Đề tài Giải pháp phát triển cho ngành công nghiệp sản xuất xi măng tại Việt Nam

Để phát triển hơn nữa ngành xi măng, một trong những ngành mang lại hiệu quả kinh tế và xã hội cao, hàng năm đóng góp nhiều cho ngân sách Nhà nước cũng như tổng sản phẩm quốc nội của nền kinh tế thì nhà nước nên có những biện pháp hỗ trợ cho ngành, như: Chính phủ cần thực hiện xem xét và phê duyệt các quy hoạch điều chỉnh để các dự án xây dựng các nhà máy xi măng có cơ sở để triển khai thực hiện, không bị rơi vào tình trạng lúng túng trong quá trình thực hiện vì lo ngại đi sai với chủ trương, chính sách của Nhà nước. Sau khi các quy hoạch được phê duyệt, việc đầu tư phát triển xi măng phải được thống nhất quản lý theo quy hoạch, để tránh tình trạng quản lý trồng chéo, dẫn đến tệ quan liêu trong hành chính. Cần có chính sách đặc thù riêng cho đầu tư phát triển ngành công nghiệp xi măng, cho phép các dự án xi măng được chọn và chỉ định các tổ hợp nhà thầu đối với từng dự án cụ thể như đã áp dụng đối với các dự án thuỷ điện.

doc65 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1653 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp phát triển cho ngành công nghiệp sản xuất xi măng tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
sách nhà nước hàng năm một lượng lớn giúp ngân sách nhà nước giảm gánh nặng chi tiêu. Nguồn nhân lực Trong thời gian qua đội ngũ cán bộ, công nhân viên của toàn ngành xi măng đã có những bước tiến bộ đáng kể, có sự trưởng thành về nhiều mặt, đủ khả năng vận hành máy móc thiết bị tiên tiến hiện đại, những dây chiyền máy móc có công suất lớn mà không cần phải nhờ sự trợ giúp của chuyên gia nước ngoài, điều đó đã tiết kiệm được ngoại tệ cho đất nước. Kết quả đạt được trong thời gian qua khi ngành áp dụng các chính sách phát triển nguồn nhân lực là: Hiện nay toàn ngành có 19.000 cán bộ công nhân viên, trong đó có 1000 người giỏi ngoại ngữ, hơn 2000 người thành thạo máy tính và trên 4.665 công nhân thợ bậc cao với kinh nghiệm vận hành các dây chuyền sản xuất lâu năm, đặc biệt trong thời gian qua đã có 286 người đã được tặng bằng và huy hiệu lao động sáng tạo về thành tích sáng kiến, cải tiến kỹ thuật. Với chính sách thu hút người tài của mình, trong thời gian qua nguồn nhân lực của ngành không chỉ ra tăng về số lượng mà còn có sự vươn lên vượt bậc về chất lượng, thực hiện tốt mọi nhiệm vụ được giao. Trình độ đại học của cán bộ trong ngành tăng lên đáng kể năm 1998 chỉ có 21,49% tương ứng với 3.800 người thì đến năm 2005 lượng cán bộ có trình độ đại học trở lên đã chiếm tới 25,98% tương ứng với 5.050 người. Điều đó cho thấy chất lượng chuyên môn của đội ngũ cán bộ công nhân viên ngày càng được chú trọng. Về vấn đề thu nhập cho người lao động. Thu nhập của người lao động trong ngành luôn ở mức cao so với những ngành kinh tế khác. Việc thực hiện chính sách lương cao là một trong những biện pháp để khuyến khích tăng năng suất lao động của người lao động, đồng thời tăng thêm trách nhiệm cho người lào động vì khi lương cao thì người lao động muốn gắn bó với ngành và để được trọng dụng trong các doanh nghiệp thì người lao động không chỉ có năng suất lao động cao mà còn phải thực hiện trách nhiệm của mình với máy móc thiết bị mà mình quản lý không để xảy ra sự cố đáng tiếc, khuyến khích họ nâng cao trình độ tay nghề của mình. Ngoài ra, chúng ta cũng có thể thấy, công nghiệp xi măng là một ngành công nghiệp nặng, lao động trong ngành này là rất vất vả, tốn nhiều công sức, chính vì vậy trả lương cao là thích đáng với sức lao động bỏ ra của người công nhân, đồng thời tạo điều kiện cho họ phục hồi sức lao động sau khi lao động tại các doanh nghiệp. Để có được kết quả đó chính là nhờ sự cố gắng của toàn thể đội ngũ cán bộ công nhân viên trong toàn ngành nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, tăng thu lợi nhuận, từ đó mới có thể tăng thu nhập cho chính bản thân người lao động và đóng góp cho ngân sách nhà nước tạo ra những tác động nhất định đối với sự phát triển của ngành kinh tế. Bên cạnh những thành tựu đó thì cán bộ ngành công nghiệp xi măng đã tạo ra được sự gắn bó giữa người lao động với doanh nghiệp, và giữa những người lao động với nhau, điều đó làm hiệu quả công việc ngày càng tăng. Về công nghệ sản xuất Nhờ ứng dụng và chuyển giao thành công những công nghệ mới cho các dây chuyền sản xuất nên đã giảm đi đáng kể lượng nguyên nhiên liệu sử dụng trong quá trình sản xuất sản phẩm của các nhà máy nhờ đó mà chi phí sản xuất của sản phẩm giảm xuống đáng kể. Bên cạnh đó nhờ các công nghệ tiên tiến này còn giảm những tác động xấu đối với môi trường trong quá trình thực hiện sản xuất. Trong thời gian thực hiện chuyển giao công nghệ vào các dây chuyền sản xuất ngành cũng nhận ra những ưu việt của phương pháp khô nên đã triển khai cho các đơn vị thực hiện cải tạo dần công nghệ sản xuất xi măng của các nhà máy từ phương pháp ướt và bán khô sang phương pháp khô. Cùng với việc chuyển giao công nghệ ngành còn ứng dụng thành công một số công trình nghiên cứu vào sản xuất để cho ra những sản phẩm với chất lượng tốt hơn, phù hợp với nhu cầu thị trường như: sản phẩm xi măng mác cao PCB40, sản phẩm xi măng sản xuất bê tông chụi nhiệt của nhà máy xi măng Chinfon - Hải Phòng. Về khả năng cạnh tranh