. Tổng dư nợ TDH 830 100% 998 100% 20,2% 1763 100% 79,6% tr/đó VNĐ 328 39,5% 229 22,9% -30% 313 17,7% 36,7% NgoạI tệ (qui VNĐ) 502 60,5% 769 77,1% 1450 82,3% 88,6% II. Dư nợ theo loại hình DN - DN lớn (Tcty) 705,5 85% 818,3 82% 16% 1270 72% 55,2% tr/đó VNĐ 262,4 31,6% 160,3 16% -38,9% 219 12,4% 36,6% Ngoại tệ (qui VNĐ) 443,1 53,4% 658 66% 48,5% 1051 59,6% 59,7% - DN V&N 124,5 15% 179,7 18% 44,3% 493 38% 174,3% tr/đó VNĐ 61,5 7,4% 68,7 6,9% 11,7% 123,3 7% 79,5% Ngoại tệ 63 7,6% 111 11,1% 76,2% 369,7 21% 233% (Nguồn: báo cáo tổng kết hoạt động tín dụng 1999-2001 của NHNTVN) Ghi chú: So sánh: (+/-)% so với năm trước Trong hai, ba năm gần đây, công tác cho vay trung dài hạn đối với DN V&N đã có nhiều chuyển biến tích cực. Nếu như năm 1999 cho vay DN V&N chỉ chiếm 15% trong tổng dư nợ cho vay trung dài hạn (4,7% trong tổng dư nợ cho vay) thì đến năm 2000 đã tăng lên 18% (5,8% trong tổng dư nợ cho vay), và năm 2001 là 38% trong dư nợ trung dài hạn (12% trong tổng dư nợ cho vay). Sự gia tăng nhanh về tỷ trọng cho vay DN V&N trong năm 2001 là nhờ công tác khách hàng của Ngân hàng đã chú trọng hơn đối với DN qui mô vừa và nhỏ. Riêng năm 2001, Ngân hàng đã thu hút được thêm một số khách hàng là DN V&N ngoài quốc doanh như công ty liên doanh chè Phú Đa, Công ty TNHH Sao Việt, Công ty TNHH Ngân Linh... Tuy nhiên, sự chênh lệch giữa cho vay DN V&N với các DN lớn vẫn còn ở mức cao. Đáng kể trong năm 2001, NHNT VN đã quyết định tách riêng một quỹ với tổng vốn khoảng 500 tỷ đồng để thực hiện chương trình cho vay đối với các DN V&N. Theo một quan chức NHNT VN cho biết: “Đây không phải là quĩ hỗ trợ hay một loại quĩ có lãi suất ưu đãi, mà chủ trương tách riêng để tạo thuận lợi hơn cho khách hàng trong việc tiếp cận vốn Ngân hàng”. Điều kiện để được vay quĩ này là các doanh nghiệp vừa và nhỏ có đủ năng lực pháp luật dân sự; có tình hình tài chính lành mạnh; có dự án, phương án khả thi, hiệu quả; có tài sản thế chấp, bảo lãnh của bên thứ ba (không bắt buộc trong mọi trường hợp). Ngoài ra, các doanh nghiệp cần có sự tăng trưởng qua các năm, các hệ số tài chính đạt mức hợp lý, có lãi và phản ánh đúng năng lực tài chính thực tế của các doanh nghiệp. Các dự án và phương án phải chứng minh là thực hiện được, có khả năng hoàn trả được vốn. Điều này thể hiện quyết tâm của Ngân hàng trong việc mở rộng đối tượng khách hàng. Tuy nhiên với tình hình như hiện nay thì số lượng khách hàng có đủ tiêu chuẩn được vay chỉ rất ít ỏi do còn tồn tại nhiều khó khăn chưa thể tháo gỡ. Biểu đồ 5: So sánh dư nợ cho vay TDH đối với DN V&N và DN lớn Trong 3 năm từ 1999 đến 2001 tình hình cho vay DN V&N đã có nhiều cải thiện theo xu hướng tích cực, song dư nợ cho vay chưa thực sự tương xứng với tiềm năng của NHNT do hoạt động cho vay còn gặp nhiều khó khăn. Kết quả là nhu cầu vay chưa được đáp ứng ở mức cần thiết. Và đối tượng DN V&N được vay trung dài hạn của Ngân hàng tập trung chủ yếu ở DNNN. Tình hình cụ thể như sau: Bảng 7: Dư nợ cho vay trung dài hạn đối với từng thành phần kinh tế Đơn vị: Tỷ đồng Chỉ tiêu 1999 2000 2001 Dư nợ TDH DN V&N 124,5 179,7 493,0 - DN Nhà nước 80,9 107,8 270,0 - Cty trách nhiệm hữu hạn 24,9 38,0 142,2 - Cty Cổ phần, Liên doanh 11,2 24,36 55,8 - DN Tư Nhân 7,4 9,5 25,0 (Nguồn: báo cáo tổng kết công tác tín dụng các năm 1999-2001 của NHNTVN) Biểu đồ 6: So sánh dư nợ cho vay TDH đối với từng thành phần kinh tế * Doanh nghiệp vừa và nhỏ Nhà nước Khi xét duyệt cho vay trung dài hạn, DNNN vẫn luôn là đối tượng khách hàng được ưu tiên, trong đó có doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ. Điều này thể hiện qua dư nợ cho vay TDH DNNN luôn chiếm tỷ lệ cao trong tổng dư nợ cho vay trung dài hạn DN V&N. Nếu so sánh với tổng dư nợ cho vay thì tỷ lệ này không cao nhưng nếu so với các DN V&N ngoài quốc doanh thì DNNN vẫn chiếm ưu thế hơn. Lợi thế của DNNN là uy tín, tài sản thế chấp, từng có quan hệ tín dụng với Ngân hàng, thực hiện chế độ kế toán... đã tạo điều kiện để doanh nghiệp vay vốn từ Ngân hàng. Sự ổn định môi trường kinh tế năm 2001 cũng có tác động thúc đẩy cho vay DNNN qui mô vừa và nhỏ. Dư nợ cho vay với đối tượng này tăng dần qua các năm từ 1999 đến 2001. Năm 2001 dư nợ đã tăng gần gấp 3 lần năm 1999. Bảng 8: Tình hình dư nợ cho vay trung dài hạn DN V&N quốc doanh Đơn vị: Tỷ đồng Chỉ tiêu 1999 2000 2001 Số dư Tỷ lệ Số dư Tỷ lệ So sánh Số dư Tỷ lệ So sánh I. Tổng dư nợ CV TDH 124,5 100% 179,70 100% 44,3% 493 100% 174,3% II. Dư nợ CV DNV&N quốc doanh 80,92 65% 107,82 60% 33,23% 270 55% 150,4% - VNĐ 32,36 26% 27,50 15,3% -15,03% 57,50 11,6% 109,1% -Ngoại tệ (qui ra VNĐ) 48,56 39% 80,32 44,7% 65,4% 212,5 43,4% 164,6% (Nguồn: báo cáo tổng kết công tác tín dụng các năm 1999-2001 của NHNTVN) Ghi chú: So sánh: (+/-) % so với năm trước * Công ty Trách nhiệm hữu hạn Nhờ vào Luật doanh nghiệp sửa đổi bổ sung đã tạo cơ chế pháp lý cho sự phát triển các công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH) trong vài năm qua. Các Cty TNHH đã có mặt trên nhiều lĩnh vực nhưng chủ yếu tập trung vào các lĩnh vực thương mại, dịch vụ, điện tử, sản xuất hàng tiêu dùng... Qui mô của hầu hết các cty TNHH là vừa và nhỏ. Từ năm 1999, việc cho vay các Cty TNHH đã có nhiều thay đổi tích cực. Điều này được thể hiện qua việc Ngân hàng đã thu hút được một số khách hàngđể cho vay là các Cty TNHH, dư nợ cho vay TDH của Ngân hàng với các đối tượng này từ năm 1999 luôn năm sau đạt cao hơn năm trước. Công ty TNHH xin vay Ngân hàng chủ yếu để đầu tư vào dây chuyền sản xuất, xây dựng nhà xưởng, đào tạo, nghiên cứu... Bảng 9: Tình hình dư nợ cho vay trung dài hạn DN V&N - Công ty TNHH Đơn vị: Tỷ đồng Chỉ tiêu 1999 2000 2001 Số dư Tỷ lệ Số dư Tỷ lệ So sánh Số dư Tỷ lệ So sánh I. Tổng dư nợ CV TDH 124,5 100% 179,7 100% 44,3% 493 100% 174,3% II. Dư nợ CV DNV&N ông ty Cty TNHH 24,9 20% 38 21% 52,6% 142,2 28,8% 274,2% - VNĐ 13,5 14,9% 23,5 13,4% 74,1% 26,2 5,3% 95,5% -Ngoại tệ (qui ra VNĐ) 11,4 5,1% 14,5 8,6% 27,2% 116 23,5% 800% (Nguồn: báo cáo tổng kết công tác tín dụng các năm 1999-2001 của NHNTVN) Ghi chú: So sánh: (+/-) % so với năm trước * Công ty cổ phần, liên doanh Đến năm 2001, NHNT VN đã có một số khách hàng là các công ty cổ phần và công ty liên doanh, tuy nhiên dư nợ cho vay không lớn. Diễn biến trong hai năm trở lại đây cho thấy Chính phủ đang