Đề tài Giải pháp nâng cao hiệu quả cho vay tại ngân hàng phương đông chi nhánh Bến Thành

Việc bắt buộc phải công chứng hợp đồng thế chấp, cấm cố bảo lãnh gây mất thời gian và chi phí tốn kém cho tổ chức TD và người đi vay, trong khi đó mạng lưới công chứng thưa thớt chưa được quy định cụ thể để có tác dụng an toàn đối với việc đảm bảo tài sản thế chấp, cầm cố. Đối với một số tài sản khác có quy định đăng ký quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng như : quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở thì ở tiến độ cấp giấy chứng nhận rất chậm, khi dùng để thế chấp cầm cố thì NH không thể giữ được tài sản của DN và nếu NH giữ thì DN cũng không có tài sản SXKD. Một nghịch lý nữa trong cơ chế đảm bảo tiền vay là không đồng nhất giữa nghị định 165 (khoản 2 điều 4) và nghị định 178 (khoản 1 điều 9). Hai nghị định này có sự khác nhau về nghĩa vụ đảm bảo nên khó khăn cho việ xử lý tranh chấp khi rủi ro nợ quá hạn xảy ra. Mặt khác, hoạt động của NH luôn bị ràng buộc bởi luật pháp, việc ban hành không đồng bộ hoặc không rõ ràng lại không có văn bản hướng dẫn thi hành làm NH lung túng cho vay đối với tài sản đảm bảo khi bị đưa ra xử lý trong các vụ án .

doc19 trang | Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 969 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Giải pháp nâng cao hiệu quả cho vay tại ngân hàng phương đông chi nhánh Bến Thành, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CHƯƠNG III NHỮNG KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CHO VAY TẠI NHTMCP PHƯƠNG ĐÔNG CHI NHÁNH BẾN THÀNH NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ TÌNH HÌNH TÍN DỤNG TỪ KHÁCH HÀNG: Từng khách hàng có quan điểm khác nhau về mức độ đơn giản hoặc phức tạp của hoạt động tín dụng ngân hàng (TDNH) mà họ là người trực tiếp gánh chịu do vận động của TD cùng với nhu cầu không thể tách rời nhau. Khách hàng nhận được TD từ NH chỉ thỏa mãn trong thời gian nhất định. Một khi nhu cầu này được đáp ứng, nhu cầu mới lại nảy sinh và cứ thế nhu cầu là vô hạn đối với tất cả mọi người. Số lượng khách hàng đã vay vốn lại muốn vay nữa bổ sung thêm hoặc cung cấp một tiện ích nào đó, ẩn bên trong là lượng khách hàng tiềm năng mà ngân hàng đang xem xét đến. Được bao quanh trung tâm có bề dày tăng trưởng với nhiều loại hình SXKD tự phát theo hướng thị trường, vốn tự có tăng dùng để mua chủ yếu là tài sản hữu hình. Chi tiêu cho sinh hoạt gia đình, ý tưởng kinh làm ăn, kinh doanh, cải thiện cuộc sống là đích mà NH hướng tới trong chiến lược kinh doanh của mình. Mỗi đối tượng khách hàng có nhu cầu khác nhau, NH sẽ có phương thức cấp TD đúng mục đích của từng chủ thể vay, Đối với khách hàng cũ thường xuyên có quan hệ tốt với NH nhận được sự hài lòng từ phía NH nên muốn vay lại tại chính NH mà vay ban đầu là rất cao cho nhiều mục đích khác nhau. Thông thường, khách hàng thấy dễ dàng hơn khi vay lại về thủ tục cũng như thẩm định khách hàng, cơ chế cho vay thoáng hơn so với NH mà khách hàng chưa từng có đặt quan hệ vì không phải chịu sự thẩm định gay gắt với cùng số vốn xin vay lần trước. Tại CN-BT có khoảng 70% là khách hàng vay lại vừa có khách hàng cá nhân, khách hàng doanh nghiệp, tiểu thương; 10% là khách hàng của cùng hệ thống; 20% là khách hàng mới-đối tượng khách hàng này vì chưa vay vốn lần nào nên không khỏi có nhiều thắc mắc về thủ tục vay vốn, hồ sơ cần những giấy tờ gì, vay trong bao lâu,cần NH giải đáp. NH sẽ cố gắng làm cho khách hàng hiểu hơn về những quy định này mong làm hài lòng quý khách hơn đảm bảo quyền lợi cho cả hai bên. Tín dụng của các NHTM, TCTD, QTD đáp ứng chì 60-70% nhu cầu thực sự, tốc độ tăng dư nợ cho vay của nến kinh tế năm 2004 ước tính là 26.9% trong đó dư nợ cho vay tại Thành phố lớn nhât cả nước là 131,300 tỷ đồng tăng 30%. Dự đoán năm 2005, dư nợ cho vay cả nước tăng thêm 20-25% Nguyễn Đắc Hưng, (2004), Một năm nhìn lại chính sách tiền tệ, Thời báo kinh tế Việt nam, trang 33 , dư nợ cho vay tại khu vực này sẽ tiếp tục tăng cao; thị trường có nhiều tiềm năng cho hoạt động TD của chi nhánh mở ra nhiều cơ hội cho chi nhánh tham gia vào thị trường này. Thách thức lớn nhất trong lĩnh vực TD là nhận lấy rủi ro nợ quá hạn, doanh nghiệp khuyếch trương sản suất kinh doanh dịch vụ, cá nhân đua nhau tiêu dùng mà không lượng sức mình nên hiện tượng NH không thu được nợ phổ biến tại ngân hàng. Tình trạng nợ kéo dài qua năm tháng tốn chi phí đôn đốc con nợ, tốn chi phí bảo quản vật cầm cố thế chấp làm tăng chi phí cho hoạt động TD. TD là đòn bẫy bây giờ lại phản tác dụng là gánh nặng cho nền