Thực tế trên thị trường nội địa hiện nay sản phẩm của ngành xi măng Việt Nam đã đáp ứng được nhu cầu đa dạng của thị trường, từ những sản phẩm xi măng với giá thành rẻ cho đến những sản phẩm xi măng chất lượng cao đáp ứng cho những công trình đặc biệt. Chính sự đa dạng đó đã giúp sản phẩm của ngành chiếm được lòng tin yêu của người tiêu dùng nội địa và đánh bật xi măng nước ngoài, đặc biệt là xi măng Trung Quốc trên thị trường Việt Nam, mặc dù giá của các loại xi măng này rất thấp. Tuy nhiên, xét về khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế thì khả năng cạnh tranh của các sản phẩm xi măng Việt nam vẫn còn rất nhiều vấn đề cần bàn bạc tới. 2.Những vấn đề còn tồn tại và nguyên nhân 2.1. Những vấn đề còn tồn tại Thứ nhất: về huy động và sử dụng vốn cho đầu tư phát triển. Đầu tư xi măng hiện đang tập trung chính vào các doanh nghiệp Nhà nước, lượng vốn chủ sở hữu trong các doanh nghiệp Nhà nước này không lớn và thực tế đã dùng vào đầu tư nhiều dự án khác, do vậy đa số không có vốn để đầu tư xi măng. Muốn đầu tư xi măng, doanh nghiệp phải dùng vốn vay là chính (trừ các dự án thuộc Tổng công ty có một phần nguồn vốn do Tổng công ty do tổng công ty tập trung từ các doanh nghiệp thuộc Tổng công ty). Với các Công ty cổ phần xi măng mà Doanh nghiệp nhà nước chiếm cổ phần chi phối thì đa số vốn góp vào Công ty cổ phần cũng từ nguồn vay ngân hàng của donh nghiệp. Đây là việc các doanh nghiệp phải tính toán kỹ đến khả năng hoàn vốn và lãi vay. Cơ chế chính sách. Chính sách vay vốn tín dụng ưu đãi luôn có sự thay đổi và thiếu hướng dẫn mang tính kế thừa của các chính sách trước, do vậy các chủ đầu tư không kịp đáp ứng những thủ tục, yêu cầu của các cơ quan cấp tín dụng, dẫn đến thời gian làm thủ tục vay vốn bị kéo dài. Chính sách vây vốn tín dụng thương mại như đã nói, theo luật của các tổ chức tín dụng, các ngân hàng thương mại Việt Nam thường không đủ điều kiện để cho một chủ đầu tư vay toàn bộ vốn đầu tư một dự án xi măng mà phải hợp vốn từ nhiều ngân hàng. Việc phải thống nhất giữa các ngân hàng cũng mất khá nhiều thời gian, làm chậm tiến độ của dự án. Chính sách bảo lãnh vay vốn nước ngoài, theo quy định bảo lãnh khoản vay của các daonh nghiệp do các ngân hàng thương mại thực hiện, vì vậy khi phải bảo lãnh Chính phủ, phải làm thủ tục xi phép Chính phủ cho từng dự án và phải giải trình lại với Bộ tài chính về tính khả thi của dự án, khả năng hoàn trả nợ và lãi vay của dự án - những việc này cũng rất mất thời gian. Bản thân các chủ đầu tư cũng có hạn chế, chưa am hiểu hết các quy định và thủ tục vay vốn cũng như thủ tục bảo lãnh. Lập xong dự án mới tìm nguồn vốn, chưa đủ độ tin cậy với các ngân hàng khi xi vay một khoản vốn lớn. Lượng vốn trong các ngân hàng Việt Nam hiện cũng không đủ để đáp ứng cho hàng loạt dự án lớn có kế hoạch xây dựng trong cùng một thời gian. Bên cạnh đó, các ngân hàng thương mại còn có ý chờ đợi vào khả năng cho vay của Quỹ hỗ trợ phát triển với từng dự án cụ thể, sau đó mới quyết định lượng tiền cho vay cần được đề cập. Hình thức huy động vốn cổ phần để đầu tư dự án sản xuất xi măng là ưu việt vì tận dụng được nguồn vốn nhàn rỗi trong mọi thành phần kinh tế để đầu tư và có chủ sở hữu đích thực, có trách nhiệm với vốn của mình bỏ ra đầu tư. tuy nhiên thời gian qua việc thực hiện đầu tư bằng hình thức góp vốn cổ phần của các dự án xi măng gặp nhiều khó khăn do các doanh nghiệp Nhà nước không có đủ chủ sở hữu để góp cổ phần mà đa số đi vay dẫn đến tính khả thi không cao. Trong khi lượng vốn có thể huy động trong thời gian cho các dự án xây dựng các nhà máy sản xuất xi măng đang trong tình trạng bế tắc, thì quá trình sử dụng vốn vẫn có những vấn đề không hợp lý, đặc biệt là trong công tác xây dựng cơ bản, có sự thất thoát vốn trong khâu này mà chưa có sự tháo gỡ thích đáng. Thứ hai: Về vấn đề đầu tư cho xây dựng cơ bản. Việc khảo sát các nguồn nguyên liệu chính cho sản xuất. Số liệu khảo sát của một vài dự án khi thực hiện khảo sát và so với thực tế sản xuất khác xa nhau đã làm cho việc lựa chọn phương án thiết bị khai thác, gia công nguyên liệu không phù hợp với thực tế sản xuất. Có mỏ đát sét không thể khai thác theo những thiết kế ban đầu đã phải bỏ những thiết kế đó đi để thuê tư vấn thiết kế lại, điều đó đã dẫn đến tình trạng lãng phí vốn trong khi nguồn vốn cho đầu tư thì đang thiếu. Chất lượng các mẫu công nghệ để cung cấp cho nhà thầu cung cấp thiết bị không đạt tiêu chuẩn, dẫn đến các kết luận sai trong quá trình thực hiện sản xuất. Khảo sát địa chất: Khi khảo sát để chọn mặt bằng không cẩn trọng, có xu hướng tiết kiệm chi phí thực hiện làm cho kết quả thu được không chính xác. Khi tiến hành thi công, xây dựng mới phát hiện ra nên phải hoãn lại để có thời gian khắc phục, điều đó làm chậm tiến độ của toàn bộ dự án gây thiệt hại không nhỏ về chi phí thời gian, đó là chưa kể đến lượng chi phí dành cho thực hiện khảo sát lại. Lựa chọn giải pháp công nghệ: Việc lựa chọn giải pháp công nghệ không đúng cụ thể như lượng phụ gia dùng cho sản xuất không phù hợp với yêu cầu thực tế, điều đó không những không làm chất lượng xi măng tốt lên mà còn giảm chất lượng xi măng. Lựa chọn thiết bị: Do khuynh hướng cải tạo công nghệ của toàn ngành, lựa chọn những công nghệ tiên tiến của