Đề tài Giải pháp nâng cao hiệu quả Quản lý nhà nước về đào tạo xây dựng cán bộ tại Bộ Thương mại

Khâu lập - thẩm định dự án, quyết định đầu tư; Khâu lập và phê duyệ hồ sưo thiết kế, dự toán đã có tiến bộ rõ rệt qua chất lượng hồ sơ dự án, hồ sơ thiết kế dự toán, giảm chi phí, giảm thời gian cho giai đoạn chuẩn bị đầu tư và thực hiện đầu tư Dự án quy mô lớn, phức tạp mới phải lập Báo cáo nghiên cứu tiền khả thi. Dự án nhỏ hơn 1 tỷ VNĐ không phải lập Báo cáo nghiên cứu khả thi, chỉ lập báo cáo đầu tư. Tăng quy mô dự án nhóm A để giảm số lượng dự án đưa Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.Giảm cấp trung gian (cơ quan chủ qủan), chủ đầu tư trực tiếp trình dự án lên cấp có thẩm quyền phê duyệt. Nội dung thẩm định thiết kế rõ ràng hơn: Nhà nước chỉ thẩm định một só nội dung chủ yếu, bảo đảm quyền lợi của nhà nước và xã hội: quy hoạch, kiến trúc Loại bỏ thủ tục hành chính kkhông cần thiết, tăng trách nhiệm của chủ đầu tư và tổ chức, cá nhân thiết kế.

doc90 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1307 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp nâng cao hiệu quả Quản lý nhà nước về đào tạo xây dựng cán bộ tại Bộ Thương mại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
a HĐBT này là Chính phủ. Công trình khu biệt thự 46 Láng Hạ - Hà Nội thuộc Văn phòng Tổng Công ty: thi công không có luận chứng khoa học kỹ thuật, thiết kế kỹ thuật khôgn được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt, xây dựng sai nội dung quyết định cấp đất. Dự toán và quyết toán công trình không được cấp có thẩm quyền phê duyệt. Công trình xây dựng Trung tâm giao dịch và dịch vụ thương mại quốc tế tại phố Đinh Tiên Hoàng - Hà Nội thuộc Văn phòng Tổng Công ty: Thi công khi thiết kế kỹ thuật, dự toán không được cấp có thẩm quyền phê duyệt, không có giấy phép về kiến trúc của kiến trúc sư trưởng thành phố; luận chứng khoa học kỹ thuật không được cấp có thẩm quyền phê duyệt. Công trình này với kiến trúc không phù hợp bên cạnh không gian Hồ Hoàn Kiếm đã khiến dư luận lên tiếng và có nhiều tranh cãi. Hậu quả, đối tác dự tính thuê Trung tâm đã phá hợp đồng, công trình không được đưa vào sử dụng. Chỉ sau khi thực hiện sửa đổi về kiến trúc với chi phí không nhỏ, công trình mới thực sự đi vào hoạt động. - Công ty Barotex: Công trình Hãng Barotex - 37 Lý Thường Kiệt, Hà Nội: thi công không có thiết kế kỹ thuật và tổng dự toán được duyệt (trừ phần thiết kế móng đã được Bộ duyệt) dẫn đến tranh chấp bên A và bên B về khối lượng. 3. Với các liên doanh: Xí nghiệp giầy thể thao Kiêu Kị của Công ty Barotex có tổng mức đầu tư 21 tỷ. Sản xuất gần một năm thì đối tác bao tiêu sản phẩm bỏ cuộc. Xí nghiệp không có đầu ra, vay đầu tư qua Ngân hàng thương mại lãi suất lớn từ 1,7 - 1,8% / tháng. Không sản xuất được, xí nghiệp không có khả năng trả nợ lãi và gốc, rơi vào tình trạng nợ nần. Công ty liên doanh khách sạn SUNWAY, Hà Nội; Công ty liên doanh bao bì 3 mảnh; Công ty Thương mại Tràng Tiền …phần lớn đổ vỡ do không nghiên cứu kỹ đối tác; một số dự án bị đối tác bán đi bán lại để kiếm lời. nội dung không thuộc dự án. Qua các số liệu và phân tích trên, có thể thấy tình hình đầu tư XDCB tại Bộ Thương mại tuy đã đạt được những kết quả đáng mừng nhưng vẫn còn tồn tại không nhỏ trong công tác thực hiện và quản lý đầu tư XDCB. Với chức năng QLNN về đầu tư XDCB tại các doanh nghiệp trực thuộc, Bộ Thương mại cần có những mục tiêu và hành động cụ thể để nâng cao hiệu quả quản lý góp phần phát huy kết quả của đầu tư XDCB. II. Tình hình thực hiện QUảN Lí NHà NướC về đầu tư XâY DÙNG Cơ Bản tại Bộ Thương mại A. Quá trình hình thành công tác QLNN về ĐTXDCB - 1990 đến 1994: QLNN về ĐTXDCB vẫn còn rất phân tán. Bộ Thương mại vừa hình thành từ 3 Bộ: Bộ Nội Thương, Bộ Vật tư và Bộ Ngoại thương. Ba Bộ này trước đều có bộ phận quản lý ĐTXDCB nội bộ. Vì vậy, khi chuyển sang Bộ Thương mại, tạm thời vẫn giữ nguyên vị trí đó là: Phần ĐTXDCB- Bộ Vật tư cũ vẫn thuộc Vụ Khoa học kỹ thuật. Phần quản lý ĐTXDCB của Bộ Nội thương và Bộ Ngoại thương cũ vẫn thuộc Vụ Kế hoạch. Như vậy là tồn tại hai Vụ cùng có bộ phận quản lý ĐTXDCB nội bộ. Khi các doanh nghiệp thực hiện ĐTXDCB gặp nhiều khó khăn do sự không đồng nhất về quan điểm quản lý giữa các Vụ chức năng. Hình thức này chỉ tồn tại trong thời gian ngắn. Sang năm 1993 - 1994, hoạt động quản lý ĐTXDCB được tập trung về Vụ Kế hoạch. - 1994 đến 1999: Chức năng quản lý ĐTXDCB tập trung về Vụ Kế hoạch. Tuy nhiên lại xuất hiện một số khó khăn trong quản lý, đó là, toàn bộ phần ĐTXDCB của Bộ Thương mại và các đơn vị trực thuộc Bộ do một bộ phần tại Vụ Kế hoạch quản lý với các công việc như: Thẩm định, trình Bộ phê duyệt, … Trong khi đó, Vụ Đầu tư với chức năng giúp Bộ trưởng QLNN về hoạt động đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp thuộc phạm vi trách nhiệm của Bộ Thương mại cũng thực hiện nhiệm vụ thẩm định, kiểm tra và tổng hợp các dự án đầu tư (trong đó gồm cả các dự án đầu tư XDCB của các doanh nghiệp thuộc Bộ) để báo cáo Bộ trưởng và các cơ quan QLNN. Như vậy, xét về tính chất, QLNN về hoạt động ĐTXDCB tại các doanh nghiệp trực thuộc Bộ Thương mại hoàn toàn phù hợp với chức năng nhiệm vụ của Vụ Đầu tư. Nhận thấy điều này, tới năm 1999, bộ phận này được chuyển giao về Vụ Đầu tư. - Cuối 1999 đến nay, chức năng quản lý ĐTXDCB chuyển sang Vụ Đầu tư phụ trách. Hiện nay, QLNN về ĐTXDCB với các dự án tại Bộ Thương mại được quản lý theo sơ đồ sau: Các Vụ chuyên ngành liên quan đến dự án Cho ý kiến về các vấn đề liên quan của Dự án khi được đề nghị Chủ đầu tư Nộp hồ sơ dự án Vụ Đầu tư Trong đó, Vụ Đầu tư là đơn vị chủ trì việc thẩm định và trình Bộ phê duyệt các dự án đầu tư của các đơn vị trực thuộc Bộ. Các vụ chuyên ngành liên quan là: Vụ Khoa học kỹ thuật, Vụ Tài chính Kế toán, Vụ Tổ chức cán bộ, Vụ Kế hoạch, Các Vụ Thị trường. Chủ đầu tư là các đơn vị trực thuộc Bộ Thương mại B. Tình hình thực hiện QLNN về ĐTXDCB 1.Về xây dựng văn bản pháp quy và hướng dẫn thực hiện Về xây dựng văn bản pháp quy: Trong những năm qua, đặc biệt là từ năm 1990 đến nay, thực hiện đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước, Bộ Xây dựng được Thủ tướng Chính phủ giao nhiệm vụ chủ trì cùng Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, các Bộ liên quan (trong đó có Bộ Thương mại) nghiên cứu đổi mới cơ chế quản lý trong lĩnh vực ĐTXDCB. Sự đổi mới này được thể hiện trong các nội dung của: Điều lệ quản lý ĐTXD 177/CP (1994); Điều lệ quản lý ĐTXD 42/CP (1996), 