kinh tế, TD kém chất lượng, an ninh tài chính trong NH giảm sút. NHỮNG GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CHO VAY TẠI OCB-BT : NH mở rộng kinh doanh thì phải hoạt động có hiệu quả trong mọi ngành nghề NH đảm nhận mà TD là hoạt động chủ yếu, do đo,ù công việc đầu tiên là phải nâng cao hiệu quả hoạt động TD giữ lấy uy tín cho ngân hàng. Hoạt động tín dụng cần phải có hiệu quả từ đó NH mới có bàn đạp nâng cao được hiệu quả tín dụng. Sau đây là một số ý kiến để nâng cao hiệu quả hoạt động tại NHTMCP Phương Đông chi nhánh -Bến Thành. Về môi trường hoạt động đầu tư: Môi trường họat động là nền tảng vững chắc cho họat động của NHTM nói chung và NH Phương Đông-Chi nhánh Bến Thành nói riêng, là giá đỡ cho NH vươn tới tầm cao mới, do vậy TDNH chịu chi phối của môi trường kinh doanh là rất lớn. Môi trường ổn định ổn định, ít biến động kinh tế tăng trưởng thuận lợi nhiều cho TDNH thực hiện chức năng và thu hồi được vốn. Đối với hoạt động của các thành phần kinh tế: Môi trường hoạt động đầu tư là nền tảng vững chắc cho hoạt động của NH, tín dụng NH chịu chi phối hầu hết các văn bản luật, bộ luật của chính phủ và NHNN ban hành. Do vậây chỉ cần một thay đổi nhỏ cùng gây chấn động cho ngành NH nói chung và CN-BT nói riêng. ­ Hiện nay, môi trường hoạt động có cải thiện nhưng còn nhiều vấn đề gây khó khăn cho lĩnh vực SXKD. Điển hình, hoạt động sản xuất kinh doanh ở thị trường còn chịu nhiều tiêu cực từ cán bộ NN, làm khó dân trong SXKD, đặc biệt là các doanh nghiệp xuất-nhập khẩu (XNK) thường chịu hành xác từ phía hải quan. Bằng chứng là không có ít lời kêu ca lâu nay từ phía doanh nghiệp đối với thủ tục hành chính và tệ nạn nhũng nhiễu của họ phải làm việc với ngành hải quan. Căn bản nhất trong những vấn đề bức xúc này là những quy định tính thuế đối với hàng hóa XNK mà bản thân Ngành hải quan cũng tìm cách cải tiến. Việc áp dụng biểu thuế XNK mới hài hòa theo tiêu chuẩn quốc tế, rhế nhưng cách áp đặt mã tính thuế cho sản phẩm của nhân viên hải quan nhiều khi lại chưa hài hòa với thông lệ quốc tế, gây phản ứng nơi doanh nghiệp. Cụ thể là nhiều trường hợp công ty XNK phải than trời do hàng hóa Việt Nam chưa được mô tả rõ ràng, sản phẩm có một vài chi tiết phụ không khớp với mô tả,..cũng bị cán bộ hản quan làm khó. Xin trích trả lời phỏng vấn một giám đốc công ty, ông cho biết: “Tôi đã bỏ bao công sức đi lấy các giấy tờ để chứng minh sản phẩm của chúng tôi nhập là dung môi pha mực, nhưng nhân viên hải quan vẫn giữ quan điểm của mình. Họ còn nói nếu tôi chấp nhận chia cho họ số tiền chênh lệch giữa các mức thuế suấât thì thì sẽ áp vào dòng thuế có mức thuế suất 5% Quang Chung,(2004), Hải quan và Doanh nghiệp, Thời báo Kinh tế Sài Gòn, số 719, trang 16 ”, hành động ăn hối lộ trắng trợn của một số cán bộ hải quan làm cho DN có tâm lý né tránh, ngại thủ tục. Để chấn chỉnh và hạn chế hiện tượng tiêu cực của công chức hải quan tại các cảng, giữa tháng 6-2004, cục hải quan Tp HCM đã ban hành “quy chế họat động của tổ giải quyết vướng mắt khiếu nại nghiệp vụ hải quan”, thế nhưng nhân viên hải quan nhận tiền bôi trơn như cơm bữa, mỗi ngày một tờ khai hải quan, quái lạ trong cách áp thuế , chuyện kiểm hóa,..luật pháp đưa luôn được thay đổ bổ sung có lợi cho DN hơn nhưng vô trách nhiệm của một số cán bộ gay thiệt hại lớn về thì giờ, tiền của DN. Nhà nước cần đưa ra luật chống tham nhũng trừng trị nghiêm minh tệ nhận hối lộ không chỉ là viết kiểm điểm, cảnh cáo trong nội bộ ngành. Việc làm này sẽ tạo được môi trường thông thoáng trong lành có nhiều thuận lợi cho hoạt động xuất nhập khẩu trong nước đặc biệt là tại các KCN, KCX sản xuất hàng xuất khẩu thu ngoại tệ về cho quốc gia. ­ NhàNước có nhiều ưu tiên đối với DNNN (có những DN làm ăn không hiệu quả), làm cho môi trườpng cạnh tranh chưa có sự công bằng theo đúng nghĩa, cho doanh nghiệp tư nhân, cổ phần và nước ngoài chen chân vào thị trường tiềm năng gặp rào cản bảo hộ làm giảm lợi nhuận kỳ vọng nhu cầu mở rộâng kinh doanh sụt giảm. ­ Luật đầu tư nước ngoài có sư thông thoáng hơn trước nhưng còn nhiều hạn chế đối với nhà đầu tư nước ngoài. Chính phủ nên có một số văn bản bổ sung nới lỏng quyền kiểm soát đề dòng vốn chảy vào trong nước thúc đẫy đầu tư trong nước phát triển cạnh tranh giữa các DN mạnh hơn, loại bỏ gay gắt DN hoạt động không hiệu quả. Nhờ đó mà NH sẽ loại những DN không có sự đảm bảo chắc chắn dễ dàng hơn, còn lại những DN hiệu quả sẽ cải thiện được tình trạng nợ quá hạn cho NH. ­ Điều chỉnh mức lương của cán bộ công chức làm việc tại các DNNN có tăng lên nhưng tốc độ trượt giá tăng