Đề tài Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại công ty Tây hồ - Bộ Quốc phòng

Việc quản lý và sử dụng vốn lưu động phải dựa trên những đặc điểm của vốn lưu động là chuyển dịch giá trị một lần vào giá trị sản phẩm trong một chu kỳ sản xuất, hình thái của nó thay đổi liên tục qua các giai đoạn của quá trình sản xuất. Vì vậy, quản lý và sử dụng vốn lưu động liên quan đến hoạt động tài chính hàng ngày của doanh nghiệp. Chẳng hạn, việc thu tiền từ khách hàng và trả tiền cho nhà cung cấp như thế nào? Đây là các quyết định tài chính quan trọng và chúng liên quan chặt chẽ đến việc quản lý vốn lưu động của doanh nghiệp. Vốn lưu động tồn tại dưới dạng tiền tệ, vật tư, hàng hoá . do đó có thể gặp phải rủi ro do những tác động chủ quan từ phía doanh nghiệp và khách quan từ thị trường. Những rủi ro này khác nhau ở các doanh nghiệp hoạt động trên các lĩnh vực khác nhau. Đồng thời các doanh nghiệp có ngành nghệ kinh doanh khác nhau thì có cơ cấu tài sản lưu động khác nhau và sự luân chuyển vốn lưu động chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố khác nhau.

doc41 trang | Chia sẻ: haianh_nguyen | Lượt xem: 1122 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại công ty Tây hồ - Bộ Quốc phòng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thị trường hiện nay, đặc biệt là ở các công ty cổ phần hoặc công ty trách nhiệm hữu hạn. Vốn chủ sở hữu khác: là vốn nội bộ của doanh nghiệp lấy từ hoạt động sản xuất kinh doanh bằng cách lấy một phần từ quỹ đầu tư phát triển, quỹ dự phòng tài chính,... để đầu tư vào doanh nghiệp. Ngoài ra đối với các Doanh nghiệp nhà nước còn có phần khấu hao tài sản cố định được để lại doanh nghiệp để đầu tư, thay thế , đổi mới tài sản cố định... 2.2.2 Vốn huy động của doanh nghiệp: Đối với một doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường vốn chủ sở hữu đóng vai trò quan trọng nhưng không phải là tất cả nguồn vốn đầu tư vào doanh nghiệp đều là vốn chủ sở hữu. Để đáp ứng nhu cầu vốn, doanh nghiệp có thể huy động dưới các hình thức khác nhau như: vay nợ, liên doanh liên kết, đi thuê...., hình thành lên các nguồn vốn huy động khác nhau. Đó là: Vốn vay: là phần vốn huy động được bằng cách đi vay của các cá nhân, đơn vị kinh tế hoặc đi vay trên thị trường tài chính dưới các hình thức khác nhau như vay ngắn, trung, dài hạn của ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác, vay qua phát hành trái phiếu. Ưu điểm của hình thức này là không làm thay đổi vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp nhưng doanh nghiệp phải trả chi phí cho việc sử dụng vốn (lãi suất) và các chi phí khác để đi vay... Vốn liên doanh liên kết: là phần vốn do các bên tham gia liên doanh, hợp tác sản xuất với doanh nghiệp đóng góp. Thông qua hình thức này, tổng số vốn của doanh nghiệp được tăng lên mà chất lượng, chủng loại của sản phẩm được cải thiện, tăng tính cạnh tranh của doanh nghiệp. Vốn tín dụng thương mại: là các khoản vốn có nguồn gốc từ các khoản mua chịu từ người cung cấp cho doanh nghiệp hay các khoản ứng trước của khách hàng mà doanh nghiệp tạm thời chiếm dụng. Vốn tín dụng thuê mua: là phần giá trị tài sản có được do đi thuê trên thị trường. Có hai hình thức đi thuê là thuê vận hành và thuê tài chính. Với sự phát triển của thị trường, tài chính tín dụng thuê mua ngày càng đóng vai trò quan trọng nâng cao năng lực, hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp 2.3 Phân loại vốn theo thời gian huy động và sử dụng: Theo phương pháp này vốn được chia thành hai loại là: Vốn tạm thời Vốn thường xuyên bao gồm vốn chủ sở hữu và các khoản nợ dài hạn của doanh nghiệp. Đặc điểm của nguồn vốn này là ổn định và dài hạn. Doanh nghiệp có thể dùng nó để đầu tư mua sắm tài sản cố định và một phần tài sản lưu động tối thiểu thường xuyên cần thiết cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Phần tài sản lưu động được đầu tư bởi vốn thường xuyên được gọi là tài sản lưu động ròng. Nợ dài hạn Nợ ngắn hạn Tài sản lưu động Tài sản cố định Vốn thường xuyên Vốn chủ sở hữu Vốn tạm thời là nguồn vốn có tính chất ngắn hạn (dưới một năm) mà doanh nghiệp có thể sử dụng để đáp ứng các nhu cầu có tính chất tạm thời, bất thường phát sinh trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Nguồn vốn này bao gồm các khoản vay ngắn hạn ngân hàng và các tổ chức tín dụng, các khoản nợ ngắn hạn khác. Việc phân loại này giúp cho người quản lý xem xét huy động các nguồn vốn một cách phù hợp với thời gian và mục đích sử dụng, đáp ứng đầy đủ kịp thời vốn cho sản xuất kinh doanh và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Trên đây là một số cách phân loại vốn cơ bản thường được sử dụng. Ngoài ra còn có các cách phân loại vốn khác tuỳ thuộc vào mục đích nghiên cứu và mục tiêu quản lý vốn. Điều đó chứng tỏ tầm quan trọng của vốn đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nói riêng và đối với nền kinh tế nói chung. II. Vai trò của vốn kinh doanh Kết quả cuối cùng của hoạt động sản xuất kinh doanh là sản phẩm. Sản phẩm của doanh nghiệp có thể là hàng hoá dịch vụ, có thể tồn tại ở hình thái vật chất hay phi vật chất nhưng đều là kết quả của quá trình dùng sức lao động và tư liệu lao động tác động vào đối tượng lao động để làm biến đổi nó. Tư liệu lao động và đối tượng lao động là điều kiện vật chất không thể thiếu được của quá trình sản xuất và tái sản xuất. Vì vậy có thể nói vốn (tư liệu lao động và đối tượng lao động) là tiền đề cho sự ra đời, tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Vốn là yếu tố quan trọng quyết định đến năng lực sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và xác lập vị thế của doanh nghiệp trên thương trường. Điều này càng thể hiện rõ trong nền kinh tế thị trường hiện nay với sự cạnh tranh ngày càng gay gắt, các doanh nghiệp phải không ngừng cải tiến máy móc thiết bị, đầu tư hiện đại hoá công nghệ ... tất cả những yếu tố này muốn đạt được thì đòi hỏi doanh nghiệp phải có một lượng vốn đủ lớn. Việc đảm bảo đủ nguồn vốn sẽ giúp cho doanh nghiệp tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh một cách thường xuyên liên tục, doanh nghiệp có thể chớp dược thời cơ và có lợi thế trong cạnh tranh. Vốn cũng là yếu tố quyết định đến việc mở rộng phạm vi hoạt động của doanh nghiệp. Để có thể tiến hành tái sản xuất mở rộng thì sau một chu kỳ kinh doanh, vốn của doanh nghiệp phải sinh lời tức là hoạt động kinh doanh phải có lãi đảm bảo vốn của doanh nghiệp được bảo toàn và phát triển. Đó là cơ sở để doanh nghiệp tiếp tục đầu tư mở rộng phạm vi sản xuất, thâm nhập vào thị