thế giới để tránh tình trạng công nghệ lạc hậu so với công nghệ thế giới mà không tính đến khả năng đáp ứng của các ngành khác như ngành cơ khí, và hậu quả là chúng ta bị động trong việc chế tạo các phụ tùng thay thế, lúng túng trong quá trình sửa chữa, bảo dưỡng. Thứ ba: Về đầu tư phát triển nguồn nhân lực. Mặc dù đã có sự đầu tư rất nhiều cho phát triển nguồn nhân lực, nhưng trên thực tế nguồn nhân lực chất lượng cao cho ngành công nghiệp xi măng Việt Nam trong thời gian tới vẫn còn thiếu. Để bổ sung cho lượng thiếu đó mới chỉ có hai địa chỉ đào tạo chuyên ngành xi măng, nên khi cần đến lượng công nhân kỹ thuật tay nghề cao thì không đủ để đáp ứng nhu cầu. Đặc biệt các nhà máy trong các tỉnh miền Trung và miền Nam, ở hai vùng đó hầu như không có một địa chỉ đào tạo nào chuyên sâu dành cho ngành xi măng, chỉ có một số trường đại học, cao đẳng các địa chỉ đó chỉ có thể cung cấp những cán bộ quản lý, vì vậy lượng công nhân tay nghề cao đang thiếu nghiêm trọng. Biên chế lao động còn dôi dư nhiều so với trình độ công nghệ, thiết bị tiên tiến dẫn đến chi phí sản xuất tăng. Trong một nhà máy xi măng có trình độ công nghệ trung bình chỉ cần khoảng 250 – 300 người làm việc, còn ở những nhà máy hiện đại chỉ cần khoảng 100 người. Trong đó vận hành toàn bộ dây chuyền sản xuất là khoảng từ 150 – 200 người (trong số này khoảng 1/2 có trình độ đại học). Trên thực tế, tại các nhà máy xi măng tại Việt Nam hiện nay số lao động trong các nhà máy bình quân đều lớn hơn 1000 người/ một nhà máy, có nghĩa là chi phí lương cho những lao động dôi dư này là rất lớn. Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến năng suất lao động của ngành xi măng Việt Nam hiện nay còn thấp hơn nhiều so với một số nước tiên tiến trên thế giới. Thứ tư: Về vấn đề công nghệ. Trong công nghệ sản xuất xi măng của Việt Nam hiện nay, hầu hết các nhà máy xi măng được xây dựng trong vòng 10 năm trở lại đây đều đã dần dần áp dụng những công nghệ tiên tiến của thế giới từ công đoạn nghiền gia công cho đến xuất xi măng. Nhưng trên thực tế vẫn còn tồn tại một lượng rất nhiều các nhà máy xi măng lò đứng với công nghệ của Trung Quốc được xây dựng từ khá lâu, và đến thời gian này nó băt đầu thể hiện những yếu điểm của nó, đó là: Gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng đến cuộc sống của người dân quanh vùng, không chỉ vậy mà với công nghệ sản xuất này còn gây nên rất nhiều tai nạn lao động đáng tiếc xảy ra cho người lao động nguyên nhân không phải là do người lao động không chấp hành những quy trình công nghệ bị mà do sự xuống cấp của công nghệ dẫn đến những tai nạn đáng tiếc này. Ngoài ra trong quá trình đầu tư để phát triển công nghệ, ngành đã tạo nên rất nhiều phong trào nghiên cứu để ứng dụng, từ những công trình nghiên cứu có ứng dụng thì vẫn tồn tại những cá nhân chỉ chạy theo thành tích, những công trình nghiên cứu của họ không được thực hiện nghiêm túc mà đi cóp nhặt từ những công trình nghiên cứu khác, làm mất chi phí và giảm tinh thần thi đua trong lao động của người công nhân. Cùng với đó là tình trạng ỷ lại của đội ngũ thiết kế dây chuyền công nghệ trong nước, đến nay mặc dù chúng ta đã nhập công nghệ lò đứng của Trung Quốc từ rất lâu nhưng chúng ta vẫn chưa có biện pháp tìm hiểu dây chuyền công nghệ để tạo ra các phụ tùng thay thế, hoặc có thể tự chuyển giao những công nghệ này, nhưng cho đến nay khi thực hiện sửa chữa, lắp đặt chúng ta vẫn phải thuê chuyên gia đi kèm. Thứ năm: Vấn đề cạnh tranh Cạnh tranh trên thị trường nội địa vẫn còn tình trạng cạnh tranh trong nội bộ ngành. Còn đánh giá khả năng cạnh tranh quốc tế của nghành công nghiệp xi măng Việt Nam chỉ được đánh giá là cạnh tranh có điều kiện, mức độ bảo hộ còn cao kéo dài trong nhiều năm (đến nay mức độ bảo hộ đối với các sản phẩm xi măng được đánh giá vào khoảng 109%, trong khi các nước khác chỉ khoảng trên 30 %) đã hạn chế sức sáng tạo của các doanh nghiệp trong việc tiếp cận thị trường thế giới, chính vì vậy khi xoá bỏ lệnh cấm nhập khẩu thì yếu kém của các doanh nghiệp Việt Nam sẽ bộc lộ rõ. Đồng thời chất lượng sản phẩm của xi măng Việt Nam theo đánh giá chung là thấp hơn so với các sản phẩm của các đối thủ cạnh tranh khác trong khu vực. Các doanh nghiệp xi măng ở Việt Nam chưa sản xuất được các loại xi măng mác cao như P800; P1000 do đó chưa bao phủ hết đoạn thị trường, có nghĩa là các sản phẩm chất lượng cao vẫn chưa có để đáp ứng cho nhu cầu của thị trường. Trong khi đó đối với các sản phẩm đang có của ngành thì giá thành lại cao hơn so với giá của các sản phẩm cạnh tranh, mặc dù có lợi thế về giá nhân công. 2.2. Nguyên nhân Thứ nhất: Những khó khăn về vốn trong thời gian qua không chỉ là khó khăn của ngành xi măng mà là khó khăn chung của nền kinh tế. Tuy nhiên lượng vốn huy động trong thời gian tới có khó khăn hơn vì Nghị định 106/NĐ – CP/2004 đã phát huy tác dụng làm cho các dự án xây dựng các nhà máy xi măng không được vay vốn ưu đãi. Lãi suất vay tín dụng thương mại thì lại quá cao, làm cho tính khả thi của dự án bị giảm xuống. Trong khi đó hình thức huy động vốn cổ phần được coi là hình thức huy động vốn phù hợp với đầu tư phát triển cho ngành xi măng thì lại chưa được áp dụng rộng tại Việt Nam, mà nếu có thì lượng vốn huy động được từ nhân dân là