mạnh, nhu cầu gửi tiền cũng như vay tiền của dân cư còn nhiều băng khoăn khi có sự tăng giá ảo, vì vậy mà NHNN nên có chính sách kiềm chế lạm phát ở một số thích hợp để phát triển kinh tế tăng tín dụng và HQTD ổn định hoạt động NH. Thành quả từ chính sách thu hút khách nước ngoài là lượng khách du lịch đến Việt Nam tăng lên năm 2004 ước tính là 2,927.9 nghìn lượt khách quốc tế đến Việt Nam tăng 20.5% (năm 2003 là 2,429.7 lượt khách). Năm 2005, Chính phủ nên có chủ trương khuyến khích ưu tiên cho ngành công nghiệp không khói này phát triển bằng đơn giản hóa thủ tục hải quan miễn visa nới rộng hơn cho du khách đến du lịch sinh thái tại Việt Nam (mở rông sang khách Châu Âu và Bắc Mỹ), tạo thận lợi cho dịch vụ trong nước như kinh doanh nhà hàng khách sạn, dịch vụ ăn uống, chăm sóc sắc đẹp, thư giãn, mua sắm tại các chợ siêu thị,..thu ngọai tệ, đóng góp vào ngân sách, có thu nhập là lợi thế để các đối tượng nhận vốn NH tài trợ cho hoạt động của mình. Bên cạnh đó, chuyện tưởng như nhỏ nhặt nhưng đập vào mắt nhà đầu tư rất lớn, đó là hiện tượng một số cơ sở văn hóa thông tin lấy danh nghĩa là tổ chức từ thiện buộc các DN hoạt động trên địa bàn làm công tác xã hội, gây khó chịu cho các cá nhân DN trên địa bàn. Từ thiện là họat động tự nguyện cần tế nhị nên ủy ban nhân dân thành phố nên có văn bản hợp lý không gây phiền hà mà vẫn nhận được đồng tình ủng hộ của cá nhân doanh nghiệp nói riêng. Đối với họat động ngân hàng: Doanh nghiệp, cá nhân, NH tồn tại song song và có quan hệ chặt chẽ với nhau, chịu điều chỉnh của luật pháp. Do thời gian ban hành các văn bản luật khá lâu nên có nhiều điều bất cập cần có sự điều chỉnh thoáng hơn phù hợp với tình hình mới. Do đó, các nhà làm luật cần phải theo dõi và dự đoán tình hình, diễn biến của nền kinh tế để ban hành luật phù hợp với hiện trạng phát triển hiện nay. Một số ảnh hưởng của môi trường pháp lý đến hoạt động cấp tín dụng của NH chẳng hạn như gần đây nhất là nghị định 188 về chuyển đổi quyền sử dụng đất gắn liền với cơ sơ vật chất xây trên mảnh đất đó làm cho thị trường bất động sản đóng băng, họat động tín dụng có tài sản thế chấp cầm cố bằng quyền sử dụng đất gặp phải khó khăn trong định giá tài sản thế chấp. Người dân ngưng mua đất một thời gian dịch vụ hổ trợ mua sắm nhà cửa của NH bị giảm liên tục, trong khi đó nguồn vốn NH đang nhàn rỗi giảm thu nhập từ tín dụng tiêu dùng mua sắm của NH. Một số văn bản pháp lý chưa tạo được sự canh tranh lành mạnh giữa các NHTM, nghiêng về phía NHQD trong xoá nợ, chuyển nợ quá hạn; những khoản nợ không có khả năng thu hồi được mà NHNN chủ trương xoá nợ và được tái cấp vốn cho NHQD hoạt động. Còn NHTM nếu không thu hồi được nợ thì sẽ gánh chịu rủi ro tín dụng, giảm thu nhập từ hoạt động TD không có nguồn tài trợ như các NHQD. Vì thế, NHNN nên có chủ trương giao quyền cho NHQD tự điều hành , tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động kinh doanh của NH tạo thói quen tốt khi thích với hội nhập tài chính tiền tệ thế giới. Việc bắt buộc phải công chứng hợp đồng thế chấp, cấm cố bảo lãnh gây mất thời gian và chi phí tốn kém cho tổ chức TD và người đi vay, trong khi đó mạng lưới công chứng thưa thớt chưa được quy định cụ thể để có tác dụng an toàn đối với việc đảm bảo tài sản thế chấp, cầm cố. Đối với một số tài sản khác có quy định đăng ký quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng như : quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở thì ở tiến độ cấp giấy chứng nhận rất chậm, khi dùng để thế chấp cầm cố thì NH không thể giữ được tài sản của DN và nếu NH giữ thì DN cũng không có tài sản SXKD. Một nghịch lý nữa trong cơ chế đảm bảo tiền vay là không đồng nhất giữa nghị định 165 (khoản 2 điều 4) và nghị định 178 (khoản 1 điều 9). Hai nghị định này có sự khác nhau về nghĩa vụ đảm bảo nên khó khăn cho việ xử lý tranh chấp khi rủi ro nợ quá hạn xảy ra. Mặt khác, hoạt động của NH luôn bị ràng buộc bởi luật pháp, việc ban hành không đồng bộ hoặc không rõ ràng lại không có văn bản hướng dẫn thi hành làm NH lung túng cho vay đối với tài sản đảm bảo khi bị đưa ra xử lý trong các vụ án . Cho vay chiết khấu hối phiếu được thực hiện giao dịch tại các NH, NHNN còn ban hành pháp lệnh thương phiếu năm 1999, cho đến nay thương phiếu trong nước vẫn chưa xuất hiện do nhiều lý do. Nhưng một trong những lý do là gây cản trở đó là môi trường pháp lý liên quan đến hối phiếu cụ thể là phương thức thanh toán ủy nhiệm thu, ủy nhiệm chi và thư tín dụng được quy định trong quyết định số 22/QĐ-NH1 vế thể lệ thanh toán không dùng tiền mặt được ban hành