trường tiềm năng từ đó tăng khối lượng tiêu thụ, nâng cao uy tín của mình trên thương trường.Trong cơ chế bao cấp trước đây, mọi nhu cầu về vốn của doanh nghiệp đều được bao cấp qua nguồn cấp phát của ngân sách nhà nước và qua nguồn tín dụng với lãi suất ưu đãi của ngân hàng. Hơn nữa các doanh nghiệp đều sản xuất theo chỉ tiêu pháp lệnh bởi vậy vốn không được coi là vấn đề cấp bách, điều này đã làm thủ tiêu tính chủ động và sáng tạo của doanh nghiệp trong việc sử dụng vốn. Chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước với nhiều thành phần kinh tế, các doanh nghiệp nhà nước chỉ còn là một bộ phận song song tồn tại với các thành phần kinh tế khác. Để duy trì hoạt động của mình, tất yếu các doanh nghiệp phải năng động nắm bắt nhu cầu thị trường, đầu tư đổi mới máy móc thiết bị cải tiến quy trình công nghệ, đa dạng hoá sản phẩm của mình. Điều đó đòi hỏi các doanh nghiệp phải có vốn. Nhu cầu về vốn đã trở thành động lực và là yêu cầu cấp bách đối với tất cả các doanh nghiệp. Nó quyết định cơ cấu đầu tư, đảm bảo sự sống còn cho doanh nghiệp. Tuy nhiên, có đủ lượng vốn kinh doanh nhưng vấn đề sử dụng sao cho có hiệu quả vẫn đang còn là vấn đề mà tất cả các nhà quản trị tài chính doanh nghiệp hết sức quan tâm. Sau đây ta sẽ đi sâu nghiên cứu những vấn đề cơ bản về hiệu quả hoạt động sử dụng vốn trong các doanh nghiệp. III. các chỉ tiêu đánh hiệu quả sử dụng vốn 1 Quan điểm và các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn: 1.1 Quan điểm về hiệu quả sử dụng vốn: Để đánh giá trình độ quản lý, điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp, người ta sử dụng thước đo là hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đó. Hiệu quả sản xuất kinh doanh được đánh giá trên hai giác độ: hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội. Trong phạm vi quản lý doanh nghiệp, người ta chủ yếu 1quan tâm đến hiệu quả kinh tế. Đây là một phạm trù phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực của doanh nghiệp để đạt được kết quả cao nhất với chi phí hợp lý nhất. Do vậy, các nguồn lực kinh tế đặc biệt là nguồn vốn của doanh nghiệp có tác động rất lớn tới hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Từ đó, việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn là yêu cầu mang tính thường xuyên và bắt buộc đối với doanh nghiệp. Đánh giá hiệu quả sử dụng vốn sẽ giúp ta thấy được hiệu quả của hoạt động kinh doanh nói chung và trình độ quản lý sử dụng vốn nói riêng. Hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ khai thác, sử dụng và quản lý nguồn vốn làm cho đồng vốn sinh lời tối đa nhằm mục tiêu cuối cùng của doanh nghiệp là tối đa hoá giá trị tài sản của chủ sở hữu. Hiệu quả sử dụng vốn được lượng hóa thông qua hệ thống các chỉ tiêu về hiệu suất sử dụng vốn cố định, vốn lưu động, sức sinh lời của vốn, tốc độ luân chuyển vốn ... Nó phản ánh quan hệ giữa đầu ra và đầu vào của quá trình sản xuất kinh doanh thông qua thước đo tiền tệ hay cụ thể là mối tương quan giữa kết quả thu được với chi phí bỏ ra để thực hiện nhiệm vụ sản xuất kinh doanh. Kết quả thu được càng cao so với chi phí vốn bỏ ra thì hiệu quả sử dụng vốn càng cao. Do đó, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn là điều kiện quan trọng để doanh nghiệp phát triển vững mạnh. Ngoài ra, doanh nghiệp phải thường xuyên phân tích đánh giá hiệu quả sử dụng vốn để nhanh chóng có biện pháp khắc phục những mặt hạn chế và phát huy những ưu điểm của doanh nghiệp trong quản lý và sử dụng vốn. Thông qua phân tích hiệu quả sử dụng vốn sẽ cung cấp hình ảnh về việc sử dụng vốn tại doanh nghiệp, những ưu điểm và hạn chế trong công tác tài chính tại doanh nghiệp.Có hai phương pháp để phân tích tài chính cũng như phân tích hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp, đó là phương pháp so sánh và phương pháp phân tích tỷ lệ. Phương pháp so sánh: Để áp dụng phương pháp này cần phải đảm bảo các điều kiện so sánh được của các chỉ tiêu tài chính (thống nhất về không gian, thời gian, nội dung, tính chất và đơn vị tính toán...) và theo mục đích phân tích mà xác định gốc so sánh. Gốc so sánh được chọn là gốc về thời gian hoặc không gian, kỳ phân tích được chọn là kỳ báo cáo hoặc kỳ kế hoạch, giá trị so sánh có thể được lựa chọn bằng số tuyệt đối, số tương đối hoặc số bình quân. Nội dung so sánh có thể là so sánh giữa số thực hiện năm nay và năm trước, so sánh giữa số thực hiện và số kế hoạch, so sánh số thực hiện của doanh nghiệp với số liệu trung bình của ngành... Phương pháp tỷ lệ: trong phân tích tài chính doanh nghiệp, các tỷ lệ tài chính được phân thành các nhóm tỷ lệ đặc trưng, phản ánh những nội dung cơ bản theo mục tiêu hoạt động của doanh nghiệp. Đó là các nhóm tỷ lệ về khả năng thanh toán, nhóm tỷ lệ về cơ cấu vốn và nguồn vốn, nhóm tỷ lệ về năng lực hoạt động kinh doanh, nhóm tỷ lệ về khả năng sinh lời. Mỗi nhóm tỷ lệ lại bao gồm nhiều tỷ lệ phản ánh riêng lẻ, từng bộ phận của hoạt động tài chính, trong mỗi trường hợp khác nhau, tuỳ theo giác độ phân tích, người phân tích lựa chọn những nhóm chỉ tiêu khác nhau. Để phục vụ cho việc phân tích hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp người ta thường dùng một số các chỉ tiêu mà ta sẽ trình bày cụ thể trong phần sau. 1.2 Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn: 1.2.1 Chỉ tiêu về vốn cố định: Như trong phần trước ta đã trình bày, tài sản cố định là hình thái biểu hiện vật chất của vốn cố định. Vì vậy, để đánh giá được hiệu quả sử dụng vốn cố định thì cần phải đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản cố định qua các chỉ tiêu sau: Hiệu suất sử dụng Tài sản cố định = Doanh thu thuần Nguyên giá bình quân TSCĐ Chỉ tiêu này cho biết một đồng tài sản cố định tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu thuần trong một năm. Suất hao phí tài sản cố định = Nguyên giá bình quân TSCĐ Doanh thu thuần Chỉ tiêu này phản ánh để tạo ra một đồng doanh thu thuần thì phải bỏ ra bao nhiêu đồng nguyên giá tài sản cố định. Hệ số này càng nhỏ càng tốt. Sức sinh lời của tài sản cố định = Lợi nhuận Nguyên giá bình quân TSCĐ Chỉ tiêu này cho biết trung bình một đồng tài sản cố định tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận. Chỉ tiêu này càng lớn càng chứng tỏ việc sử dụng tài sản cố định là có hiệu quả. Bên cạnh đó, người ta còn sử dụng hai chỉ tiêu: hệ số đổi mới tài sản cố định và hệ số loại bỏ tài sản cố định để xem xét tình hình đổi mới nâng cao năng lực sản xuất của tài sản cố định. Hệ số đổi mới tài sản cố định = Giá trị TSCĐ mới tăng trong kỳ Giá trị TSCĐ có ở cuối kỳ Hệ số loại bỏ Tài sản cố định = Giá trị TSCĐ lạc hậu, cũ giảm trong kỳ Giá trị TSCĐ có ở đầu kỳ Hai chỉ tiêu này không chỉ phản ánh sự tăng giảm thuần tuý về tài sản cố định mà còn phản ánh trình độ tiến bộ khoa học kỹ thuât, tình hình đổi mới trang thiết bị của doanh nghiệp. Để trực tiếp phản ánh hiệu quả sử dụng vốn cố định, người ta sử dụng hai chỉ tiêu sau: -Hiệu suất sử dụng vốn cố định: được đo bằng tỷ lệ giữa doanh thu tiêu thụ sản phẩm trong kỳ và số vốn cố định bình quân trong kỳ. Hiệu suất sử dụng vốn cố định = Doanh thu thuần Vốn cố định bình quân trong kỳ Trong công thức trên vốn cố định bình quân trong kỳ là bình quân giá trị còn lại của tài sản cố định đầu kỳ và cuối kỳ. Hiệu suất sử dụng vốn lưu động phản ánh một đồng vốn cố định trong kỳ tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu tiêu thụ sản phẩm hàng hoá trong kỳ.