92 CP (1997); Quy chế quản lý ĐTXD 52/CP (1999), được sửa đổi, bổ sung trong Nghị định 12/CP (2000) của Chính phủ; cùng các văn bản hướng dẫn của các Bộ: Kế hoạch và Đầu tư, Xây dựng, Tài chính, Quỹ hỗ trợ đầu tư. Có thể nói đây là sự vận dụng tích cực của đường lối đổi mới của Đảng và những phương pháp quản lý tiên tiến cuả quốc tế, khu vực, trong lĩnh vực ĐTXDCB vào thực tế của nước ta. Tại Bộ Thương mại, cùng với sự thay đổi của cơ cấu tổ chức quản lý của Bộ và của các văn bản pháp quy của Nhà nước, lãnh đạo Bộ cũng nghiên cứu và đưa ra các văn bản hướng dẫn, các quy định liên quan nhằm tăng cường hiệu quả quản lý ĐTXDCB tại Bộ. Đó là: Quyết định số 760/2001/QĐ-BTM ngày 18/07/2001 về việc ban hành Quy chế phối hợp thẩm định và phê duyệt dự án đầu tư thuộc thẩm quyền của Bộ Thương mại. Chỉ thị số 21/2001/CT-BTM ngày 30 tháng 8 năm 2001 về tăng cường công tác quản lý đầu tư và xây dựng của các đơn vị trực thuộc Bộ. a.Những mặt tích cực Sau khi ban hành Nghị định 52 (1999) và Nghị định 12 sửa đổi, bổ sung Nghị định 52 (2000), trong QLNN về ĐTXDCB đã đạt được một số kết quả như sau: - Đã có bước chuyển đổi cơ bản từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung, bao cấp trong ĐTXDCB sang "cơ chế quản lý theo dự án" Với cơ chế này đòi hỏi phải từng bước thay đổi cách quản lý từ khâu lập dự án quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng, lãnh thổ; quy hoạch phát triển ngành; quy hoạch xây dựng đo thị - nông thôn; quy hoạch chi tiết các trung tâm đô thị và quy hoạch chi tiết sử dụng đất đai. 5 năm 1996 - 2000, Nhà nước đã tập trung chỉ đạo việc lập và phê duyệt quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội hầu hết các vùng, đồng thời với việc xây dựng quy hoạch phát triển ngành, các khu công nghiệp tập trung. Trên cơ sở chủ trương trên, Bộ Thương mại đã tiến hành công tác lập quy hoạch ngành, vùng. Các dự án quy hoạch đã xây dựng như: Dự án quy hoạch tổng thể phát triển ngành Thương mại Việt Nam đến năm 2010 (thực hiện tháng 9/ 1996). Dự án "Quy hoạch phát triển thương mại các vùng cửa khẩu biên giới Tây và Tây Nan Việt Nam đến năm 2010" (thực hiện năm 1996) Dự án "Quy hoạch phát triển thương mại các vùng cửa khẩu biên giới phía Bắc Việt Nam đến năm 2010"(thực hiện năm 1998) - Việc phân loại dự án theo tính chất nguồn vốn giúp việc quản lý hiệu quả hơn, giảm các thủ tục hành chính. Đây là bước đổi mới cơ bản nhằm lập mối quan hệ chủ yếu giữa người đi vay và tổ chức cho vay trong qúa trình đầu tư. Tạo thế chủ động cho các doanh nghiệp tiếp cận nhanh và đáp ứng kịp thời nhu cầu của thị trường, khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia ĐTXDCB. - Cải tiến quy trình, trình tự ĐTXDCB Khâu lập - thẩm định dự án, quyết định đầu tư; Khâu lập và phê duyệ hồ sưo thiết kế, dự toán đã có tiến bộ rõ rệt qua chất lượng hồ sơ dự án, hồ sơ thiết kế dự toán, giảm chi phí, giảm thời gian cho giai đoạn chuẩn bị đầu tư và thực hiện đầu tư Dự án quy mô lớn, phức tạp mới phải lập Báo cáo nghiên cứu tiền khả thi. Dự án nhỏ hơn 1 tỷ VNĐ không phải lập Báo cáo nghiên cứu khả thi, chỉ lập báo cáo đầu tư. Tăng quy mô dự án nhóm A để giảm số lượng dự án đưa Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.Giảm cấp trung gian (cơ quan chủ qủan), chủ đầu tư trực tiếp trình dự án lên cấp có thẩm quyền phê duyệt. Nội dung thẩm định thiết kế rõ ràng hơn: Nhà nước chỉ thẩm định một só nội dung chủ yếu, bảo đảm quyền lợi của nhà nước và xã hội: quy hoạch, kiến trúc… Loại bỏ thủ tục hành chính kkhông cần thiết, tăng trách nhiệm của chủ đầu tư và tổ chức, cá nhân thiết kế. Giảm đối tượng phải xin giấy phép xây dựng: Công trình nhóm B,C có quyết định đầu tư và có thiết kế kỹ thuật đã được phê duyệt; công trình xây dựng nhà ở trong dự án phát triển nhà ở đô thị đã được phê duyệt thì chỉ cần có thẩm định thiết kế kỹ thuật và miễn phải xin giấy phép xây dựng. - QLNN và quản lý hoạt động kinh doanh được tách bạch: Thực hiện chuyển hướng nhà nước đầu tư phát triển thông qua hệ thống doanh nghiệp nhà nước. Như vậy, người có quyền quyết định đầu tư không được kiêm nhiệm đầu tư; cơ quan hành chính sự nghiệp làm chủ đầu tư dự án xây dựng cơ sở vật chất cơ quan mình. Quy định rõ ràng hơn về chủ đầu tư giúp tránh chồng chéo, đùn đẩy trách nhiệm. - Riêng với Bộ Thương mại, với việc đưa ra quy chế phối hợp thẩm đinh và phê duyệt dự án đầu tư thuộc thẩm quyền của Bộ, đã bước đầu chấn chỉnh được những khúc mắc tồn tại khá lâu trong QLNN về ĐTXDCB. Quy chế đã quy định cụ thể các dự án đầu tư và cấp có thẩm quyền thẩm định phê duyệt dự án đầu tư của các đơn vị trực thuộc Bộ Thương mại. Trong đó, Vụ đầu tư là đơn vị chủ trì việc thẩm định và trình Bộ phê duyệt các dựa ns đầu tư của các đơn vị thuộc Bộ theo các nội dung quy định. Các vụ liên quan khác gồm: Vụ Kế hoạch - Thống kê; Vụ Tài chính kế toán, Vụ Tổ chức cán bộ, Vụ Khoa học và các Vụ thị trường tham gia ý kiến phối hợp thẩm định dự án đầu tư bằng văn bản khi được đề nghị. Như vậy, đã giải quyết được vấn đề quản lý chồng chéo, lẫn lộn trách nhiệm trong quản lý ĐTXDCB giữa các Vụ. b. Những mặt còn hạn chế Tuy nhiên, vẫn còn những tồn tại trong việc xây dựng văn bản pháp luật về quản lý ĐTXDCB nói chung và ở Bộ Thương mại nói riêng. Đó là: + Các văn bản cấp Nhà nước có tính khả thi thấp, chưa sát với tình hình thực tế, quá nhiều, lại không ổn định, thiếu đồng bộ dẫn đến việc liên tục sửa đổi, gây khó khăn cho doanh nghiệp: Khung pháp luật để quản lý ĐTXDCB còn thiếu, chưa đồng bộ với lĩnh vực xây dựng nói chung và quy hoạch xây dựng đô thị, các khu công nghiệp tập trung nói riêng, thể hiện qua quy trình kiểm soát, phát triển ở tầm vĩ mô. Một số thủ tục về giao đất hoặc thuê đất vẫn còn vướng mắc khi thực thi, thủ tục về phê duyệt kế hoạch đấu thầu và phê duyệt kết quả đấu thầu vẫn còn tốn nhiều thời gian, ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện dự án. Do sự chồng chéo sửa đổi liên tục của các văn bản pháp luật về quản lý ĐTXDCB của nhà nước, một số dự án triển khai chậm, bị sai lệch trong tính hiệu quả đầu tư, có những công trình chậm gần 2 năm, phải thay đổi cả quyết định đầu tư ban đầu. + Các văn bản cấp ngành về quản lý ĐTXDCB đều mới được ban hành năm 2001, tức là sau một thời gian dài có những bất cấp trong ĐTXDCB tạo Bộ Thương mại. Như vậy việc xây dựng và ban hành các văn bản dưới luật quá chậm so với tình hình thực tế đặt ra.Thậm chí có một số văn bản trái với quy chế quản lý hiện hành. Ví dụ, những văn bản