rất ít mà chủ yếu vẫn là phần vốn góp của nhà nước. Nguyên nhân là do nước ta là một nước xã hội chủ nghĩa mới đi vào thời kỳ đổi mới, mở cửa giao lưu kinh tế cùng với các nước khác, do lối suy nghĩ lâu đời đã gắn vào người dân nên họ không tin vào việc đi giao tiền của mình cho người khác để góp cổ phần, họ thấy đó là sự rủi ro quá lớn. Thứ hai: Đội ngũ người lao động kém về chất lượng chuyên môn. Trong tổng số lao động của ngành thì lao động giản đơn chiếm một tỷ lệ vẫn còn nhiều, lượng kỹ sư công nghệ giỏi và thợ bậc cao vẫn còn thiều nghiêm trọng, cần được bổ sung thêm trong thời gian tới. Đội ngũ làm công tác nghiên cứu khoa học thì còn thiếu cả về chất lượng và số lượng, kinh nghiệm nghiên cứu khoa học còn chưa có nên các sản phẩm nghiên cứu không có tính ứng dụng cao. Vấn đề đào tạo bổ sung cán bộ công nhân viên chuyên ngành chưa được coi trọng, lượng cán bộ công nhân viên bổ sung chủ yếu là tự tuyển dụng chứ không phải do tự đào tạo, nên chuyên môn sâu không chắc, các loại hình đào tạo không đa dạng, kinh phí cho việc thực hành trong học tập còn hạn chế. Thứ ba: Về công nghệ. Bên cạnh những nhà máy được xây dựng với công nghệ hiện đại trong thời gian gần đây thì các công nghệ cũ vẫn còn tồn tại khá nhiều, công nghệ lạc hậu đã làm cho năng suất lao động kém, ô nhiễm môi trường… Hiện nay, trong số 10 triệu tấn xi măng được sản xuất của ngành thì gần một nửa lượng đó là được sản xuất theo công nghệ cũ. Định mức tiêu hao nguyên nhiên vật liệu cao, thể hiện ở chỗ: năng lượng điện từ 145 đến 165 KWh/ tấn xi măng, tiêu hao gạch chịu lửa từ 2,0 đến 2,5 kg/ tấn clinker tiêu hao vật liệu nghiền từ 1,5 đến 2 kg/ tấn xi măng, nó còn làm cho vệ sinh môi trường kém. Thứ tư: Về Marketing. Mạng lưới tiêu thụ sản phẩm chưa được chú trọng, quá trình lưu thông hàng hoá còn dài, cầu nối giữa nhà sản xuất và người tiều dùng còn dài chi phí lưu thông tính vào giá thành sản phẩm làm cho giá thành sản phẩm cao. Số lao động làm việc trong khâu tiêu thụ sản phẩm không được đào tạo bài bản mà chủ yếu lấy từ nguồn lao động dôi dư trong nhà máy. Việc bán hàng còn bằng phương pháp thủ công, ngoài các doanh nghiệp xi măng liên doanh ứng dụng công nghệ thông tin vào tiêu thụ thì các doanh nghiệp khác rất ít sử dụng công nghệ vào trong quá trình tiêu thụ, tiêu thụ bằng các phương pháp thủ công đã làm cho sản phẩm bị tiêu hao ngay ở khâu tiêu thụ, đồng thời gây cảm giác khó chụi cho khách hàng khi họ phải chờ để lấy hàng. Sản phẩm của ngành công nghiệp xi măng chưa đa dạng, nên không phục vụ được hết các nhu cầu xi măng trên thị trường, điều đó đã dẫn đến những đoạn thị trường bị hổng ngay tại thị trường nội địa. Sản phẩm không đa dạng nên lượng tiêu thụ ít còn gây ra tình trạng thu hồi vốn chậm. Tổng sản lượng của ngành thì rất lớn nhưng chỉ tập chung chru yếu vào ba chủng loại xi măng là CB30; PCB40 và một ít xi măng hỗn hợp khác, cùng với một số loại xi măng đặc chủng như xi măng bền sunfát. Tuy nhiên, lượng xi măng đặc chủng này cũng rất ít và chỉ được sản xuất tại một số nhà máy trực thuộc Tổng công ty. Các loại xi măng mác cao thì ngành sản xuất xi măng chưa sản xuất được. Đây chính là nguyên nhân tạo nên yếu tố bất lợi trong cạnh tranh quốc tế của xi măng Việt Nam, khi nhu cầu thị trường thì có mà cung thì lại không đáp ứng được. Do chi phí của các loại đầu vào tai Việt Nam cao nên giá xi măng tại Việt Nam cũng cao hơn giá xi măng so với các nước trong khu vực. Giá là một trong những yếu tố quan trọng để người tiêu dùng quyết định có tiêu dùng sản phẩm của doanh nghiệp hay không, trong khi giá xi măng của các nước trong khu vực rất thấp thì giá xi măng của chúng ta còn cao hơn họ từ 10 – 20 USD/tấn. Hoạt động quảng cáo cho sản phẩm, đầu tư cho thương hiệu và tìm hiểu thị trường còn yếu, do tâm lý được nhà nước bảo hộ nên người tiêu dùng tự tìm đến doanh nghiệp, doanh nghiệp không có sự đầu tư nào cho việc nghiên cứu thị trường. Công tác Marketing còn yếu đặc biệt là dịch vụ sau bán hàng, quảng cáo khuyến mãi để thu hút khách hàng. Trong xu hướng hội nhập hiện nay xi măng sẽ mất tính độc quyền ngay tại thị trường Việt Nam làm cho tính cạnh tranh trên thị trường rất lớn nên nếu không có sự đầu tư đúng mức cho khâu Marketing sản phẩm thì các doanh nghiệp xi măng của Việt Nam sẽ thua ngay cả trên tại sân nhà. Chương III Giải pháp phát triển cho ngành công nghiệp sản xuất xi măng tại Việt Nam I.Dự báo thị trường xi măng từ năm 2005 – 2010 Dự báo căn cứ vào nguồn vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện trong giai đoạn vừa qua (1995 - 2005) và tiêu thụ xi măng của cả nước trong cùng thời kỳ để tính toán khối lượng tiêu thụ xi măng trên 1 tỷ đồng vốn đầu tư toàn xã hội. Dựa vào kết quả tính toán này để dự báo tiêu thụ xi măng trên một tỷ đồng vốn đầu tư toàn xã hội trong giai đoạn tới và căn cứ vào dự báo nhu cầu vốn đầu tư toàn xã hội các năm mốc để tính toán nhu cầu xi măng. Bảng 16: Tiêu thụ xi măng trên 1 tỷ đồng vốn đầu tư toàn xã hội trong giai đoạn 1995 – 2005 Năm Vốn đầu tư toàn xã hội (Tỷ đồng giá hiện hành) Tiêu thụ xi măng (Triệu tấn) Tiêu thụ xi măng trên 1 tỷ đồng VĐT 1995 72.477 6,8 93,68 1996 87.394 8,1 92,68 1997 108.370 9,3 85,82 1998 117.134 9,99 84,52 1999 131.171 11 83,86 2000 145.338 13 95,71 