ngày 21/02/1994 bộc lộ nhiều hạn chế (phương thức tín dụng thư phải ký quỹ 100% NH chỉ là trung gian thanh toán không có chút rủi ro gì, thanh toán không cần hỏi ý kiến người mua,..). Nghiệp vụ chiết khấu này sẽ mang lại nguồn thu lớn vừa là điều kiện để mở rông thị trường ra thế giới bên ngoài nhưng bị hạn chế bởi luật hối phiếu. Khi hối phiếu được lưu hành rộng rãi giúp cho NH hạn chế được rủi ro thông qua nghiệp vụ cho vay, nên NHNN sớm có văn bản pháp lý tạo điều kiện cho thương phiếu ra đời và phát triển. Như vậy, cả hai đối tượng chủ thể vay vốn và NH bị bao bọc bởi hành lang pháp lý. Hành lang pháp lý có nới rộng an toàn thì khách hàng và NH mới hợp tác bền vững lâu dài cấu thành nguồn sống của nền kinh tế. Vì lý do trên, NN và Quốc hội nỗ lực hơn để hoàn thiện hàng lang pháp lý cho cả hai hoạt động có hiệu quả hơn mang lại phồn vinh cho kinh kế, nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân. Những tác động bên ngoài tuy có ảnh hưởng đến hoạt động TD của NH nhưng mọi thành quả đạt được là nhờ vào sự nổ lực rất nhiều từ bản thân .Hiệu quả tín dụng là đích đến của NH, bản thân NH tự mình đưa ra biện pháp điều chỉnh TD sao cho thu hồi được khoản vay giải quyết êm đẹp giữa NH và khách hàng. 2. Về phía NH : Hiệu quả tín dụng thể hiêïn ở nhiều mặt trước hết là ở mặt doanh số thu nợ so với vốn gốc NH bỏ ra đòi hỏi khách hàng và NH phải thực hiện cam kết như trong hợp đồng TD. Trách nhiệm của cán bộ TD đối với khoản nợ của ngân hàng: Tình hình nợ quá hạn gia tăng làm đã đe dọa nghiêm trọng an ninh tài chính trong hoạt động ngân hàng bằng mọi cách NH phải thu hồi được nhiều khoản vay càng tốt. Có hiệu quả hay không hiệu quả khách hàng có trả được nợ hay không là vấn nạn nhiều NHTM mắc phải. NH thu hồi nợ được khâu thẩm khách hàng của NH phải chất lượng, không thẩm định khách hàng quá qua loa sơ sài, có thể do chủ quan hoặc khách quan . ­ Nếu do khách quan: biến động của thị trường, thảm họa của tự nhiên, chính sách kinh tế của chính phủ mất đi thu nhập của khách hàng thì NH gia hạn nợ, khuyến khích động viên khách hàng tiếp tục thực hiện nghĩa vụ tài chính bằng cách NH sẽ bổ sung vốn vào hoạt động của khách hàng giúp khách hàng vượt qua thời kỳ khó khăn; đôn đốc khách hàng trả nợ hoặc chuyển sang nợ quá hạn. ­ Nếu do ý chí chủ quan của cán bộ TD: tin tưởng vào năng lực trình độ chuyên môn của mình thẩm định yếu kém.ï Do yếu kém về nghiệp vụ, thông tin về khách hàng, giá cả thị trường không cập nhật kịp thời, chính sách pháp luật của Nhà Nước, ..cho vay khách hàng không có uy tín năng lực trả nợ hoặc cho vay vượt quá số tài sản đảm bảo làm gia tăng nợ khó đòi cho NH. Ngân hàng nên tổ chức các buổi họp nhóm trao dòi kinh nghiệm trong thẩm định 5 C khách hàng, nâng cao trình độ chuyên môn bằng các buổi học nâng cao kỹ năng thẩm định. Hơn thế nữa, do không cập nhật thông tin khách hàng khả năng mang rủi ro cho NH nên ban lãnh đạo thường xuyên nhắc nhở nhân viên cập nhật thông tin hằng ngày qua sách báo, trung tâm thông tin khách hàng của NHNN, hoặc qua trao đối các cán bộ với nhau những kiến thức này rất bổ ích khả năng phân tích phán đoán khách hàng. Cán bộ phải có sự hiểu biết rõ về môi trường pháp lý tránh tư vấn sai vô tình nay người vay đi vào chỗ làm ăn thua lỗ, nợ nần chồng chất, NH cũng khó thu hồi được nợ. Việc định thời gian trả nợ không hợp lý là nguy cơ tiềm ẩn của rủi ro TD, cán bộ tín dụng nên có cái nhìn tổng quan xét đoán, bổ xẻ phân tích khách hàng để đưa ra kỳ thu nợ ngay khi khách hàng cá nhân có thu nhập (lương, thu nhập từ buôn bán sản xuất nhỏ), khách hàng doanh nghiệp thu được tiền sau khi bán hàng và thu được tiền,..thời điểm này vừa có lợi cho bên cho vay và bên đi vay. Phân tích thông tin có sẳn chưa chắc khách hàng cung cấp đúng sự thật khó hơn là đọc được ý nghĩ của khách hàng xem khách hàng có ý chí muốn trả nợ hay lừa bịp NH lại càng khó khăn hơn. Do đó, kiến thức từ kinh nghiệm rất đáng quý không có trường lớp nào dạy chỉ qua kinh nghiệm học hỏi từ đồng nghiệp, trường hợp này cán bộ TD sẽ tích lũy từ trong thực tế. Vì thế, NH không ngừng nâng cao chất lượng cán bộ ngân hàng nói chung và đội ngũ cán bộ TD nói riêng đề thực hiện phương hướng hoạt động của NH trong giai đoạn hiện nay là nâng cao chất lượng TD giảm tỷ lệ nợ quá hạn NH. Yếu tố con người là nhân tố quyết định, nếu cán bộ TD không có đủ trình độ đáp ứng nhu cầu thực tiễn đòi hỏi của NH. Do vậy, Nâng cao chất lượng và sử dụng hợp lý đội ngũ cán bộ là công việc thường xuyên liên tục và lâu dài của NH. CNBT nên thực hiện phân loại khách hàng theo khối khách hàng cá nhân, khách hàng doanh nghiệp tiện cho việc quản lý theo dõi, trong bố trí cán bộ. Sống trong thời đại công nghệ thông tin hóa lĩnh vực NH, cán bộ TD cần có thêm kiến thức công nghệ ngân hàng để cải tiến nghiệp vụ, phục vụ khách hàng nhanh, gọn, tiết kiệm thời gian cho khách hàng. Khả năng nữa là do rủi ro về đạo đức kéo theo rủi ro nợ quá hạn, thẩm định chỉ dựa vào tình cảm, sai lầm trong thẩm định. Thể hiện ở sự thiên vị trong thẩm định đối với người thân, bạn bè, vì quyền lợi vật chất,.