Quyết định về việc thành lập Ban chỉ đạo tổ chức triển lãm EXPO 2000 (Ban chỉ dạo theo Quyết định chưa đủ tư cách pháp nhân để thực hiện ký kết hợp đồng), Hội đồng đấu thầu làm chức năng của Tổ chuyên gia cho chủ đầu tư v.v không đúng theo Nghị định của Chính phủ (Nghị định 88/1999/NĐ-CP ngày 1/9/1999 của Chính phủ). Nhận xét về hướng dẫn thực hiện: Từ năm 99 trở về trước, công tác hướng dẫn thực hiện thường không quy củ và không kịp thời. Trong khi các văn bản pháp luật liên quan đến ĐTXDCB do Nhà nước và Bộ Thương mại ban hành với số lượng khá lớn và liên tục sửa đổi. Dẫn tới doanh nghiệp không được hướng dẫn đầy đủ, thực thi không chính xác. Nhận rõ tầm quan trọng của việc hướng dẫn thực hiện văn bản pháp quy tới các cơ sở, Bộ Thương mại đã chỉ đạo Vụ Đầu tư chủ trì những Hội nghị chuyên đề, soạn thảo những văn bản hướng dẫn và thực hiện hướng dẫn trực tiếp tại Vụ khi có dự án hoặc có doanh nghiệp thắc mắc. Trong năm 2001, Vụ đầu tư đã chủ trì 12 Hội nghị chuyên đề tại các địa phương với các Sở Thương mại và các doanh nghiệp FDI để bàn về việc thực hiện Thông tư 22 của Bộ Thương mại hướng dẫn Nghị định 24 của Chính phủ thi hành Luật đầu tư nước ngoài và bàn các giải pháp thaó gỡ khó khăn, ách tắc, đẩy mạnh xuất khẩu của doanh nghiệp FDI. Các hội nghị này đã được các Sở Thương mại và doanh nghiệp FDI đánh giá cao. 2.Lập và quản lý kế hoạch ĐTXDCB Công tác lập và quản lý kế hoạch ĐTXDCB được hướng dẫn cụ thể và rõ ràng, nhằm giúp cho doanh nghiệp đạt hiệu quả cao trong đầu tư. Nhiều doanh nghiệp đã dần dần tự khẳng định mình trong cơ chế thị trường, có ý thức trong lập kế hoạch, nghiên cứu tình hình để có những dự án đầu tư khả thi. Hàng năm, Bộ Thương mại đều tiến hành đăng ký nhu cầu ĐTXDCB và phân bổ vốn theo chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước giao. Tuy lượng vốn này rất ít so với nhu cầu nhưng đều được phân bổ hợp lý theo mục tiêu phát triển ngành, tiến độ và nhu cầu thực tế của từng dự án. Nhưng ở từng doanh nghiệp, công tác quy hoạch và chuẩn bị đầu tư làm chưa tốt, chưa đầy đủ, nên khi lập kế hoạch hàng năm, đã đưa vào cả những công trình chưa đủ điều kiện, dẫn đến tình trạng vừa triển khai vừa giải quyết các thủ tục ban đầu, nên tiến độ thực hiện chậm. Một số công trình mọc lên không theo kế hoạch chung, mà triển khai theo xu thế cạnh tranh không lành mạnh, để xảy ra tình trạng thua lỗ, hoặc đổ vỡ trong kinh doanh. Ví dụ: Số lượng cây xăng được xây dựng trên một địa bàn quá nhiều. Một số xí nghiệp may, xí nghiệp giầy xuất khẩu… không tính đến thị trường lâu dài, không tính đến nhu cầu, thị hiếu người tiêu dùng, dẫn đến hậu quả đáng tiếc sau đầu tư. Như tình trạng của Công ty Vật tư tổng hợp Hải Hưng, Công ty Xuất nhập khẩu mây tre (Barotex), Công ty Vải sợi may mặc Miền Bắc. Một số đơn vị do sơ xuất hoặc không kỹ càng khi chuẩn bị hồ sơ dự án dẫn tới bị cơ quan cho vay khi thẩm định cho rằng thiếu tính khả thi và đình không cho vay vốn nữa, ví dụ như dự án kho Vĩnh Tuy. Những sơ suất, sai phạm về quản lý ĐTXDCB đã được trình bày trong phần tình hình hiệu quả và sai phạm trong quản lý ĐTXDCB. Nhằm nâng cao hơn nữa công tác kế hoạch hoá đầu tư và làm cơ sở cho việc đăng ký nhu cầu đầu tư và xây dựng hàng năm, tháng 8 năm 2001, Bộ Thương mại đã yêu cầu các đơn vị rà soát toàn bộ cơ sở vật chất đang có đánh giá hiện trạng, khả năng khai thác công trình. Trên cơ sở đó, xem xét và tính toán nhu cầu đầu tư. Nhằm tăng cường công tác QLNN về ĐTXDCB của các đơn vị trực thuộc Bộ, Bộ Thương mại ra chỉ thị số 21/2001/CT-BTM yêu cầu các đơn vị trực thuộc triển khai một số việc sau đây: - Tổ chức tổng kết, đánh giá tình hình thực hiện công tác ĐTXDCB qua từng thời kỳ (5 năm) của đơn vị để thấy rõ ưu, khuyết điểm về chủ trương đầu tư, hiệu quả đầu tư. Trên cơ sở đó đề ra định hướng, chương trình dự kiến đầu tư trong những năm sau. - Tất cả các dự án bằng nguồn vốn Nhà nước đều phải được lập kế hoạch hàng năm và 5 năm để đăng ký với các cơ quan chức năng của Bộ và Nhà nước, và được thẩm định kỹ càng. - Tiến hành ra soát và bổ sung cán bộ có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ làm công tác quản lý ĐTXDCB của đơn vị. - Công tác quyết toán vốn đầu tư xây dựng cơ bản ở đơn vị phải được thực hiện khẩn trương, đảm bảo đúng chế độ quy định. - Hàng năm, các đơn vị phải báo cáo về Bộ (Vụ Đầu tư) theo các nội dung: Đăng ký kế hoạch đầu tư XDCB và tình hình triển khai các dự án trong năm kế hoạch (thuộc các nguồn vốn) vào tháng 7. Chủ đầu tư phải báo cáo định kỳ 6 tháng 1 lần (vào tháng 6 và tháng 12) về tình hình chất lượng công trình xây dựng của tất cả dự án đang triển khai để Bộ tổng hợp báo cáo Nhà nước. Báo cáo tình hình thực hiện quyết toán vốn đầu tư XDCB đối với các công trình đã hoàn thành. Những công việc trên chính là để giải quyết bất cập còn tồn đọng qua nhiều thời kỳ vẫn chưa được giải quyết dứt điểm như chế độ báo cáo thống kê, báo cáo định kỳ mà hầu hết các doanh nghiệp đều không thực hiện nghiêm túc, nhất là hệ thống công trình đầu tư bằng nguồn vốn tự huy động trong. Hàng năm, chỉ có một số cơ sở làm ăn đạt hiệu quả cao là có báo cáo như Tổng công ty xăng dầu, Công ty Petec… trong khi đây lại là nguồn vốn chiếm đến 95% (1996-2000) trong tổng vốn ĐTXDCB của Bộ Thương mại. 3. Thẩm định các dự án ĐTXDCB Vụ Đầu tư kết hợp với các Vụ liên quan hàng năm thực hiện nhiệm vụ thẩm định các dự án đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, các dự án đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài có liên quan đến thương mại, thẩm định hàng trăm hợp đồng nhập khẩu thiết bị của các dự án đầu tư trong nước. Về thẩm quyền thẩm định đầu tư ở hầu hết các công trình sử dụng vốn ngân sách và tín dụng đầu tư, Bộ Thương mại đều thực hiện đúng. Nhưng ở những công trình dùng nguồn vốn tự bổ sung và tự huy động, một số doanh nghiệp đã xem nhẹ quản lý ĐTXDCB. Khi thẩm định không qua cơ quan chuyên môn, hoặc hồ sơ chưa đầy đủ mà quyết định vội vàng, dễ dẫn đến kém hiệu quả trong đầu tư. Những dự án phải thuê các tổ chức tư vấn lập báo cáo nghiên cứu khả thi, thì chất lượng chưa cao, vì các tổ chức tư vấn thường không am hiểu nhiều về mặt kinh doanh, kinh tế mà chỉ chú trọng đến các vấn đề kỹ thuật của dự án. Do đó quá trình thẩm định và phê duyệt dự án thường phải kéo dài. Bộ Thương mại đã ban hành Quy chế phối hợp thẩm định và phê duyệt dự án đầu tư thuộc thẩm quyền của Bộ với những quy định cụ thể về: - Các dự án đầu tư và cấp có thẩm quyền