2001 163.543 16,38 100,16 2002 183.800 20,55 111,78 2003 217.435 24,38 112,12 2004 228.097 26.4 115,74 2005 235.510 27.9 118,67 (Nguồn: Theo quy hoạch phát triển xi măng đến năm 2010 định hướng năm 2020) Qua bảng trên ta thấy mức tiêu thụ xi măng trên 1 tỷ đồng vốn đầu tư xã hội trong giai đoạn 1995 – 2003 dao động trong khoảng 80 – 110 tấn và có xu hướng tăng trong thời gian từ 1999, sau cuộc khủng hoảng kinh tế các nước tron khu vực, đên nay. Trong 5 năm này mức tăng bình quân mỗi năm khoảng 7,1 tấn/ 1 tỷ đồng vốn đầu tư toàn xã hội. Tuy nhiên, năm 2003 so với 2002 thì mức tăng hầu như không đáng kể, sang đến các năm 2004 và 2005 mức tăng so với năm 2003 tăng cũng không đáng là bao, nên dự báo trong giai đoạn 2006 – 2010 mức tiêu thụ xi măng trên 1 tỷ đồng vốn đầu tư toàn xã hội sẽ tăng lên 120 -130 tấn và giai đoạn 2011 – 2020 sẽ tăng lên là 140 – 150 tấn. Dự báo xi măng theo tốc độ tăng trưởng trong tiêu thụ. Dự báo này căn cứ vào tốc độ tăng trưởng trong tiêu thụ xi măng ở giai đoạn 1995 – 2005 để dự báo tốc độ tăng trưởng trong tiêu thụ xi măng trong giai đoạn đến năm 2015 và lượng xi măng tiêu thụ ở năm gốc năm 2005 để tính. Bảng 17: Tốc độ tăng trưởng trong tiêu thụ xi măng Năm Tiêu thụ xi măng (triệu tấn) Tốc độ tăng trong tiêu thụ (%) 1990 2,75 - 1991 3,2 19,36 1992 3,9 21,87 1993 4,9 25,64 1994 6,2 26,53 1995 6,8 9,6 1996 8,1 19,1 1997 9,3 14,8 1998 9,99 7,4 1999 11 10,1 2000 13,91 26,45 2001 16,38 17,75 2002 20,55 25,4 2003 24,38 18,63 2004 24,6 0,9 2005 27,9 13,41 (Nguồn: phòng kinh tế - Công ty tư vấn đầu tư phát triển xi măng) Qua bảng trên ta thấy tốc độ tăng trưởng trong tiêu thụ xi măng luôn ở mức cao, trừ những năm 1997 – 1999 do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế trong khu vực nên nhiều công trình bị giãn tiến độ, tiêu thụ xi măng đã giảm xuống đột ngột. Bình quân chung trong 15 năm qua từ 1990 – 2005 đạt 22,2%; năm 1996 – 2000 đạt 15,5%. Từ năm 2000 đến nay, mức tăng trong tiêu thụ năm sau so với năm trước như sau: năm 2000 so với 1999 tăng 2,91 triệu tấn, 2001 so với 2000 tăng 2,47 triệu tấn, năm 2002 so với 2001 tăng 4,17 triệu tấn, năm 2003 so với nằm 2002 tăng 3,83 triệu tấn; bình quân trong 4 năm gần đây nhu cầu xi măng tăng hàng năm khoảng 3,3 triệu tấn. Nếu giữ mức tăng này thì tiêu thụ xi măng giai đoạn 2006 – 2010 thì mức độ tăng trong tiêu thụ xi măng ở nước ta vào khoảng 9 – 10% và trong giai đoạn 2011 – 2015 vào khoảng 4 – 5%. Bảng 18: Dự báo nhu cầu xi măng theo tốc tiêu thụ (Đơn vị: Triệu tấn) Năm 2006 2007 2008 2009 2020 Sản lượng 33,74 36,78 40,09 43,7 47,63 Tốc độ tăng 34,05 37,46 41,2 45,32 49,86 (Nguồn: Phòng kinh tế - Công ty tư vấn đầu tư phát triển xi măng) Dự báo nhu cầu xi măng theo thu nhập bình quân đầu người. Dự báo này căn cứ vào mức tiêu thụ xi măng bình quân đầu người ở nước ta trong giai đoạn 1990 – 2003 để dự báo nhu cầu tiêu thụ xi măng bình quân đầu người trong giai đoạn 2005 – 2010 và căn cứ vào dự báo dân số nước ta đến 2010 để tính toán. Bảng 19: Tiêu thụ xi măng bình quân đầu người ở nước ta trong giai đoạn 1990 – 2003 Năm Dân số (Triệu người) Tiêu thụ xi măng cả nước (triệu tấn) Tiêu thụ XM bình quân (Kg/ người) 1990 66,016 2,75 41,65 1991 67,242 3,2 47,5 1992 68,450 3,9 56,97 1993 69,644 4,9 70,35 1994 70,824 6,2 87,54 1995 71,995 6,8 103,89 1996 73,156 8,1 112,08 1997 74,306 9,3 125,16 1998 75,456 9,99 133,85 1999 76,596 11 144,91 2000 77,685 13,91 175,32 2001 78,827 16,38 207,79 2002 79,727 20,55 257,7 2003 80,76 24,38 301,88 (Nguồn: Phòng kinh tế - Công ty tư vấn đầu tư xi măng) Như vậy tiêu thụ xi măng bình quân đầu người ở nước ta trong giai đoạn vừa qua liên tục tăng, đặc biệt từ năm 2000 đến nay mức độ tăng đạt được khá cao: năm 2000 so với năm 1999 tăng 30,47 kg, năm 2002 so với năm 2001 tăng 49,91 kg và năm 2003 so với 2002 tăng tăng 44,18 kg. Như vậy mức tăng trong tiêu thụ xi măng bình quân đầu người trong 4 năm gần đây khoảng 40 Kg. Nếu giữ mức tăng bình quân trong khoảng 35 – 40 Kg/ người thì dự báo đến năm 2005 – 2010 khoảng 450 – 530 kg. II. Tiềm năng và các nguồn lực để phát triển ngành công nghiệp xi măng tại Việt Nam 1.Nguồn nguyên liệu để sản xúât xi măng Nguồn nguyên liệu dùng trong sản xuất xi măng bao gồm các nguồn chính như sau: đá vôi, đất sét, phụ gia khoáng ho xi măng, thạch cao… Đá vôi: là một trong những thành phần, nguyên liệu chính để sản xuất xi măng, trong thành phần phối liệu đá vôi chiếm tỷ trọng khoảng 80%. Theo báo cáo kết quả kinh của dự án điều tra lập hệ thống dữ liệu tài nguyên khoáng sản làm nguyên liệu sản xuất xi măng và các dự án quy hoạch vật liệu xây dựng trên các vùng của cả nước, trong tổng số 190 mỏ đá vôi đã được khảo sát thì trữ lượng dự báo khoảng 22,2 tỷ tấn. Trong các mỏ được thăm dò, khảo sát thì có 28 mỏ đá vôi có quy mô lớn(trữ lượng lớn hơn 100 triệu tấn), 19 mỏ có quy mô vừa (trữ lượng từ 20 – 100 triệu tấn) và còn lại là các mỏ có quy mô nhỏ. Đối với các nhà máy xi măng lớn quy mô trữ lượng mỏ đá vôi phải đảm bảo cung cấp cho sản xuất ít nhất là 30 năm và đối với các cơ sở sản xuất nhỏ thì trữ lượng này ít nhất phải đảm bảo cho nhà máy hoạt động trong vòng 20 năm. Nguồn đá vối để sản xuất xi măng ở nước ta có chất lượng khá tốt, các mỏ đều đáp ứng được các yêu