Đối với doanh nghiệp chỉ tiêu này càng lớn càng tốt. -Hiệu quả sử dụng vốn cố định: được đo bằng tỷ lệ giữa lợi nhuận ròng trong kỳ và lượng vốn cố định bình quân trong kỳ. Hiệu quả sử dụng vốn cố định = Lợi nhuận Vốn cố định bình quân trong kỳ Chỉ tiêu này phản ánh bình quân một đồng vốn cố định tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh trong kỳ thì tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận, chỉ tiêu này càng cao càng tốt. 1.2.2 Chỉ tiêu về vốn lưu động -Hệ số đảm nhiệm vốn lưu động: cho biết để tạo ra một đồng doanh thu thuần cần bao nhiêu đồng vốn lưu động. Nó được đo bằng tỷ lệ giưa vốn lưu động bình quân trong kỳ và tổng doanh thu thuần. Hệ số đảm nhiệm vốn lưu động = VLĐ bình quân trong kỳ Doanh thu thuần -Sức sinh lợi của vốn lưu động: cho biết một đồng vốn lưu động bình quân trong kỳ tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận. Sức sinh lợi của vốn lưu động = Lợi nhuận VLĐ bình quân trong kỳ Trong quá trình sản xuất kinh doanh vốn lưu động vận động không ngừng qua các hình thái khác nhau. Vì vậy ngoài các chỉ tiêu trên người ta còn sử dụng các chỉ tiêu phản ánh tốc độ luân chuyển vốn lưu động. Các chỉ tiêu này có ý nghĩa quan trọng trong phản ánh hiệu quả sử dụng vốn lưu động tại doanh nghiệp. Đó là: - Số vòng quay của vốn lưu động: còn gọi là hệ số luân chuyển vốn lưu động, cho biết vốn lưu động quay được mấy vòng trong kỳ. Số vòng quay của vốn lưu động = Doanh thu thuần VLĐ bình quân trong kỳ - Thời gian của một vòng luân chuyển: cho biết số ngày cần thiết để vốn lưu động quay được một vòng. Số vòng luân chuyển càng nhỏ thì tốc độ luân chuyển của vốn lưu động càng lớn và làm rút ngắn chu kỳ kinh doanh, vốn quay được nhiều vòng hơn. Thời gian của một kỳ phân tích thường là 1 năm hay 360 ngày Thời gian của một vòng luân chuyển = Thời gian của một kỳ phân tích Số vòng quay VLĐ trong kỳ 2 Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn: Doanh nghiệp là một tế bào của nền kinh tế, sự tồn tại và phát triển của nó không thể tách rời ảnh hưởng của các yếu tố ngoại cảnh cũng như đặc điểm của riêng nó. Vì vậy, hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp cũng chịu tác động của các yếu tố đó một cách gián tiếp hoặc trực tiếp. 2.1 Các nhân tố khách quan: Môi trường tự nhiên: bao gồm toàn bộ các yếu tố tự nhiên có tác động đến doanh nghiệp, như thời tiết, môi trường...Ngày nay khoa học càng phát triển thì sự lệ thuộc của con người vào tự nhiên ngày càng giảm đi, ảnh hưởng của môi trường tự nhiên đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nói chung và hiệu quả sử dụng vốn nói riêng cũng ít hơn, trừ các doanh nghiệp hoạt động mang tính thời vụ hoặc các doanh nghiệp khai thác... Môi trường kinh tế: là tổng thể các biến số kinh tế có ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, như tình trạng lạm phát, thất nghiệp, tăng trưởng kinh tế, lãi suất, tỷ giá, tình trạng cạnh tranh...Các yếu tố này có thể tác động tích cực hoặc tiêu cực đến hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Môi trường pháp lý: là hệ thống các chế tài pháp luật, các chủ trương chính sách...liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp. Vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường là tất yếu và cần thiết nhưng tác động của nhà nước chỉ được thực hiên thông qua các chính sách kinh tế vĩ mô, không can thiệp trực tiếp mà giao quyền chủ động sản xuất kinh doanh cho các doanh nghiệp. ảnh hưởng của môi trường pháp lý thể hiện ở chỗ nó đưa ra các quy tắc buộc doanh nghiệp phải tuân theo, nó bảo vệ những lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp. Nếu môi trường pháp lý thuận lợi sẽ mang lại lợi ích kinh tế cho các doanh nghiệp. Môi trường chính trị văn hoá xã hội: khách hàng của doanh nghiệp luôn tồn tại trong một môi trường văn hoá xã hội nhất định, thoả mãn nhu cầu của khách hàng, bán được sản phẩm hay không phụ thuộc rất lớn vào đặc điểm văn hoá xã hội. Nó ảnh hưởng đến việc ra quyết định sản xuất sản phẩm nào, lựa chọn công nghệ sản xuất nào cũng như phân phối sản phẩm như thế nào để đến được tay người tiêu dùng một cách hiệu quả nhất. Do đó, hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp cũng chịu tác động của yếu tố này. Môi trường kỹ thuật công nghệ: sự phát triển của khoa học công nghệ cùng với xu thế chuyển giao công nghệ đặt ra cho các doanh nghiệp nhiều cơ hội và thách thức mới. Việc sử dụng vốn của doanh nghiệp cũng phải thích ứng với sự tác động của các yếu tố này. 2.2 Các nhân tố chủ quan: a) Lực lượng lao động: Lực lượng lao động ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn được xem xét trên hai yếu tố là số lượng và chất lượng lao động, của hai bộ phận lao động là lao động trực tiếp sản xuất kinh doanh và cán bộ lãnh đạo. Trình độ của người lao động cao sẽ làm tăng hiệu suất sử dụng tài sản, kết quả kinh doanh cao hơn, do đó vốn được sử dụng hiệu quả hơn. Trình độ của cán bộ điều hành cao thể hiện ở sự kết hợp một cách tối ưu các yếu tố sản xuất, giảm chi phí không cần thiết đồng thời nắm bắt các cơ hội kinh doanh, đem lại cho doanh nghiệp sự tăng trưởng và phát triển...do đó hiệu quả sử dụng vốn được nâng cao. b) Đặc điểm của sản xuất kinh doanh: Các doanh nghiệp hoạt động ở các lĩnh vực khác nhau sẽ có đặc điểm về chu kỳ sản xuất, kỹ thuật sản xuất, đặc điểm của sản phẩm, nhu cầu của thị trường... khác nhau do đó cũng có hiệu quả sử dụng vốn khác nhau. Chẳng hạn nếu chu kỳ ngắn, doanh nghiệp sẽ thu hồi vốn nhanh nhằm tái tạo, mở rộng sản xuất kinh doanh. Ngược lại, nếu chu kỳ sản xuất dài doanh nghiệp sẽ chịu một gánh nặng ứ đọng vốn và lãi phải trả cho các khoản vay. Nếu sản phẩm là tư liệu