thẩm định phê duyệt dự án đầu tư của các đơn vị trực thuộc Bộ Thương mại. - Nội dung thẩm định đối với các dự án do Bộ quyết định đầu tư - Quy định đối với chủ đầu tư dự án - Thời gian thẩm định và phê duyệt quyết toán dự án đầu tư của các đơn vị trực thuộc Bộ - Đơn vị chủ trì, phối hợp thực hiện thẩm định phê duyệt dự án đầu tư. Như vậy, những doanh nghiệp trực thuộc Bộ Thương mại có thể xác định rõ yêu cầu cần có của dự án để chuẩn bị kỹ càng hơn, không bối rối trong việc nghiên cứu và xây dựng dự án, rút ngắn thời gian thẩm định. Về công tác đấu thầu, Bộ Thương mại có trách nhiệm QLNN là chủ yếu, chỉ hướng dẫn, kiểm định và phê duyệt mà không thực hiện đấu thầu cụ thể. Việc hướng dẫn thực hiện đấu thầu được thực hiện đầy đủ chính xác đến các đơn vị cơ sở theo quy chế quản lý ĐTXDCB, đấu thầu mà Nhà nước quy định. Tuy nhiên, phần lớn các công trình đều thuộc nhóm C, lại sử dụng VĐT từ nguồn tự khai thác nên việc đầu tư do đơn vị được phép quyết định và tự chịu trách nhiệm (theo mục 2 điều 12 của Nghị định 52/1999/NĐ-CP). Các nhóm dự án do Bộ quản lý (thuộc nguồn vốn nằm trong kế hoạch hàng năm được Nhà nước phân bổ) lại ít, vốn đầu tư không nhiều. Các dự án này đều được thực hiện đấu thầu đúng quy chế của Nghị định 88/1999/NĐ-CP và 14/2000/NĐ-CP. Có thể nhận thấy điều này trong bảng trang sau: Bảng tổng hợp kết quả đấu thầu năm 2001 các dự án sử dụng vốn nhà nước Về Quản lý chất lượng công trình: Hiện nay, quản lý chất lượng công trình đã được nhận thức là một trong những khâu rất quan trọng. Công tác quản lý chất lượng công trình có ảnh hưởng không nhỏ tới giá trị đích thực của sản phẩm xây dựng, tiến độ công trình so với kế hoạch đề ra, vốn đầu tư thực hiện so với tổng mức đầu tư đã được phê duyệt. Các văn bản quy định, hướng dẫn quy trình, hệ thống tổ chức quản lý chất lượng xây dựng đã được ban hành. ở các bộ, ngành, địa phương từng dự án đã có tổ chức giám sát, nghiệm thu chất lượng công trình. Mô hình quản lý chất lượng thông qua các tổ chức tư vấn giám sát thay cho mô hình cũ do chủ đầu tư tự tổ chức giám sát được áp dụng rộng rãi. Các cơ quan chức năng QLNN về chất lượng thường xuyêng phổ biến, hướng dẫn chuyên môn, nghiệp vụ cho các tổ chức giám sát chất lượng ở công trường. Năng lực đội ngũ quản lý chất lượng công trình từng bước được nâng cao, trang thiết bị phục vụ công tác giám định được đổi mới, nâng cấp. Do vậy, công tác quản lý chất lượng công trình đã đi vào nền nếp. Tại Bộ Thương mại, thông qua cơ quan chuyên môn là Cục quản lý chất lượng hàng hoá vầ đo lường, Viện Kinh tế - Kỹ thuật thương mại, và kết hợp với một số cơ quan chức năng khác, Bộ Thương mại vẫn thường xuyên thực hiện công tác quản lý chất lượng công trình, phát hiện và xử lý vi phạm bảo đảm chất lượng phục vụ đời sống và sản xuất kinh doanh. Hiện tại chưa có công trình nào có vi phạm trầm trọng. Trước năm 1999, chỉ khi nào có công văn yêu cầu của Bộ Xây dựng thì Bộ Thương mại mới rà soát và gửi báo cáo tới Bộ xây dựng. Hiện nay, theo quyết định số 35/1999/QĐ-BXD về quản lý chất lượng công trình xây dựng, thì Bộ Thương mại phải gửi báo cáo định kỳ 6 tháng về chất lượng công trình xây dựng của Bộ cho Bộ Xây dựng. Tuy nhiên, việc thực hiện vẫn không đều đặn, do tới chỉ thị số 21/2001/CT-BTM ngày 30/8/2001 Bộ Thương mại mới yêu cầu các chủ đầu tư phải báo cáo định kỳ về tình hình chất lượng công trình xây dựng của các dự án đang triển khai. Hiện nay, mới chỉ có một báo cáo vào 28/11/2001. 4. Giám định đầu tư: Là một nhiệm vụ hoàn toàn có tính vĩ mô. Bộ Thương mại chỉ thực hiện giám định chi tiết với những dự án thuộc vốn ngân sách nhà nước cấp, dự án quy hoạch vì cũng như trên đã nói: hầu hết các dự án cấp cơ sở do đơn vị toàn quyền quyết định và chịu trách nhiệm trước Nhà nước. Đối với nhiệm vụ giám định các dự án nhóm A, dự án thuộc vốn ngân sách cấp, Bộ Thương mại thực hiện tốt, đầy đủ các yêu cầu thủ tục theo quy định. Các dự án tại đơn vị trực thuộc: khi cần giám định đầu tư thường thuê các cơ quan chuyên môn về ĐTXDCB thuộc các Bộ chuyên ngành như Bộ Xây dựng, Bộ Giao thông…Bộ Thương mại thường chỉ thực hiện giám định về thanh toán và quyết toán trong đầu tư. Do tự quyết định, nên các đơn vị thường bỏ qua, bỏ sót một vài khâu trong quy trình giám định, ví dụ thiếu thẩm định dự toán và thiết kế trước khi phê duyệt, dây dưa trong thủ tục đất đai, giấy phép xây dựng (nhất là ở những khu vực xa trung tâm): - Khu kho Vikamex: Đất tranh chấp với trường Cao đẳng Ngoại thương TP Hồ Chí Minh. - Khu kho của công ty XNK với Lào tại Đông Hà, Quảng Trị cũng trong tình trạng tranh chấp. - … Tình trạng trên dẫn đến: công trình xây dựng không liên tục do bị đình, hoãn thi công để lo đủ các thủ tục, hoặc để giải quyết tranh chấp đất đai. VĐT bị tăng lên so với tổng mức được duyệt ban đầu, ảnh hưởng đến chất lượng công trình, giảm hiệu quả đầu tư. Những vấn đề này, Bộ Thương mại kịp thời chấn chỉnh, nên tới năm 2000 trở lại đây đã không còn phổ biến nữa. C. Nguyên nhân của tình hình thực hiện QLNN về ĐTXDCB tại Bộ Thương mại. 1. Các nguyên nhân khách quan * Trình độ phát triển kinh tế của nước ta còn thấp, cơ cấu kinh tế nói chung còn lạc hậu, từ năm 1997 lại chịu tác động không nhỏ của cuộc khủng hoảng trong khu vực. * Nền kinh tế nước ta trên thực tế mới chuyển sang cơ chế thị trường, mới tiếp cận với thị trường và hoạt động thương mại quốc tế trong khoảng 10 năm trở lại đây, trình độ cán Bộ Thương mại còn chưa theo kịp nhu cầu. * Trong 5 năm 1991 -1995, sau khi sáp nhập 4 đơn vị Bộ Vật tư, Bộ Nội thương, Bộ kinh tế đối ngoại và Tổng cục Du lịch một thời gian, lại tách Tổng cục du lịch và một số doanh nghiệp khác về địa phương. Tuy việc chia tách này là cần thiết để phù hợp với cơ chế mới, nhưng cũng gây khó khăn, lúng túng trong việc đưa ra cơ chế quản lý phù hợp. * Thập kỷ 90 đặc biệt là những năm cuối, chính sách và pháp luật về ĐTXDCB trong nước và nước ngoài tại Việt Nam thường xuyên thay đổi để đáp ứng với tình hình mới: - NĐ 177/CP ngày 20 tháng 10 năm 1994 về Điều lệ quản lý ĐTXDCB thay thế NĐ 385/CP ngày 07/11/1990 nhưng thực chất cuối 1995, đầu 1996 mới đi vào thực hiện. - 7/1996, Chính phủ thay NĐ177/ CP bằng NĐ 42/CP, bổ sung bằng NĐ 92/CP ngày 23/8/97. - Tiếp tục, thay các NĐ trên bằng NĐ 52/99/NĐ-CP ngày 8/7/1999 ban hành Quy chế quản lý ĐTXDCB. Thêm đó là NĐ 12/2000/NĐ-CP 5/5/2000 để bổ sung và sửa đổi NĐ 52. - Song song đó, Chính phủ ban hành các nghị định về Quy chế đầu tư: NĐ 43/CP ngày 16/7/1996; Sự