cầu kỹ thuật của nguyên liệu trong sản xuất như các chỉ tiêu về thành phần hoá, hàm lượng sét, độ cứng… Chất lượng đá vôi các vùng có khác nhau, trong số các mỏ đá vôi trên vùng Đông Nam vộ và Tây Nguyên có chất lượng kém hơn cả. Qua công tác điều tra, khảo sát thăm dò các mỏ đá vôi sản xuất xi măng ch thấy, đại đa số các mỏ đều nằm độc lập, lộ thiên và khá thuận lợi cho công tác khai thác, sử dụng. Hiện nay, công nghệ khai thác đá vôi để sản xuất xi măng phần lớn là theo phương pháp cắt tầng, phương pháp này phù hợp với các mỏ lộ thiên và chi phí thấp. Tuy vậy, còn có rất nhiều mỏ nằm ở các vùng sâu, vùng xa so với các trung tâm kinh tế, các khu công nghiệp, điều kiện giao thông vận tải còn nhiều khó khăn nên việc đưa các mở này vào khai thác và sử dụng còn nhiều hạn chế. Đồng thời một số mở có chất lượng tốt, điều kiện khai thác thuận lợi nhưng không được khai thác để đảm bảo an ninh quốc phòng, bảo vệ cảnh quản thiên nhiên, di tích lịch sử văn hoá… Mặc dầu vậy nguồn đá vôi ở nước ta vẫn đảm bảo cho ngành xi măng phát triển lâu dài. Đất sét, ngoài đá vôi đất sét cũng là loại nguyên liệu chính tron sản xuất xi măng; trong thành phân phối liệu, đất sét chiếm tỷ trọng khoảng 20%. Theo báo cáo kết quả điều tra củ dự án lập hệ thống dữ liệu tài nguyên khoáng sản làm nguyên liệu cho sản xuất xi măng, trong những năm qua đã có 102 mỏ sét xi măng được khảo sát thăm do với tổng trữ lượng dự báo khoảng 2,923 tỷ tấn. Các mở sét phân bố trên cả 8 vùng kinh tế của nước ta, nhưng cũng giống như các mỏ vôi các mỏ sét này tập trung chủ yếu ở vùng Bắc trung bộ, Đông bắc và Đồng bằng sông Hồng… Với trữ lượng lớn nhất vào khoảng 40,4%. Phụ gia khoáng cho xi măng gồm phụ gia hoạt tính và phụ gia đầy. Sản xuất xi măng ở nước ta thường dùng loại phụ gia Puzolan, bazan phún trào, xỉ lò cao, xỉ nhiệt điện… Chất lượng của các loại phụ gia nói trên được quy định theo thiêu chuẩn TCVN 6882 – 2001 dưới đây: Bảng 20: Các chỉ tiêu chất lượng của phụ gia xi măng STT Tên chỉ tiêu Mức Phụ gia hoạt tính Phụ gia đầy 1 Chỉ số hoạt tính cường độ đối với xi măng Portland sau 28 ngày so với mẫu đối chứng 75% - 2 Thời gian kết thúc đông kết của vữa vôi - Phụ gia 96% - 3 Độ bền nước của vữa vôi - Phụ gia Đạt yêu cầu - 4 Hàm lượng tạp chất bụi và sét - 3% 5 Hàm lượng SO3 4 4 6 Hàm lượng kiềm có hại của phụ gia sau 28 ngày 1,5% 1,5% (Nguồn: Quy hoạch phát triển công nghiệp xi măng đến năm 2010) Theo tài liệu của Cục địa chất, đến nay có 123 mỏ phụ gia khoáng cho xi măng đã được điều tra khảo sát với tổng trữ lượng 1.129,5 triệu tấn và phân bố trên tất cả các vùng kinh tế của cả nước trừ Đồng bằng sông Cửu Long. Thạch cao là phụ gia điều chỉnh thời gian đông kết của xi măng. Nhưng chưa phát hiện được mỏ thạch cao naò,Thái Lan, Lào, Trung Quốc là các nước có nhiều thạch cao nên việc nhập khẩu thạch cao của ta có thuận lợi. Nguồn nguyên liệu sản xuất xi măng ở nước ta rất đa dạng và phông phú, trữ lượng khá tốt là điều kiện thuận lợi để phát triển công nghiệp xi măng. 2.Nguồn năng lượng khác Nguồn nước mặt của nước ta khá phong phú, tổn lưu lượng nước trong phạm vi lãnh thổ khoảng 328 tỷ m3/ năm, trong đó tập trung chủ yếu ở vùng Đồng bằng sông Hồng và Bắc trung bộ chiếm tới 38,6%. Nguồn nước ngầm ở nước ta chưa được thăm dò đánh giá đầy đủ; theo kết quả nghiên cứu ban đầu, nguồn nước ngầm chứa trong các thành tạo cách mặt đất 10 – 100 m và trữ lượng nước dưới đất ở một số khu vực rất khác nhau, biến động từ 16 – 100m3 và trữ lượng ở mỗi vùng là khác nhau. hiện nay khả năng cấp nước của cả nước đạt 3.213.680 m3/ngày – đêm (theo thiết kế), nhu cầu nước cho saả xuất xi măng theo định mức mỗi năm khoảng 1 triệu m3 nước/ 1 triệu tấn công suất, như vậy với khả năng cung cấp nước hiện nay của ngành cung cấp nước và nhu cầu của ngành công nghiệp xi măng thì lượng nước mà ngành xi măng cần trong thời gian tới hoàn toàn nằm trong khả năng đáp ứng của ngành cung cấp nước. Năng lực ngành cơ khí chế tạo. Ngành cơ khí chế tạo nói chung và cơ khí xây dựng nói riêng trong giai đoạn vừa qua phát triển chưa mạnh và chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của ngành công nghiệp xi măng ở nước ta. Trong những năm qua, ngành cơ khí chế tạo đã saả xuất được một số thiết bị, phụ tùng thay thế cho dây chuyền sản xuất xi măng lò đứng; sản xuất bi đạn, tấm lót cho máy nghiền; gia công một số kết cấu thép phi tiêu chuẩn cho một số công trình xi măng… Điều đó đã đánh dấu những bước phát triển đáng kể của ngành công nghiệp cơ khí chế tạo đối với sự phát triển ngành công nghiệp sản xuất xi măng. Năng lực sản xuất vật liệu chụi lửa. một trong những loại vật tư kỹ thuật quan trọng của ngành sản xuất xi măng là các loại vật liệu chịu lửa. Để đáp ứng nhu cầu vật liệu chịu lửa cho công nghiệp xi măng trong thời gian tới, nhà máy gạch chụi lửa kiềm tính công suất 16.500 tấn năm ở Từ Sơn - Bắc Ninh và dây chuyền sản xuất gạch nhôm công suất 6.000 tấm/ năm ở nhà máy gạch chịu lửa Cầu Đuống – Hà nội đã được đầu tư xây dựng và đưa vào sản xuất. Ngoài ra còn có rất nhiều nhà máy gạch chịu lửa khác đã và đang được thực hiện đầu tư ở Thái Nguyên, Đồng Nai… Tuy nhiên, để đáp ứng tốt hơn nhu cầu về vật liệu chịu lửa cần phải đầu tư nâng cao chất lượng, chế tạo thêm các chủng loại sản phẩm và hạ giá thành để cạnh tranh với hàng ngoại nhập. Năng lực ngành giao thông vận tải. Hiện nay năng lực vận tải hàng hoá của ngành giao thông vận tải nước ta có cơ cấu như sau: đường bộ 63,2%; đường biển 9,3%; đường sắt 5,6%. Đối với ngành công nghiệp sản xuất xi măng, hình thức vận tải chủ yếu và kinh tế là vận tải bằng đường thuỷ, song tuỳ theo từng khu vực để lựa chọn phương thức vận chuyển hợp lý như vận tải đường bộ hoặc đường sắt… Trong thời gian qua nước ta đã xây dựng, cải tạo hệ thống tuyến đường quốc lộ, điều này sẽ tăng năng lực phục vụ của ngành giao thông vận tải cho các ngành kinh tế trong đó có ngành công nghiệp xi măng. III. Mục tiêu và quan điểm phát triển 1.Mục tiêu phát triển Mục tiêu phát triển là: Đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng xi măng (cả về số lượng và chủng loại) cho nhu cầu trong nước; dành một phần cho xuất khẩu và nhanh chóng đưa ngành xi măng Việt Nam thaàn một ngành công nghiệp có thế mạnh, có công nghệ hiện đại, đủ sức cạnh tranh với sản phẩm cùng loại của nước ngoài, góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Mục tiêu này là hoàn toàn đúng đắn và nó vẫn đang được thực hiện bởi cán bộ công nhân viên ngành công nghiệp xi măng. Quan điểm phát triển Trong quy hoạch phát triển ngành công nghiệp xi măng có nêu 6 quan điểm phát triển về vấn đề: đầu tư, công nghệ, quy mô công suất, huy động nguồn vốn, bố trí quy hoạch phối hợp liên ngành. Đây là những quan điểm cơ bản của Chính phủ đối với sự phát triển của ngành công nghiệp xi măng Việt Nam. Về tổng thể các quản điểm này là đúng đắn và tiến bộ. Tuy nhiên, nội dung cụ thể của 6 quan điểm lớn trên cần phải bổ sung chỉnh sửa cho phù hợp với tình hình phát triển trong giai đoạn mới. Những vấn đề cần xem xét bổ sung gồm: + Về đầu tư: làm rõ hơn các loại dự án được ưu tiên đầu tư như các dự án mở rộng các dự án nằm ở miền Trung… các loại dự án không được đầu tư như các dự án xi măng lò đứng, trạm nghiền không có clinker… + Về công nghệ: tận dụng ưu thế của công nghiệp xi măng để sử lý một số loại phế thải của các ngành công nghiệp khác, góp phần bảo vệ môi trường sinh thái. Ưu tiên và tăng tỷ lệ xi măng chất lượng cao, kết hợp việc lựa chọn công nghệ hiện đại với năng lực chế tạo thiết bị trong nước. + Về quy mô công suất: khẳng định việc chuyển đổi công nghệ sản xuất từ lò đứng sang lò quay, phân định hợp lý các quy mô công suất lớn, vừa và nhỏ. + Về huy động nguồn vốn: Tiếp tục huy động các nguồn vốn đã và đang huy động một cách có hiệu quả hơn. + Về bố trí quy hoạch: làm rõ hơn mối quan hệ cân đối cung - cầu giữa các vùng, miền, kết hợp với việc phát triển kinh tế - xã hội theo các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước. IV. Giải pháp phát triển ngành công nghiệp xi măng 1.Những giải pháp về phía ngành 1.1. Huy động và sử dụng vốn đầu tư phát triển Xi măng là một trong những vật liệu chính cho xây dựng cơ bản. Theo dự báo nếu đầu tư nhà máy theo tiến độ đã đặt ra thì đến năm 2008, Việt Nam mới không phải nhập khẩu clinker. Để thực hiện được tiến độ đó, vốn là một yếu tố cơ bản quan trọng cần được quan tâm theo đúng hướng. Những dự án xây dựng các nhà máy sản xuất xi măng đã đựơc chính phủ cho phép vay vốn tien dụng ưu đãi, trước nghị định 106/ 2004/ NĐ – CP được tiếp tục vay vốn. Những dự án đầu tư xây dựng nhà máy cơ khí chế tạo hoặc mua sắm trang thiết bị phục vụ cơ khí chế tạo trong nước nhằm chế tạo các thiết bị cho nhà máy xi măng thay thế một phần thiết bị nhập khẩu được vay vốn ưu đãi từ Quỹ hỗ trợ phát triển. Những dự án xi măng nhằm sản xuất clinker để phục vụ các trạm nghiền khác được vay vốn ưu đãi từ quỹ phát triển. Đề nghị các ngân hàng thương mại quan tâm hỗ trợ cho các dự án xi măng bằng biện pháp: trực tiếp cho vay vốn; làm đầu mối huy động vốn theo từng dự án giúp chủ đầu tư; giảm bớt các thủ tục trong quá trình đàm phán cho vây vốn. Đề nghị Chính phủ giao Bộ tài chính bảo lãnh phần vay vốn nước ngoài cho các dự án xi măng, cần có cơ chế chung, không phải xin phép chính phủ từng dự án; vốn vay nước ngoài không chỉ để mua thiết bị công nghệ, mà còn bao gồm cả vốn cho chi phí xây lắp trong nước, điều đó là tuỳ từng dự án. Về phía chủ đầu tư: Chủ động tìm nguồn vốn trước khi triển khai thực hiện lập dự án.Phải tính toán hiệu quả và thời gian hoàn vốn cho dự án một cách nghiêm túc, sát với thực tế, có phương án sử dụng vốn tiết kiệm để thuyết phục người vay. Mạnh dạn phát hành trái phiếu công trình hoặc bán cổ phần rộng rãi cho nhân dân, kể cả bán cho người nước ngoài. Kiến nghị với chính phủ có chính sách ưu tiên cho các nhà thầu nếu thu xếp được vốn cho dự án Đẩy nhanh tiến độ cổ phần hoá các nhà máy xi măng hiện có, phần vốn thu được từ cổ phần hoá đề nghị được sử dụng đầu tư trực tiếp cho các dự án xi măng mới. Đối với sử dụng vốn đầu tư trong quá trình thực hiện đầu tư phát triển là: không đầu tư tràn lan ồ ạt, gây lãng phí vốn mà hiệu quả đầu tư không cao. Phải đầu tư theo nhu cầu, theo sự phát triển của thị trường va theo quy hoạch phát triển ngành. Cùng với đó là việc chú trọng hơn trong công tác đầu tư xây dựng cơ bản của ngành. Cần phải kiểm soát chặt chẽ lượng vốn dùng để đầu tư cho xây dựng cơ bản, và kiểm soát tiến độ thi của những nhà máy đang xây dựng, nhanh chóng đi vào hoạt động, tận dụng những cơ hội kinh doanh trên thị trường. 