chủ trương đẩy mạnh việc cổ phần hoá các DNNN, đồng thời nhiều cá nhân tổ chức đứng ra góp vốn thành lập mới các công ty cổ phần. Nhu cầu vay vốn của các công ty cổ phần ngày càng lớn, trong khi Ngân hàng Ngoại thương mới chỉ cho vay được với một số ít các doanh nghiệp. Bảng 10: Tình hình dư nợ cho vay trung dài hạn DN V&N - Cty CP, LD Đơn vị: Tỷ đồng Chỉ tiêu 1999 2000 2001 Số dư Tỷ lệ Số dư Tỷ lệ So sánh Số dư Tỷ lệ So sánh I.Tổng dư nợ CV TDH 124,5 100% 179,7 100% 44,3% 493 100% 174,3% II.Dư nợ CV DNV&N - Cty CP, LD 11,205 9% 24,36 13,6% 117,4% 55,8 11,3% 129% - VNĐ 8,4 6,7% 9 5% 7,14% 28,4 5,8% 215,5% - Ngoại tệ (qui ra VNĐ) 2,805 2,3% 15,36 8,6% 206,6% 27,34 5,5% 78% (Nguồn: báo cáo tổng kết công tác tín dụng các năm 1999-2001 của NHNTVN) Ghi chú: So sánh: (+/-) % so với năm trước Bên cạnh đó, Ngân hàng đã có một bộ phận khách hàng vay vốn trung dài hạn là các công ty liên doanh, nhu cầu về vốn của họ phần lớn để đầu tư mở rộng sản xuất bằng việc xây dựng thêm nhà xưởng, mua sắm máy móc thiết bị, thuê đất... Nhìn chung số lượng khách hàng của Ngân hàng là Cty cổ phần và liên doanh còn nhỏ, chưa đáp ứng được nhu cầu vay vốn thật sự của các doanh nghiệp. Do vậy các doanh nghiệp này thường tìm đến các NHTM cổ phần hoặc các Ngân hàng nước ngoài. Đây là một tồn tại mà NHNT cần lưu ý trong công tác khách hàng của mình. * Doanh nghiệp Tư nhân NHNT VN cũng cho một số doanh nghiệp tư nhân vay vốn trung dài hạn nhưng chỉ chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong cơ cấu cho vay. Hầu như các doanh nghiệp tư nhân khi vay vốn Ngân hàng chỉ được cấp tín dụng bằng tiền đồng, một số ít là được cấp tín dụng bằng ngoại tệ mặc dù các doanh nghiệp này có mở tài khoản ngoại tệ tại Ngân hàng. Lý do mà Ngân hàng đưa ra là cho vay các doanh nghiệp tư nhân có độ rủi ro cao. Hình thức cho vay với các đối tượng này cũng rất đơn điệu. Để cho vay, ngoài việc xem xét phương án sản xuất kinh doanh của người vay, NHNT chỉ căn cứ vào giá trị tài sản thế chấp, cầm cố để tính toán khoản cho vay (thường từ 60% đến 70% giá trị thị trường của tài sản được thế chấp) trong khi tài sản thế chấp của doanh nghiệp loại này có giá trị không lớn do cũ kỹ hoặc lạc hậu. Vì vậy doanh nghiệp tư nhân vay được vốn trung dài hạn của Ngân hàng là không nhiều. Bảng 12: Tình hình dư nợ cho vay trung dài hạn DN V&N - DNTN Đơn vị: Tỷ đồng Chỉ tiêu 1999 2000 2001 Số dư Tỷ lệ Số dư Tỷ lệ So sánh Số dư Tỷ lệ So sánh I. Tổng dư nợ CV TDH 124,5 100% 179,7 100% 44,3% 493 100% 174,3% II. Dư nợ CV DNV&N -DN tư nhân 7,47 6% 9,52 5,3% 27,4% 25 5,1% 162,6% - VNĐ 7,235 5,8% 8,7 4,8% 20,24% 11,15 2,3% 28,2% -Ngoại tệ (qui ra VNĐ) 0,235 0,2% 0,82 0,5% 245% 13,85 2,8% - (Nguồn: báo cáo tổng kết công tác tín dụng các năm 1999-2001 của NHNTVN) Ghi chú: So sánh: (+/-) % so với năm trước 2.2.2.3 Những thuận lợi và khó khăn của NHNTVN khi thực hiện cho vay trung dài hạn DN V&N * Những thuận lợi Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam có những thuận lợi nhất định khi cho vay trung dài hạn đối với DN V&N vì: Thứ nhất, thị trường cho vay các DN V&N hiện nay chưa được các Ngân hàng khác chú trọng đầu tư nên NHNT có thể dễ dàng khai thác mà ít gặp phải sự cạnh tranh. Hơn nữa hiệu quả cho vay sẽ cao hơn do đối tượng khách hàng này dễ dàng chấp nhận lãi suất cho vay của Ngân hàng (họ thường vay tại các NHTM Cổ phần với lãi suất cao), làm tăng lợi nhuận đáng kể cho Ngân hàng. Thứ hai, đối tượng cho vay rất đa dạng đủ ngành nghề và thành phần kinh tế, Ngân hàng có thể lựa chọn những khách hàng phù hợp với yêu cầu đặt ra. Thứ ba, ban lãnh đạo của NHNT đang đưa ra những thay đổi trong cơ cấu khách hàng của mình thông qua việc xây dựng chiến lược kinh doanh tới năm 2003, trong đó quan tâm chủ yếu đến các DN V&N. Thứ tư, công tác cho vay DN V&N nhận được sự ủng hộ nhiệt tình từ phía các cơ quan quản lý nhà nước. Điều này được thể hiện qua sự ra đời của Nghị định 90/2001-CP cùng với các chủ trương chính sách khác, giúp doanh nghiệp giải quyết khó khăn, tạo điều kiện thuận lợi cho họ vay vốn Ngân hàng. Mặt khác đã tác động tích cực đến việc cho vay của Ngân hàng. * Những khó khăn Tuy nhiên, việc cho vay trung dài hạn của NHNT VN đối với DN V&N gặp rất nhiều khó khăn, do đó công tác này chưa thực sự được đẩy mạnh, tốc độ và mức độ cho vay chưa thực sự tương xứng với khả năng của Ngân hàng về vốn, con người và công nghệ. Ngoài những khó khăn của công tác cho vay trung dài hạn thì những khó khăn đặc thù của việc cho vay DN V&N đã khiến Ngân hàng rất dè dặt trong hoạt động này. Điều này cũng làm cho các DN V&N khó tiếp cận được vốn của Ngân hàng. Những khó khăn cụ thể như sau: Từ phía doanh nghiệp - Năng lực tài chính yếu kém Các DN V&N hầu hết hiện nay đều làm ăn không hiệu quả, thua lỗ trong kinh doanh, ế thừa, ứ đọng sản phẩm, sức cạnh tranh của sản phẩm thấp. Nguyên nhân cơ bản là vốn kinh doanh của các doanh nghiệp quá nhỏ bé, nhiều doanh nghiệp không xác định được hướng phát triển, không lường hết được sự biến động của thị trường và quan trọng là trình độ quản lý của hầu hết các DN V&N ở mức độ thấp, hiểu biết về pháp luật còn nhiều hạn chế. Kết quả là khả năng tài chính của các doanh nghiệp này đều ở tình trạng xấu. Trong khi căn cứ để cho vay của Ngân hàng là tình hình tài chính của doanh nghiệp. Nhìn vào thực trạng tài chính của các DN V&N, Ngân hàng rất ngại cho vay vốn do không chắc khoản vay có thể thu hồi được hay không. Ngoài ra, sự ra đời ồ ạt của hàng loạt các DN tư nhân, công ty TNHH nhưng chưa hội đủ các điều kiện (đặc biệt là vốn tự có) đã dẫn đến hoạt động kém hiệu quả, mất khả năng trả nợ... đã tác động xấu đến hoạt động cho vay của Ngân hàng, làm cho sức hấp thụ vốn chung của nền kinh tế trở nên hạn chế. Một số DN V&N còn sử dụng vốn vay ngắn hạn để đầu tư dài hạn, mà không có nguồn hỗ trợ bắc cầu, nên khi khoản vay hết hạn, doanh nghiệp rơi vào tình trạng mất khả năng trả nợ. Hoặc một số doanh nghiệp sử dụng vốn sai mục đích như dùng vốn vay cho sản xuất kinh doanh để đầu tư vào bất động sản, khi giá bất động sản giảm sút đã không trả được nợ Ngân hàng. Cũng có những doanh nghiệp muốn có lợi nhuận bằng cách quan hệ với Ngân hàng để thực hiện hành vi lừa đảo. Do vậy Ngân hàng dè dặt hoặc không muốn cho vay với các đối tượng là DN V&N. - Uy tín thấp Hầu hết