ra đời hai nghị định 42/CP và 43/CP tạo thành cơ chế chung trong quản lý ĐTXDCB. Tuy nhiên, sau 6 tháng thực thi, do xuất hiện những sơ hở và rắc rối từ Nghị định 42/CP, nên phải bổ sung bằng NĐ 93/CP ngày 23/8/1997; NĐ 88/99/NĐ-CP 01/09/99 thay thế cho NĐ 43 và 93/CP; NĐ 14/2000/NĐ-CP sửa đổi và bổ sung NĐ 88/1999/NĐ-CP Mặt khác, luật ĐTNN tại Việt Nam cũng sửa đổi, điều chỉnh, thay thế liên tục: từ Luật ĐTNN tại Việt Nam tháng 11/1996, NĐ 12/CP ngày 18/02/1997; NĐ 10/98/NĐ-CP ngày 23/01/1998 rồi Luật ĐTNN tại Việt Nam năm 2000 … Kéo theo đó là các chính sách chế độ mới về đơn giá định mức, chất lượng, vốn, quản lý đất, các thông tư hướng dẫn. Nhiều khi, các chế độ chính sách về quản lý đầu tư theo Nghị định mới chưa thấu suốt đến các đơn vị cơ sở thì đã bị sửa đổi hoặc thay thế. Hơn nữa, các văn bản đã quá nhiều, lại đáp ứng không kịp thời, không đồng bộ, không ổn định và kém hiệu lực, làm cho chủ đầu tư hết sức lúng túng. Từ đó gây trở ngại lớn đến công tác ĐTXDCB cả nước nói chung và của ngành nói riêng. - Việc triển khai vốn cũng gặp không ít khó khăn do sự thay đổi liên tục cơ quan cấp phát vốn của nhà nước. Trước đây, đều do Ngân hàng Đầu tư phát triển cấp phát, đến 1996, tất cả các nguồn vốn ngân sách cấp phát, vốn vay theo lãi suất ưu đãi tập trung về Tổng cục Đầu tư phát triển. Đến năm 1998, vốn cấp phát về Kho bạc tài chính, vốn vay ưu đãĩ lại do Quỹ Đầu tư phát triển. - Những năm 1991 - 1995, giá vật liệu luôn biến động, thông thường một năm 4 lần thay đổi giá. Trong 5 năm 2 lần Nhà nước cho thay đổi đơn giá xây dựng cơ bản gây nhiều trở ngại cho triển khai kế hoạch và thi công. 2/ Nguyên nhân chủ quan * Về hiệu quả: - Do sự đòi hỏi hết sức bức bách phục vụ cho sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp thuộc Bộ Thương mại đã vận dụng văn bản mới cùng các hướng dẫn cũ một cách năng động và sáng tạo, vừa đảm bảo tính pháp lý, vừa triển khai các thủ tục về đầu tư một cách kịp thời để đạt thành quả như đã nêu trên. - Sự quan tâm sâu sát của Bộ Thương mại và tính năng động của doanh nghiệp trong huy động nguồn vốn tự bổ sung và tự khai thác: Như đầu tư bằng vốn ứng trước của khách hàng, của cán bộ công nhân viên đóng góp đã giải quyết một phần vấn đề vốn trong ĐTXDCB, tăng hiệu quả, tiến độ công trình. * Về tồn tại - Trước hết, việc đầu tư để không ngừng nâng cao năng lực hoạt động của ngành Thương mại nói chung, nhất là trước yếu cầu nâng cao năng lực cạnh tranh, chưa được chú ý đầy đủ trong việc xác định mục tiêu, quy mô, cơ cấu đầu tư cũng như phân bổ vốn của Nhà nước (chưa coi trọng việc xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ hoạt động thương mại). - Sau nữa là sự phân công quản lý của Bộ Thương mại có những điểm bất cập, tồn tại nhiều năm, chưa được quan tâm điều chỉnh cho phù hợp chức năng và nhiệm vụ của từng bộ phận theo chế độ quản lý ĐTXDCB hiện hành. Đó là công tác quản lý ĐTXDCB chạy rải rác ở một số Vụ mà không tập chung ở vụ chức năng được giao gây tình trạng khó quản lý, tuỳ tiện. Trách nhiệm của Bộ Thương mại với hoạt động của doanh nghiệp trực thuộc cũng còn một số thiếu sót, khuyết điểm: các cơ quan chức năng của Bộ vẫn chưa quan tâm đầy đủ và thiếu những biện pháp cụ thể, thiết thực để chỉ đạo hoạt động của doanh nghiệp; thiếu kiên quyết và kịp thời xử lý những hiện tượng tiêu cực xẩy ra ở các doanh nghiệp; chưa phát huy đầy đủ các ưu thế về hoạt động thương mại. - Vấn đề thực hiện chế độ báo cáo thống kê trước năm 1999 không được chú ý, nhất là phần vốn tự bổ sung của các đơn vị. Hàng năm, các đơn vị có vốn đầu tư đều không báo cáo, trong khi, việc kiểm tra, uốn nắn của Bộ lại chưa kiên quyết. Một số doanh nghiệp chưa coi trọng đầu tư phát triển nên lâm vào tình trạng dậm chân tại chỗ và đi xuống. Doanh nghiệp khác chú ý lĩnh vực này thì lại lơ là, không quan tâm đến quản lý ĐTXDCB, đầu tư ồ ạt, thiếu tính toán cân nhắc kỹ lưỡng, khi dự án triển khai thì không kịp thời cơ, dẫn đến hiệu quả đầu tư không cao, thậm chí thua lỗ. - Cán bộ làm công tác quản lý về ĐTXDCB mỏng dần. Chỉ trừ một số ít Tổng công ty lớn còn có tổ chức hoặc cán bộ chuyên trách, còn hầu hết các đơn vị khi có dự án đầu tư thì sử dụng tuỳ tiện, cả những cán bộ không có chuyên môn. Cho nên, công tác ĐTXDCB trong ngành Thương mại gặp không ít khó khăn, gây lãng phí và thậm chí cả thất bại. Chương III Giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả QLNN về ĐTXDCB tại Bộ Thương mại I. Dự báo nhu cầu ĐTXDCB của Bộ Thương mại 1. Bối cảnh thế giới và tình hình kinh tế - xã hội trong nước a, Dự báo thị trường thế giới và khu vực Dự báo trong vòng 10 năm tới, tình hình thị trường thế giới và khu vực sẽ diễn ra các xu hướng sau: + Cục diện thế giới đang thay đổi nhanh chóng và sâu sắc trên nhiều mặt. Hình thành dần một trật tự thế giới với sự cân bằng mới về lực lượng giữa các quốc gia, các trung tâm, các nước lớn. Tuy nhiên vẫn tồn tại nhiều yếu tố gây mất ổn định (nạn khủng bố, mâu thuẫn sắc tộc, tôn giáo, lãnh thổ, giai cấp), nguy cơ xảy ra chiến tranh khá lớn. Tình hình thế giới đầu thế kỷ 21 đầy những biến động báo trước một thời kỳ nhiều khó khăn. Xu thế chung là vừa hợp tác vừa cạnh tranh, thậm chí cạnh tranh gay gắt để giành lợi thế trên thị trường thế giới và khu vực. + Cuộc cách mạng khoa học công nghệ phát triển triển mạnh mẽ chưa từng có với nội dung nổi bật là: điện tử và tin học, tự động hoá, vật liệu mới và sinh học, làm cho quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhiều nước diễn ra nhanh hơn theo chiều hướng chuyển mạnh sang những ngành công nghệ cao và dịch vụ. + Toàn cầu hoá và khu vực hoá đã trở thành xu thế tất yếu thúc đẩy các quốc gia mở rộng thị trường. + Cuộc chạy đua về kinh tế và khoa học công nghệ diễn ra ngày càng quyết liệt, lôi cuốn hầu hết các quốc gia, dân tộc. Tuy nhiên, Mỹ vẫn ở vị trí siêu cường trong quan hệ quốc tế; Ba trung tâm Mỹ - Tây Âu - Nhật bản cùng với Trung Quốc và Nga sẽ đóng vai trò chủ yếu tác động tới cục diện chung thị trường thế giới. + Châu á - Thái Bình Dương tiếp tục phát triển năng động và đạt tốc độ tăng trưởng cao hơn các khu vực khác. Xu thế tự do hoá thương mại và đầu tư ngày càng mạnh mẽ, tiếp tục diễn ra sự liên kết kinh tế nhiều tầng nấc. Với tình hình chính trị tương đối ổn định, kinh tế tăng trưởng khá nên thu hút sự chú ý của các nước lớn. + Nhìn chung, triển vọng kinh tế thế giới và khu vực là tương đối sáng sủa. Xu hướng tự do hoá thương mại sẽ phát triển mạnh mẽ, quan hệ thương mại giữa các quốc gia và các khối ngày càng sôi động hơn, đồng thời mâu thuẫn, cạnh tranh, tranh chấp sẽ diễn ra quyết liệt hơn. b. Những tác động lên Việt Nam Bối cảnh đó tạo ra những khó khăn và thuận lợi cho phát triển kinh tế nước ta: ã Thuận lợi Bước vào thời kỳ 2001- 2010, thế và lực nước ta đã khác hẳn 10 năm trước. Đất nước đã ra khỏi khủng hoảng, cơ sở hạ tầng và năng lực sản xuất được cải thiện đáng kể, thị trường được mở rộng. Việt Nam đã có quan hệ kinh tế - thương mại với nhiều nước và nhièu tổ chức kinh tế, tài chính quốc tế. Hàng hoá Việt Nam có mặt tại tất cả các nước lớn và các trung tâm kinh tế. Lần đầu tiên trong lịch sử nước nhà, Việt Nam đã có quan hệ ở mức độ khác nhau với tất cả các nước láng giềng khu vực, với hầu hết các nước lớn, các trung tâm chính trị, kinh tế lớn, các tổ chức tài chính, tiền tệ quốc tế; Tạo môi trường hoà bình và điều kiện quốc tế thuận lợi. Thời kỳ tới, thế giới bước vào thời kỳ phát triển mới: thời kỳ kinh tế tri thức và xã hội thông tin. Những khái niệm "thương mại điện tử", "Internet"… ngày càng phổ biến. Khái niệm thương mại được mở rộng, bao gồm cả các sản phẩm hữu hình của nền sản xuất truyền thống lẫn các sản phẩm "mềm" của nền sản xuất dựa vào tri thức. Quá trình hội nhập sẽ tạo cơ hội cho Việt Nam mở rộng thị trường để phát triển kinh tế và tăng cường quan hệ thương mại. Sự phát triển của thương mại chịu ảnh hưởng và cũng có tác động lớn đến hoạt động ĐTXDCB ã Kho khăn, thách thức: Tuy nhiên cũng cần nhận thấy, nước ta vẫn là một nước nghèo, kém phát triển. Dự kiến 10 năm tới chỉ có thể đưa GDP lên gấp đôi (GDP/người năm 2000 là 400 USD). Cơ cấu sản xuất sẽ tiếp tục chuyển dịch theo hướng tiến bộ hơn song nhìn chung còn lạc hậu so với chiêù hướng phát triển của thế giới. Năng lực cạnh tranh của quốc gia, từng ngành, doanh nghiệp và sản phẩm còn thấp. Trình độ của đội ngũ cán bộ làm công tác thương mại nói chung và ĐTXDCB nói riêng còn bất cập. Trong khi kinh tế thế giới và khu vực còn chứa đưng những nhân tố không ổn định, khó dự báo. Tình hình đó có thể tác động tiêu cực tới nền kinh tế, tới quy mô, cơ cấu và hiệu quả của hoạt động thương mại nói chung và hoạt động ĐTXDCB ngành Thương mại nói riêng. Thách thức gay gắt nhất là nguy cơ "tụt hậu" xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực. Không hội nhập không được, nhưng hội nhập kinh tế thế giới, nền kinh tế nước ta phải chịu ảnh hưởng của xu thế "tự do hoá thương mại ", của biến động giá cả, lãi suất quốc tế,…Tình hình đó đặt ra cho Việt Nam nhưng thách thức trong hoạch định chiến lược cũng như trong điều hành quản lý, đòi hỏi nền kinh tế, thương mại nước ta phải phát triển vượt bậc để đủ sức chống đỡ các ảnh hưởng trên Nhìn toàn cục, Việt Nam đứng trước nhiều thuận lợi hơn so khi bước vào thập kỷ 90. Tuy nhiên không thể xem thường các thách thức, khó khăn như đã trình bày trên. Từ đó Bộ Thương mại đã xác định những mục tiêu hoạt động sau. 2. Nhu cầu đầu tư XDCB của Bộ Thương mại a.Mục tiêu khái quát của ngành Trên cơ sở chiến lược phát triển kinh tế xã hội thời kỳ 2001-2010, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2001-2001 được đề ra từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng, xuất phát từ thực tế thế giới, trong nước và của ngành, định hướng phát triển ngành Thương mại khái quát như sau: -Triển khai thực hiện chiến lược xuất nhập khẩu: Nỗ lực gia tăng tăng trưởng xuất khẩu, góp phần đẩy mạnh CNH-HĐH, tạo công ăn việc làm, thu ngoại tệ; chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu theo hướng nâng cao giá trị gia tăng, gia tăng sản phẩm chế biến và chế tạo, các loại sản phẩm có hàm lượng công nghệ và chất xám cao, thúc đẩy xuất khẩu dịch vụ; về nhập khẩu chú trọng thiết bị và nguyên vật liệu phục vụ sản xuất, nhất là công nghệ tiên tiến, bảo đảm cán cân thương mại ở mức hợp lý, tiến tới cân bằng kim ngạch xuất - nhập khẩu; mở rộng đa dạng hoá thị trường và phương thức kinh doanh; hội nhập thắng lợi vào kinh tế khu vực và thế giới. - ổn định thị trường trong nước, nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Nhà nước về thương mại để chủ động hội nhập và mở rộng hội nhập với thị trường thế giới; - Đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại để hỗ trợ các doanh nghiệp trong nước: Các công tác của Cục Xúc tiến, Vinexad, đoàn công tác của Bộ Thương mại ra nước ngoài cần dành ưu tiên thích đáng cho doanh nghiệp thuộc Bộ. - Đào tạo và bồi dưỡng cán bộ đáp ứng nhu cầu công tác của ngành trong thập kỷ tới. b. Mục tiêu ĐTXDCB Trước những yêu cầu trên, công tác ĐTXDCB cần phải đáp ứng những nhiệm vụ sau: - Xây dựng Trụ sở Bộ Thương mại - Xây dựng một số cơ sở vật chất kỹ thuật nhằm nâng cao năng lực quản lý và năng lực kinh doanh thương mại trước những yêu cầu mới. - Cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ hoạt động xúc tiến thương mại, thông tin, đào tạo cán bộ. Trên cơ sở đó, Bộ Thương mại đã lập nhu cầu đầu tư và đăng ký kế hoạch Nhà nước 5 năm 2001-2005, cụ thể như sau: Tổng mức: 3 982 333 triệu VNĐ Trong đó gồm: - Vốn Ngân sách Nhà nước 78 145 triệu VNĐ - Vốn vay tín dụng Nhà nước 1 030 645 triệu VNĐ - Vốn tự khai thác 2 873 543 triệu VNĐ Trên cơ sở đăng ký của các doanh nghiệp trực thuộc, mục tiêu phát triển toàn ngành và mục tiêu kinh tế - xã hội của quốc gia, Bộ Thương mại đã thiết lập bảng nhu cầu ĐTXDCB 5 năm 2001 - 2005 trình Chính phủ. Qua bảng này có thể thấy về mục tiêu đầu tư của từng nguồn vốn thời gian tới không có nhiều thay đổi: - Vốn ngân sách nhà nước cấp vẫn được tập trung cho khối văn phòng và giáo dục đào tạo - Vốn tự bổ sung vẫn tập trung chủ yếu ở TCTy Xăng dầu (chiếm từ 67 - 84%) và Cty PETEC (chiếm từ 4% đến 16%) Trong 5 năm, mức đầu tư ở 2 năm 2001, 2002 ở các nguồn vốn thường lớn hơn và giảm dần qua các năm 2003, 2004, 2005. II. Các giải pháp Thực hiện những nhiệm vụ chung của toàn ngành Thương mại và nhiệm vụ riêng về ĐTXDCB trong thời kỳ mà tiến trình hội nhập ở giai đoạn có nhiều tác động mạnh đến các hoạt động của ngành như: hoà thành AFTA, thuế xuống 0 -5%, bỏ các biện pháp phi thuế; thực hiện Hiệp định song phương Việt - Mỹ và nhiều cơ chế thông thoáng; đàm phán gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới, cần tiến hành các giải pháp sau: 1. Xác định đúng đắn sự phát triển của ngành làm cơ sở xác định mục tiêu, nhu cầu ĐTXDCB. ĐTXDCB ngành Thương mại là hoạt động tạo nền nền tảng cho sản xuất và phát triển của ngành. Nó nằm trong cơ cấu của