Đề tài Giải pháp nhằm đẩy mạnh công tác xuất khẩu gốm xây dựng của Công ty cổ phần xuất nhập khẩu Viglacera

Marketing xuất khẩu rất cần thiết đối với mọi quốc gia cũng như đối với các doanh nghiệp. Những hiểu biết cùng với khả năng riêng biệt kết hợp với kinh nghiệm trở thành những nhân tố quyết định đối với sự thành công của Công ty. Hiện nay, hoạt động Marketing của Công ty còn rất yếu. Công ty chưa xây dựng được các chính sách cũng như các chương trình Marketing cụ thể, lâu dài, chưa thành lập được bộ phận Marketing riêng biệt. Vì vậy Công ty cần phải thực sự quan tâm hơn nữa đến vấn đề Marketing xuất khẩu nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu của mình. Hoạt động Marketing xuất khẩu của Công ty cần phải dựa trên ba vấn đề cơ bản sau: - Xác định mục tiêu đối với hoạt động xuất khẩu của công ty: Đó là những mục tiêu ngắn hạn, trung hạn và dài hạn với sự tối đa hoá lợi nhuận thu được, không ngừng tìm cách xâm nhập vào các thị trường quốc tế. Những tiêu chuẩn cụ thể mà Công ty đưa ra để đánh giá sự phát triển là doanh thu xuất khẩu, lợi nhuận xuất khẩu và thị phần xuất khẩu của Công ty trên mỗi thị trường. - Dựa trên cơ sở những mục tiêu đã xác định, Công ty nên xây dựng chương trình hoạt động Marketing xuất khẩu gồm việc triển khai cả chiến lược và chiến thuật Marketing Mix.

doc51 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1310 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp nhằm đẩy mạnh công tác xuất khẩu gốm xây dựng của Công ty cổ phần xuất nhập khẩu Viglacera, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g gốm xây dựng của Công ty bao gồm 5 nhóm mặt hàng chính chiếm tỷ trọng từ cao xuống thấp. Sứ vệ sinh vẫn là mặt hàng chiếm tỷ trọng xuất khẩu lớn nhất trong nhóm các mặt hàng gốm xây dựng, tiếp đến là gạch Granit, gạch Ceramic, sau đó là nhóm mặt hàng gạch ngói và cuối cùng là các sản phẩm khác như gạch chịu lửa, gạch cách nhiệt, …(xem bảng 4). +Về quy mô và tốc độ xuất khẩu Gốm xây dựng Trong các năm qua, mặt hàng sứ vệ sinh là mặt hàng có giá trị xuất khẩu lớn nhất, chiếm tỷ trọng lớn nhất trong các mặt hàng xuất khẩu. Nhìn chung sản phẩm này có giá trị xuất khẩu ngày càng tăng tuy có tỷ trọng giảm dần qua các năm. Năm 2004 giá trị xuất khẩu mặt hàng sứ vệ sinh là 707,44 nghìn USD chiếm tỷ trọng 50,28% trong tổng KNXK gốm xây dựng. Năm 2005 giá trị xuất khẩu mặt hàng này là 994,81 nghìn USD nhưng lại chỉ chiếm tỷ trọng 40,39% trong tổng KNXK gốm xây dựng. Năm 2006 giá trị xuất khẩu mặt hàng này đã tăng lên 1020,4 nghìn USD nhưng tỷ trọng mặt hàng này trong tổng KNXK gốm xây dựng chỉ là 35,27%. Để thấy rõ mức tăng giảm KNXK sứ vệ sinh, ta so sánh mức chênh lệch tăng giảm mặt hàng này qua các năm. Năm 2005 giá trị xuất khẩu mặt hàng này tăng 287,37 nghìn USD tương đương với mức tăng tốc độ xuất khẩu là 40,62% so với năm 2004. Tuy nhiên vào năm 2006, mức tăng giá trị xuất khẩu mặt hàng này so với năm 2005 chỉ là 25,59 nghìn USD tương đương với mức tăng tốc độ xuất khẩu là 2,7%. Sở dĩ mặt hàng sứ vệ sinh có giá trị KNXK tăng cao và chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng giá trị KNXK là do có chất lượng cao, tiêu chuẩn ISO 9002, kiểu dáng đa dạng, mẫu mã đẹp và bảo hành 10 năm, tuy nhiên tốc độ xuất khẩu mặt hàng này trong 3 năm gần đây(2004-2006) lại giảm xuống, Công ty cần xem xét để tìm ra biện pháp khắc phục tình trạng đã nêu trên. Đứng thứ hai về giá trị xuất khẩu và tỷ trọng là mặt hàng Gạch Granit. Năm 2004, giá trị KNXK mặt hàng này là 479,37 nghìn USD chiếm tỷ trọng 34,07% trong tổng giá trị KNXK mặt hàng gốm xây dựng. Năm 2005 giá trị KNXK mặt hàng này là 864,51 nghìn USD chiếm tỷ trọng 35,1% và năm 2006 giá trị KNXK mặt hàng này là cao nhất, vượt cả giá trị KNXK mặt hàng Sứ vệ sinh, chiếm 1048,2 nghìn USD với tỷ trọng 36,23% trong tổng giá trị KNXK. Rõ ràng giá trị KNXK mặt hàng này đang có xu hướng gia tăng. Tuy nhiên, khi xét về tốc độ xuất khẩu mặt hàng này, có thể nhận thấy xu hướng gia tăng giá trị, tỷ trọng và tốc độ xuất khẩu mặt hàng này không ổn định. Năm 2005 giá trị KNXK mặt hàng này tăng 385,14 nghìn USD tương đương mức tăng tốc độ xuất khẩu là 80,34% so với năm 2004. Nhưng tốc độ tăng xuất khẩu mặt hàng này vào năm 2006 chỉ là 21,25% với giá trị KNXK là 183,69 nghìn USD. Nhìn chung mặt hàng Granit có thể coi là một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực trong cơ cấu sản phẩm Gốm xây dựng của Công ty. Sở dĩ mặt hàng này có giá trị xuất khẩu tăng cao là vì đây là sản phẩm Granit nhân tạo có chất lượng cao, mẫu mã đẹp. Mặt khác gạch Granit nhân tạo chỉ mới xuất hiện trong một vài năm gần đây và chủ yếu là do các nước có công nghệ VLXD hiện đại sản xuất, xuất khẩu. Đây là sản phẩm đang dần được thị trường chấp nhận và ưa chuộng. Vì vậy Công ty cần xem xét xây dựng chiến lược đúng đắn trong hoạt động xuất khẩu mặt hàng này. Gạch Ceramic là một trong những mặt hàng thông dụng nhưng có chất lượng khá tốt và đảm bảo, mẫu mã đa dạng nên được xuất khẩu sang nhiều nước. Có thể thấy giá trị xuất khẩu của mặt hàng này liên tục tăng qua các năm. Năm 2004 giá trị xuất khẩu mặt hàng này là 147,17 nghìn USD chiếm tỷ trọng 10,46% tổng giá trị xuất khẩu gốm xây dựng. Năm 2005, giá trị xuất khẩu mặt hàng này đã tăng lên mức 309,85 nghìn USD với tỷ trọng là 12,58% và năm 2006 tỷ trọng xuất khẩu mặt hàng này là 17,92% tương đương với giá trị xuất khẩu là 518,44 nghìn USD. Xét về quy mô và tốc độ xuất khẩu mặt hàng này có thể thấy năm 2005 giá trị xuất khẩu tăng 162,68 nghìn USD tương ứng với mức tăng tốc độ xuất khẩu là 110,54% so với năm 2004. Năm 2006, giá trị và tốc độ xuất khẩu tăng so với năm 2005 lần lượt là 208,59 nghìn USD và 67,32%. Mặt hàng gạch Ceramic nhìn chung có giá trị xuất khẩu không cao so với mặt hàng khác do mặt hàng này tuy có mẫu mã đa dạng nhưng nó khá phổ biến trên thị trường, sản phẩm không có sự khác biệt lớn so với sản phẩm của các hãng khác. Do đó để có thể tăng khả năng xuất khẩu sản phẩm này cần phải có sự nghiên cứu kỹ nhu cầu thị trường, phát triển thêm nhiều mẫu mã, kiểu dáng khác nhau. Đối với các sản phẩm gạch, ngói, năm 2004 giá trị xuất khẩu là 55,15 nghìn USD chiếm tỷ trọng 3,92% trong tổng giá trị KNXK. Năm 2005 giá trị xuất khẩu mặt hàng này là 148,27 nghìn USD chiếm tỷ trọng 6,02% và năm 2006 giá trị xuất khẩu đạt cao nhất so với các năm, đạt 212,64 nghìn USD với tỷ trọng lên đến 7,35%. Tuy giá trị xuất khẩu mặt hàng này không cao nhưng có thể thấy quy mô và tốc độ xuất khẩu mặt hàng này cũng tăng mạnh trong vòng 3 năm qua. Năm 2005, quy