các DN V&N chưa thực sự tạo được uy tín. Đối với các doanh nghiệp sản xuất, sản phẩm của họ hầu hết đều chưa có chỗ đứng trên thị trường vì phải cạnh tranh với quá nhiều sản phẩm cùng loại nhập khẩu hoặc nhập lậu có giá rẻ hơn, chất lượng hơn, bên cạnh đó lại phải cạnh tranh với các doanh nghiệp lớn trong nước. Hơn nữa, môi trường pháp lý thiếu đồng bộ đã tạo ra sự bất bình đẳng giữa DNNN với DN ngoài quốc doanh. Vì thế uy tín của các DN ngoài quốc doanh (đa phần là DN V&N) thấp, khó được Ngân hàng hỗ trợ về vốn. - Thiếu tài sản thế chấp Một trong những khó khăn hàng đầu của các DN V&N hiện nay khi xin vay Ngân hàng là không có hoặc không đủ tài sản thế chấp cho món vay. Thực tế cho thấy tài sản dùng để thế chấp khoản vay mà Ngân hàng yêu cầu đối với các DN V&N thường là bất động sản. Trong khi những tài sản loại này của doanh nghiệp rất thiếu hoặc có giá trị không lớn so với khoản vay. Có những doanh nghiệp do đã thế chấp tài sản ở khoản vay trước nên không thể sử dụng tài sản đó để thế chấp cho món vay mới. Vì vậy Ngân hàng đã không thể cho doanh nghiệp vay vốn cho dù dự án xin vay có khả thi. Chẳng hạn một trường hợp đã xảy ra đối với một cơ sở sản xuất đồ nhôm cao cấp tại quận Hai Bà Trưng, Hà Nội: đây là một công ty tư nhân làm ăn tương đối hiệu quả, hàng hoá của họ đã có thị phần ổn định tại Hà Nội và các tỉnh phía Bắc. Sản phẩm của doanh nghiệp còn vươn tới cả thị trường phía Nam. Chủ doanh nghiệp lập dự án vay NHNT VN khoảng trên dưới 3 tỷ đồng trong thời hạn là 2 năm, để trang bị thêm máy mới nhằm mở rộng cơ sở sản xuất và nâng cao chất lượng sản phẩm của mình. Cán bộ Ngân hàng đã thẩm định và đánh giá dự án là khả thi, nhưng dự án vẫn hoàn toàn nằm trên giấy vì Ngân hàng chưa cho doanh nghiệp vay. Lý do là cơ sở này không đủ tài sản thế chấp cho khoản vay. - Công tác thực hiện qui định pháp luật về lập báo cáo tài chính của doanh nghiệp ở mức độ kém Hiện nay, việc thực hiện chế độ báo cáo kế toán, thống kê của đa số DN V&N nhất là doanh nghiệp ngoài quốc doanh không tuân thủ đầy đủ pháp lệnh. Sổ sách kế toán của nhiều doanh nghiệp đại khái, chỉ tiêu tài chính không cần biết đến. Thậm chí Ngân hàng đã viết sẵn công thức tài chính để họ điền vào nhưng doanh nghiệp cũng không làm đúng được. Từ đó dẫn đến sự phản ánh lệch lạc kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, khiến các cán bộ Ngân hàng thẩm định hồ sơ xin vay rất khó khăn. Ngoài ra có một bộ phận các doanh nghiệp khi xin vay Ngân hàng đã nộp những báo cáo tài chính thiếu trung thực. Hoạt động kinh doanh thua lỗ nhưng báo cáo tài chính vẫn cho thấy doanh nghiệp làm ăn hiệu quả và có lãi. Chính vì vậy nên cán bộ Ngân hàng rất “sợ” khi cho vay những doanh nghiệp trong tình trạng này, làm ảnh hưởng không nhỏ đến việc mở rộng tín dụng trung dài hạn của Ngân hàng. b. Khó khăn của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam - Việc cho vay các đối tượng thuộc DN V&N hàm chứa nhiều rủi ro, một mặt do những khó khăn của doanh nghiệp như đã nói ở trên, mặt khác NHNT VN lại không có những thông tin cần thiết về khách hàng, hơn nữa phần lớn các doanh nghiệp chưa có quan hệ tín dụng với Ngân hàng, nên chưa tạo ra sự tin tưởng trong quan hệ vay mượn vốn. Từ đó dẫn đến tâm lý e ngại cho các DN V&N vay nhất là vay vốn trung dài hạn. - Cho đến nay, NHNT VN chưa có một qui định riêng về cho vay với các DN V&N nên việc xét duyệt cho vay vẫn dựa vào các qui định chung về cho vay trung dài hạn. Thủ tục xin vay đôi khi là quá phức tạp với các doanh nghiệp, gây phiền hà và tạo cảm giác chán nản cho người đi vay. Nhiều doanh nghiệp đã chuyển sang các nguồn vốn khác không chính thức và chấp nhận lãi suất cao hơn. Điều này gây bất lợi cho cả khách hàng và ngân hàng. - Chi phí cho vay các DN V&N cao. Bên cạnh những rủi ro khi cho vay DN V&N thì chi phí cho vay cao cũng là một nguyên nhân mà Ngân hàng chưa muốn mở rộng hoạt động tín dụng đối với đối tượng này. Chi phí cho vay của Ngân hàng thông thường gồm có chi phí vốn (chi phí trả lãi cho vốn huy động), chi phí giao dịch, chi phí chứng từ, các khoản chi phí cho việc thu thập thông tin về doanh nghiệp, chi phí đánh giá tài sản…Nếu so sánh với chi phí để cho vay một t doanh nghiệp vừa và nhỏ với doanh nghiệp lớn thì các khoản chi phí này bao giờ cũng cao hơn nhiều. Trong khi doanh nghiệp vừa và nhỏ rất khó chấp nhận một lãi suất vay vốn quá cao do lãi suất này có thể vượt cả tỷ suất lợi nhuận bình quân của chính doanh nghiệp đó. Nếu Ngân hàng cho vay với lãi suất thấp hơn thì không bù đắp đủ chi phí, kết quả là Ngân hàng không muốn cho vay và doanh nghiệp không thể tiếp cận vốn. - Năng lực cán bộ tín dụng chưa đạt yêu cầu quản lý của Ngân hàng hiện đại. Mặc dù NHNT đã có nhiều thay đổi về nhân sự trong khoảng vài năm trở lại đây, năng lực cán bộ thẩm định đã có nhiều tiến bộ rõ rệt nhưng vẫn chưa đạt tiêu chuẩn của một Ngân hàng thương mại hiện đại, qui mô lớn. Một số cán bộ lớn tuổi có tác phong giao dịch chậm chạp, thiếu nhạy bén, năng động và tư duy sáng tạo. Vấn đề này có ảnh hưởng không tốt đến hoạt động cho vay nói chung và cho vay trung dài hạn DN V&N nói riêng. - Mạng lưới hoạt động của NHNT VN còn hạn chế: NHNT VN chỉ có hơn hai chục Chi nhánh lớn đặt tại các tỉnh, thành phố lớn chứ chưa phát triển các Chi nhánh cấp II, III xuống các địa bàn quận, huyên. Nếu so sánh với Ngân hàng Công thương hay Ngân hàng Nông nghiệp đều thấy rõ họ có hàng chục chi nhánh ở tất cả các quận nội thành và ở cả các điạ bàn nông thôn xuống tận cấp huyện nên họ rất gần gũi với các DN V&N. Có thể coi đây là một điểm yếu của NHNT VN khi muốn mở rộng hoạt động cho vay đối với các DN V&N. Kết luận: Từ phần trình bầy trên, chúng ta thấy rõ được một bức tranh toàn cảnh về lịch sử hình thành và phát triển của NHNT VN, tình hình hoạt động kinh doanh cơ bản của NHNT trong những năm gần đây. Đặc biệt, qua việc nghiên cứu thực trạng cho vay trung dài hạn đối với các DN V&N, có thể thấy được thị trường cho vay DN V&N ở Việt nam nói chung cũng như khả năng đáp ứng vốn vay của NHNT cho loại hình doanh nghiệp này nói riêng và những thuận lợi, khó khăn khi cho vay loại hình doanh nghiệp này. Từ đó, có thể đưa ra các giải pháp nhằm mở rộng cho vay trung dài hạn của NHNT VN đối với các DN V&N. Chương 3: giải pháp mở rộng cho vay Trung dài