tiêu dùng nhất là sản phẩm công nghiệp nhẹ như rượu, bia, thuốc lá... thì sẽ có vòng đời ngắn, tiêu thụ nhanh và qua đó giúp doanh nghiệp thu hồi vốn nhanh. Hơn nữa những máy móc dùng để sản xuất ra những sản phẩm này có giá trị không quá lớn do vậy doanh nghiệp dễ có điều kiện đổi mới. Ngược lại, nếu sản phẩm có vòng đời dài có giá trị lớn, được sản xuất trên dây truyền công nghệ có giá trị lớn như ôtô, xe máy... việc thu hồi vốn sẽ lâu hơn. 3 Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn: 3.1. Vai trò của việc đảm bảo huy động đủ vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp: Hiệu quả sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp là kết quả tổng thể của hàng loạt các yếu tố bên trong cũng như bên ngoài doanh nghiệp. Việc đảm bảo đầy đủ kịp thời vốn cho nhu cầu sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có tác động mạnh mẽ đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Điều đó xuất phát từ các lý do chủ yếu sau: Tất cả các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp ở bất cứ quy mô, lĩnh vực nào đều cần thiết có một lượng vốn nhất định. Việc mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong điều kiện khoa học công nghệ phát triển nhanh đòi hỏi phải có vốn đầu tư lớn, đầy đủ và kịp thời. Do đó việc tổ chức huy động vốn ngày càng trở nên quan trọng đối với mỗi doan nghiệp. Việc huy động vốn đầy đủ và kịp thời giúp cho các doanh nghiệp có thể chớp được thời cơ kinh doanh, tạo lợi thế trong cạnh tranh. Lựa chọn các hình thức và phương pháp huy động vốn thích hợp giúp giảm bớt được chi phí sử dụng vốn, điều đó tác động rất lớn đến việc tăng lợi nhuận của doanh nghiệp, đặc biệt ở các doanh nghiệp có tỷ lệ vốn vay lớn. Trong cơ chế bao cấp trước đây, mọi nhu cầu về vốn của doanh nghiệp nhà nước đều được bao cấp qua nguồn vốn cấp của ngân sách nhà nước và qua nguồn tín dụng ưu đãi của ngân hàng. Nếu doanh nghiệp phát sinh nhu cầu vốn thì có thể xin cấp phát thêm hoặc vay ngân hàng với lãi suất ưu đãi. Có thể nói vốn của doanh nghiệp được tài trợ toàn bộ, vì thế vai trò khai thác, thu hút vốn không được đặt ra như một yêu cầu cấp bách có tính sống còn đối với doanh nghiệp. Hoạt động huy động các nguồn vốn của doanh nghiệp trở nên rất thụ động Chuyển sang nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp nhà nước cùng song song tồn tại với các thành phần kinh tế khác, việc cấp phát vốn từ ngân sách nhà nước hạn chế hơn, doanh nghiệp phải bảo toàn vốn kể cả trong điều kiện trượt giá và phải đầu tư để mở rộng và phát triển quy mô sản xuất kinh doanh. Nhu cầu vốn ngày càng lớn trong môi trường cạnh tranh gay gắt. Điều này đòi hỏi doanh nghiệp phải chủ động tìm kiếm nguồn vốn mới để đáp ứng yêu cầu vốn, đổi mới máy móc thiết bị, cải tiến quy trình công nghệ...nhằm đa dạng hoá sản phẩm đáp ứng nhu cầu thị trường, tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Chỉ có như vậy doanh nghiệp mới có thể tồn tại và phát triển được. Vì vậy vốn trở thành dộng lực cho sự phát triển của doanh nghiệp và việc huy động, quản lý sử dụng hiệu quả vốn đã trở thành một yêu cầu bức bách. 3.2. Sự cần thiết phải nâng cao hiẹu quả sử dụng vốn: Việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn có ý nghĩa quan trọng đối với mỗi doanh nghiệp nói riêng và đối với nền kinh tế nói chung, đặc biệt là trong cơ chế hiện nay. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sẽ đảm bảo được tính an toàn về tài chính cho doanh nghiệp, ảnh hưởng trực tiếp đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Qua đó các doanh nghiệp sẽ đảm bảo việc huy động các nguồn tài trợ và khả năng thanh toán, khắc phục cũmg như giảm bớt được những rủi ro trong kinh doanh. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sẽ làm tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Để đáp ứng các yêu cầu cải tiến công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, đa dạng hoá mẫu mã sản phẩm...doanh nghiệp phải có vốn, trong khi đó vốn của doanh nghiệp chỉ có hạn vì vậy nâng cao hiệu quả sử dụng vốn là rất cần thiết. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sẽ giúp doanh nghiệp đạt được mục tiêu tăng giá trị tài sản của chủ sở hữu và các mục tiêu khác của doanh nghiệp như nâng cao uy tín sản phẩm trên thị trường, nâng cao mức sống của người lao động ... Vì khi hoạt động kinh doanh mang lại lợi nhuận thì doanh nghiệp có thể mở rộng quy mô sản xuất, tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động và mức sống của người lao động cũng ngày càng được cải thiện. Điều đó giúp cho năng suất lao động của doanh nghiệp ngày càng nâng cao, tạo sự phát triển cho doanh nghiệp và các ngành liên quan. Đồng thời nó cũng làm tăng các khoản đóng góp cho ngân sách Nhà nước. Phần II: tình hình sử dụng vốn tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn iii. tình hình sử dụng vốn tại nhno&ptnt hà nội. Trong nền kinh tế, các NHTM đều hoạt động theo phương thức “đi vay để cho vay” tức là huy động vốn từ các nguồn khác nhau và phải sử dụng vốn đó để hoạt động kinh doanh có lãi, đảm bảo khả năng thanh toán cho khách hàng khi có dòng tiền rút ra. Vì vậy sử dụng vốn là khâu mấu chốt quyết định hiệu quả kinh doanh của Ngân hàng. Việc sử dụng triệt để có hiệu quả nguồn vốn sẽ dẫn đến tối đa hoá lợi nhuận cho Ngân hàng cũng như góp phần vào sự phát triển chung của nền kinh tế đất nước. Bảng 11: Kết quả sử dụng vốn của NHNo Hà nội. Đơn vị: Triệu VND Thời gian Khoản mục 31/12/1998 31/12/1999 31/12/2000 31/3/2001 Dư nợ cho vay 959.749 957.229 1.296.566 1.409.405 Tổng nguồn vốn 1.945.841 2.035.619 3.344.034 3.729.937 Biểu 2: Tổng dư nợ Tại Ngân hàng nông nghiệp Hà nội, ngoài hoạt động sử dụng nguồn để cho vay đối với nền kinh tế thì vốn của Ngân hàng còn phục vụ cho hoạt động sử dụng khác. Trong đó chủ yếu là hoạt động điều chuyển vốn trong hệ thống Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn. Sử dụng khác cho kinh doanh ngoại tệ và mua sắm tài sản cố định chỉ chiếm tỷ trọng không đáng kể. Nguyên nhân chính của vấn đề nguồn vốn điều chuyển lớn là do tốc độ huy động vốn của Ngân hàng tăng nhanh trong khi hoạt động cho vay của Ngân hàng còn hạn chế. Đây là dấu hiệu chưa thật tốt trong hoạt động kinh doanh tín dụng, thể hiện thị trường cho vay của Ngân hàng còn nhiều hạn chế. Do vậy , vấn đề đặt ra là cần nghiên cứu kỹ hơn nghiệp vụ cho vay của Ngân hàng để đưa ra những giải pháp phù hợp nhằm mở rộng cho vay, tạo cơ sở tăng lợi nhuận cho Ngân hàng. Diễn biến tình hình dư nợ của NHNo&PTNT Hà nội qua các năm 98,99,2000 được thể