mô xuất khẩu mặt hàng này tăng 93,12 nghìn USD với tốc độ xuất khẩu lên đến 168,85% so với năm 2004. Năm 2006 giá trị xuất khẩu mặt hàng này tăng so với năm 2005 là 64,37 nghìn USD và tốc độ xuất khẩu là 43,41%. Cuối cùng là các sản phẩm khác nằm trong nhóm các sản phẩm gốm xây dựng của Công ty. Đây không phải là sản phẩm xuất khẩu chính của Công ty, đồng thời nhu cầu sản phẩm loại này không thường xuyên và ổn định. Năm 2004 giá trị xuất khẩu các mặt hàng này đạt 17,87 nghìn USD, chiếm 1,27% kim ngạch xuất khẩu. Năm 2005 giá trị xuất khẩu lên tới 145,56 nghìn USD và tỷ trọng là 5,91%. Năm 2006 mặt hàng này có giá trị xuất khẩu là 93,44 nghìn USC chiếm tỷ trọng 3,23%. So sánh giữa các năm có thể thấy năm 2005 là năm đột biến tăng nhu cầu về loại sản phẩm này với giá trị xuất khẩu tăng 129,69 nghìn USD tương đương với mức tăng tốc độ xuất khẩu rất cao là 725,74% so với năm 2004. Năm 2006 mặt hàng này có chiều hướng giảm xuống, giảm 35,81% về tốc độ xuất khẩu và 52,12 nghìn USD so với năm 2005, tức là quy mô xuất khẩu mặt hàng này cũng đã đi vào ổn định hơn. Nhìn chung, giá trị xuất khẩu của hai mặt hàng sứ vệ sinh và gạch Granit thường chiếm khoảng 80% kim ngạch xuất khẩu nhưng tốc độ xuất khẩu hai mặt hàng này lại giảm dần qua các năm. Vì vậy Công ty cần có chương trình phù hợp để thúc đẩy xuất khẩu hai mặt hàng này. Bên cạnh đó, Công ty cần có những chiến lược xuất khẩu gạch Ceramic trong dài hạn vì mặt hàng này đang có xu hướng gia tăng giá trị xuất khẩu đều qua các năm. Mặt khác, những sản phẩm như gạch, ngói và một số loại khác cũng có giá trị xuất khẩu tăng mạnh nhưng còn chưa ổn định, tuy đây không phải là sản phẩm xuất khẩu chủ lực nhưng trong dài hạn Công ty cần nắm bắt thị hiếu để nâng cao chất lượng, mẫu mã cũng như tạo được nhu cầu tiêu dùng ổn định mặt hàng này. 2.2. Thị trường kinh doanh của Công ty Cùng với chiến lược đa dạng hoá, đa phương hoá các mối quan hệ kinh tế quốc tế của đất nước, Công ty chủ trương phát triển phương châm đa dạng hoá quan hệ thị trường song vẫn phải xây dựng thị trường trọng điểm và bạn hàng chủ yếu. Mục tiêu là đẩy mạn công tác xuất khẩu các sản phẩm của đơn vị trong và ngoài ngành nhằm thu ngoại tệ và tăng cao doanh số xuất khẩu. Công ty xác định và phân chia thị trường có tiềm năng và cần tập trung đẩy mạnh xuất khẩu. Qua quá trình tìm hiểu nghiên cứu thông qua rất nhiều tài liệu, đặc biệt qua đối tác, bạn hàng, Công ty nhận thấy thị trường thế giới có thể phân thành 5 khu vực chính (Xem bảng 6) Bảng 6: Cơ cấu kim ngạch xuất khẩu gốm xây dựng theo thị trường Đơn vị: 1000 USD Năm Thị trường Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 So sánh 2005/2004 So sánh 2006/2005 Trị giá Tỷ trọng (%) Trị giá Tỷ trọng (%) Trị giá Tỷ trọng (%) Tuyệt đối Tốc độ (%) Tuyệt đối Tốc độ (%) Nga, Đông Âu 634,56 45,1 1056,63 42,9 1139,9 39,4 422,07 66,51 83,27 7,88 ASEAN 487,11 34,62 426,1 34,2 949,14 32,81 -61,01 -12,52 523,09 122,76 EU, Bắc Mỹ, Nhật 58,01 11,23 307,875 12,5 382,76 13,23 149,865 94,85 74,885 24,32 Trung Đông, Tây á, Nam á 99,89 7,1 222,66 9,04 345,15 11,93 122,77 122,91 122,49 55,01 Các nước khác 27,44 1,95 33,497 1,36 76,09 2,63 6,057 22,07 42,593 127,15 Tổng số 1407 100 2463 100 2893,1 100 1056 75,05 430,1 17,46 Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh của Công ty CP XNK Viglacera Như vậy thị trường chủ yếu của Công ty là Nga và Đông Âu, sau đó là ASIAN. Nga và Đông Âu là các nước XHCN cũ vì vậy có mối quan hệ tốt với Việt Nam. Quan hệ chính trị tốt đẹp đã tạo điều kiện thuận lợi cho các quan hệ kinh tế phát triển. - Thị trường Nga và Đông Âu (Ukraina, Rumani, Ba Lan): Đây là khu vực thị trường mà Công ty có giá trị xuất khẩu lớn nhất. Kim ngạch xuất khẩu sang thị trường này liên tục tăng qua các năm gần đây tuy tỷ trọng giảm dần so với tổng giá trị xuất khẩu. Có thể thấy đây là thị trường tiềm năng trong giai đoạn tới. Mục tiêu của Công ty là tiến hành đẩy mạnh hơn nữa trong việc phát triển đa dạng hoá mặt hàng, đặc biệt là việc xuất khẩu sản phẩm Ceramic và Granit sang thị trường này thông qua Phòng thương mại của các nước này tại Việt Nam, văn phòng đại diện của Tổng công ty tại Nga và một số đối tác nước ngoài có quan hệ với Tổng công ty. - Thị trường ASIAN: Bao gồm Campuchia, Lào, Malaysia, Mianma, Philippin… Đây là thị trường có quan hệ gần gũi và lâu năm với Việt Nam và có vị trí địa lý gần với Việt Nam nên có nhiều nét tương đồng về thị hiếu tiêu dùng, đồng thời hàng hoá Việt Nam xuất khẩu sang thị trường này có nhiều điều kiện thuận lợi như: chi phí vận chuyển thấp, mặt khác các nước ASIAN trong đó có Việt Nam đã ký hiệp định ưu đãi thuế quan chung ASIAN (CEPT) nên hàng hoá Việt Nam xuất khẩu được hưởng mức thuế quan ưu đãi hơn rất nhiều so với hàng hoá của các nước khác ngoài ASIAN. Những thị trường này có triển vọng xuất khẩu các sản phẩm VLXD như gạch Granit, gạch Ceramic, sứ vệ sinh, kính xây dựng… và có thể coi là một trong những khu vực thị trường trọng điểm nhất trong thời gian tới. Tuy nhiên, hàng gốm sứ Việt Nam sẽ phải chấp nhận cạnh tranh gay gắt với gốm sứ Inđônêxia và Thái Lan. Đối với thị trường này Công ty sẽ tìm kiếm các đối tác để xuất khẩu gạch Ceramic. Năm 2004 và 2005 kim ngạch xuất khẩu sang thị trường này đạt trên 34% tổng kim ngạch xuất khẩu. Tuy nhiên giá trị xuất khẩu sang thị trường này năm 2005 giảm 12,52% so với năm 2004. Đến năm 2006 tuy tỷ trọng xuất khẩu sang thị trường này giảm nhưng giá trị xuất khẩu lại tăng gần như gấp đôi so với năm 2005 với giá trị xuất khẩu đạt 949,14 nghìn USD. - Thị trường EU, Bắc Mỹ, Nhật: Đây cũng là thị trường có tiềm năng lớn. Tuy nhiên xuất khẩu sang thị trường này còn thấp, chỉ chiếm khoảng trên dưới 10% tổng kim ngạch xuất khẩu mặc dù đã tăng dần qua các năm. Kế hoạch của Công ty là sẽ thiết lập các đại lý tại thị trường các nước này. - Thị trường Trung Đông, Tây á, Nam á và một số nước khác: Đây là nhóm thị trường còn chiếm tỷ trọng nhỏ. Công ty đang tìm cách xâm nhập và khai thác thị trường này. Bên cạnh đó, Công ty cần chú trọng tới việc chăm sóc khách hàng thông qua những khách hàng lớn của công ty để mở rộng thị trường xuất khẩu Cho tới thời điểm hiện nay, những sản phẩm có triển vọng và được xuất khẩu sang khu vực thị trường này là kính xây dựng, sứ vệ sinh, gạch đỏ… Đặc biệt đối với một số thị trường Trung Đông như Iraq, Iran, Pakistan… các sản phẩm sứ vệ sinh, gạch ốp lát Ceramic, gạch chịu lửa cũng có nhiều khả năng thâm nhập bởi đây là thị trường có nhiều lợi thế trong bán hàng như: chi phí bán hàng, thuế nhập