hạn Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng ngoạI thương việt nam 3.1. Định hướng cho vay của Ngân hàng ngoạI thương 3.1.1. Dự báo các yếu tố tác động đến hoạt động tín dụng trong những năm tới * Nguy cơ sụt giảm xuất khẩu Sự đi xuống của nền kinh tế thế giới từ đầu năm 2001 đã tác động không thuận lợi đối với xuất khẩu của nước ta. Cung vượt cầu ở hầu hết các hàng hoá, dịch vụ diễn ra phổ biến trên thế giới, dẫn đến thị trường xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ bị thu hẹp, giá cả hàng hoá và dịch vụ xuất khẩu liên tục giảm, nhất là hàng nông sản các loại. Sắp tới, Trung Quốc sẽ trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại Quốc tế (WTO), điều đó sẽ đặt xuất khẩu nước ta vào tình thế bất lợi hơn do cơ cấu hàng xuất khẩu của Trung Quốc không khác nhiều so với cơ cấu hàng xuất khẩu của ta, hàng hoá của Trung Quốc lại có sức cạnh tranh cao hơn. Sự kiện khủng bố 11/9/2001 tại Mỹ càng làm cho thị trường thế giới xấu đi và làm gay gắt hơn những khó khăn vốn có của xuất khẩu nước ta. Trong bối cảnh như vậy, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu của nước ta trong năm 2001 chỉ đạt khoảng 4,5% so với 16% mục tiêu kế hoạch. Mặc dù khối lượng hàng hoá xuất khẩu tăng so với năm 2000 nhưng trị giá xuất khẩu không tăng hoặc tăng không tương xứng do hầu hết các mặt hàng xuất khẩu chủ lực giảm mạnh như cà phê giảm 28,2%, hạt điều giảm 58,9%, gạo giảm 9,6%... Do đó năm 2002, Ngân hàng Ngoại thương dự báo xuất khẩu của Việt Nam giảm hơn so với năm 2001. Là Ngân hàng thương mại hàng đầu của Việt Nam trong lĩnh vực thanh toán và tài trợ xuất khẩu, sự sụt giảm xuất khẩu chắc chắn có tác động không thuận lợi đến hoạt động tín dụng của NHNT VN trong năm 2002. * Lãi suất trên thị trường quốc tế liên tục giảm Trong năm 2001, Cục dự trữ liên bang Mỹ đã liên tục hạ lãi suất 11 lần. Dự đoán xu hướng giảm lãi suất có thể còn tiếp tục trong năm 2002 tới mức thấp hơn 1,5%/năm. Xét trên góc độ người cho vay việc giảm lãi suất quốc tế là một nhân tố thuận lợi. Với tốc độ phát triển kinh tế dự kiến đạt 7,5%, các nhà đầu tư trong nước có thể chấp nhận mức lãi suất vay cao hơn 3-4% nên NHNT có điều kiện tốt để thu hút khách hàng vay mới. * Xuất hiện nhân tố thuận lợi đối với các DNV&N và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài Tình hình chính trị và trật tự xã hội tại Việt Nam hiện đang được đánh giá là có độ an toàn cao nhất trong vùng, tốc độ phát triển kinh tế đạt mức tăng trưởng cao liên tục qua các năm, đảm bảo các điều kiện làm ăn yên ổn lâu dài. Chính vì vậy, rất có khả năng các nhà đầu tư nước ngoài sẽ chuyển dịch vùng đầu tư từ các nước kém an toàn hơn như Philippin, Malaysia, Indonesia, ấn Độ...sang Việt Nam. Tiến trình hội nhập quốc tế thông qua việc trở thành thành viên chính thức của các tổ chức AFTA, WTO và ký kết hiệp định thương mại Việt-Mỹ sẽ mở ra nhiều cơ hội mới cho các DNV&N, đặc biệt là các ngành dệt may, da giày. *Nền kinh tế tiếp tục đạt mức tăng trưởng cao trong năm 2002 Căn cứ vào những biến động thực tế trong năm 2001, Chính Phủ đã điều chỉnh các mục tiêu phấn đấu trong năm 2002 tuy giảm xuống so với kế hoạch ban đầu song vẫn khá hơn so với các nước trong khu vực: tăng trưởng GDP 7,5%, sản xuất công nghiệp tăng 13,5%, nông nghiệp 4,5%, dịch vụ 7,5%, xuất khẩu 14%, lạm phát ở mức 3-4%. Đây chính là cơ sở để khẳng định điều kiện hoạt động kinh doanh của NHNT VN tiếp tục có triển vọng trong thời gian tới. * Cơ cấu thành phần kinh tế thay đổi Dự đoán từ năm 2002, thành phần kinh tế tư nhân sẽ dần dần chiếm tỷ trọng cao hơn, nguyên nhân là: Đảng và Chính phủ ngày càng khẳng định chủ trương phát triển thành phần kinh tế tư nhân. Luật doanh nghiệp ra đời từ 1/1/2000 đã tạo ra môi trường và điều kiện cho khu vực kinh tế tư nhân phát triển. Quyết tâm đẩy mạnh tiến trình cổ phần hoá DNNN của Chính phủ. Chủ trương tiếp tục tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và mở rộng giao dịch với nhóm doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế tư nhân trong thời gian tới. * Chủ trương nâng cao tính tự quyết, tự chịu trách nhiệm của các NHTM trong đầu tư cho vay. Thông tin từ Ngân hàng Nhà nước cho biết, từ năm 2002 hàng loạt các quyết định về cho vay nói riêng và hoạt động kinh doanh nói chung của các NHTM sẽ được thay thế một cách căn bản theo hướng tự quyết định và tự chịu trách nhiệm. Như vậy định hướng đa dạng hoá khách hàng, đa dạng hoá danh mục đầu tư của NHNT có điều kiện tốt để triển khai. * Nhu cầu vốn của nền kinh tế là rất lớn Để thực hiện mục tiêu CNH-HĐH đất nước, các ngành công nghiệp mũi nhọn như dầu khí, điện lực, viễn thông... đều đang triển khai các dự án lớn. Nhu cầu vốn của mỗi ngành tăng lên hàng tỷ USD. Do môi trường kinh doanh được cải thiện nên thành phần kinh tế tư nhân và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tỏ ra yên tâm hơn trong đầu tư. Vì thế nhu cầu vay vốn sẽ tăng lên nhanh chóng. * Mức độ cạnh tranh cho vay giữa cácNHTM ngày càng trở lên gay gắt Mặc dù nhu cầu vốn của nền kinh tế là rất lớn song nhìn chung do tình hình tài chính của doanh nghiệp chưa thực sự lành mạnh, phát triển sản xuất kinh doanh chưa ổn định, năng lực quản lý còn yếu kém... vì vậy các dự án và phương án khả thi và hiệu quả không nhiều. Trong khi đó số vốn huy động của các Ngân hàng chưa thể cho vay ngay được nên xuất hiện tình trạng cạnh tranh gay gắt, thậm chí đôi khi còn thiếu lành mạnh giữa các NHTM. 3.1.2. Định hướng hoạt động tín dụng t rong những năm tới của NHNTVN * Đổi mới công tác quản lý tín dụng Nhằm góp phần thúc đẩy hoạt động tín dụng tại NHNT theo hướng vừa mở rộng tăng trưởng vừa đảm bảo hiệu quả an toàn, công tác quản lý tín dụng trong thời gian tới cần được đổi mới tích cực trên các mặt sau : Chú trọng quản lý rủi ro: theo hướng này, công tác đánh giá và dự báo rủi ro theo ngành hàng, theo khu vực, theo chất lượng hoạt động tín dụng tại từng chi nhánh và theo từng khách hàng, nhóm khách hàng cần được tiến hành thường xuyên . Định kỳ có báo cáo xếp hạng nhằm đảm bảo tính an toàn cao nhất. Tăng cường công tác kiểm tra giám sát Nâng cấp chất lượng thông tin theo hướng mang tính cảnh báo trước, vừa đầy đủ, kịp thời, chính xác hơn . * Ưu tiên lựa chọn cán bộ tín dụng vừa đủ năng lực chuyên môn, vừa nhiệt tình tâm