hiện trong bảng sau: Bảng 12: Hoạt động tín dụng của NHNo Hà nội. Đơn vị: Triệu VND Thời gian Khoản mục 31/12/1998 31/12/1999 31/12/2000 31/3/2001 Số tiền % Số tiền % Số tiền % Số tiền % 1.Cho vay DNNN 796.484 82,9 814.476 85,1 862.015 66,5 974.110 69,1 2.Cho vay NQD 163.265 17,1 142.753 14,9 434.551 33,5 435.295 30,9 Tổng dư nợ 959.749 100 957.229 100 1.296.566 100 1.409.405 100 % Tăng giảm -0,26 35,4 8,7 Qua bảng 12 ta thấy doanh số cho vay của NHNo Hà nội năm 1999 giảm 0,26% so với năm 1998 với con số tuyệt đối 2.520 triệu đồng. Nguyên nhân chính là do năm 99 xuất hiện tình trạng thiểu phát kéo dài, lạm phát quá thấp dưới 1 chữ số dẫn đến dư cung trong nền kinh tế, sức mua giảm sút với chính sách tiền tệ quá chặt gây ra sự trì trệ trong nền kinh tế. Các doanh nghiệp kinh doanh không dám đầu tư mở rộng sản xuất. Mặc dù ngành Ngân hàng tích cực chống thiểu phát bằng các công cụ của chính sách tiền tệ như hạ lãi suất cho vay, giảm tỷ lệ tiền gửi dự trữ bắt buộc từ 7% xuống còn 3%, nhưng chỉ thực hiện chủ yếu vào 6 tháng cuối năm 99 nên không phát huy được hết hiệu quả. Trong năm 2000, dưới sự can thiệp của Ngân hàng nhà nước thông qua kích cầu đầu tư, lãi suất cho vay từ 1,25%/tháng giảm xuống còn 0,85%/tháng. Mức lãi suất hấp dẫn đã kích thích các doanh nghiệp tăng nhu cầu sử dụng cho đầu tư mới về nhà xưởng, trang thiết bị, công nghệ và mở rộng sản xuất. Kết hợp với việc thực hiện chiến lược khách hàng, NHNo Hà nội đã đưa tổng dư nợ tăng trưởng 35,4% so với năm 99. Vào quý I/2001 dư nợ của Ngân hàng tăng lên 8,7%. Xét về cơ cấu dư nợ ta thấy cho vay doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) tăng và khu vực ngoài quốc doanh giảm thể hiện chủ trương của Ngân hàng trong chính sách cho vay. Ngân hàng tăng cường mối quan hệ với các khách hàng là DNNN lớn, có vị trí quan trọng trong chiến lược phát triển của nền kinh tế quốc dân, hầu hết là những doanh nghiệp vững mạnh làm ăn có hiệu quả, được sự đầu tư của Chính phủ như các doanh nghiệp thuộc Tổng công ty 90-91. Việc đầu tư cho những doanh nghiệp này hầu như không có rủi ro. Đối với khu vực ngoài quốc doanh, do kinh doanh luôn gặp rủi ro lớn nên Ngân hàng thực hiện quản lý chặt chẽ việc cho vay. Muốn vay vốn các doanh nghiệp phải có tài sản thế chấp nhưng hầu hết tài sản thế chấp của doanh nghiệp đều bị hạn chế và thông tin không đầy đủ. Mặt khác do các DNNN có nhu cầu về vốn tín dụng cao, nên việc đầu tư có trọng điểm cho một số doanh nghiệp có giá trị kinh tế dễ thu hút vốn của Ngân hàng hơn. Năm 98, 99 doanh số cho vay với khu vực quốc doanh chiếm tuyệt đại đa số và tăng trưởng khá đều, về tỷ trọng từ 82,9% trên tổng nguồn năm 98 đã tăng lên 85,1% năm 99. Đạt được kết quả này là do Ngân hàng đã tập trung đầu tư vào các dự án mới như dự án nâng cấp tổng đài điện thoại của Tổng công ty bưu chính viễn thông, dự án hoạt động của Tổng công ty xăng dầu Việt nam. Cùng thời điểm này hoạt động cho vay ngoài quốc doanh lại giảm cả về số tuyệt đối lẫn tỷ trọng, từ 17,1% năm 99 giảm xuống 14,9% năm 98. Bước sang năm 2000 doanh số cho vay khu vực quốc doanh tăng lên nhưng lại giảm về tỷ trọng, nguyên nhân là do dư nợ cho vay ngoài quốc doanh tăng lên. Hiện nay (quý I/2001) NHNo Hà nội vẫn đang tiếp tục thúc đẩy hoạt động tín dụng và cũng có bước tăng trưởng rõ rệt. Trong cơ cấu cho vay đối với DNNN đã có những biến động lớn về tỷ trọng giữa cho vay ngắn hạn và cho vay dài hạn thể hiện ở bảng 13. Bảng 13: Cơ cấu cho vay doanh nghiệp nhà nước. Đơn vị: Triệu VND Thờigin Khoản mục 31/12/1998 31/12/1999 31/12/2000 31/3/2001 % % Số tiền Số tiền % 1.CV ngắn hạn 86,7 771.628 885.131 -Nội tệ 692.603 806.336 -Ngoại tệ 79.025 78.795 2.CV dài hạn 13,5 90.387 88.979 -Nội tệ 41.059 39.749 -Ngoại tệ 49.328 49.230 Tổng 100 862.015 974.110 Trong cơ cấu dư nợ của khu vực quốc doanh ta thấy khoản cho vay ngắn hạn luôn tăng trưởng và chiếm một tỷ trọng rất lớn, từ 86,7% năm 98 tăng lên 89,5% năm 99 và tiếp tục tăng lên ở quý I/2001. Ngược lại với dư nợ ngắn hạn, tỷ trọng cho vay trung-dài hạn thấp, chỉ chiếm 13,3% tổng dư nợ năm 98, 11,5% năm 99 và đến năm 2000 dư nợ cho vay giảm xuống còn 10,5%. Đây là con số quá thấp so với nhu cầu thị trường, chứng tỏ Ngân hàng chưa nắm bắt nhu cầu đầu tư trung dài hạn của các doanh nghiệp lớn, chưa tăng cường khả năng tham gia vào các chương trình, dự án lớn hơn, dài hạn hơn. Mặc dù trong năm 2000 NHNo Hà nội đã tích cực khai thác mở rộng đầu tư cho một số doanh nghiệp mới, đi sâu vào tìm kiếm các dự án khả thi của các khách hàng truyền thống và các khách hàng khác như Công ty Cao su Sao vàng, Công ty Vật tư Nông sản, Tổng công ty Cà phê Việt nam, Công ty than Đông bắc... nhưng doanh số cho vay chủ yếu vẫn là dư nợ ngắn hạn. Cũng từ bảng trên ta thấy, trong năm 2000 cho vay ngắn hạn bằng nội tệ tăng lên trong khi đó tín dụng ngoại tệ lại giảm rất mạnh. Nguyên nhân tín dụng ngoại tệ giảm là do trong năm 2000 các doanh nghiệp có xu hướng chuyển sang vay nội tệ kể cả những nhu cầu vay ngoại tệ để nhập khẩu. Vay bằng nội tệ khách hàng vừa được hưởng lãi suất tương đương với lãi suất vay bằng USD vừa tránh được rủi ro của tỷ giá biến động, đặc biệt trong năm 2000 tốc độ tăng trưởng tỷ giá tương đối nhanh so với năm 99 và sự bất ổn của thị trường ngoại tệ Cho vay khối kinh tế ngoài quốc doanh tại NHNo Hà nội có sự biến động đáng chú ý thể hiện ở bảng sau: Bảng 14: Cơ cấu cho vay ngoài quốc doanh. Đơn vị: Triệu VND Thờigian Khoản mục 31/12/1998 31/12/1999 31/12/2000 31/3/2001 I. CV ngắn hạn 124.580 99.221 375.123 363.456 1. cty CP. Cty TNHH 33.295 33.303 50.634 57.893 - Nội tệ 20.890 21.530 47.601 54.976 - Ngoại tệ 12.405 11.773 3.033 2.917 2.Hộ cá thể, HTX 28.670 23.188 34.152 39.634 - Nội tệ 28.670 23.188 34.152 39.634 3.Đối tượng khác 62.615 42.730 290.337 265.929 - Nội tệ 62.615 42.730 290.337 265.929 II. CV dài hạn 38.685 43.532 59.428 71.839 1. Cty CP. Cty TNHH 15.240 14.959 20.578 29.342 - Nội tệ 4.349 3.962 10.290 11.033 - Ngoại tệ 10.891 10.997 10.288 10.309 2.Hộ cá thể, HTX 5.754 5.822 4.551 16.747 - Nội tệ 5.754 5.822 4.551 6.747 3.