khẩu với mức tương đối, tỷ trọng nhập khẩu lớn… Tuy nhiên, đây cũng là khu vực thiếu tính ổn định và an toàn về tài chính thương mại do ảnh hưởng của nhiều biến động về chính trị xã hội như: Cấm vận, chiến tranh, khủng bố… nên việc nghiên cứu, tiếp cận thị trường cần hết sức thận trọng. Đặc biệt, Hàn Quốc là thị trường đầy tiềm năng thực tế với tiềm lực kinh tế phát triển và nhu cầu xây dựng rất lớn. Thời gian gần đây số lượng khách hàng quan tâm đến sản phẩm gạch Ceramic, gạch Granit, kính xây dựng của Viglacera từ Hàn Quốc tăng khá nhanh. Thị trường Iraq và Trung cận đông cũng là thị trường rất có tiềm năng. Hiện công ty vẫn đang xem xét khả năng thiết lập văn phòng đại diện tại Iraq, tăng cường tiếp cận các đối tác tại Iraq chủ động nắm lấy cơ hội kinh doanh (thay vì phụ thuộc quá nhiều vào tham tán thương mại Việt Nam tại Iraq như trước đây), đưa các sản phẩm của Công ty vào chương trình đổi dầu lấy lương thực của Liên hợp quốc cho Iraq. Ngoài ra, Công ty còn đang nghiên cứu mở rộng thị trường sang các khu vực tiềm năng khác: - Thị trường Hoa Kỳ, Canada và các nước Trung Nam Mỹ: Đây là thị trường có tiềm năng rất lớn, có tốc độ xây dựng tương đối cao. Trong thời gian tới Hoa Kỳ và Châu Mỹ La Tinh sẽ được coi là khu vực thị trường quan trọng nhất trong chiến lược mở rộng thị trường của Tổng công ty Viglacera nói chung và của Công ty cổ phần XNK Viglacera nói riêng. Đối với thị trường Hoa Kỳ, việc hiệp định thương mại Việt – Mỹ đang đi vào thực thi sẽ tạo cơ hội cho các sản phẩm VLXD Viglacera được cạnh tranh một cách tương đối bình đẳng với các nhà xuất khẩu Châu á khác trong một phạm vi thị trường rất lớn với dung lượng tiêu thụ hàng nhập khẩu được xếp vào loại hàng đầu trên thế giới. Châu Mỹ Latinh cũng là khu vực thị trường rất nhiều tiềm năng do phần lớn các sản phẩm VLXD như gạch ốp lát Ceramic, Granit, sứ vệ sinh đều được nhập khẩu từ nước ngoài. Tuy vậy cũng tồn tại một số khó khăn khách quan như: Chi phí vận chuyển cao, thời gian vận chuyển đường biển tương đối dài, thông tin thị trường còn nhiều hạn chế… - Khu vực Trung và Tây Phi: Châu Phi được đánh giá là khu vực nhiều tiềm năng trở thành khu vực tiêu thụ và sản xuất VLXD rất tốt vì hiện nay nền công nghiệp sản xuất VLXD tại đây hầu như chưa phát triển. Mặc dù còn một số trở ngại như: Thuế nhập khẩu và thuế tiêu thụ cao, chi phí vận tải lớn, nhưng với một cơ chế giá bán hợp lý thì đây cũng sẽ là một thị trường rất khả quan cho công tác xuất khẩu sản phẩm Viglacera về lâu dài. - Khu vực Châu úc Nước Oxtralia hiện nay được coi là hấp dẫn đối với hầu hết các nhà xuất khẩu VLXD trên thế giới. Do vậy trong thời gian tới, việc tìm hiểu và tiếp cận thị trường này được chú trọng hơn nữa nhằm khai thác các nguồn tiêu thụ sản phẩm cũng như các đối tác tiềm năng trong lĩnh vực kinh doanh và phân phối VLXD. 2.3. Các phương thức xuất khẩu gốm xây dựng của Công ty. Hiện nay phương thức xuất khẩu chủ yếu được công ty áp dụng là hình thức xuất khẩu trực tiếp và xuất khẩu uỷ thác, trong đó có xuất khẩu uỷ thác các sản phẩm của các đơn vị thành viên trong Tổng công ty chiếm khoảng 70% đến 75% giá trị xuất khẩu của Công ty (xem bảng 7). Bảng 7: Cơ cấu kim ngạch xuất khẩu gốm xây dựng theo phương thức Đơn vị: 1000USD Năm Chỉ tiêu Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 So sánh 2005/2004 So sánh 2006/2005 Trị giá Tỷ trọng (%) Trị giá Tỷ trọng (%) Trị giá Tỷ trọng (%) Tuyệt đối Tốc độ (%) Tuyệt đối Tốc độ (%) KNXK 1407,01 100 2463 100 2893,1 100 1055,99 75,05 430,1 17,46 XK trực tiếp 325,3 23,1 610,53 24,8 795,6 27,5 285,23 87,7 165,07 20,74 XK uỷ thác 1081,71 76,9 1852,47 75,2 2097,5 72,5 770,76 71,3 265,03 12,64 Nguồn: Phòng xuất nhập khẩu – Công ty CP XNK Viglacera Hình thức xuất khẩu trực tiếp đã và đang góp phần tạo ra cho Công ty một vị thế vững chắc trên thị trường thế giới, đồng thời nâng cao uy tín của Công ty. Xuất khẩu trực tiếp có xu hướng tăng dần trong những năm gần đây về cả giá trị và tỷ trọng. Năm 2005 xuất khẩu trực tiếp tăng mạnh, tăng 87,7% so với năm 2004, xuất khẩu uỷ thác cũng tăng 71,3% so với năm 2004. Năm 2006 kim ngạch xuất khẩu trực tiếp và uỷ thác đều tăng do chuyển dịch cơ cấu theo hướng tăng dần tỷ trọng xuất khẩu trực tiếp, dù tăng rất chậm. Tuy nhiên tỷ trọng xuất khẩu uỷ thác vẫn rất lớn mặc dù giá trị xuất khẩu theo phương thức uỷ thác tăng lên nhưng tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu đã giảm xuống. Trong thời gian tới Công ty cần nâng cao hiệu quả của mình, cần tìm đối tác để xuất khẩu sản phẩm sản phẩm của mình chứ không phải ngồi chờ xuất khẩu theo uỷ thác của các đơn vị thành viên của Tổng công ty. 3. Đánh giá hoạt động xuất khẩu Gốm xây dựng hiện nay của Công ty. 3.1. Hiệu quả hoạt động Mặc dù mới tham gia trực tiếp vào kinh doanh thương mại quốc tế nhưng với tinh thần luôn cố gắng học hỏi, đến nay Công ty đã có khá nhiều kinh nghiệm trong hoạt động kinh doanh quốc tế và đạt được những hiệu quả kinh doanh đáng khích lệ. 3.1.1. Lợi nhuận xuất khẩu Lợi nhuận xuất khẩu là chỉ tiêu chung nhất và quan trọng nhất đối với các nhà kinh doanh. Trong thời gian qua, hoạt động xuất khẩu gốm xây dựng của Công ty đã đạt được một số kết quả đáng khích lệ, mặt hàng của Công ty đã phần nào khẳng định được vị trí của mình trên thị trường quốc tế. Lợi nhuận xuất khẩu = Doanh thu xuất khẩu – Chi phí xuất khẩu Bảng 8 : Lợi nhuận xuất khẩu của gốm xây dựng Đơn vị: 1000 USD Năm Chỉ tiêu 2004 2005 2006 So sánh 2005/2004 So sánh 2006/2005 Tuyệt đỗi Tốc độ (%) Tuyệt đỗi Tốc độ (%) 1. Tổng giá trị XK Gốm xây dựng 1407,01 2463 2893,1 1055,9 75,05 430,1 17,46 2. Doanh thu XK Gốm xây dựng 703,9 1279,7 1529,72 575,8 81,8 250,02 19,54 3. Chi phí XK Gốm xây dựng 698,74 1263,8 1505,63 565,06 80,87 241,83 19,14 4. Lợi nhuận XK Gốm xây dựng 5,16 16,07 24,09 10,91 211,4 8,02 33,29 Nguồn: Phòng Tài chính kế toán – Công ty cổ phần XNK Viglacera Tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu gốm xây dựng bao gồm cả giá trị xuất khẩu trực tiếp và uỷ thác. Nhưng doanh thu từ hoạt động xuất khẩu gốm xây dựng của Công ty chỉ bao gồm doanh thu xuất khẩu trực tiếp và hoa hồng xuất khẩu uỷ thác. Có thể thấy rằng doanh thu xuất khẩu gốm xây dựng chỉ bằng khoảng một nửa tổng giá trị xuất khẩu là do kim ngạch xuất khẩu uỷ thác của Công ty còn quá lớn. Tuy nhiên lợi nhuận của xuất khẩu mặt hàng gốm xây dựng đều tăng qua các năm. Hoạt động xuất khẩu của Công ty trong những năm qua đều có hiệu quả, đạt mục tiêu có lãi đầu tư. 3.1.2. Tỷ suất doanh lợi xuất khẩu và hiệu quả kinh tế của xuất