huyết với nghề nghiệp, vừa có kỹ năng ứng xử trong giao tiếp. * Một số hướng triển khai cụ thể: Tiếp tục tham gia đồng tài trợ đối với một số dự án thuộc lĩnh vực dầu khí, điện lực, viễn thông... nhằm đảm bảo một mức dư nợ cao và ổn định lâu dài Giữ vững thị phần đầu tư đối với ngành thuỷ sản và gạo Mở rộng cho vay đối với thành phần kinh tế ngoài quốc doanh vừa và nhỏ. Danh mục khách hàng của NHNT khá đơn điệu, chủ yếu tập trung vào các doanh nghiệp lớn và vừa thuộc thành phần kinh tế quốc doanh. Muốn thực hiện mục tiêu mở rộng tín dụng, NHNT cần đón bắt xu hướng tăng dần tỷ trọng của nhóm doanh nghiệp ngoài quốc doanh trong tổng thể các thành phần kinh tế. Ngay từ bây giờ, NHNT cần mạnh dạn mở rộng cho vay đối với đối tượng này trên cơ sở có chọn lọc, thận trọng và tiến dần từng bước một. Phấn đấu trong năm 2002, dư nợ cho vay với nhóm đối tượng này thêm khoảng 300 tỷ VNĐ. Mở rộng đầu tư vào các khu công nghiệp, khu chế xuất. Hầu hết các tỉnh và thành phố hiện nay đều hình thành các khu công nghiệp và khu chế xuất. Thông thường, các khu công nghiệp và chế xuất này đều nằm xa thành phố, thị xã nên xa địa bàn hoạt động của NHNT VN. Tuy nhiên do số lượng các doanh nghiệp trong mỗi khu công nghiệp thường từ 30 đến 50 và là những doanh nghiệp sản xuất hoặc vừa sản xuất vừa kinh doanh . Vì vậy việc NHNT chiếm lĩnh đối tượng khách hàng ở khu vực này bằng cách mở thêm các phòng giao dịch hoặc chi nhánh tại khu công nghiệp là hết sức cần thiết. Trong đó chú trọng nhóm khách hàng là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. 3.2. Một số giải pháp mở rộng cho vay trung dài hạn doanh nghiệp vừa và nhỏ của NHNT VN 3.2.1 Giải pháp trực tiếp 3.2.1.1 Xây dựng cơ chế cho vay phù hợp với doanh nghiệp vừa và nhỏ Hiện nay khi cho vay các doanh nghiệp, Ngân hàng áp dụng cùng một cơ chế cho vay, không phân biệt thuộc thành phần kinh tế nào. Việc này gây bất lợi cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ (chiếm số lượng lớn là doanh nghiệp ngoài quốc doanh) muốn xin vay ngân hàng, chưa thực sự tạo ra công bằng trong cho vay với nhóm khách hàng này. Để mở rộng cho vay với các đối tượng là DN V&N, cần đổi mới cơ chế cho vay của ngân hàng theo những hướng sau: * Thành lập quỹ riêng để cho vay DN V&N và có cơ chế xử lý rủi ro thích hợp Việc thành lập một quỹ dành riêng để cho vay như vậy sẽ tạo được nguồn vốn ổn định , chủ động đáp ứng nhu cầu của DN V&N, đồng thời giúp cán bộ bộ tín dụng yên tâm hơn khi cho vay đối với DN V&N. Thực tế là NHNT có chủ trương lập quỹ để cho vay DN V&N, quỹ này đã tỏ ra khá hiệu quả và chủ động đối với Ngân hàng khi cho vay DN V&N. * Cải tiến điều kiện vay vốn Tài sản thế chấp luôn là một vấn đề nan giải đối với các DN V&N khi muốn vay vốn Ngân hàng. Để khơi thông vốn vay cho các doanh nghiệp, Ngân hàng phải có những chính sách giải quyết phù hợp. Thực tế cho thấy tài sản thế chấp những năm qua không phải là vật đảm bảo tiền vay phù hợp và duy nhất mà phải là tính khả thi của dự án. Vì vậy, Ngân hàng nên cho vay dựa vào thực trạng của doanh nghiệp, thẩm định chắc chắn dự án, coi trọng thông tin kinh tế và kế toán tài chính, tức là cho vay dựa vào năng lực thực tế của doanh nghiệp. Trong trường hợp, Ngân hàng thấy doanh nghiệp cần thiết phải có tài sản bảo đảm thì nên phù hợp với đặc điểm của doanh nghiệp như sau: Đối với doanh nghiệp được bảo lãnh tín dụng một phần và đủ tài sản thế chấp cho phần còn lại thì doanh nghiệp phải thực hiện đảm bảo nợ vay theo yêu cầu. Định giá tài sản thế chấp của doanh nghiệp cần theo giá thị trường để đảm bảo công bằng cho cả phía Ngân hàng và doanh nghiệp. Đối với doanh nghiệp được bảo lãnh tín dụng một phần và tài sản thế chấp không đủ đảm bảo cho phần còn lại thì cho phép dùng tài sản hình thành từ vốn vay để đảm bảo cho phần nợ vay còn lại. Đối với doanh nghiệp không đủ điều kiện để thực hiện hai dạng trên thì Ngân hàng phải chú trọng thẩm định dự án, phương án vay vốn thông qua hội đồng tín dụng để quyết định đầu tư hay không, mức cho vay là bao nhiêu. Tuy nhiên, để nâng cao trách nhiệm của chủ đầu tư, Ngân hàng cần quy định mức vốn tự có của doanh nghiệp trong mỗi dự án (thông thường từ 30-40% tổng vốn đầu tư). * Thời hạn cho vay Các DN V&N có nhu cầu về vốn tín dụng trung dài hạn lớn do phải thay đổi công nghệ, thiết bị nhiều, nên Ngân hàng cần xác định thời hạn cho vay phù hợp với khả năng sinh lời và tuổi thọ của thiết bị, Ngân hàng không nên gò ép về thời gian cho vay theo chủ quan sẽ dẫn tới áp lực về tài chính cho doanh nghiệp. Một số doanh nghiệp trước đây do thiếu vốn nên đã sử dụng vốn lưu động để mua thiết bị, xây dựng cơ bản mà chưa có nguồn bù đắp thì nên tiếp tục cho phép họ được vay vốn trung dài hạn nhằm tháo gỡ khó khăn, tuy nhiên phải hết sức thận trọng và kiểm tra kỹ lưỡng trước khi cho vay với những doanh nghiệp loại này. 3.2.1.2 Nâng cao chất lượng thẩm định dự án Thẩm định dự án là bước quan trọng trong công tác tín dụng của Ngân hàng để quyết định liệu Ngân hàng có cho vay hay không. Để phù hợp với đặc điểm của các DN V&N và đảm bảo an toàn các khoản cho vay của Ngân hàng, quy trình thẩm định cần tiến hành một cách chặt chẽ, đầy đủ, đúng đắn, khách quan, nhưng vẫn đảm bảo nhanh chóng, thuận tiện cho khách hàng. Để làm được như vậy, Ngân hàng cần tiến hành: Thứ nhất: Nâng cao chất lượng thông tin Chất lượng thẩm định dự án phụ thuộc nhiều vào số lượng và chất lượng nguồn thông tin thu thập được. Muốn như vậy, Ngân hàng cần xây dựng hệ thống thông tin nội bộ có chất lượng cao bằng cách thiết lập mối liên hệ chặt chẽ về thông tin giữa NHNT VN với các chi nhánh và phòng giao dịch. Những thông tin liên quan đến dự án, thẩm định dự án phải được nhanh chóng cung cấp, đảm bảo kịp thời & thông suốt trong toàn hệ thống. Định kỳ các chi nhánh sẽ tiến hành báo cáo cho bộ phận thông tin của NHNT VN để bộ phận này tập hợp thành một ngân hàng dữ liệu chung thống nhất. Bên cạnh đó, phòng Thông tin tín dụng, phòng Thẩm định dự án nên cử ít nhất một cán bộ chuyên trách việc thu thập, xử lý và truyền tin cho các bộ phận khác. Ngoài ra Ngân hàng cần đa dạng hoá nguồn thông tin bằng việc lấy thông tin từ nhiều nguồn: Thông tin trực tiếp do người đi vay cung cấp như các báo cáo tài chính, tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, luận chứng