Đạo đức là căn cứ đánh giá bản chất của cán bộï TD, một mặt ban lãnh đạo nên xem xét, tách quyền lợi của NH với quyền lợi cá nhân đảm bảo khả năng thu hồi nợ của NH. Khi cán bộ TD bị lôi cuốn vào quyền lợi vật chất mà quên đi nghĩa vụ của một nhân viên NH thì Trưởng phòng, Ban giám đốc phải xem xét nhu cầu vật chất và nhu cầu tin thần của nhân viên có thoả mãn không, Từ đó đưa ra chính sách lương thích hợp với trình độ chuyên môn khiến cho họ tận tâm với nghề nghiệp hơn. Điểm nhấn mà ít người quan tâm đến đó là nghệ thuật giao tiếp ứng xử khách hàngtrình độ năng lực của cán bộ tín dụng. Một số chính sách lương như trong tháng, quý hoặc năm xem xét khả năng hoàn trả nợ vay của từng hợp đồng TD, cán bộ TD có tích cự thu hồi nợ hay không, mà có mức thưởng lương tạo thêm động lực hăng sai làm việc. Tăng nghiệp vụ nguồn vốn tạo uy tín đối với khách hàng: Chi nhánh Bến Thành chưa được nhiều khách hàng quan tâm, khả năng huy động vốn còn hạn chế. Hoạt động của NH còn đơn điệu trong đó tín dụng cho vay chiếm phần lớn, sức cạnh tranh trên thị trường tăng, chênh lệch lãi suất đầu vào đầu ra thấp, lợi nhuận NH thấp nên NH cần có một số ưu đãi về huy động vốn Việt Nam đồng và ngoại tệ giảm chi phí vay hội sở NHTM, TCTD khác. Tùy theo từng ngân hàng mà có cách huy động khác nhau, huy động thông qua chương trình tiết kiệm dự thưởng, tặng sổ bảo hiểm tiền gửi, ngoài ra ngân hàng có thể huy động bằng cách quy định khách hàng nếu gửi một số tiền nhất định sẽ được hưởng những ưu đãi và được nhận chuyển khoản miễn phí trong địa bàn thành phố với tất cả ngân hàng và chi nhánh OCB có đặt quan hệ: Số tiền gửi tiết kiệm 150 trđ Trên 150 – 400 trđ 400 trđ trở lên Thời gian gửi Trên 6 tháng Trên 6 tháng Trên 6 tháng Số tiền chuyển khoản tối đa 3 lần/ tháng 50 trđ 100-150 trđ 250 triệu Cách này tuy có giảm thu nhập NH nhưng bù lại NH sẽ huy động được nhiều nguồn nhàn rỗi từ tiến gời thanh toán hơn tăng thu từ dịch vụ khách hàng. Giải pháp này giảm chi phí đáng kể từ chi phí lãi vay và chương trình thu hút khách hàng của NH. OCB-BT là chi nhánh cấp 1 nên chịu tác động rất lớn từ chính sách của ngân hàng hội sở, để hoạt động NH thêm vững chắc huy động dược nhiều nguồn thì vốn điều lệ là cái nôi bào vệ che chắn cho NH và mức độ tín nhiệm từ khách hàng nên OCB hội sở nên có phương án tăng vốn điều lệ trong thời gian gần nhất thêm vào đó có sự góp vốn (góp vốn hưởng lợi tức bằng việc nắm giữ cổ phiếu NH chứ không tham gia điều hành NH) của NHNN tăng niềm tin cho khách hàng. Giữ vững khách hàng đã từng đặt quan hệ vay vốn với ngân hàng: Lượng khách hàng này là nguồn thu ổn định cho NH, có nhu cầu vô hạn nên khách hàng đã có giao dịch với NH thường có xu hướng vay lại các món. Đối tượng này đã được NH thẩm định qua có uy tín và hợp tác tốt với NH, thông tin khách hàng đáng tin cậy hơn giảm rủi ro trong khâu thẫm định khách hàng. NH nên có ưu tiên cho đối tượng khách hàng này, khách hàng là người mang đến lợi nhuận cho NH không ai khác. ­ Ưu tiên về lãi suất: dưạ vào số tiền vay, thời hạn vay, lãi suất có thể thấp hơn cho mức độ rủi ro, mức này nằm trong khung lãi suất hiện hành. Khách hàng sẽ thấy mình là một phần quan trọng được NH quan tâm, đãi ngộ. ­ Thực hiện tư vấn miễn phí đưa ra một số ý kiến về hoạt động kinh doanh, chiều hướng thị trường hai bên trao đổi thêm cho khách hàng có cái nhìn đúng đắn. ­ Nhu cầu tin thần không thể thiếu. sau khi giải ngân NH có kế hoặc chăm sóc khách hàng, bày tõ sự quan tâm đến khách hàng bằng hành động thiết thực như gửi tin nhắn, email, thiệp chúc mừng sinh nhật khách hàng, kỷ niệm ngày thành lập công ty, nhân ngày 8/3,.. ­ Đưa ra sản phẩm – dịch vụ mới mà khách hàng truyền thốùng được NH để mắt đến trước tiên nhằm khuyến khích khách hàng tiến tới những tiện ích của NH. Mở rộng hoạt động tín dụng cuả ngân hàng; Mở rộng hoạt động tín dụng của OCB-BT gồm có mở rộng quy mô TD theo địa bàn và theo đối tương khách hàng. ² Theo địa bàn hoạt động: Địa bàn ngoài khu vực truyền thống chợ Bến Thành, trung tâm quận 1, quận 3, quận 