Đối tượng khác 17.691 22.751 34.299 43.750 - Nội tệ 17.691 22.751 34.299 43.750 Tổng 163.265 142.753 434.551 435.295 % tăng giảm -12,6 204,4 0,17 Năm 1999 tổng dư nợ cho vay giảm 12,6% so với năm 98, nguyên nhân chủ yếu là do các doanh nghiệp thu hẹp sản xuất vì chưa có phương án sản xuất mới. Trong khi đó, Ngân hàng tiếp tục thẩm định các dự án, hạn chế những dự án không khả thi, rủi ro cao nhằm tìm kiếm những dự án mang tính thực tế, hoạt động kinh doanh có hiệu quả. Đối với hộ cá thể, Ngân hàng cho vay dưới hình thức cho vay cầm cố nhưng hoạt động này còn bó hẹp vì loại hình cho vay này gặp nhiều khó khăn phức tạp trong hoạt động bảo quản, coi giữ hay ký kết hợp đồng thuê kho giữ tài sản cầm cố. Đến 31/12/2000 tình hình cho vay doanh nghiệp ngoài quốc doanh có sự tăng trưởng nhanh, tăng 204,4% so với năm 99. Sự tăng trưởng này tập trung vào dư nợ cho vay khác của NHNo Hà nội. Trong năm 2000, ngoài nghiệp vụ cho vay truyền thống Ngân hàng đã phát triển các hình thức tín dụng mới như: sử dụng vốn vay để mua tín phiếu kho bạc, thực hiện chiết khấu, cầm cố thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn, góp vốn liên doanh bảo lãnh dự thầu, cho vay vốn tài trợ, vốn uỷ thác của các chương trình EC, WB, RAP... Các hoạt động này đã chiếm tỷ trọng lớn trong tổng dư nợ và đem lại nguồn thu khá lớn cho Ngân hàng. Bên cạnh đó, đối với các Công ty cổ phần, Công ty TNHH... NHNo Hà nội đã chú trọng đầu tư theo món, cán bộ tín dụng đã tiếp cận kịp thời, nắm bắt thị trường và tình hình kinh doanh của doanh nghiệp qua đó mạnh dạn đầu tư, cung ứng vốn góp phần đưa dư nợ cho vay ở khu vực này tăng lên qua các năm. Quý I/2001 dư nợ của nguồn này tăng nhẹ và tập trung vào hoạt động cho vay khác. Trong thời gian tới,Ngân hàng cần tiếp tục thẩm định những dự án cho vay với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh để tránh bỏ lỡ cơ hội cho vay với những doanh nghiệp, tư nhân làm ăn có hiệu quả và nâng cao thu nhập của Ngân hàng. Như vậy, khái quát lại tình hình dư nợ tín dụng của NHNo Hà nội sẽ được thể hiện qua hai bảng sau: Bảng 15: Cơ cấu nguồn vốn tín dụng theo kỳ hạn Và theo nội – ngoại tệ Đơn vị: Triệu VND Thời gian Khoản mục 31/12/1998 31/12/1999 31/12/2000 31/3/2001 Số tiền % Số tiền % Số tiền % Số tiền % 1.CVngắn hạn 815.150 84,9 820.196 85,7 1.146.751 88,5 1.248.587 88,6 -Nội tệ 472.490 487.170 1.064.693 1.166.875 -Ngoại tệ 342.660 333.026 82.058 81.712 2.CV dài hạn 144.599 15,1 137.033 14,3 149.815 11,5 160.818 11,4 -Nội tệ 63.795 74.042 90.199 92.507 -Ngoại tệ 80.804 62.991 59.616 68.311 Tổng 959.749 100 957.229 100 1.296.566 100 1.409.405 100 Bảng 19: Biến động dư nợ theo kỳ hạn. Đơn vị: Triệu VND Thời gian Khoản mục 31/12/1998 31/12/1999 31/12/2000 31/3/2001 CVngắn hạn -Biến động tăng, giảm -% biến động 815.150 820.196 5.046 0,6 1.146.751 326.555 28,5 1.248.587 101.736 8,9 Cho vay trung dài hạn -Biến động tăng, giảm -% biến động 144.599 137.033 -7.566 -5,2 149.815 12.782 9,8 160.818 11.003 7,3 Như vậy, qua các số liệu trên ta có thể nhìn thấy một cách tổng thể tình hình sử dụng nguồn vốn của NHNo Hà nội. Dư nợ ngắn hạn có sự tăng trưởng qua các năm. Trong năm 2000, nguồn vốn cho vay ngắn hạn răng lên 28,5% so với năm 99. Đạt được kết quả này là do trong năm tín dụng nội tệ tăng nhanh chóng mặc dù tín dụng ngoại tệ giảm. Năm 1999 tín dụng nội tệ ngắn hạn tăng rất nhanh từ 487.170 triệu đồng tăng lên 1.064.693 triệu đồng (từ bảng 18). Về tỷ trọng tăng lên : (1.064.693 - 487.170) x 100 =118,5% 487.170 dẫn đến nguồn cho vay ngắn hạn tăng. Đến quý I/2001 nguồn tín dụng nội tệ tiếp tục tăng sẽ đưa nguồn cho vay ngắn hạn tăng. Bên cạnh hoạt động cho vay ngắn hạn, trong những năm qua NHNo Hà nội đã có bước chuyển dịch về cơ cấu tín dụng, tăng dần tỷ trọng cho vay trung dài hạn đáp ứng nhu cầu vốn đầu tư. Ngân hàng đã chủ động khai thác và bổ sung các nguồn vốn trung dài hạn bằng VND và ngoại tệ với lãi suất hợp lý để đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Tóm lại, trong quá trình hoạt động NHNo Hà nội luôn đặt ra mục tiêu là sử dụng nguồn vốn một cách có hiệu quả nhất. Kết quả là năm 2000 tổng dư nợ của Ngân hàng đã tăng lên 35,4% so với năm 99, thể hiện nỗ lực của Ngân hàng trong việc mở rộng quan hệ với khách hàng, tìm nguồn đầu tư vào những dự án trọng điểm của Nhà nước. Cho vay với DNNN chiếm tỷ trọng cao trong tổng dư nợ thể hiện hướng chủ đạo của Ngân hàng là tập trung vào những doanh nghiệp quốc doanh – là những doanh nghiệp lớn an toàn và làm ăn có hiệu quả. Tỷ trọng cho vay trung dài hạn đang có xu hướng tăng trong tổng dư nợ.Những khoản đầu tư này sẽ là nguồn thu nhập lớn cho Ngân hàng, tuy nhiên Ngân hàng cũng cần phải chú ý theo dõi để thu nợ kịp thời, tránh tình trạng dẫn tới nợ quá hạn. Hiện nay tín dụng ngoài quốc doanh tại Ngân hàng đang còn chiếm tỷ trọng rất nhỏ. Do vậy đứng trước nhu cầu mở rộng quan hệ với khách hàng, và sự khẳng định vai trò của kinh tế ngoài quốc doanh trong nền kinh tế. Trong thời gian tới Ngân hàng cần phải mở rộng quan hệ tín dụng với thành phần kinh tế này nhằm nâng cao uy tín và tận dụng mọi nguồn thu của mình. Phần III: các biện pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn I. Nguyên tắc sử dụng vốn hiệu quả: Như trên đã phân tích việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn là điều kiện quan trọng cho sự phát triển của doanh nghiệp cũng như của nền kinh tế. Do đó các doanh nghiệp phải luôn tìm biện pháp để tăng cường khả năng sử dụng vốn của mình. Trong thực tế các doanh nghiệp đều thực hiện nhiều biện pháp khác nhau để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, tuỳ thuộc vào từng ngành nghề, quy mô vốn cũng như uy tín của doanh nghiệp. Nhưng các biện pháp dù khác nhau nhưng đều tuân theo nguyên tắc nhất định. Đó là sử dụng vốn "hiệu quả, bảo toàn và phát triển vốn". Một doanh nghiệp khó có thể tồn tại và phát triển khi mà nguồn vốn của nó lại giảm dần đi. Để duy trì sản xuất kinh doanh, nguồn vốn của doanh nghiệp phải vận động không ngừng, kết thúc mỗi vòng chu chyển, vốn phải được giữ nguyên giá trị. Bảo toàn vốn là điều kiện trước tiên để doanh nghiệp tồn tại và phát triển trong nền kinh tế thị trường hiện nay. Yêu cầu bảo toàn vốn thực chất là việc duy trì giá trị, sức mua, năng lực của nguồn vốn chủ sở hữu và mặc dù cơ cấu tài trợ của doanh nghiệp bao gồm vốn chủ sở hữu và vốn vay nợ khác song mọi kết quả sản xuất kinh doanh cuối cùng đều phản ánh vào sự tăng giảm nguồn vốn chủ sở hữu. Một dự án mà doanh nghiệp tài trợ bằng nguồn vốn vay bị thua lỗ thì những thua lỗ đó doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm bằng chính nguồn vốn của mình. Như vậy, thua lỗ của mọi khoản đầu tư dù được tài trợ bằng nguồn nào cuối cùng cũng làm giảm nguồn vốn chủ sở hữu. Một đặc trưng cơ bản của vốn là tính giá trị về mặt thời gian. Điều này đòi hỏi vốn ứng ra đầu tư chẳng những phải thu hồi được đủ giá trị ban đầu mà giá trị nhận được phải lớn hơn giá trị ban đầu. Có như vậy mới thoả mãn được mục đích của nhà đầu tư. Đặc