kinh tế kỹ thuật... Nhưng để đảm bảo thông tin cung cấp phù hợp, Ngân hàng cần tư vấn cho các DN V&N về tuân thủ các quy trình và nguyên tắc tài chính kế toán. Ngân hàng có thể tìm hiểu về khách hàng thông qua việc tiếp xúc, phỏng vấn, quan sát và tìm hiểu trực tiếp tại địa điểm sản xuất kinh doanh của đối tượng thẩm định. Nguồn thông tin này rất quan trọng, nó phản ánh ý thức và thái độ của người vay, điều kiện, năng lực sản xuất cụ thể của doanh nghiệp vay vốn. Thông tin từ trung tâm tín dụng (CIC) của NHNN. Đây là trung tâm đầu mối thu thập thông tin tín dụng liên quan đến khách hàng của các NHTM. Trung tâm này là một bộ phận trực thuộc Vụ Tín dụng Ngân hàng Nhà nước (NHNN), do đó có nhiều lợi thế trong việc thu thập thông tin. Tuy nhiên hạn chế của trung tâm CIC là mới chỉ cung cấp các thông tin liên quan đến tình hình dư nợ và nợ quá hạn của các doanh nghiệp tại các NHTM, các thông tin về thị trường, kinh tế xã hội... đều không có. Thông tin lấy từ bạn hàng của chủ đầu tư, các doanh nghiệp hoạt động cùng ngành nghề, cùng địa phương qua đó xác định uy tín và vị thế của doanh nghiệp trên thị trường. Nguồn thông tin từ các cơ quan quản lý và các đầu mối cung cấp thông tin quan trọng như Tổng cục Thống kê, Tổng cục Thuế, Tổng cục Hải quan, Bộ Kế hoạch & Đầu tư, Uỷ ban vật giá Chính phủ, các tổ chức hiệp hội ngành nghề để tạo nguồn thông tin không chỉ về tín dụng mà còn cả thông tin thị trường. Thứ hai: Củng cố và hoàn thiện đội ngũ cán bộ tín dụng Thực tiễn cho thấy rằng, một trong những vấn đề có tính quyết định đến chất lượng thẩm định dự án phụ thuộc vào chất lượng các công việc từ hoạch định chính sách đến việc thẩm định dự án, xét duyệt, cho vay, thu nợ, trong đó con người là chủ thể của mọi hoạt động. Cán bộ tín dụng là những người trực tiếp và cũng là người đầu tiên tiếp xúc với chủ dự án và dự án. Do vậy để nâng cao chất lượng thẩm định dự án, Ngân hàng cần xây dựng, đào tạo và phát triển một đội ngũ cán bộ tín dụng đủ về số lượng, tinh về chất lượng theo những yêu cầu đạt được những tiêu chuẩn nhất định về trình độ kiến thức, kinh nghiệm, năng lực làm việc và phẩm chất đạo đức. Trong đó mỗi cán bộ tín dụng phải nắm chắc quy trình nghiệp vụ, nhạy bén trong phân tích để có những quyết định đúng đắn. Kinh nghiệm, tư cách đạo đức, tính trung thực của mỗi cán bộ tín dụng Ngân hàng là những tiêu chuẩn hết sức cần thiết. Để đạt được những yêu cầu trên, Ngân hàng cần tập trung vào những công việc sau: Tuyển dụng cán bộ: Ngân hàng nên chú trọng tuyển dụng các cán bộ có trình độ chuyên môn, hiểu biết về tài chính Ngân hàng tốt, tư duy nhạy bén, sáng tạo, ưu tiên với những người có kinh nghiệm trong lĩnh vực thẩm định. Đồng thời Ngân hàng có chính sách thu hút các chuyên gia, các cán bộ thẩm định giỏi về làm việc. Đào tạo cán bộ: Ngân hàng phải thường xuyên tổ chức tập huấn, đào tạo nghiệp vụ, nhằm góp phần nâng cao trình độ chuyên môn, đặc biệt chú trọng về khả năng thẩm định và phân tích. Các lớp đào tạo bồi dưỡng có thể trực tiếp do các cán bộ thẩm định có trình độ, kinh nghiệm của Ngân hàng giảng dạy, hoặc thuê các chuyên gia trong và ngoài nước đến giảng dạy. Ngân hàng nên bố trí cho cán bộ đi tham quan, học hỏi kinh nghiệm của các Ngân hàng khác trong và ngoài nước. Bố trí cán bộ: Ngân hàng cần căn cứ vào tính chất phức tạp, độ quan trọng của dự án, năng lực của mỗi cán bộ để phân công cán bộ thẩm định và phụ trách các dự án phù hợp với trình độ và sở trường của mỗi người. Hơn nữa, Ngân hàng cần tiến hành xem xét và rà soát lại toàn bộ đội ngũ cán bộ thẩm định. Đặt kế hoạch bồi dưỡng hay chuyển sang làm công việc khác đối với những người không đáp ứng được yêu cầu của công việc, chú ý sắp xếp các cán bộ có năng lực, tinh thần trách nhiệm cao và ý thức vươn lên trong công việc vào những vị trí quan trọng. Thứ ba: Nâng cấp công nghệ Với thực trạng và điều kiện của Ngân hàng hiện nay, việc có một hệ thống công nghệ hiện đại là một giải pháp góp phần nâng cao chất lượng thẩm định. Để thực hiện được, Ngân hàng cần trang bị cho bộ phận thẩm định đầy đủ các phương tiện làm việc tuỳ theo tính chất công việc để có thể truy cập và xử lý một số lượng thông tin lớn, áp dụng các phương pháp thẩm định hiện đại. Tuy nhiên đầu tư nâng cấp công nghệ phải tuân thủ yêu cầu tiết kiệm, chống lãng phí. Với những biện pháp như vậy, chất lượng công tác thẩm định dự án và khách hàng sẽ được nâng lên một bước. Một khi kết quả thẩm định có chất lượng, có thể tin cậy được thì tin chắc là cán bộ tín dụng sẽ vững tâm và mạnh dạn hơn trong việc quyết định cho vay đặc biệt với đối tượng khách hàng là DN V&N mà họ vốn e ngại. 3.2.1.3 Xây dựng chiến lược khách hàng đúng đắn Vai trò và vị thế của các DN V&N ngày càng được khẳng định là rất quan trọng đối với nền kinh tế, vì vậy Ngân hàng cần xác định các DN V&N là những khách hàng quan tâm chủ yếu của Ngân hàng bên cạnh các khách hàng truyền thống. Để làm được điều đó, chiến lược khách hàng của Ngân hàng cần được chuẩn bị tốt với mục đích tạo dựng uy tín của Ngân hàng đối với mỗi khách hàng. Trong công tác này, Ngân hàng cần xác định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp cũng là sự tồn tại và phát triển của Ngân hàng và ngược lại để thẩm định và đầu tư kịp thời các dự án hiệu quả. Xây dựng hình ảnh một Ngân hàng luôn gần gũi và hỗ trợ kịp thời doanh nghiệp để sản xuất nhiều sản phẩm có chất lượng cao cho xã hội. Đồng thời có chính sách lãi suất hợp lý với mỗi khách hàng, ưu đãi về lãi suất và mức vay với các doanh nghiệp có uy tín, lãi 2 năm liền kề, tình hình tài chính được kiểm toán...Ngoài ra, Ngân hàng cần sâu sát với tình hình của doanh nghiệp nhằm tạo điều kiện cho việc cung ứng vốn, hợp lý, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp. Có như vậy tín dụng Ngân hàng mới thực sự tăng trưởng an toàn và ổn định 3.2.2 Một số biện pháp hỗ trợ 3.2.2.1 Huy động vốn trung dài hạn Hiện nay nguồn vốn của NHNT VN để đáp ứng nhu cầu vốn trung dài hạn của các DN V&N chưa được đảm bảo. Khả năng của Ngân hàng mới chỉ đáp ứng được một phần nhỏ nhu cầu. Vốn trung dài hạn của Ngân hàng chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ bé so với tổng nguồn vốn huy động. Do vậy để mở rộng vốn trung dài hạn, NHNT cần tiến hành Tăng cường phát hành trái phiếu, huy động tiền gửi tiết