5, NH mở rộng sang các vùng ngoại thành, KCN, KCX né tránh cạnh tranh của các NHTM khác cùng địa bàn. Mỗi nơi có địa diễm khác nhau và thị trường khác nhau nên mở rộng hoạt động đi sâu vào cụm dân cư là điều kiện tốt để CNBT được khách hàng biết đến. Ngày nay, do đầu tư trong thành phố dày đặc, quá tả. Các DN chuyển hướng sang ngoại thành là cơ hội sáng sủa cho NH tìm kiếm thị trường tiềm năng biến thành thị trường họat động đáp ứng đủ kịp thời nhu cầu vốn cho nền kinh tế và dân cư. Nếu làm được như vậy thì thị trường t1in dụng của chi nhánh mở rông có nguồn thu lớn vì đầu tư khu vực này rất có triển vọng. ­ Thông qua những khách hàng đã đặt quan hệ giao dịch, vay vốn với NH, NH sẽ tiếp thị sản phẩm NH cho các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả. ­ Thực hiện tiếp thị sản phẩm qua gửi trực tiếp tới doanh nghiệp, cá nhân, hộ gia đình mà NH nhận thấy có xu hướng cần nguồn vốn qua điều tra trực tiếp khách hàng, Cách này tốn kém chi phí nhưng lại đem thông tin về OCB-BT tới khách hàng có hiệu quả hơn. ­ KCN, KCX là nơi NH ít đặt quan hệ, vì thế NH nên mở tông quan hệ với các khu vực này vì phần lớn DNCX đều làm ăn có hiệu quả ngọai tệ thu về nhiều, có nhu cầu vốn lưu động cho công đọan SXKD nên NH nhắm đến thị trường này NH cho vay vừa bao tiêu ngọai tệ giá có lợi cho DN. Làm được điều này NH cần phải mạnh về lĩnh vực thanh toán quốc tế thực hiện toàn bộ dịch vụ thanh toán trọn gói đem niềm tin đến khách hàng. Thực tế cho thấy, NH nào mạnh vế thanh toán quốc tế là lợi thế hơn khi bước vào hộ nhập. ­ NH tìm kiếm khách hàng thông qua các bố cáo thành lập doanh nghiệp trên các báo hằng ngày như tuổi trẻ, Sài Gòn giải phóng, Kinh tế Sài Gòn, doanh nhân việt nam, đầu tư,..gửi thiệp chúc mừng lễ khánh thành kèm theo là những sản phẩm tiện ích của NH không quên một lời chúc tốt đẹp nhất gửi tới khách hàng tạo cái nhìn đẹp về NH dù khách hàng chưa đặt giao dịch lần nào. ² Theo đối tượng khách hàng: Nền kinh tế nước ta có nhiều thành phần là đích nhắm phân khúc thị trường theo đối tượng khách hàng giúp NH định vị và có chiến lược đưa sản phẩm cần thiết cho từng khách hàng. ­ Đối tượng khách hàng cá nhân có đặc điểm là vón vay ít số lượng nhiều, cần nhiều sản phẩm đa dạng riêng. Tại NH chỉ có một số sản phẩm tín dụng như cho vay cưới hỏi, tiêu dùng sửa chửa nhà, mua phương tiện đi lại, du học. Khách hàng tiếp xúc chỉ có cho vay tiêu dùng và sữa chửa nhà hạn chế quy mô của khách hàng tiềm năng. NH cần mạnh dạng đầu tư vào sản phẩm cho vay ứng trước bằng 3 lần mức lương ổn định của công nhân viên trong vòng 3 ngày không tính lãi, kể từ 3 ngày tính lãi suất cho vay do NH quy định; cho vay bằng tín chấp tiêu dùng dưới 10 trđ cho cán bộ công nhân viên mà có mở tài khoản tại NH (NH phải lập ủy nhiệm thu khi đến kỳ thu tiền gởi đến NH nhờ thu hộ). ­ Do sở thích thay đổi nhanh khi khách hàng vay cần làm thủ tục giải ngân nhanh nhất đáp ứng kịp thời sở thích, nếu chậm trễ cảm thụ sản phẩn cần mua không còn hoặc giảm sút khách hàng sẽ đổi ý không vay nữa NH cũng mất đi khách hàng và lợi nhuận từ cấp TD. ­ Khách hàng doanh nghiệp; NH chủ động hơn đến với doanh nghiệp thông qua tìm kiếm khách hàng như nêu trên NH còn phải nâng cao chất lượng dịch vụ, nâng cao trình độ công nghệ thông tin phục vụ nhanh và chính xác hơn. Thu hút khách hàng đến với NH: Ngoài lượng khách hàng cũ, mở rông TD thì NH cần phải có một lượng khách hàng mới tránh rủi roc ho ngân hàng vừa mởø rộng thị phần nâng cao vị thế, thương hiệu của NH. ­ NH phải đa dạng hóa sản phẩm cho vay chẳng hạn như tiến hành cho vay 24 giờ với số tiền nhỏ 5 trđ không trả lãi; sản phẩm tiện ích như tiết kiệm học đường, mỗi kỳ gửi tiết kiệm với số tiền bằng nhau đến khi con cái khách hàng đến 18 tuổi thì dùng số tiền này đề trang trãi việc học,..Ngoài ra, NH có thể cho ra đời nhiều tiệc ích khác phục vụ khách hàng chu đáo hơn. Sản phẩm cho vay NH cần đa dạng, dịch vụ chất lượng nếu có khách hàng yêu cầu được NH cung cấp dịch vụ thì đồng nghĩa với sản phẩm NH được chấp nhận tăng nguồn thu cho dịch vụ giảm rủi ro cho hoạt động TD. ­ Khâu chăm sóc khách hàng là một công việc quan trong thể hiện cách ứng xử giữa NH và khách hàng. “Chiến lượt 3 S” là sàng lọc-sắp sẵn-săn sóc sẽ giúp ngân hàng có được nhiều thông tin đáng tin cậy từ khách hàng, kiểm soát tốt hoạt động của khách hàng. Từ đó NH đưa ra chiến lược kinh doanh hiệu quả hơn cho nhóm đối tượng khách hàng mà NH hướngng tới. ² Sàng lọc là lựa chọn khách hàng tốt cho vay hạn chế cho vay khách hàng không đủ khả năng trả nợ, tránh xa khách hàng