biệt trong điều kiện hiện nay, chỉ có sản xuất và tái sản xuất liên tục thì doanh nghiệp mới có thể đứng vững và chiến thắng trong cạnh tranh. Yêu cầu phát triển vốn là điều kiện tiên quyết để khẳng định sự tồn tại của doanh nghiệp trên thương trường. Thực chất của việc phát triển vốn là không ngừng làm tăng tiềm lực tài chính cho chủ sở hữu của doanh nghiệp. Vốn chủ sở hữu phải được gia tăng cả về mặt tuyệt đối lẫn tương đối. Như vậy bảo toàn và phát triến vốn là nguyên tắc cơ bản của việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại doanh nghiệp. Do những đặc điểm riêng về sự chu chuyển, tham gia của từng loại vốn vào quá trình sản xuất, đặc điểm tái sản xuất ... nên yêu cầu bảo toàn và phát triển đối với vốn cố định và vốn lưu động có sự khác nhau. 1. Nguyên tắc bảo toàn và phát triển vốn cố định: Việc bảo toàn và phát triển vốn cố định được đặt ra như một nhu cầu tất yếu của mỗi doanh nghiệp. Điều này bắt nguồn từ những đặc trưng cơ bản của vốn cố định. Thể hiện ở những điểm sau: - Vốn cố định thường chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng số vốn của doanh nghiệp, nó quyết định tới hiệu quả sản xuất kinh doanh, khả năng cạnh tranh và uy tín của doanh nghiệp trên thương trường. Vốn cố định mà biểu hiện của nó là tài sản cố định ảnh hưởng đến khả năng vay vốn của doanh nghiệp tại ngân hàng ( dùng làm tài sản thế chấp...) - Chu kỳ vận động của vốn cố định thường kéo dài nhiều năm mới có thể hoàn đủ số vốn ứng ra ban đầu cho chi phí về tài sản cố định. Vì vậynó có nguy cơ rủi ro cao. Đồng vốn luôn chịu ảnh hưởng của những rủi ro do những nguyên nhân chủ quan hoặc khách quan làm thất thoát vốn như lạm phát, hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình ... -Vốn cố định chuyển dịch giá trị từng phần và do đó được hoàn vốn từng phần. Vốn cố định được chuyển hoá dưới hình thức phần vốn tiền tệ tăng dần (tiền khấu hao luỹ kế tài sản cố định tăng dần do đó quỹ khấu hao tăng dần) và phần vốn hiện vật giảm dần (giá trị còn lại của tài sản cố định giảm dần theo thời gian sử dụng nó). Để bảo toàn và phát triển vốn cố định thì phần hiện vật của vốn cố định phải nhanh chóng biến thành phần tiền tệ, có như vậy phần vốn ứng ra ban đầu mới thu hồi được nhanh để tái đầu tư và vốn cố định luân chuyển nhanh. Đây là một điều không dễ dàng bởi lẽ muốn nhanh thu hồi vốn thì tỷ lệ trích khấu hao phải cao, nhưng điều này lại làm cho chi phí kinh doanh, giá thành tăng. Như vậy dẫn đến giảm lợi nhuận và nhiều khả năng khác nữa. Từ những lý do chủ yếu nêu trên ta thấy việc bảo toàn và phát triển vốn cố định phải được coi là một trong những công việc quan trọng trong công tác quản lý, sử dụng và bảo toàn vốn của doanh nghiệp. Về mặt lý thuyết, bảo toàn vốn cố định là phải thu hồi toàn bộ phần giá trị đã ứng ra ban đầu để mua sắm tài sản cố định. Nhưng thực tế để có thể tiếp tục tái sản xuất thì phần giá trị thu về phải có khả năng đầu tư để hình thành tài sản cố định mới đáp ứng được yêu cầu mới cao hơn, do ảnh hưởng của hao mòn. Vì vậy bảo toàn và phát triển vốn cố định là phải thu hồi lượng giá trị thực của tài sản cố định. ở đây, việc đảm bảo thu hồi được giá trị thực của tài sản cố định có nghĩa là giá trị thu về phải có sức mua để tạo ra một giá trị sử dụng tương đương. Có như vậy vốn cố định mới được bảo toàn và thực hiện tái sản xuất tài sản cố định. 2 Nguyên tắc bảo toàn và phát triển vốn lưu động: Việc quản lý và sử dụng vốn lưu động phải dựa trên những đặc điểm của vốn lưu động là chuyển dịch giá trị một lần vào giá trị sản phẩm trong một chu kỳ sản xuất, hình thái của nó thay đổi liên tục qua các giai đoạn của quá trình sản xuất. Vì vậy, quản lý và sử dụng vốn lưu động liên quan đến hoạt động tài chính hàng ngày của doanh nghiệp. Chẳng hạn, việc thu tiền từ khách hàng và trả tiền cho nhà cung cấp như thế nào? Đây là các quyết định tài chính quan trọng và chúng liên quan chặt chẽ đến việc quản lý vốn lưu động của doanh nghiệp. Vốn lưu động tồn tại dưới dạng tiền tệ, vật tư, hàng hoá ... do đó có thể gặp phải rủi ro do những tác động chủ quan từ phía doanh nghiệp và khách quan từ thị trường. Những rủi ro này khác nhau ở các doanh nghiệp hoạt động trên các lĩnh vực khác nhau. Đồng thời các doanh nghiệp có ngành nghệ kinh doanh khác nhau thì có cơ cấu tài sản lưu động khác nhau và sự luân chuyển vốn lưu động chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố khác nhau. Do đó mỗi doanh nghiệp phải có phương pháp quản lý vốn phù hợp với đặc điểm sản xuất kinh doanh của mình. Những khó khăn đối với các doanh nghiệp ảnh hưởng đến việc sử dụng vốn lưu động tại doanh nghiệp có thể kể đến là các khó khăn như: Sự ứ đọng vật tư, hàng hoá do việc sản xuất không đáp ứng được nhu cầu thị trường về thị hiếu, chất lượng, giá cả,...dẫn đến vốn lưu động bị tắc nghẽn trong khâu dự trữ và lưu thông, sản phẩm không tiêu thụ được do đó giá trị vốn lưu động chưa được thu hồi. Doanh thu không đủ đáp ứng nhu cầu vốn lưu động do kinh doanh bị thua lỗ kéo dài hoặc bị chiếm dụng vốn một cách thường xuyên dẫn đến sự thiếu hụt vốn lưu động, ảnh hưởng đến sự vận động liên tục của vốn lưu động. Do tác động của lạm phát, giá cả tăng nhanh nên sau mỗi vòng luân chuyển, giá trị vốn lưu động của doanh nghiệp bị giảm đi theo tốc độ trượt giá ...không đáp ứng đủ cho sản xuất kinh doanh nữa. Tuy nhiên, dù những ảnh hưởng như trên có mức độ khác nhau như thế nào nhưng việc quản lý sử dụng vốn lưu động đều phải dựa trên những nguyên tắc chung nhất là: Thời điểm kết thúc vòng quay của vốn nên tiến hành vào cuối mỗi kỳ kế toán ( quý, năm ) vì vòng quay vốn lưu động trùng với chu kỳ kinh doanh. - Căn cứ để xác định giá trị bảo toàn vốn là chỉ số vật giá chung hoặc chỉ số giá của vật tư hàng hoá chủ yếu phù hợp với nhu cầu và chiếm tỷ trọng lớn trong vốn lưu động của doanh nghiệp. - Đảm bảo tái sản xuất giản đơn về tài sản lưu động. 3. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại doanh nghiệp: Trên đây là những nguyên tắc và yêu cầu cơ bản của việc bảo toàn và phát triển vốn của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường, dựa trên những nguyên tắc đó mà doanh nghiệp có biện pháp quản lý và sử dụng vốn cũng như tìm ra những giải pháp phù hợp để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của mình. Thực tế các giải pháp được áp dụng rất đa dạng. Có thể kể đến là: 4. Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định: a) Đánh giá và đánh giá lại tài sản cố định: Một trong những đặc điểm nổi bật của tài sản cố định là chúng luôn bị hao mòn. Sự hao mòn này dẫn đến giá trị thực và giá trị sổ sách của tài sản cố định khác nhau. Vì vậy, doanh nghiệp phải có kế hoạch và biện pháp đánh giá và đánh giá lại tài sản một cách thường xuyên. Nhờ vậy mà doanh nghiệp xác định được giá trị thực của tài sản cố định, đó cũng là cơ sở cho việc xác định mức khấu hao hợp lý để thu hồi vốn hoặc kịp thời xử lý những tài sản cố định bị mất giá để chống lại sự thất thoát vốn. Thực chất của việc đánh giá và đánh giá lại tài sản cố định là làm cho giá trị trên sổ sách kế toán của tài sản gần với giá trị thực của nó. Tính hiệu quả cần phải đạt được của các quyết định xử lý là phải bảo toàn được vốn cố định trong mọi trường hợp biến động giá cả nói chung và hao mòn vô hình nói riêng. b) Lựa chọn phương pháp tính khấu hao và xác định mức khấu hao hợp lý: Đặc điểm tài sản cố định, mức độ tham gia của nó vào quá trình sản xuất kinh doanh, thời hạn sử dụng tài sản cố định, thời hạn sử dụng vốn đầu tư, loại tài sản là những yếu tố quan trọng quyết định đến việc tính và trích khấu hao. Qua đó vốn cố định được thu hồi, chuẩn bị cho quá trình kinh doanh tiếp theo. Việc tính và trích lập quỹ khấu hao do đó ảnh hưởng rất lớn đến quy mô và đặc điểm vốn cố định trong kỳ sản xuất kinh doanh hiện tại và tiếp theo. Vì vậy doanh nghiệp phải lựa chọn phương pháp tính khấu hao thích hợp. Hiện nay có nhiều phương pháp tính khấu hao tài sản cố định như phương pháp tuyến tính cố định, phương pháp luỹ thoái ... Tuỳ từng đặc điểm kinh doanh và điều kiện cụ thể của mỗi doanh nghiệp mà lựa chọn phương pháp tính khấu hao thích hợp để vừa đảm bảo thu hồi vốn nhanh vừa bảo toàn được vốn và ổn định chi phí sản xuất kinh doanh. Vì thế, khi xác định mức khấu hao phải trích trong năm doanh nghiệp cũng nên xem xét yếu tố sau như :Tình hình tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp trên thị trường; mức độ hao mòn vô hình của tài sản cố định; nguồn tài trợ cho tài sản cố định; ảnh hưởng của thuế đối với việc trích khấu hao; quy định của Nhà nước trong việc trích khấu hao tài sản cố định. Phổ biến nhất hiện nay mà hầu hết các doanh nghiệp đang sử dụng là phương pháp khấu hao tuyến tính cố định (phương pháp khấu hao bình quân theo thời gian). Theo phương pháp này mức khấu hao hằng năm được tính bằng công thức: Mk = NG T Trong đó: + Mk: Mức trích khấu hao hằng năm. + NG: Nguyên giá của tài sản cố định. + T: Thời gian sử dụng định mức của tài sản cố định. c) Kiểm tra tài chính đối với hiệu quả sử dụng vốn cố định: Sau mỗi kỳ kế hoạch, nhà quản lý phải tiến hành phân tích, đánh giá tình hình sử dụng tài sản cố định và vốn cố định thông qua những chỉ tiêu phân tích hiệu quả sử dụng vốn. Từ đó, doanh nghiệp có thể đưa ra những quyết định đầu tư, điều chỉnh lại quy mô cơ cấu sản xuất cho phù hợp, khai thác được những tiềm năng sẵn có và khắc phục được những tồn tại trong quản lý. d) Những biện pháp kinh tế khác: - Sử dụng quỹ khấu hao hợp lý: Việc trích khấu hao được tiến hành trong thời gian khá dài vì vậy, quỹ khấu hao được tích luỹ dần. Nhưng mục đích chính của việc trích lập quỹ khấu hao là nhằm tái phục hồi hoặc mua sắm tài sản cố định. Nhiều doanh nghiệp đã sử dụng quỹ khấu hao này với mục đích như dùng để trả nợ vay, dùng để mua sắm ôtô con ... Việc sử dụng sai mục đích này nhiều khi đem lại những tác hại rất lớn như không đủ vốn để phục hồi lại khả năng sản xuất của máy móc thiết bị. - Các biện pháp khác để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định như: kịp thời thanh xử lý những máy móc thiết bị lạc hậu, mất giá, giải phóng những máy móc thiết bị không cần dùng, mua bảo hiểm tài sản để đề phòng những rủi ro ... 5. Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động: Vốn lưu động luôn chuyển dịch từ trạng thái này sang trạng thái khác có tính chất chu kỳ. Sự vận động này diễn ra liên tục, đan xen lẫn nhau, bắt đầu từ hình thái tiền tệ sang hình thái dự trữ vật tư, hàng hoá và quay trở về hình thái tiền tệ ban đầu của nó. Cứ như vậy, vốn lưu động được tiếp tục tuần hoàn và chu chuyển theo chu kỳ sản xuất. Do đó, để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động các doanh nghiệp cần có thể áp dụng các biện pháp sau: a) Khai thác triệt để mọi nguồn vốn lưu động phục vụ cho sản xuất: Trước hết, doanh nghiệp cần khai thác triệt để các nguồn vốn nội bộ và các khoản vốn có thể chiếm dụng một cách thường xuyên (nợ định mức), như tận dụng tiền tạm ứng của khách hàng, tiền nợ phải trả nhà cung cấp, các khoản phải nộp ngân sách... Sử dụng tiết kiệm có hiệu quả nhất nguồn vốn này. Nếu còn thiếu, doanh nghiệp phải tìm đến các nguồn vốn bên ngoài như: vốn vay ngân hàng và các tổ chức tín dụng, vốn liên doanh, vốn phát hành trái phiếu ... Tuy nhiên, các doanh nghiệp cần phải cân nhắc, tính toán, lựa chọn phương thức huy động sao cho chi phí vốn là thấp nhất và đạt được mức độ an toàn trong thanh toán hợp lý. b) Thường xuyên phân tích tình hình sử dụng vốn lưu động: Thực hiện việc kiểm tra tài chính đối với việc sử dụng vốn lưu động, thông qua việc tính toán và phân tích một số chỉ tiêu như: vòng quay vốn lưu động, sức sinh lợi của vốn lưu động ... Trên cơ sở đó, biết được rõ tình hình sử dụng vốn lưu động trong doanh nghiệp, phát hiện những vướng mắc nhằm sửa đổi kịp thời, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động. Ngoài ra doanh nghiệp cần đẩy mạnh khâu tiêu thụ hàng hoá, xử lý kịp thời các vật tư hàng hoá chậm luân chuyển để tránh ứ đọng vốn. Thường xuyên xác định phần chênh lệch giá giữa giá mua ban đầu với giá thị trường tại thời điểm kiểm tra tài sản lưu động tồn kho để có biện pháp xử lý kịp thời, hiệu quả.Thực hiện nghiêm túc, triệt để công tác thanh toán công nợ, chủ động phòng ngừa rủi ro, hạn chế tình trạng bị chiếm dụng vốn mà từ đó làm phát sinh nhu cầu vốn lưu động dẫn đến doanh nghiệp phải đi vay ngoài kế hoạch, tăng chi phí vốn mà đáng lẽ không có. Vốn bị chiếm dụng ngày càng trở thành gánh nặng cho doanh nghiệp khi trở thành nợ khó đòi, gây thất thoát vốn của doanh nghiệp. Bởi vậy, để chủ động hơn trong hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp nên lập các quỹ dự phòng tài chính để có thể bù đắp khi vốn bị thiếu hụt. Trên đây là cơ sở lý thuyết cơ bản về vốn và hiệu quả sử dụng vốn cảu doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Việc tiến hành phân tích cụ thể về hiệu quả sử dụng vốn sẽ được cụ thể hoá tại chương II: Phân tích thực trạng hiệu quả sử dụng vốn tại công ty Tây Hồ-Bộ Quốc phòng. Mục lục

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docC0145.doc
Tài liệu liên quan