ngành chịu tác động của các hoạt động thương mại đồng thời có tác động không nhỏ đến hiệu quả của hoạt động đó. Vì vậy, cần xác định đúng đắn mục tiêu phát triển ngắn hạn, dài hạn của ngành để có cơ sở xác định mục tiêu, nhu cầu ĐTXDCB. Xác định được những nội dung này, việc ĐTXDCB sẽ diễn ra liền mạch và có tác động tích cực, phục vụ tốt mục tiêu phát triển ngành Thương mại 2. Tiếp tục đổi mới và hoàn thiện kế hoạch hoá công tác ĐTXDCB của Bộ Thương mại - Đẩy mạnh công tác QLNN về ĐTXDCB thông qua biện pháp thẩm định, giám định và tư vấn về những vấn đề cốt lõi của ĐTXDCB như: chủ trương đầu tư; quy mô, tổng mức, nguồn vốn, quy chế đấu thầu, chất lượng công trình trên cơ sở chức năng và nhiệm vụ của cơ quan chủ quản, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, hướng dẫn các đơn vị trực thuộc làm ăn đúng pháp luật, để hạn chế những sai sót, lãng phí và tiêu cực trong công tác đầu tư. - Tăng cường hơn nữa quan hệ giữa Bộ với các doanh nghiệp trực thuộc trên ba phương diện chủ yếu: Mục tiêu và định hướng sản xuất kinh doanh; hiệu quả kinh tế, xã hội của sản xuất kinh doanh và công tác tổ chức cán bộ. - Tổ chức tập huấn, phổ biến, hội thảo các chế độ, chính sách về quản lý ĐTXDCB của Nhà nước một cách kịp thời và rộng khắp đến các doanh nghiệp . - Kết hợp công tác QLDN, quản lý vốn giữa các vụ chức năng để nâng cao chế độ báo cáo định kỳ, báo cáo thống kê. - Tập trung công tác QLNN về ĐTXDCB vào một Vụ chức năng, có chuyên môn cao, chịu trách nhiệm trước Bộ trưởng về chức năng này, tránh để rải rác tại các vụ dễ gây thiếu sót đáng tiếc (đã thực hiện năm 99). Phối hợp chặt chẽ giữa các vụ liên quan và vụ chức năng để tổ chứ thẩm định kỹ lưỡng các dự án đầu tư của các doanh nghiệp. - Chấn chỉnh lại bộ phận quản lý về ĐTXDCB của các doanh nghiệp trực thuộc Bộ, theo một hệ thống ngành dọc. - Thường xuyên tổ chức thẩm tra, giám sát các doanh nghiệp có dự án đầu tư 3. Xây dựng, hoàn thiện cơ chế, chính sách và hệ thống chỉ tiêu hiệu quả QLNN về ĐTXDCB phù hợp với cơ chế thị trường Cơ chế, chính sách là công cụ để quản lý ĐTXDCB; hệ thống chỉ tiêu hiệu quả QLNN là công cụ đánh gía hiệu qủa của công tác quản lý ĐTXDCB. Đây là những công cụ quan trọng, cần thiết và có tác động lớn trong quá trình quản lý ĐTXDCB. Vì vậy cần đánh giá, xem xét lại tính hợp lý, tính khả thi, tính hiệu quả của các cơ chế, chính sách đã ban hành để kịp thời sửa chữa, bổ sung. Song song đó, tiến hành theo dõi, giám sát chặt chẽ tình hình thực tế để kịp thời đưa ra những văn bản phù hợp. 4. Tiếp tục đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ quản lý ĐTXDCB của Bộ. Cơ chế thị trường với môi trường kinh doanh cạnh tranh gay gắt đòi hỏi người cán bộ phải có phẩm chất chính trị tốt, giỏi chuyên môn nghiệp vụ mới có thể đứng vững và công tác tốt. Vì vậy, không chỉ với đội ngũ cán bộ quản lý ĐTXDCB mà với cán bộ toàn ngành Thương mại cần phải xây dựng quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ phù hợp yêu cầu kinh doanh và tiến trình hội nhập kinh tế thế giới và khu vực. Trước yêu cầu đó, phải xác định và tiến hành các khâu trong công tác cán bộ một cách có chất lượng và hiệu quả: - Kế hoạch hoá đội ngũ cán bộ quản lý ĐTXDCB: có được kế hoạch dự báo cán bộ, kế hoạch tạo nguồn ở cấp cơ sở và cấp Bộ là biện pháp cần thiết để đội ngũ cán bộ không bị hụt hẫng, đảm bảo tính liên tục của hệ thống quản lý. - Rà soát, sắp xếp, điều chỉnh đội ngũ cán bộ hiện có, bổ sung các cán bộ đủ tiêu chuẩn, đủ triển vọng phát triển, đồng thời thay những cán bộ không đủ năng lực điều hành, quản lý, vi phạm đạo đức, lối sống. - Tuyển chọn cán bộ quản lý ĐTXDCB: từ yêu cầu cụ thể của vị trí công tác và yêu cầu chung của toàn ngành để xác định yêu cầu tuyển chọn. Sử dụng các biện pháp tuyển chọn như: Thi tuyển, thử nghiệm… từ đó lựa chọn được người phù hợp. - Đào tạo, nâng cao trình độ cán bộ quản lý ĐTXDCB: Nâng cao trình độ lý luận, rèn luyện quan điểm, lập trường tư tưởng cho cán bộ, công chức nhà nước. Nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, năng lực tổ chức và quản lý cho cán bộ. Có hai cách nâng cao: đào tạo qua trường lớp và đào tạo qua thực tiễn. Khi xây dựng nội dung đào tạo quản lý ĐTXDCB phải kết hợp lý luận cơ bản với khoa học quản lý hiện đại, chuyên môn nghiệp vụ phải gắn với kiến thức kinh tế thị trường, phù hợp yêu cầu của cơ chế thị trường. - Xây dựng phẩm chất đạo đức và phong cách quản lý cho cán bộ, công chức QLNN về ĐTXDCB. Khắc phục tệ quan liêu, tham nhũng, hối lộ, tiêu xài lãng phí đi đôi với xây dựng phong cách quản lý có văn hoá; thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ trong QLNN về ĐTXDCB. - Đánh giá và sử dụng cán bộ quản lý ĐTXDCB 5. Những giải pháp cụ thể khác: - Doanh nghiệp phải nghiên cứu cẩn thận các dự án đầu tư từ khâu điều tra khảo sát ban đầu đến phân tích hiệu quả tài chính-kinh tế. Những khâu chuẩn bị ban đầu này có tác động rất lớn đến hiệu quả công trình sau này. Vì vậy, doanh nghiệp cần có sự quan tâm nghiên cứu tỉ mỉ, có đầy đủ thông tin và số liệu đáng tin cậy, xác định những rủi ro có thể gặp phải, những điều kiện của bản thân doanh nghiệp về vốn, năng lực sản xuất … trước khi quyết định đầu tư. Doanh nghiệp không nên chỉ quan tâm đầu vào, tạo ra năng lực sản xuất, mà cần quan tâm đầu ra của sản phẩm từ đó mới xác định được quy mô, tổng mức đầu tư phù hợp của dự án - Công tác lựa chọn các tổ chức tư vấn thiết kế phải thật thận trọng, và trong quá trình thiết kế, doanh nghiệp nên cử các chuyên viên kỹ thuật của mình tham gia góp ý về các yêu cầu và kinh nghiệm sử dụng để hồ sơ đảm bảo chất lượng. Chú trọng đến không chỉ yêu cầu kỹ thuật mà cả yêu cầu về hiệu qua sản xuất kinh doanh của công trình, điều kiện về kinh tế của doanh nghiệp để hồ sơ thiết kế có tính khả thi cao. - Về chọn thầu thi công phải thực hiện thật nghiêm túc + Nên tổ chức việc xét chọn thầu theo quy trình như quy định tại Nghị định 88/1999/NĐ-CP ngày 01 tháng 9 năm 1999 + Đối với các công trình có yêu cầu xét chọn thầu, các doanh nghiệp nên thành lập Ban xét chọn thầu hoạt động gần như độc lập với Ban quản lý dự án. Doanh nghiệp nên xây dựng quy chế hoạt động của Ban xét chọn thầu theo chế độ hiện hành để quản lý tốt công tác này. - Doanh nghiệp phải tuân thủ chặt chẽ các trình tự XDCB: phải tổ chức Ban quản lý dự án đầy đủ thành phần và năng lực quản lý công tác XDCB. - Khi liên doanh, liên kết với các nhà đầu tư khác kể cả nước ngoài phải nghiên cứu kỹ đối tác: các