cung cấp thông tin gian dối dùng xảo thuật lừa gạt NH. ² Sắp sẵn là phân lọai khách hàng theo nhóm khách hàng cá nhân khách hàng doanh nghiệp với mục đích vay khác nhau, NH sẽ phân công đúng cán bộ chuyên môn phụ trách lĩnh vực đó tránh sai sót và phục vụ khách hàng tốt hơn nhưng không làm cho khách hàng cảm thấy bị phân biệt đối xử với phương chăm luôn vì quyền lợi khách hàng ² Săn sóc: săn sóc trước trong và sau khi giải ngân ngụ ý NH luôn là người bạn luôn đồng hành cùng khách hàng. Ngân hàng chủ động tìm đến gửi thiệp chúc mừng sinh nhật, giáng sinh, gửi quà 8/3 cho khách hàng nữ, gửi bản kê khai hàng tháng, hỏi thăm khách hàng có muốn dử dụng dịch vụ mới của NH không, .trị giá món quà không lớn hiệu quả đem đến rất lớn làm hài lòng khách hàng hơn. ­ Để thu hút khách hàng về phía mình, NH nên có sự hợp tác với các công ty địa ốc dịch vụ thanh trọn gói mua nhà qua NH, dịch vụ này vừa có lợi cho bên mua và bên bán giúp cho khách hàng không bị lừa gạt từ người bán cũng như người mua, bên cạnh triển khai dịch vụ này tạo cơ hội giới thiệu dịch vụ thanh toán qua NH. ­ Thành phố có số lượng dân nhập cư đông đảo nhu cầu nhà ở chung cư càng được ưa chuộng phù hợp với tình hình thu nhập thực tế nên cá nhân là khách hàng lâu dài mà OCB-BT nhắm đến. Tuy mới bắt đầu là con số nhỏ nhưng 1% cũng là tương lai của NH. ­ Với chính sách thu hút nhân tài về Việt Nam sinh sống và làm ăn, Chính phủ đang xét duyệt dư thảo nghị định thay thế nghị định 81/2001 về việc người Việt ở nước ngòai mua nhà trong nước nhằm tạo điều kiện dễ dàng hơn trong việc mua nhà của Việt Kiều. Nghị định này mở rông sẽ có 6 đối tượng mua nhà thay vì bốn đối tượng như nghị định 181 ban hành trước nay. Nếu hợp tác tốt với công ty địc ốc, công ty xây dựng và đưa sản phẩm vay, dịch vụ đến với Kiều bào thì thị trường này là món mồi béo bở cho NH. Một số khả năng khác góp phần nâng cao hiệu quả TD thông qua thủ tục NH ­ Về hợp đồng tín dụng: Soạn thảo nội dung hợp đồng TD còn thiếu sót, chưa có điều khoản quy định trả tiền vay trước hạn mức phí mà NH áp dụng không đồng nhất, lời giải thích của nhân viên giao dịch không thuyết phục được khách hàng, gây tranh cãi giữa NH và khách hàng Đề nghị NH nên nghiên cứu đưa mức lãi suất thanh toán tiền vay trước hạn vào hợp đồng tín dụng để hợp đồng tín dụng rõ ràng hơn không gây hiểu sai từ phiá khách hàng. ­ Về quy trình thủ tục, thẩm định hồ sơ cho vay đủ hợp lệ trong 7 ngày làm việc đối với cho vay ngắn hạn là quá dài , khi klhách hàng muốn vay trong ngắn hạn 48 giờ chắn chắn rắng khách hàng sẽ phải đắn đo nên NH nên tìm cách rút ngắn còn 2-3 ngày làm việc. Cho vay trung và dài hạn giảm không quá 20 ngày giải ngân để khách hàng tiến hành công việc thuận lợi hơn. Đa dạng hóa và nâng cao chất lượng sản phẩm là việc mà NH đang nỗ lực thực hiện. Công việc này cần có thời gian vì khi đưa ra sản phẩm mới trãi qua nhiều công đoạn như nghiên cứu thị trường xem san phẩm có được khách hàng chấp nhận không, doanh số thu được NH đang tìm cách đổi mới. . ­ Công cụ NH dựa vào nhiều nhất để cho vay là tài sản đảm bảo, khi NH duyệt cho vay căn cứ quá nhiều vào tài sản đảm bảo có khi lại phản tác dụng. Theo đo,ù khác hàng có uy tín, có khả năng tài chính và dự án SXKD có hiệu quả vẫn không được vay vốn nếu không thực hiện biện pháp đảm bảo bằng tài sản, dẫn đến tình trạng DN vay vốn không kịp thời với nhu cầu sản xuất kinh doanh vì thủ tục thế chấp cầm cố tài sản phức tạp, tốn thời gian, mất cơ hội kinh doanh. Khách hàng không trả được nợ tài sản không được thu hồi hoặc NH vẫn nắm giữ tài sản nhưng không xứ lý được. Trong khi đó cho vay tín chấp lại thu được nợ do khách hàng uy tín có đủ năng lực tài chính,..Do đó, NH nên thay đổi cách nhìn nhận quan điểm quyết định cho vay không nên coi tài sản đảm bảo là chỗ dựa an toàn. ­ Hiện tượng xuất hiện gần đây là dịch vụ tư vấn vay vốn ngân hàng trọn gói không chỉ là dịch vụ của các NHTM mà là của các cá nhân môi giới trung gian đã và đang hoạt động mạnh hơn cả dịch vụ tại ngân hàng làm cho những người am hiểu phải ngạc nhiên , vì thông thường các khoản cho vay của NH không thể có thời gian thần tốc như vậy. Liệu chăng có sự tiếp tay của cán bộ tín dụng với “cò tín dụng”? Trong hoàn cảnh này, NH giảm tối đa thời gian xét cho vay, nhắc nhở nhân viên tín dụng chủ động trong cách phục vụ khách hành (khách hàng là thượng đế chứ không phải ngân hàng là thượng đế), và ban lãnh đạo quan tâm đến đời sống cá nhân nếu khó khăn thì trợ giúp kịp thời để cho nhân viên hết lòng vì đạo đức nghề nghiệp. ­ Vấn đề nhạy cảm nhất là