kiệm dài hạn. Với công cụ huy động vốn này cần tạo ra thị trường thứ cấp để tăng tính lỏng của các công cụ đó. Ví dụ, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam nên tham gia niêm yết trái phiếu trên thị trường chứng khoán, đây là một biện pháp hữu hiệu để có một số lượng lớn nguồn vốn ổn định từ nền kinh tế , tạo ra lượng vốn đáng kể để cho vay trung dài hạn. Ngân hàng nên mở thêm chi nhánh và các phòng giao dịch chứ không chỉ tập trung ở một vài địa điểm như hiện nay. Việc này sẽ giúp Ngân hàng có thể thu hút được nhiều hơn nữa các nguồn vốn nhàn rỗi trong dân, đồng thời tiếp cận với các DN V&N được dễ dàng. 3.2.2.2 Tham gia tích cực vào quỹ bảo lãnh tín dụng Mới đây Quỹ bảo lãnh tín dụng cho các DN V&N đã chính thức ra đời. Đây là bước đột phá của Nhà nước trong việc hỗ trợ phát triển khu vực DN V&N. Tuy nhiên Quỹ mới đi vào hoạt động nên chưa thực sự hiệu quả và còn nhiều khó khăn. Về phía NHNT để thực hiện chiến lược mục tiêu thúc đẩy tăng trưởng tín dụng hiệu quả, an toàn, tham gia tích cực và đóng góp vào sự phát triển của Quỹ, cùng Quỹ tháo gỡ khó khăn nhằm tạo điều kiện cho Quỹ hoạt động tốt và hiệu quả. Làm được như vậy, NHNT đã đóng góp vào việc mở rộng cho vay đối với các đối tượng là các DN V&N. 3.3. Kiến nghị 3.3.1 Đối với cơ quan quản lý Nhà nước Đến nay, Đảng và Nhà nước đã nhận thức được vai trò to lớn của các DN V&N đối với sự phát triển của kinh tế Việt Nam, và đã có một số biện pháp để khuyến khích, hỗ trợ phát triển khu vực này. Tuy nhiên để thúc đẩy hơn nữa sự phát triển của doanh nghiệp vừa và nhỏ, Nhà nước phải là thành viên tích cực và quan trọng hơn trong việc tạo ra những điều kiện thuận lợi để Ngân hàng có thể mở rộng tín dụng nói chung và tín dụng trung dài hạn nói riêng đến các DN V&N, cũng như các doanh nghiệp có thể tiếp cận dễ dàng nguồn vốn của Ngân hàng. Muốn vậy, chính sách của Nhà nước đề ra phải phù hợp với tình hình chung của các doanh nghiệp và Ngân hàng, trong đó cần được thay đổi và bổ sung như sau: 3.3.1.1 Xúc tiến xây dựng chiến lược phát triển khu vực DN V&N Nghị định 90/2001 NĐ - CP của Chính phủ là một tiền đề quan trọng tạo điều kiện cho sự phát triển của các DN V&N. Tuy nhiên để tạo thuận lợi hơn nữa cho khu vực này cần có một chiến lược lâu dài, ổn định với những biện pháp cụ thể hơn. Do vậy, chiến lược này cần khẳng định và nêu bật được vai trò của các DN V&N trong nền kinh tế Việt Nam, đưa ra những hướng ưu tiên phát triển khu vực này theo ngành, vùng lãnh thổ, lĩnh vực hoạt động sản xuất kinh doanh. Có biện pháp khuyến khích đối với một số đối tượng là DN V&N sản xuất các sản phẩm thuộc ngành nghề truyền thống (mây tre đan, gỗ mỹ nghệ, dệt thủ công...) và các sản phẩm tiêu dùng thuộc các ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp. Đồng thời có biện pháp định hướng về công nghệ, thị trường... cho doanh nghiệp. 3.3.1.2 Chính sách tài chính - tín dụng Một trong những khó khăn trực tiếp tác động đến việc mở rộng cho vay vốn trung dài hạn của Ngân hàng đối với DN V&N là chính sách tài chính - tín dụng. Chính sách này thực sự còn bất cập, chưa thông thoáng, chưa tạo điều kiện pháp lý để doanh nghiệp được vay vốn Ngân hàng. Chính sách tài chính tín dụng cần được thay đổi như sau: Một là, thành lập các quĩ hỗ trợ về vốn từ các nguồn Ngân sách trung ương và địa phương. Thu hút sự tham gia đóng góp của các doanh nghiệp trong đó có doanh nghiệp lớn và Ngân hàng để giúp đỡ DN V&N có triển vọng kinh doanh hiệu quả, sản xuất mới, đào tạo tay nghề. Hai là, tiếp tục hoàn thiện cơ chế tín dụng ngân hàng phù hợp với đặc điểm của các DN V&N trên nguyên tắc vừa đảm bảo an toàn cho vốn của Ngân hàng, vừa đáp ứng nhu cầu vốn của doanh nghiệp một cách thuận tiện và nhanh chóng. Cơ chế tín dụng thay đổi tạo điều kiện cho phép các doanh nghiệp không có tài sản thế chấp hoặc vốn tự có đủ để tham gia dự án xin vay vẫn được phép vay vốn Ngân hàng nhưng cần có quy định rõ ràng tránh việc gây khó khăn cho cả hai bên, hoặc thay đổi thủ tục vay vốn theo hướng đơn giản hoá, cho phép Ngân hàng được tự chịu trách nhiệm trong các hoạt động kinh doanh như cho vay, huy động vốn. 3.3.1.3 Chính sách Công nghệ Nhà nước cần có chủ trương biện pháp định hướng công nghệ cho các doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp tiếp cận các thông tin về công nghệ trên thị trường trong và ngoài nước. Mặt khác, Nhà nước thúc đẩy việc tiếp cận công nghệ của doanh nghiệp bằng cách cải thiện điều kiện cho các nhà đầu tư trong nước gia nhập thị trường theo hướng đơn giản hoá. Các thủ tục đăng ký kinh doanh hợp lý cho phép nhiều DN V&N gia nhập thị trường. Điều này sẽ tăng sức cạnh tranh, thúc đẩy mạnh mẽ phát triển công nghệ mới ở tất cả các DN V&N, tạo cơ hội cho các DN V&N có khả năng đầu tư, cải tiến công nghệ. Đồng thời Nhà nước hỗ trợ đào tạo những nhà quản lý, cán bộ kỹ thuật và nhân viên của DN V&N. 3.3.1.4 Chính sách thương mại Nhà nước cần có chính sách khuyến khích các DN V&N tham gia tích cực và có hiệu quả vào việc đẩy mạnh sản xuất như xoá bỏ hạn ngạch đối với những mặt hàng mà Nhà nước không cần quản lý và thay thế bằng thuế XNK, bảo hộ sản xuất trong nước. Hỗ trợ các DN V&N thông tin thị trường, giá cả hàng hoá, trợ giúp doanh nghiệp mở rộng thị trường, tiêu thụ sản phẩm. Các địa phương trợ giúp việc trưng bày, giới thiệu, quảng cáo, tiếp thị các sản phẩm có tiềm năng của các DN V&N. Chính phủ có biện pháp để giúp các doanh nghiệp tham gia cung ứng hàng hoá và dịch vụ theo kế hoạch mua sắm bằng ngân sách Nhà nước. Các Bộ, các ngành và địa phương ưu tiên đặt mua hàng cho các DN V&N sản xuất hàng hoá và dịch vụ bảo đảm chất lượng. 