thông tin về tài chính, lĩnh vực kinh doanh, sản phẩm, thị trường tiêu thụ, tình hình kinh doanh ở Việt Nam và trên thế giới của đối tác. Cần có những bảo đảm chắc chắn nhất để liên doanh không đổ bể hay bị ngừng tạm thời gây khó khăn cho doanh nghiệp. - Các chủ đầu tư nếu không có vốn thì kiên quyết không đầu tư , vốn ít thì không đầu tư tràn lan; Không vay ngắn hạn ngân hàng với lãi suất cao để đầu tư. Nếu vay Ngân hàng phải xem xét các ưu đãi, thời gian ân hạn không phải trả lãi và gốc trong thời gian đầu tư, nếu không được ân hạn không vay Không đầu tư tràn lan khi tiềm năng vốn không có. Khi đầu tư cần tập trung dứt điểm từng hạng mục sớm đưa vào khai thác sử dụng để thu hồi vốn. Kết luận Qua những phân tích và số liệu cụ thể ở trên, có thể thấy tầm quan trọng của quản lý đầu tư nói chung và QLNN về ĐTXDCB nói riêng. Việc quản lý ĐTXDCB hiệu quả có ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển kinh tế của từng địa phương, từng ngành và cả nước, phục vụ đời sống nhân dân. Thương mại là một trong những ngành quan trọng của nền kinh tế. Thương mại trong thế kỷ mới có rất nhiều cơ hội nhưng cũng rủi ro. Với thế và lực ngày càng mạnh của Việt Nam trên trường quốc tế, ngành Thương mại cũng như các ngành kinh tế khác đứng trước những cơ hội, đồng thời cũng gặp những thách thức không nhỏ. Công tác quản lý ĐTXDCB đã phát huy vị trí và vai trò của mình tạo cơ sở vật chất, phát triển ngành Thương mại. Tuy nhiên so với yêu cầu của tình hình và thực trạng phát triển đòi hỏi công tác này phải vươn lên một tầm mới có tính khoa học, khách quan và hiệu quả hơn, khắc phục những mặt tồn tại. Như vậy, quản lý ĐTXDCB hiệu quả là việc cần thiết, có tính thời sự. Để thực hiện được điều này, cần có sự quan tâm của Nhà nước, lãnh đạo ngành, và của các đơn vị cơ sở. Các chủ thể tham gia quản lý ĐTXDCB phải tuân thủ chặt chẽ trật tự, kỷ cương thủ tục trình tự ĐTXDCB ; khắc phục những tiêu cực, vi phạm của các chủ thể quản lý; Khắc phục những hạn chế khách quan … để giảm lãng phí thất thoát tham nhũng. Tuy nhiên trong quá trình phát triển, mọi sự luôn biến đổi không ngừng Vì vậy, mọi cơ chế, chính sách về quản lý ĐTXDCB  cũng cần có những biến đổi hoàn thiện cho phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Với cách nhìn nhận xét đoán tỉnh táo, khách quan, các chủ thể quản lý cần không ngừng nâng cao hơn nữa hiệu quả quản lý ĐTXDCB; góp phần vào tiến trình đổi mới của đất nước, đưa Việt Nam vững bước đi lên CNXH, tạo cơ sở vật chất ngày càng hiện đại, thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh, đời sống nhân dân được ấm no hạnh phúc. Tài liệu tham khảo: 1. Giáo trình Kinh tế đầu tư - PGS. PTS Nguyễn Ngọc Mai chủ biên 2. Tập đề cương bài giảng Khoa học quản lý - Khoa QLKT- Học viện CTQG Hồ Chí Minh. 3. Giáo trình Kinh tế quản trị kinh doanh xây dựng - GS. TS Nguyễn Văn Chọn. 4. QLNN đối với hoạt động xây dựng giao thông - PGS. TS Nguyễn Văn Dĩnh chủ biên - NXB Giao thông vận tải. 5. Giáo trình Kinh tế xây dựng công trình giao thông - PGS. TS Nguyễn Vanư Dĩnh - NXB Giao thông vận tải. 6. Quy chế Quản lý đầu tư và xây dựng ban hành kèm theo Nghị định 52/1999/NĐ-CP ngày 8/7/1999 của Thủ tướng Chính phủ. 7. Quy hoạch phát triển ngành thương mại đến năm 2010. Bộ Thương mại 8. Tạp chí Thương mại số 5 (233) tháng 2/2002 9. Tạp chí Xây dựng số 404 tháng 11/2001 10. Tạp chí Xây dựng số tháng 9 năm 2000 11. Tạp chí Nghiên cứu và lý luận số 11/1999 Và một số tài liệu thực tế Vụ Đầu tư, Vụ Kế hoạch - Bộ Thương mại Phụ lục Chi tiết cơ cấu tổ chức bộ máy của Bộ Thương mại hiện nay 1. Vụ Xuất nhập khẩu 2. Vụ Kế hoạch - Thống kê 3. Vụ Đầu tư 4. Vụ Chính sách thị trường miền núi 5. Vụ Chính sách thị trường đô thị và nông thôn 6. Vụ Quản lý thị trường 7. Vụ Chính sách thị trường các nước khu vực Châu á - Thái Bình Dương (gọi tắt là Vụ I) 8. Vụ Chính sách thị trường các nước Châu Âu - Mỹ và các tổ chức kinh tế quốc tế (gọi tắt là Vụ II) 9. Vụ Chính sách thị trường các nước Châu Phi - Tây Nam á và Trung Cận Đông (gọi tắt là Vụ III) 10. Vụ Khoa học 11. Vụ Pháp chế 12. Vụ Tài chính kế toán 13. Vụ Tổ chức cán bộ Mục lục Mở đầu 1 Chương I. Những vấn đề lý luận chung về đầu tư xây dựng cơ bản Và quản lý Nhà nước trong đầu tư xây dựng cơ bản 3 I. Lý luận chung về đầu tư xây dựng cơ bản 3 1. Khái niệm vai trò và phân loại ĐT trong nền kinh tế 3 2. Khái niệm vai trò đặc điểm của ĐTXDCB 4 3. Khái niệm vốn đầu tư, các nguồn vốn đầu tư và vốn ĐTXDCB 7 II. Nội dung quản lý Nhà nước về ĐTXDCB 11 1. Khái niệm quản lý 11 2. Nội dung quản lý Nhà nước về kinh tế trong nền kinh tế Việt Nam 12 3. QLNN về đầu tư xây dựng cơ bản 15 III. Nội dung cơ bản về hiệu quả quản lý đầu tư xây dựng cơ bản 24 1. Khái niệm hiệu quả QLNN về ĐTXDCB 24 2. Hệ thống chỉ tiêu về hiệu quả quản lý ĐTXDCB 25 3. Nâng cao hiệu quả quản lý ĐTXDCB trong điều kiện kinh tế thị trường 29 Chương II. Thực trạng và hiệu quả quản lý đầu tư xây dựng cơ bản ở Bộ Thương Mại 32 I. Kháiquát chức năng, nhiệm vụ quản lý đầu tư xây dựng cơ bản và tình hình thực hiện đầu tư xây dựng cơ bản của Bộ Thương Mại 32 1. Chức năng và nhiệm vụ của Bộ Thương Mại 32 2. Khái quát tình hình ĐTXDCB tại Bộ Thương Mại 41 3.Với các liên doanh 61 II.Tình hình thực hiện quản lý Nhà nước về đầu tư xây dựng cơ bản tại Bộ Thương Mại 61 A. Quá trình hình thành công tác QLNN về ĐTXDCB 61 B. Tình hình thực hiện QLNN về ĐTXDCB 63 1. Về xây dựng văn bản pháp quy và hướng dẫn thực hiện 63 2. Lập và quản lý kế hoạch ĐTXDCB 67 3. Thẩm định các dự án ĐTXDCB 69 4. Giám định đầu tư 71 C. Nguyên nhân của tình hình thực hiện QLNN về ĐTXDCB tại Bộ Thương Mại 72 1. Các nguyên nhân khách quan 72 2. Nguyên nhân chủ quan 74 Chương III. Giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả QLNN về ĐTXDCB tại Bộ Thương Mại 76 I. Dự báo nhu cầu ĐTXDCB của Bộ Thương Mại 76 1. Bối cảnh thế giới và tình hình kinh tế - xã hội trong nước 76 2. Nhu cầu đầu tư XDCB của Bộ Thương Mại 78 II. Các giải pháp 80 1. Xác định đúng đắn sự phát triển của ngành làm cơ sở xác định mục tiêu, nhu cầu ĐTXDCB 80 2. Tiếp tục đổi mới và hoàn thiện kế hoạch công tác ĐTXDCB của Bộ Thương Mại 80 3. Xây dựng hoàn thiện cơ chế, chính sách và hệ thống chỉ tiêu hiệu quả QLNN về ĐTXDCB phù hợp với cơ chế thị trường 81 4. Tiếp tục đào tạo lại đội ngũ cán bộ quản lý ĐTXDCB của Bộ 82 5. Các giải pháp cụ thể 83 Kết luận 85 Tài liệu tham khảo 86

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docB0069.doc
Tài liệu liên quan