khẩu Chỉ tiêu tỷ suất doanh lợi xuất khẩu cho biết mỗi đồng thu về thì có bao nhiêu đồng lợi nhuận hoặc mỗi đồng chi phí bỏ ra thì thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận. Chỉ tiêu hiệu quả kinh tế của xuất khẩu cho biết mỗi đồng chi phí xuất khẩu bỏ ra thì thu về được bao nhiêu đồng. Bảng 9: Chỉ tiêu phản ánh hiệu quả xuất khẩu hàng gốm xây dựng Đơn vị: % Năm Chỉ tiêu 2004 2005 2006 1. Tỷ suất lợi nhuận XK Gốm xây dựng x 100% LNXK DTXK 0,733 1,256 1,575 x 100% LNXK CPXK 0,738 1,272 1,6 x 100% 2. Hiệu quả kinh tế của XK DTXK CPXK 100,74 101,26 101,6 Nguồn: Phòng Tài chính kế toán – Công ty CP XNK Viglacera Số liệu tính toán cho thấy hiệu quả hoạt động xuất khẩu của Công ty về mặt hàng gốm xây dựng còn thấp.Tuy nhiên chỉ tiêu hiệu quả vẫn tăng dần qua các năm. Điều đó thể hiện Công ty đã bắt đầu tiến hành các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả xuất khẩu như giảm chi phí trong xuất khẩu, tăng doanh số bán ra… 3.2. Những ưu điểm và nhược điểm trong hoạt động kinh doanh xuất khẩu gốm xây dựng của Công ty Việc đánh giá những ưu điểm và nhược điểm sẽ giúp Công ty tận dụng và khai thác nó một cách triệt để nhằm phục vụ cho hoạt động kinh doanh của mình. 3.2.1. Ưu điểm: - Công ty đã thực hiện tốt những mục tiêu kinh doanh đề ra: Cơ cấu mặt hàng hầu hết đã có mặt trên thị trường thế giới, quy mô và kim ngạch xuất khẩu gốm xây dựng tăng đều qua các năm, khai thác mở rộng thêm được một số thị trường xuất khẩu mới, … - Các mặt hàng Gốm xây dựng ngày càng được đa dạng hoá về mẫu mã, chủng loại, chất lượng sản phẩm xuất khẩu của Công ty ngày càng nâng cao. - Uy tín của các mặt hàng chủ lực như: Gốm sứ, thuỷ tinh đã giúp Công ty ngày càng ký được nhiều hợp đồng với các khách hàng trong và ngoài nước. - Được sự quan tâm của Bộ xây dựng, các ban ngành, lãnh đạo luôn chăm lo chỉ đạo và tạo điều kiện giúp đỡ Công ty trong hoạt động kinh doanh. 3.2.2. Nhược điểm: - Do tỷ trọng xuất khẩu uỷ thác còn chiếm khá cao nên Công ty gặp phải khó khăn về xuất khẩu. - Hoạt động kinh doanh của Công ty còn mang tính chất nhỏ lẻ. Điều này thể hiện trong việc công ty xuất khẩu nhiều mặt hàng thuộc lĩnh vực gốm xây dựng với khối lượng nhỏ nên hiệu quả đem lại của từng mặt hàng là rất thấp. Kế hoạch kinh doanh và việc thực hiện còn có khoảng cách lớn, dẫn đến hoạt động kinh doanh của Công ty còn bị động. - Chất lượng của gốm xây dựng chưa đủ tiêu chuẩn ổn định xuất khẩu sang thị trường khó tính như Châu Âu, Mỹ. Các sản phẩm mới chỉ đảm bảo được về tính kỹ thuật chứ chưa có chiến lược cụ thể về đổi mới sản phẩm sao cho thích nghi với thị hiếu tiêu dùng của khách hàng nước ngoài. - Công ty chưa thiết lập được nhiều các chi nhánh văn phòng đại diện hoặc đaị lý tiêu thụ của Công ty ở nước ngoài, chưa có hệ thống Marketing tìm hiểu về nhu cầu, thị hiếu, giá cả các sản phẩm của Công ty ở nước ngoài. Điều này làm giảm sức cạnh tranh của Công ty, làm mất dần các thị trường truyền thống và không thể xâm nhập vào các thị trường xuất khẩu mới. 3.2.3. Nguyên nhân Những tồn tại trên của hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động xuất khẩu gốm xây dựng nói riêng là kết quả của nhiều nguyên nhân, cả khách quan và chủ quan như: a. Nguyên nhân khách quan: - Nước ta là một nước có nền công nghiệp còn lạc hậu nhiều so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Công nghệ máy móc thường đi sau các nước phát triển. Trong khi đó các doanh nghiệp Việt Nam lại mới tham gia vào hoạt động kinh doanh trên thị trường thế giới trong điều kiện thị trường thế giới đã được phân chia, phân công lao động quốc tế đã được xây dựng tương đối ổn định. Các doanh nghiệp Việt Nam đang còn non trẻ đã phải chấp nhận cạnh tranh với các tập đoàn đa quốc gia có nhiều kinh nghiệm trên thị trường. - Cơ chế quản lý trong hoạt động xuất nhập khẩu nói chung còn nhiều bất cập. - Công ty còn phải chịu khó khăn về vận tải trong quá trình xuất khẩu. Đặc trưng chung của ngành sản xuất VLXD là giá cước vận tải chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng giá xuất khẩu sản phẩm (giá CIF & FOB) thường từ 40-60%. Khó khăn lớn nhất cho công tác xuất khẩu của Công ty là hệ thống vận tải của Việt Nam còn rất hạn chế, chưa có những tàu vận tải lớn chuyên dụng, buộc Công ty phải thuê tàu của các Công ty vận tải nước ngoài. Do vậy, chi phí vận tải quá lớn, thời gian giao hàng bị kéo dài, hạn chế không nhỏ đến yếu tố cạnh tranh của Công ty. - Hạn chế về kinh nghiệm trong hoạt động xuất khẩu nói chung và hoạt động Marketing nói riêng. Công ty mới chỉ tham gia hoạt động xuất khẩu mặt hàng nằy trong vòng 5-6 năm trở lại đây nên nhìn chung còn non kém và chưa có nhiều cơ hội tiếp xúc với hoạt động thực tiễn. b. Những nguyên nhân chủ quan. - Công ty vẫn chưa có đủ uy tín và tên tuổi trên thị trường quốc tế, nhiều mặt hàng gốm xây dựng của Công ty kinh doanh đến nay vẫn rất khó khăn trong việc tạo chỗ đứng trên thị trường thế giới. - Do các sản phẩm của Viglacera phải cạnh tranh khốc liệt với các sản phẩm của các hãng nổi tiếng, có nhiều kinh nghiệm kinh doanh cũng như tiềm lực tài chính và thị phần vững chắc trên thị trường quốc tế. - Giá bán một số chủng loại sản phẩm Viglacera chưa hợp lý, chưa phản ánh được mức giá tương đương của thị trường quốc tế, cụ thể là đối với các mặt hàng gạch Granit, sứ vệ sinh giá chào hàng còn cao, chưa cạnh tranh với các sản phẩm cùng loại của các nước khác trên thị trường thế giới. Cùng với những phân tích ở trên và những mục tiêu dài hạn của Công ty đề ra có thể thấy việc đề ra những biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động xuất khẩu có một ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với quá trình tồn tại và phát triển của Công ty. Chương III Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu mặt hàng gốm xây dựng của công ty 1. Căn cứ đề ra giải pháp 1.1. Chính sách của nhà nước về xuất khẩu. Nhà nước đã đưa ra một số chính sách và biện pháp để khuyến khích xuất khẩu như: - Khuyến khích đầu tư sản xuất, chế biến hàng xuất khẩu. Điều này đã được thể hiện đầy đủ và rõ nét thông qua những ưu đãi của Luật khuyến khích đầu tư trong nước theo nguyên tắc: Chính sách ưu đãi cho doanh nghiệp trong nước phải bằng hoặc hơn doanh nghiệp đầu tư nước ngoài. - Để tăng nhanh tỷ trọng hàng chế biến, Chính phủ sẽ áp dụng một số chính sách sau: + Đầu tư cho nguyên liệu phụ để sản xuất hoặc chế biến hàng xuất khẩu được hưởng ưu đãi về thuế nhập khẩu, thuế doanh thu. + Hạn chế và cấm xuất khẩu nguyên liệu thô với nhiều mặt hàng. - Sử dụng tín dụng