3.3.1.5 Chính sách đất đai Đất đai và các công trình xây dựng là những yếu tố không thể thiếu được đối với các doanh nghiệp, gồm cả các DN V&N. Nếu doanh nghiệp không được quyền sử dụng, sở hữu hoặc hoặc thuê đất đai và công trình xây dựng cần thiết một cách lâu dài, chắc chắn thì hoạt động sản xuất kinh doanh không thể ổn định. Do vậy Nhà nước nên giải quyết một số vấn đề liên quan đến chính sách đất đai theo hướng mở rộng quyền giao đất, cấp đất cho chính quyền địa phương, tiến hành cho thuê hoặc đấu thầu những cơ sở sản xuất bị giải thể, thực hiện chính sách cho thuê đất bình đẳng với tất cả các thành phần kinh tế để sử dụng vào mục đích kinh doanh. Mặt khác, Nhà nước cần hỗ trợ xây dựng, phát triển kết cấu hạ tầng rộng khắp từ thành thị đến nông thôn, tạo môi trường thuận lợi cho sự phát triển DN V&N, trong đó đặc biệt chú trọng đến hệ thống giao thông vận tải, năng lượng, thông tin liên lạc và các dịch vụ khác 3.3.1.6 Đào tạo và đào tạo lại đội ngũ các nhà doanh nghiệp Hiện nay đội ngũ quản lý các nhà DN V&N thiếu cả về chất lẫn lượng. Vì vậy đào tạo các nhà quản lý doanh nghiệp là cần thiết và quan trọng. Nhà nước phải có kế hoạch chỉ đạo các cơ quan có trách nhiệm hỗ trợ các DN V&N ở tỉnh, thành phố để lập các trung tâm đào tạo, cung cấp trang thiết bị và đội ngũ giảng viên cho trung tâm. Mặt khác, lực lượng lao động hiện đang làm việc trong các DN V&N đa số là lao động phổ thông, không có trình độ chuyên môn kỹ thuật, vì vậy đào tạo lại đội ngũ này là vấn đề cần lưu tâm. Kinh phí đào tạo do các doanh nghiệp tự trang trải. Các doanh nghiệp có thể được hỗ trợ một phần chi phí đào tạo từ Chính phủ, chính quyền địa phương hoặc sự đóng góp của các cá nhân, sự tài trợ của các tổ chức quốc tế. 3.3.2. Kiến nghị với các Doanh nghiệp vừa và nhỏ 3.3.2.1 Nâng cao trình độ hiểu biết của doanh nghiệp về qui trình cho vay Một trong những khó khăn của NHNT khi cho vay các DN V&N là sự hiểu biết của các doanh nghiệp về qui trình cho vay còn nhiều hạn chế, nên không đáp ứng được yêu cầu của Ngân hàng, gây ra sự chậm chễ, mất nhiều thời gian cho cả phía Ngân hàng và doanh nghiệp. Việc hiểu biết về qui trình cho vay sẽ giúp doanh nghiệp xây dựng được dự án có tính khả thi, cung cấp đầy đủ thông tin Ngân hàng yêu cầu, thực hiện quản lý tài chính chặt chẽ, tạo sự tin tưởng đối với Ngân hàng thông qua quá trình hoạt động và quan hệ vay trả. Đồng thời rút ngắn thời gian xin vay, tiết kiệm chi phí cho doanh nghiệp. Do vậy, các DN V&N cần trang bị kiến thức, kinh nghiệm, phương thức, kỹ năng, thủ tục và quy trình thực hiện các khâu trong quá trình cho vay. 3.3.2.2 DN V&N cần chấp hành nghiêm túc pháp lệnh kế toán, thống kê Hiện nay, việc thực hiện công tác kế toán ở doanh nghiệp vẫn bị các DN V&N xem nhẹ, báo cáo tài chính nộp lên Ngân hàng sơ sài, không đạt yêu cầu. Hoặc những báo cáo tài chính thiếu minh bạch, trung thực và đúng đắn. Do vậy để đảm bảo thuận lợi cho phía Ngân hàng trong quá trình thẩm định và xét duyệt cho vay, các doanh nghiệp cần thiết phải chấp hành đúng, đủ yêu cầu của pháp lệnh kế toán thống kê mà nhà nước ban hành. 3.3.2. Các DN V&N nên khai thác tốt các nguồn lực vốn có Để khơi thông nguồn vốn từ Ngân hàng đến doanh nghiệp, các doanh nghiệp cần khai thác tối đa vốn tự có của mình cho các phương án sản xuất kinh doanh với yêu cầu tiêt kiệm, sử dụng đúng mục đích, đúng đối tượng, có hiệu quả. DN V&N nên có chính sách thu hút, động viên, khai thác tối đa nguồn lực từ đội ngũ cán bộ, công nhân viên trong doanh nghiệp, chú trọng đúng mức đến lợi ích vật chất và tinh thần cho người lao động. Kết luận Trong bối cảnh hiện nay của nền kinh tế và hoạt động kinh doanh của ngân hàng, việc mở rộng cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ là cần thiết đối với mỗi ngân hàng. Có thể nhìn nhận lợi ích của việc gia tăng cho vay nhất là cho vay trung dài hạn đối với ngân hàng và các DN V&N rất lớn. Nó góp phần đa dạng hoá khách hàng và đa dạng hoá danh mục đầu tư của ngân hàng, chia sẻ rủi ro, tăng lợi nhuận, đồng thời hỗ trợ các DN V&N đổi mới trang thiết bị công nghệ, mở rộng nâng cao năng lực sản xuất, chất lượng sản phẩm, đóng góp vào sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế hiệu quả. Ngoài ra, đối với ngân hàng cho vay DN V&N là thị trường đầy tiềm năng, hứa hẹn có thể khai thác hiệu quả vì nhu cầu vay của các doanh nghiệp rất lớn. Vậy nên, mở rộng cho vay trong đó cho vay trung dài hạn đối với nhóm khách hàng này là vấn đề cần được nhanh chóng thực hiện đối với mỗi ngân hàng trong cơ chế thị trường. Trong thời gian thực tập và nghiên cứu tại NHNT VN, tôi nhận thấy Ngân hàng đã có nhiều nỗ lực và cố gắng trong việc đa dạng hoá khách hàng cho vay trung dài hạn, đặc biệt là chú trọng đến đối tượng là các DN V&N. Tuy nhiên hoạt động tín dụng trung dài hạn của Ngân hàng còn gặp quá nhiều khó khăn từ cả nhiều phía: Ngân hàng, doanh nghiệp, môi trường pháp lý. Để tháo gỡ những khó khăn này cần sự phối hợp đồng bộ giữa Ngân hàng, doanh nghiệp, các cơ quản lý Nhà nước có thẩm quyền. Có như vậy tín dụng ngân hàng mới đạt hiệu quả cao, kích thích các doanh nghiệp phát triển và thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế. Tôi mong rằng những giải pháp và kiến nghị được nghiên cứu và trình bày ở trên, có thể phần nào giải quyết được yêu cầu cải thiện tình hình cho vay trung dài hạn đối với DN V&N tại NHNT VN. Đồng thời vì sự phát triển chung của Ngân hàng trong các hoạt động tài chính - tín dụng trong nước và quốc tế, cũng như của nền kinh tế quốc gia, đưa đất nước tiến nhanh theo con đường CNH-HĐH, hội nhập kinh tế với các quốc gia trong khu vực và thế giới./. tài liệu tham khảo Frederic Miskin - Sách Tiền tệ Ngân hàng và Thị trường Tài chính, NXB Khoa học và Kỹ thuật, 1999 Stephen. A. Rose - Sách Quản trị Ngân hàng Thương mại, NXB Tài Chính, 2001 Giáo trình Nghiệp vụ kinh doanh Ngân hàng nâng cao, Học viện Ngân hàng. Giáo trình Tài trợ dự án, Học viện Ngân hàng. Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh của NHNT VN các năm 1998, 1999, 2000, 2001 Báo cáo nghiên cứu về thúc đẩy cho vay DN V&N của NHNT VN Quy trình thẩm định dự án đầu tư trung dài hạn của NHNT VN Các website của NHNT VN, Vietnam economy Luật NHNN và Luật các Tổ chức Tín dụng Việt Nam Quí Hào - “Bảo lãnh tín dụng cho các DN V&N”, Thời báo Kinh tế Việt Nam, số 105/2000 Thạc sĩ Ngô Gia Lưu - “Tín dụng NHTM QD đối với doanh nghiệp tư nhân”, Tạp chí Phân tích Kinh tế, số 74/2000 Đào Tấn Nguyên - “Một số giải pháp hỗ trợ tài chính, tín dụng các DN V&N ở Việt Nam”, Tạp chí Ngân hàng, số 7/1999 Nguyễn Đào Sơn - Lê Minh Toàn - “Phát triển DN V&N ở Việt Nam”, Tạp chí Chứng khoán Việt Nam, số 4/2002 Thạc sĩ Nguyễn Mỹ Trinh - “DN V&N ở nước ta, tiềm năng và hạn chế”, Tạp chí Phát triển Kinh tế, số 114/2000 GS, TS Hồ Văn Vĩnh - “Tín dụng Ngân hàng với DN V&N”, Tạp chí Ngân hàng, số 1+2/1998.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc28781.doc
Tài liệu liên quan