lương bổng của nhân viên NH, chính sách lương có thể là động lực để nhân viên làm việc hết mình hoặc lơ là trong công việc, rời bỏ NH. Lương cao không có nghĩa là tin thần nhân viên thoải mái hăng say làm việc mà điều không thể thiếu là sự quan tâm của cấp trên như khen tăng khi nhân viên hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, chia sẽ cùng nhân viên giải quyết những khó khăn mà bản thân nhân viên không tự giải quyết. Người lãnh đạo nên kéo nhân viên vào họat động quan trọng của NH. Làm sao cho họ that sự tin tưởng rằng mình là một phần tử quan trong cấu thành nên NH. ­ Thực hiện cạnh tranh giữa các nhân viên dựa trên phát huy tài năng mà NH sẽ đánh giá đưa ra mức lương cho từng nhân viên. Để tránh sự đố kỵ, đùng nay công việc cho nhau NH nên công bố mức lương cơ bản khi ký hợp đồng lao động còn mức lương chính thức không nên công bố rõ ràng giữa các nhân viên (dùng phong thư ghi mức lương, thưởng phạt, nêu lý do cho mỗi nhân viên) trong cùng bộ phận thậm chí nhân viên của cùng một NH. Tài khoản lương này chỉ có giám đốc và kế toán trưởng biết để hoạch toán vào chi phí lương công nhân viên, chính sách này là sự tế nhị vừa có tính khách quan giữa các nhân viên. ­ Quyền lợi của nhân viên được chú trong còn tác phong công công nghiệp còn chưa thực hiện đồng bộ. Lảnh đạo cấp trên thường xuyên kiểm tra, nhắc nhở nhân viên đưa ra mức kỷ luật trừ lương nếu như đi muộn, thực hiện công việc riêng trong giờ hành chánh nhiều lần trong tháng nhằm xây dựng văn hóa doanh nghiệp trong NH vì mục tiêu phát triển bền vững. ­ Cơ chế thị trường luôn vận động không ngừng có nhiều thay đổi lớn từ thị trường đến TDNH Ban lãnh đạo nên có kế họach dư đoán và định hướng phát triển thị trường né tránh rủi ro đem lại nguồn thu ổn định cho NH. Cách xử lý nợ quá hạn, nợ khó đòi hợp lý: Nợ quá hạn nợ khó đòi có nhiều nguyên nhân gây ra. Tìm hiểu nguyên nhân để có cách xử lý thích hợp có lợi cho NH. ­ Thành lập tổ chức xử lý nợ quá hạn, nợ tồn động của NH, cán bộ thẩm định vẫn chịu trách nhiệm đối với khoản vay nhưng tách quyền đòi nợ cho nhân viên chuyên nghiệp. Nhân viên này vừa thông hiểu pháp luật vừa nhạy bén vừa có kinh nghiệm để thu thập thông tin và xử lý những khoản nợ có vấn đề mang tính phức tạp mà cán bộ cho vay không xử lý được. Tổ chức này sẽ có nhiều phương pháp thu hồi nợ cho NH nhanh hơn. Mặt dù NH giao quyền cho tổ chức xử lý nợ có vấn đề nhưng cán bộ TD vẫn phải liên kết chặt chẽ với tổ chứ này về tình hình công nợ và phải chịu trách trách nhiệm về nợ phải thu mà cán bộ TD thẩm định nhằm hạn chế cho vay tràn lan chạy theo phát triển chiều rộng không đi vào chiều sâu đem lại HQTD cho NH. Biện pháp NH theo dõi thu nợ và xử lý khoản nợ tồn động nợ khó đòi: ² Biện pháp 1: ­ Nếu nhận thấy DN còn có khả năng trả nợ thì NH giúp khách hàng doanh nghiệp có chiến lược kinh doanh hiệu quả, vạch ra phương án trả nợ tối ưu, quật day doanh nghiệp sắp đi vào phá sản từng bước hồi sinh DN, lành mạnh hóa tình hình tài chính, khả năng sản xuất thanh toán nợ ngân hàng mà không phải dùng công cụ pháp lý. ­ Đối với khách hàng cá nhân có thể nhận hổ trợ từ ngân hàng chính sách xã hội giảm áp lực cho các khoản vay NHTM với lãi suất ưu đãi khiến cho khách hàng có được sự quan tâm tích cực làm ăn có thu nhập hoàn trả ngân hàng. Biện pháp này đòi tin thần hợp tác giữa hai bên nên rất khó thực hiện thường áp dụng cho khách hàng có uy tín, có thiện chí trả nợ. ² Biện pháp 2: dùng công cụ pháp lý ép buộc người vay trả nợ: nhờ chính quyền địa phương hổ trợ, thông báo đối tác của khách hàng hoặc là công ty nơi khách hàng đang làm việc, tình huống xấu nhất là nhờ toà án xét xử để thanh lý, phát mãi tài sản thế chấp để thu nợ. ­ Bán nợ cho công ty quản lý nợ và tài sản: công ty quản lý nợ và tài sản tồn độmg của doanh nggiệp (DATC),và một số công ty quản lý nợ thuộc bộ tài chính. ­ Trích lập quỹ dự phòng theo quyết định số 488/2000 QĐ-NHNN5 ngày 27/11/2000 của thống đốc NHNN thay thế quyết định số 48/1999/QĐ-NHNN5 ngày 08/02/1999 và công văn số 582/CV-NHNN ngày 23/06/1999 về việc phân loại tài sản có, trích lập và dư phòng để xử lý rủii ro trong hoạt động NH. Quỹ này giảm rủi ro cho NH làm trong sạch bảng cân đối kế toán, cũng là sơ hở để NH lợi dụng không nâng cao trình độ chuyên môn nâng cao hiệu quả TD tiếp tục sai lầm trong thẩm định gia tăng nợ quá hạn.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docCHÖÔNG III.doc
  • docBIA.doc
  • docCHUONG1.doc
  • docCHUONG2.doc
  • docLTONGHOP.doc
  • docPHANKETLUAN.doc
  • doctTAILIEUTHAMKHAO.doc
Tài liệu liên quan