và tiền tệ như một công cụ quan trọng để thực hiện chủ trương khuyến khích phát triển sản xuất chế biến hàng xuất khẩu. Chính phủ xác định các cơ quan tài chính, ngân hàng có vai trò lớn trong việc thực hiện chiến lược hướng mạnh về xuất khẩu. Cụ thể là: + Tạo nguồn vốn cho các doanh nghiệp có dự án đầu tư sản xuất hàng xuất khẩu. + Thực hiện rộng rãi chính sách lãi suất ưu đãi đỗi với vốn vay đầu tư sản xuất hàng xuất khẩu để khuyến khích hàng xuất khẩu đồng thời hạn chế nhập khẩu những hàng hoá chưa thiết yếu có thể áp dụng lãi suất đỗi với vốn cho vay xuất khẩu bằng 50% mức lãi suất cho vay để nhập khẩu. + Lập quỹ xuất khẩu: Quỹ này được trích lập từ quỹ bình ổn giá, từ thuế xuất nhập khẩu và phụ thu. Quỹ này được dùng trong các trường hợp như xuất khẩu được sản phẩm mới, tìm kiếm được thị trường xuất khẩu mới đối với sản phẩm xuất khẩu quan trọng, sản phẩm xuất khẩu có chất lượng cao. + Xây dựng và sử dụng quỹ “ Quỹ bảo hiểm xuất khẩu” nhằm bảo đảm ổn định việc sản xuất và xuất khẩu những mặt hàng quan trọng có khối lượng xuất khẩu tương đối lớn. 1.2. Sự cần thiết của công tác xuất khẩu đối với Viglacera nói chung, Công ty CP XNK Viglacera nói riêng. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế sản xuất hàng hoá theo cơ chế thị trường, hội nhập thương mại đang trở thành một xu thế tất yếu được hầu hết các quốc gia trên thế giới đón nhận như một cơ hội phát triển kinh tế một cách hiệu quả nhất và nhanh chóng nhất, đồng thời cũng đặt ra không ít những thách thức cần phải vượt qua. Trong bối cảnh hiện nay, đối với một nhà máy sản xuất lớn như Viglacera, với trọng trách nặng nề mà Công ty cổ phần xuất nhập khẩu Viglacera đã được Tổng công ty giao phó, việc tìm kiếm và xúc tiến các biện pháp đẩy mạnh công tác xuất khẩu là một việc hết sức cần thiết và ngày càng trở lên cấp bách. Công tác này nếu được thực hiện tốt sẽ đem lại nhiều lợi ích trực tiếp, lâu dài như: ăThứ nhất: So với thị trường nội địa, thị trường thế giới có dung lượng tiêu thụ lớn hơn rất nhiều lần, kể cả về số lượng và chủng loại hàng hoá. Trong thời điểm diễn ra cạnh tranh ngày càng gay gắt giữa các nhà sản xuất kinh doanh VLXD nội địa như hiện nay, việc tìm kiếm và mở rộng thị trường xuất khẩu là một trong những giải pháp khả thi nhất để giải quyết những khó khăn về tiêu thụ. Đặc biệt đối với các sản phẩm gạch Ceramic, Granit và sứ vệ sinh, công tác xuất khẩu càng trở lên vô cùng cần thiết khi mà thị trường nội địa đang bước vào giai đoạn cung lớn hơn cầu. ăThứ hai: Hiện nay, đồng thời với Hiệp định AFTA đang được thực thi, việc gia nhập tổ chức Thương mại thế giới WTO, chính sách ngày càng cởi mở của nhà nước và trên thế giới sẽ cho phép các sản phẩm ngoại nhập với giá rẻ, chất lượng cao và mẫu mã phong phú được cạnh tranh một cách tự do với các sản phẩm sản xuất trong nước. Trong bối cảnh đó, các nhà sản xuất kinh doanh trong nước nói chung và Công ty cổ phần xuất nhập khẩu Viglacera nói riêng cần tìm tòi mọi biện pháp nâng cao chất lượng, giảm giá thành sản phẩm để có thể cạnh tranh và đứng vững tại thị trường nội địa, mặt khác cần tập trung khai thác nguồn thị trường xuất khẩu để có thể tránh tình trạng dư thừa sản phẩm tồn kho, suy giảm sản lượng và doanh thu bán hàng cũng như duy trì sự ổn định và tăng cường SXKD. ăThứ ba: Nếu thực hiện tốt, hoạt động SXKD phục vụ xuất khẩu sẽ kéo theo nhiều chuyển biến tích cực đối với Công ty như: Khuyến khích nghiên cứu giảm thiểu chi phí SXKD, hạ giá thành sản phẩm, nâng cao tính chủ động trong công tác Marketing và tiêu thụ sản phẩm cả thị trường trong nước cũng như thị trường nước ngoài… ăThứ tư: Qua hoạt động thực tiễn công tác xuất khẩu sẽ ngày càng được hoàn thiện chuyên nghiệp, đội ngũ cán bộ nhân viên ngày càng trưởng thành, trau dồi kiến thức ngoại ngữ và thương mại quốc tế, tự tin trong các mỗi quan hệ đối ngoại. ăThứ năm: Thông qua công tác mở rộng thị trường, tăng cường xuất khẩu sẽ xây dựng được thương hiệu, uy tín không chỉ của công ty mà còn hoàn thành nhiệm vụ quảng bá thương hiệu Viglacera trên thị trường thế giới mà Tổng công ty đã giáo phó. ăThứ sáu: Sự phát triển và lớn mạnh của bất kỳ doanh nghiệp nào cũng gắn liền với sự phát triển của đất nước. Xuất khẩu là biện pháp trực tiếp làm tăng nguồn thu ngoại tệ cho ngân hàng nhà nước. 2. Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu mặt hàng gốm xây dựng ở Công ty Mục đích của việc thúc đẩy hoạt động xuất khẩu hàng hoá là việc đẩy mạnh kim ngạch xuất khẩu của Công ty hàng năm, ngày càng nâng cao hiệu quả hoạt động xuất khẩu cả về tuyệt đối, tương đối và hiệu quả kinh tế – xã hội, cũng như ngày một nâng cao uy tín và vị thế của Công ty trên thị trường quốc tế. Muốn đạt được mục đích đó, việc đề ra và thực hiện các biện pháp thúc đẩy là vô cùng quan trọng, có ý nghĩa quyết định đến hoạt động xuất khẩu của Công ty hiện tại và tương lai. Nhằm đẩy mạnh hoạt động xuẩ khẩu sản phẩm VLXD sang thị trường các nước trong khu vực và trên thế giới, Công ty nên đưa ra một chiến lược dài hạn nhằm từng bước thâm nhập và có chỗ đứng lâu dài trên thị trường nước ngoài. Một số phương hướng có thể kể tới là: 2.1. Đẩy mạnh công tác điều tra nghiên cứu thị trường 2.1.1. Hoàn thiện công tác nghiên cứu thị trường. Hiện nay công tác nghiên cứu thị trường của Công ty đã được tiến hành song hiệu quả chưa cao. Muốn đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hàng hoá công ty cần coi trọng công tác nghiên cứu thị trường, tìm hiểu thị trường để đưa ra những chính sách phù hợp. Công ty phải luôn dự báo thị trường cùng với việc tiếp cận với khách hàng để khảo sát phân tích, đánh giá thị trường đúng đắn nhằm giữ vững tính ổn định, tạo khả năng mở rộng thị trường. Có thể thấy sản phẩm của Công ty được xuất khẩu sang rất nhiều nước: Philippin, Nga, Đài Loan, Hàn Quỗc, Malaysia, Ukraina…Tuy nhiên quan hệ của Công ty với các bạn hàng chủ yếu là ký hợp đồng theo đơn đặt hàng của họ. Do vậy công tác nghiên cứu thị trường bị coi nhẹ. Theo tôi khi Công ty đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm ở các thị trường thì cần phải nắm vững những hạn chế cũng như khả năng vốn có của hệ thống thương mại quốc tế. Nghiên cứu thị trường thực chất là điều tra để tìm kiếm triển vọng bán hàng cho một sản phẩm cụ thể hay một nhóm sản phẩm. Để đạt được hiệu quả cao nhất trong công tác nghiên cứu thị trường Công ty có thể tiến hành một số biện pháp: - Thành lập một bộ phận chuyên nghiên cứu thị trường. Do Công ty kinh doanh còn mang tính chất nhỏ lẻ nên công tác nghiên cứu thị trường chưa được chú trọng, chủ yếu kinh doanh ở thị trường truyền thống. Bộ phận này sẽ đảm nhận công việc thu thập, xử lý thông tin về thị trường. Ngày nay, thông tin đã trở thành một nguồn lực bên cạnh các nguồn lực khác. Chúng ta muốn hiểu biết về khách hàng phải có thông tin. Nhu cầu về thông tin ngày càng trở lên cấp bách do thị trường thay đổi về quy mô và phạm vi sự thay đổi về chất của nhu cầu, sự lựa chọn của khách hàng thay đổi, sự cạnh tranh ngày càng gay gắt với những hình thức ngày càng đa dạng, chính vì vậy, thu thập và xử lý thông tin để đưa ra những kết luận về thị trường, dự báo những biến động về cung, cầu giá cả hàng hoá trên thị trường đóng vai trò vô cùng quan trọng trong nghiên cứu thị trường. Để nâng cao hiệu quả trong việc thu thập và xử lý thông tin Công ty cần phải: + Đầu tư thay thế, mua mới các trang thiết bị xử lý lưu trữ thông tin hiện đại, đây là việc làm cần thiết ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả làm việc của cán bộ nghiên cứu thị trường, tạo điều kiện cho việc thu thập và xử lý thông tin diễn ra nhanh hơn, nhanh chóng nắm bắt được cơ hội, thời cơ kinh doanh. + Tích cực quan hệ với các cơ quan thông tin về xuất khẩu như Phòng thương mại Việt Nam, Bộ thương mại, Đài phát thanh truyền hình, Các viện nghiên cứu về các nước và châu lục, các Đại sứ quán, Tham tán của Việt Nam tại nước ngoài. + Lập các văn phòng đại diện, chi nhánh tại các thị trường xuất khẩu trọng điềm. Các đại diện này ngoài việc giúp cho Công ty giao dịch, đàm phán, ký kết và thực hiện hợp đồng tại khu vực đó còn thu thập thông tin cho công tác nghiên cứu thị trường. + Tiến hành mở các lớp bồi dưỡng và nâng cao trình độ cho nhân viên hoạt động trong lĩnh vực nghiên cứu thị trường. Tạo điều kiện cho nhân viên được tiếp xúc với thực tế, với môi trường bên ngoài nhằm nâng cao khả năng tư duy lẫn kinh nghiệm trong công tác nghiên cứu thị trường. Khi tiến hành nghiên cứu thị trường, Công ty còn phải lựa chọn và phân loại thị trường, gạt bỏ những thị trường không phù hợp với điều kiện của Công ty, không xác định phạm vi nghiên cứu quá rộng gây lãng phí về thời gian và tiền bạc nhưng hiệu quả thu thập lại không cao. 2.1.2. Sử dụng các chính sách Marketing thích hợp Marketing xuất khẩu rất cần thiết đối với mọi quốc gia cũng như đối với các doanh nghiệp. Những hiểu biết cùng với khả năng riêng biệt kết hợp với kinh nghiệm trở thành những nhân tố quyết định đối với sự thành công của Công ty. Hiện nay, hoạt động Marketing của Công ty còn rất yếu. Công ty chưa xây dựng được các chính sách cũng như các chương trình Marketing cụ thể, lâu dài, chưa thành lập được bộ phận Marketing riêng biệt. Vì vậy Công ty cần phải thực sự quan tâm hơn nữa đến vấn đề Marketing xuất khẩu nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu của mình. Hoạt động Marketing xuất khẩu của Công ty cần phải dựa trên ba vấn đề cơ bản sau: - Xác định mục tiêu đối với hoạt động xuất khẩu của công ty: Đó là những mục tiêu ngắn hạn, trung hạn và dài hạn với sự tối đa hoá lợi nhuận thu được, không ngừng tìm cách xâm nhập vào các thị trường quốc tế. Những tiêu chuẩn cụ thể mà Công ty đưa ra để đánh giá sự phát triển là doanh thu xuất khẩu, lợi nhuận xuất khẩu và thị phần xuất khẩu của Công ty trên mỗi thị trường. - Dựa trên cơ sở những mục tiêu đã xác định, Công ty nên xây dựng chương trình hoạt động Marketing xuất khẩu gồm việc triển khai cả chiến lược và chiến thuật Marketing Mix. - Sử dụng các khả năng của Công ty để thực hiện Marketing Mix. Hoạt động xuất khẩu của Công ty chịu sự tác động của các nhân tố thuộc về Công ty (như: Vốn, mặt hàng kinh doanh, nguồn vốn, nguồn nhân lực của Công ty…) về thị trường, chiến lược xuất khẩu được Công ty lựa chọn. Trong bốn nhân tố của Marketing Mix là sản phẩm, giá cả, phân phối, xúc tiến bán ở Công ty thì chất lượng hàng hoá là nhân tố quan trọng nhất trong hoạt động xuất khẩu. Vì vậy Công ty cần nâng cao hiệu quả công tác giám định chất lượng hàng hoá. Giá cũng là một yếu tố quan trọng trong Marketing xuất khẩu. Giá cả là công cụ để lôi kéo khách hàng. Mức giá hợp lý là mức giá thu hút được nhiều khách hàng trong khi vẫn đảm bảo được mức lợi nhuận dự kiến. Công ty nên áp dụng chính sách giá mềm dẻo, linh hoạt để thu hút được nhiều đối tượng khách hàng mua với khối lượng lớn và những khách hàng truyền thống. Tuy nhiên, để có thể bán được hàng sang các thị trường này thì vấn đề quan trọng là phải làm thế nào giảm giá thành sản xuất để từng bước giảm giá bán sản phẩm. Đứng ở góc độ chủ quan, về phía mình các doanh nghiệp sẽ nỗ lực hết sức để giảm tối đa các chi phí nguyên nhiên liệu đầu vào cho sản xuất, chi phí quản lý. Tuy nhiên các nhân tố ảnh hưởng lớn đến giá thành sản phẩm như khấu hao, lãi vay, nguyên nhiênliệu lại phụ thuộc vào các yếu tố khách quan, không hoàn toàn thuộc tầm kiểm soát của các doanh nghiệp. Vì thế có thể đẩy mạnh hơn nữa hoạt động xuất khẩu các sản phẩm VLXD trong điều kiện hiện nay. Các biện pháp xúc tiến khuyếch trương cũng rất quan trọng để bán được hàng xuất khẩu. Công ty nên áp dụng các biện pháp quảng cáo trên mạng Internet (như lập trang web riêng về công ty để giới thiệu sản phẩm), tham gia các hội chợ quốc tế, gửi cataloge ra nước ngoài, gửi các đơn chào hàng đến các nhà nhập khẩu nước ngoài hoặc trực tiếp tiếp thị tới từng doanh nghiệp tại nước ngoài. Ngoài ra Công ty còn có thể sử dụng hình thức gửi hàng mẫu qua các bưu điện cho các khách hàng quan tâm nhằm cung cấp cho họ nhận biết về hình dáng, chất lượng,… của hàng hoá, tận dụng mọi cơ hội để giới thiệu, khuyếch trương uy tín hàng hoá của mình. 2.2. Xây dựng chính sách sản phẩm phù hợp Đối với sản phẩm Gốm xây dựng thì chất lượng sản phẩm là rất quan trọng. Lý do là sản phẩm gốm xây dựng luôn gắn với các công trình xây dựng, nó đảm bảo cho các công trình xây dựng tồn tại lâu dài vững chắc, chống chọi lại với các tác động của tự nhiên. Hiện nay chất lượng sản phẩm được Công ty quan tâm hàng đầu. Viglacera chia các sản phẩm của mình thành hai nhóm là Thuỷ tinh và Gốm xây dựng. Tuy nhiên, người tiêu dùng biết đến Viglacera chủ yếu là sản phẩm gốm xây dựng, cụ thể hơn là sản phẩm sứ vệ sinh và gạch ốp lát Granit và Ceramic. Điều đó cho thấy sản phẩm gốm đã có chỗ đứng trong người tiêu dùng ở thị trường trong nước và được người tiêu dùng đánh giá rất cao về chất lượng cũng như là độ bền, mẫu mã và giá cả. Tuy nhiên, ở các thị trường nước ngoài, các sản phẩm của Viglacera còn chưa được chấp nhận, đặc biệt là thị trường Mỹ, Tây Âu, Nhật Bản. Hai sản phẩm được tiêu thụ tốt nhất tại thị trường nước ngoài là sứ vệ sinh và gạch Granit. Đối với các sản phẩm còn lại của Viglcera thì hầu hết không đạt tiêu chuẩn quốc tế. Mặc dù, các sản phẩm này có chất lượng và mẫu mã tốt nhưng chưa đáp ứng tiêu chuẩn và kỹ thuật của các thị trường này. Mà các thị trường Mỹ, Tây Âu, Nhật Bản đòi hỏi cao về chất lượng sản phẩm. *Về nâng cao chất lượng, đa dạng hóa sản phẩm: Công ty cần thành lập trung tâm nghiên cứu vật liệu chịu lửa nhằm tiêu chuẩn hoá sản phẩm, nghiên cứu sản phẩm mới, mẫu mã đa dạng, chất lượng cao đáp ứng cho thị trường trong nước và xuất khẩu. Nhập khẩu máy móc thiết bị, công nghệ tiên tiến của thế giới để sản xuất được các sản phẩm có số lượng lớn, chất lượng cao. Tuy nhiên chi phí cho việc nhập khẩu là rất lớn. Để nhập khẩu tốt máy móc thiết bị, Công ty cần có các chuyên gia có năng lực để đánh giá chất lượng công nghệ nhập khẩu cũng như để đưa ra vận hành khai thác công nghệ đó. Tất cả các sản phẩm mũi nhọn phục vụ cho công tác xuất khẩu phải đạt ISO và các tiêu chuẩn chất lượng quốc tế khác. 2.3. Nâng cao nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ công nhân viên Trong kinh doanh, đặc biệt là trong lĩnh vực thương mại dịch vụ, con người là yếu tố quan trọng hàng đầu để đảm bảo thành công. Chính con người với năng lực thật sự của mình mới lựa chọn đúng được cơ hội và sử dụng được sức mạnh khác một cách có hiệu quả để khai thác và tận dụng được cơ hội. Tuy nhiên do tình hình hiện nay trình độ quản lý, trình độ nghiệp vụ chưa đáp ứng được đầy đủ trong cơ chế thị trường, còn nhiều hạn chế. Do vậy, Công ty cần áp dụng hợp lý các hình thức đào tạo bồi dưỡng để nâng cao trình độ nghiệp vụ cho cán bộ công nhân viên nhằm đáp ứng được nhu cầu hoạt động kinh doanh của Công ty. Ngoài lực lượng cán bộ kỹ thuật được tiếp nhận tại các trường đại học, hàng năm Công ty nên mời các chuyên gia kinh tế, chuyên gia thương mại quốc tế về đào tạo mới, đào tạo lại, đào tạo nâng cao trình độ cho CBCNV. Ngoài ra cần tiến hành việc đào tạo tại nước ngoài, nơi có môi trường kinh tế quốc tế diễn ra năng động hiện đại. 2.4.Hoàn thiện phương thức kinh doanh Hiện nay, Công ty chủ yếu xuất khẩu theo hai phương thức chủ yếu là xuất khẩu trực tiếp và xuất khẩu uỷ thác. Như trên đã phân tích hoạt động kinh doanh xuất khẩu một số mặt hàng của Công ty còn một vài bất cập, do đó trong thời gian tới Công ty cần lập ra những kế hoạch kinh doanh cụ thể và nghiêm túc thực hiện kế hoạch đó. Để lập được kế hoạch kinh doanh sát thực với nhu cầu của thị trường thì Công ty phải nghiên cứu tất cả các vấn đề có liên quan đến hoạt động xuất khẩu từ khâu nghiên cứu thị trường, tìm kiếm đối tác cho đến khâu thu mua, bảo quản hàng hoá xuất khẩu. Đối với khâu giao dịch đàm phán, ký kết hợp đồng, trong việc giao dich với khách hàng, Công ty thường là bên nhận được đơn đặt hàng chứ không phải là bên chào hàng. Chính sự thụ động đã gây ra thiệt thòi cho Công ty trong quá trình đàm phán. Công ty chỉ thấy trong đơn đặt hàng được mức giá đảm bảo lợi nhuận. Trên thực tế thì sản phẩm đó có thể bán được ở mức giá cao hơn. Trong công tác đàm phán, Công ty không có được các chuyên gia nhiều kinh nghiệm, vì vậy khi đàm phán thường không đạt được những gì mình mong muốn, không đạt được giá trị tối ưu. Trong khâu đóng gói sản phẩm thì Công ty thực hiện rất tốt. Các sản phẩm gốm xây dựng thường chịu chi phí vận chuyển, bảo quản cao nên việc thực hiện tốt khâu đóng gói, vận chuyển hàng hoá sẽ tiết kiệm chi phí cho Công ty cũng như tạo uy tín đối với khách hàng. Công ty cũng thực hiện mã vạch, bao bì sản phẩm. Công ty thường giao hàng theo điều kiện FOB. Như vậy Công ty sẽ chỉ chịu điều kiện tới lan can tàu, thực ra việc giao hàng thường được uỷ thác cho hãng tau. Việc giao hàng theo điều kiện FOB có ưu điểm là Công ty sẽ chiu ít rủi ro. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là khi Công ty đóng gói sản phẩm rất đảm bảo thì tại sao không nhận thêm cả khâu thuê tau, mua bảo hiểm. Vì khi đó Công ty có thể thu thêm lợi khi có thêm cả khâu thuê tàu rẻ và tiết kiệm ngoại tệ cho đất nước. Vì vậy, theo tôi trong thời gian tới Công ty nên xuất khẩu sản phẩm của mình theo giá CIF. Như vậy, Công ty có thể chủ động trong việc bốc xếp, vận chuyển và giao hàng, đảm bảo bớt rủi ro cho hàng hoá trong thời gian chờ tau, tạo công việc cho hãng tàu và bảo hiểm trong nước. Về thanh toán trong xuất khẩu gốm xây dựng, Công ty thường áp dụng phương thức tín dụng chứng từ. Phương thức này đảm bảo an toàn cho cả người mua và người bán. Theo tôi ngay ở khâu đàm phán Công ty cố gắng đạt được các phương thức có lợi hơn. Công ty nên yêu cầu khách hàng mở LC. Công ty cũng có thể yêu cầu khách hàng thanh toán một phần tiền hàng trước khi giao. 2.5. Xây dựng hệ thống đại lý và văn phòng đại diện tại nước ngoài Để có thể mở rộng khả năng tiếp cận và tìm kiếm bạn hàng, một mặt Công ty cần phải thông qua các tổ chức, các cơ quan xúc tiến thương mại trong và ngoài nước, đặc biệt là thông qua mạng Internet. Mặt khác Công ty cần phải chủ động xây dựng hệ thống đại lý và văn phòng đại diện tại nước ngoài. Công ty nên có phương hướng mở ra một số văn phòng đại diên và đại lý tiêu thụ tại một số trọng điểm như: Nhật Bản, Hàn Quốc, Philippin, Iraq….. Công ty nên tìm kiếm khách hàng có tiềm năng tại các thị trường để tổ chức mạng lưới đại lý bán hàng, tiến hành hợp tác bán hàng dưới nhiều hình thức như ký biên bản thoả thuận, hợp đồng đại lý bán hàng, bán hàng dưới hình thức môi giới ăn hoa hồng. 2.6. Công tác nhân sự Ngoài việc tiến hành nâng cao trình độ nghiệp vụ cho CBCNV, Công ty cần có kế hoạch tuyển dụng hợp lý để nâng cao chất lượng hoạt động, tạo động lực và sự nhiệt tình trong công việc cho người lao động, Công ty phải quan tâm thích đáng đến lợi ích của công nhân viên. Thực hiện thưởng phạt phân minh, phân phối công bằng, tạo bầu không khí vui vẻ chân tình giữa các CBCNV. Bên cạnh đó Công ty cần chu ý, quan tâm đến đời sống vật chất, tinh thần của CBCNV, áp dụng thức hình thức trả lương khen thưởng, khuyến khích vật chất và tinh thần cho CBCNV. Ngoài ra, hàng năm Công ty tổ chức cho các cán bộ đi tham quan kinh tế các tỉnh vừa nghỉ ngơi, vừa nâng cao kiến thức hiểu biết nhằm phát huy có hiệu quả nhân tố con người trong Công ty. 3. Kiến nghị với nhà nước. Xuất khẩu sản phẩm ra thị trường nước ngoài là chiến lược mũi nhọn của nhà nước ta đối với tất cả các ngành nghề sản xuất và các doanh nghiệp trong cả nước nhằm thu ngoại tệ đẩy mạnh phát triển kinh tế. Đối với một nhà sản xuất lớn như Tổng công ty Viglacera, việc tìm kiếm và xúc tiến các biện pháp đẩy mạnh công tác xuất khẩu là một việc hết sức cần thiết và nếu được thực hiện tốt sẽ đem lại nhiều lợi ích trực tiếp và thiết thực. Xuất khẩu sản phẩm cũng là một công việc hết sức khó khăn đòi hỏi sự nỗ lực toàn diện của mỗi doanh nghiệp cũng như sự giúp đỡ và hỗ trợ của Chính phủ và các bộ ngành trong cơ chế điều hành cũng như hỗ trợ tài chính khác. Để Công ty cổ phần XNK Viglacera có thể thực hiện được tốt việc xuất khẩu và nhập khẩu hàng VLXD, tôi xin có một số kiến nghị với nhà nước như sau: ăMột là: Nhà nước cần có biện pháp hiệu quả hơn trong việc ngăn chặn các hoạt động buôn lậu, các hoạt động gian lận thương mại, đồng thời sử dụng các công cụ thuế quan, tỷ giá một cách linh hoạt để bảo vệ ngành sản xuất thuỷ tinh và gốm xây dựng trong nước. Cụ thể như tăng cường dán tem nhập khẩu các mặt hàng sứ vệ sinh, gạch ốp lát, chỉ cho phép nhập khẩu các mặt hàng kính, gốm sứ, thuỷ tinh cao cấp mà trong nước thực sự chưa có khả năng đáp ứng. ăHai là: Hỗ trợ công tác xúc tiến thương mại để có thể thúc đẩy xuất khẩu sản phẩm, các doanh nghiệp cần có những thông tin chính xác về tình hình thị trường, mặt khác đưa sản phẩm của mình san trưng bày và chào hàng. Tuy nhiên chi phí cho công tác này là rất lớn mà không phải doanh nghiệp nào cũng có đủ khả năng tài chính để thực hiện. Việc phát triển và tiếp thị sản phẩm ra thị trường nước ngoài đòi hỏi một thời gian lâu dài cho đến khi thị trường quen và chấp nhận sản phẩm thì khi đó kinh doanh mới đảm bảo hiệu quả. Trong thời gian dài tiếp cận thị trường này các doanh nghiệp phải ứng vốn ra, chịu rủi ro rất lớn trong kinh doanh, hầu hết là thua lỗ trong những giai đoạn đầu phát triển thị trường. Nếu nhà nước đầu tư để Cục xúc tiến thương mại mở văn phòng đại diện, có gian trưng bày sản phẩm chung cho các doanh nghiệp thì sẽ tiết kiệm được chi phí và sẽ có nhiều doanh nghiệp trong nước có khả năng cùng tham gia. Cụ thể: - Thành lập các trung tâm xúc tiến thương mại tại các thị trường trọng điểm, trong đó có gian hàng giới thiệu các sản phẩm chung của các doanh nghiệp để tạo điều kiện cho các sản phẩm của các doanh nghiệp trong nước có cơ hội được giới thiệu với khách hàng nước ngoài. - Cung cấp thông tin về tình hình thị trường một cách đầy đủ, kịp thời và chính xác hơn nữa để doanh nghiệp có thể nắm bắt nhu cầu thị trường để từ đó có những động thái thích hợp. - Quảng bá, giới thiệu sản phẩm: Hiện nay việc quảng cáo giới thiệu sản phẩm của Việt Nam ra thị trường nước ngoài còn có nhiều hạn chế, hầu hết là do các doanh nghiệp tự chủ động tiến hành thông qua các kỳ hội trợ, triển lãm nước ngoài, qua mạng Internet với quy mô nhỏ lẻ, manh mún, chưa có chiến lược lâu dài và ổn định. ăBa là: Cần xây dựng một nhịp cầu thông tin thường xuyên giữa doanh nghiệp và các cơ quan xúc tiến thương mại của chính phủ. Phát hành rộng rãi danh sách và địa chỉ liên hệ của thương vụ Việt Nam tại nước ngoài và các văn phòng xúc tiến thương mại này cần có bản giới thiệu tóm tắt khả năng thâm nhập của Việt Nam sản xuất ra vào từng thị trường cụ thể. Kết luận Việt Nam đang nỗ lực trong quá trình CNH – HĐH đất nước để bắt kịp xu thế phát triển chung của toàn cầu, góp tiếng nói quyết định là hoạt động xuất khẩu, một nguồn cung cấp ngoại tệ chính để trang trải cho các nhu cầu nhập khẩu của nề kinh tế, góp phần cân đối, duy trì và mở rộng tái sản xuất trong nước, tranh thủ những tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ trên thế giới, đáp ứng nhu cầu không ngừng nâng cao trình độ phát triển kinh tế – xã hội nước nhà. Công ty cổ phần xuất nhập khẩu Viglacera thuộc Tổng công ty Thuỷ tinh và Gốm sứ xây dựng Viglacera là một trong những doanh nghiệp đã và đang đạt được những bước phát triển khá tốt, đạt được những thành công nhất định trong lĩnh vực xuất khẩu nói chung, xuất khẩu gốm xây dựng nói riêng. Tuy nhiên, Công ty hiện vẫn gặp không ít khó khăn do nhu cầu thị trường ngày càng cao, sự cạnh tranh diễn ra ngày càng gay gắt… Để đạt được mục tiêu duy trì và phát triển lâu dài, Công ty nên có chiến lược kinh doanh dài hạn, nghiên cứu nhu cầu thị trường, có các chính sách Marketing phù hợp cho các hoạt động kinh doanh trong nước và kinh doanh xuất khẩu. Nội dung nghiên cứu của đề tài này đề cập đến một trong những hoạt động chính của Công ty đó là hoạt động xuất khẩu. Với hệ thống kiến thức được trường cùng với mong muốn góp phần thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của Công ty, hy vọng thời gian tới Công ty sẽ tiếp tục đứng vững và phát triển không ngừng. Cuối cùng, em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới Cô giáo Đặng Thị Lan và các thầy cô giáo trong trường Đại học Ngoại Thương cùng các cán bộ công nhân viên trong Công ty cổ phần xuất nhập khẩu Viglacera đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ em trong suốt quá trình học tập nghiên cứu và hoàn thành đề tài này. Sinh viên thực hiện Nguyễn Thị Lan Hương Danh mục tài liệu tham khảo 1. Dương Hữu Hạnh (quý 3/2007), Hướng dẫn thực hành kinh doanh xuất nhập khẩu , NXB Thống Kê. 2. Bùi Xuân Lưu, Nguyễn Hữu Khải (2006), Giáo trình kinh tế ngoại thương, NXB Lao động-Xã hội. 3. Vũ Hữu Tửu (2006), Giáo trình kỹ thuật nghiệp vụ ngoại thương, NXB Giáo dục. 4. Phạm Minh Quang (2005), Hỏi đáp Xuất nhập khẩu , NXB Lao động - Xã hội. 5. GS – TS Võ Thanh Thu (2004) Cẩm nang nghiệp vụ xuất nhập khẩu, NXB Thống Kê. 6. Các báo cáo tổng kết, tài liệu các năm 2004,2005,2006 của Công ty cổ phần xuất nhập khẩu Viglacera 7. Trang web của Tổng công ty Viglacera www.viglacera.com.vn 8. Trang web: Bài “Thị trường gốm sứ xây dựng khởi sắc” – Tác giả: ái Vân, ngày đăng 12/09/2007 9. Trang web: Bài “Thị trường xuất nhập khẩu VLXD Việt Nam năm 2006” – Tác giả : Kĩ sư Nguyễn Thị Vân Anh – Hội VLXD Việt Nam (trích tạp chí VLXD số 3 tháng 5/2007). Mục lục ơ Danh mục hình & bảng Hình: Hình 1. Sơ đồ cơ cấu tổ chức công ty CP XNK Viglacera 16 Bảng: Bảng 1: Kết quả hoạt động kinh doanh của Công ty giai đoạn 2004-2006 19 Bảng 2: Một số chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh 20 Bảng 3: Kim ngạch xuất khẩu theo mặt hàng 22 Bảng 4: Cơ cấu, quy mô và tốc độ xuất khẩu gốm xây dựng theo mặt hàng. 23 Bảng 6 : Cơ cấu kim ngạch xuất khẩu gốm xây dựng theo thị trường 27 Bảng 7: Cơ cấu kim ngạch xuất khẩu gốm xây dựng theo phương thức 30 Bảng 8: Lợi nhuận xuất khẩu của gốm xây dựng 31 Bảng 9: Chỉ tiêu phản ánh hiệu quả xuất khẩu hàng gốm xây dựng 32

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docA0394.doc
Tài liệu liên quan