1.2.Đầu tư tài sản cố định vô hình 1.2.1. Đầu tư xây dựng cơ bản Đầu tư xây dựng cơ bản trong bất kỳ ngành kinh tế nào cũng đều đóng vai trò quan trọng, vì nó tạo nên cơ sở hạ tầng cho các ngành kinh tế phát triển, và đối với ngành công nghiệp sản xuất xi măng cũng vậy. Nhưng muốn tạo được cơ sở hạ tầng vững chắc cho phát triển sau này thì ngành công nghiệp xi măng cần thực hiện một số biện pháp sau để có thể hạn chế những tồn tại hiện nay trong khâu đầu tư xây dựng cơ bản của ngành. Trong việc đầu tư xây dựng cơ bản tạo nên cơ sở hạ tầng vững chắc cho ngành công nghiệp xi măng phải thực hiện đầu tư một cách đồng bộ, từ việc đầu tư cho nhà xưởng cho đến vấn đề khai thác nguyên liệu. Không vì tiết kiệm một vài đồng chi phí mà dẫn tới hậu quả khôn lường. Cần thực hiện vấn đề khảo sát địa hình địa chất một cách kỹ lưỡng rồi mới đưa ra những kết luận để đưa vào thực hiện, không sẽ dẫn đến tình trạng phải đưa ra những giải pháp sửa chữa, những giải pháp này không chỉ tốn kém về thời gian mà còn tốn rất nhiều chi phí về mặt thời gian. Như đã nói ở trên, nước ta có một nguồn nguyên liệu cho sản xuất xi măng hết sức dồi dào, chính vì vậy các nhà máy sản xuất xi măng của ngành công nghiệp xi măng hiện nay khôn nên chỉ đầu tư cho công đoạn nghiền xi măng rồi nhập clinker về nghiền, không đảm bảo tính ổn định lâu dài, đồng thời lãng phí những lợi thế của đất nước, không phát huy được những nội lực dồi dào trong nước về tài nguyên, lao động để phục vụ cho quá trình phát triển. Để tận dụng hơn nữa lợi thế về tài nguyên và lao động chúng ta cần đầu tư một cách đồng bộ từ khâu khai thác nguyên liệu đến khâu sản xuất ra xi măng. Để nâng cao hơn nữa chất lượng của các sản phẩm xi măng của ngành công nghiệp xi măng Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, đầu tư cho các dây chuyền máy móc thiết bị phải đạt được mức độ tiên tiến, hiện đại tương xứng với trình độ công nghệ của thế giới nhưng đồng thời cũng phải phù hợp với các điều kiện của Việt Nam, đảm bảo hao phí nguyên nhiên, vật liệu ít, mức độ tự động hoá cao. Để thực hiện được điều đó cần phải thực hiện chuyển đổi các dây chuyền theo các phương pháp sản xuất cũ kỹ, lạc hậu như phương pháp sản xuất ướt và bán khô sang các công nghệ sản xuất hiện đại hơn đó là phương pháp sản xuất khô. Về quy mô công suất, trong điều kiện hiện nay để phát huy hết khả năng của ngành công nghiệp xi măng cần phải biết kết hợp các loại quy mô công suất các dây chuyền sản xuất, như việc kết hợp các dây chuyền công nghệ quy mô lớn với quy mô vừa, quy mô nhỏ với quy mô vừa hoặc quy mô lớn với quy mô nhỏ để đạt được hiệu quả về đầu tư đồng thời vẫn tạo được hiệu quả sản xuất như mong muốn. Những nơi có vùng nguyên liệu phong phú, điều kiện giao thông vận tải cần đầu tư mở rộng thêm các dây chuyền sản xuất mới. Việc đầu tư thêm các dây chuyền sản xuất mới này sẽ tranh thủ được cơ sở hạ tầng vốn có của nhà máy và điều kiện giao thông vận tải thuận lợi, đồng thời vẫn có đủ nguồn nguyên liệu cung cấp cho hoạt động của các dây chuyền. Những nơi không có điều kiện thuận lợi trên thì nên mạnh dạn đầu tư vào các dây chuyền lớn, công nghệ cao vì việc đầu tư cho các dây chuyền nhỏ công nghệ lạc hậu sẽ làm cho chất lượng sản phẩm không cao, mà lượng tiêu hao nguyên, nhiên vật liệu rất lớn, hiệu quả sản xuất kinh doanh thu được không đáng là bao nhiêu, không thể đứng vững trong quá trình cạnh tranh. Lựa chọn địa điểm xây dựng nhà máy, quy mô công suất nhà máy phải phù hợp với khả năng tiêu thụ của thị trường, trữ lượng các mỏ nguyên liệu, có điều kiện hạ tầng đảm bảo, nhất là giao thông phải phù hợp với khả năng tiêu thụ của thị trường, trữ lượng các mỏ nguyên liệu, có điều kiện hạ tầng đảm bảo, nhất là giao thông vận tải để vận chuyển vật tư đầu vào và xuất sản phẩm đầu ra. Ưu tiên đầu tư mở rộng các nhà máy xi măng đã có nhằm tận dụng điều kiện cơ sở hạ tầng, đội ngũ cán bộ, công nhân hiện có và phát huy lợi thế về thương hiệu. Đồng thời thực hiện đầu tư ngành xi măng phải đi đôi với việc nâng cao năng lực ngành cơ khí chế tạo, phát triển hệ thống giao thông. Tức là cần có sự phát triển liên ngành để có thể phục vụ lẫn nhau của các ngành, tránh trường hợp phải nhập khẩu máy móc thiết bị, lãng phí ngoại tệ. 1.2.2. Mua sắm hàng tồn kho Để phục vụ cho nhu cầu sản xuất, có rất nhiều các loại nguyên vật liệu được mua về, với số lượng lớn, theo đó chi phí cho kho bãi, bảo quản là rất lớn. Khắc phục tình trạng trên các doanh nghiệp khi xây dựng nhu cầu sản xuất trong năm cần chú ý hơn đến khâu nguyên vật liệu phục vụ sản xuất, tính toán một cách chuẩn xác nhất để không rơi vào tình trạng nhu cầu nguyên vật liệu vượt quá cả nhu cầu sản xuất. Đồng thời khi ký kết các hợp đồng mua sắm nguyên vật liệu với nhà cung cấp thoả thuận với họ cung cấp kịp thời với nhu cầu sản xuất. Những biện pháp đó sẽ giúp giảm chi phí kho bãi, bảo quản, từ đó cũng giảm được đáng kể lượng vốn lưu động phải chi của doanh nghiệp. 1.2.Đầu tư tài sản hữu hình 1.2.1. Đầu tư phát triển nguồn nhân lực Để phát triển ngành công nghiệp xi măng phát triển ổn định, bền vững, với trình độ công nghệ tiên tiến mà không phải phụ thuộc quá nhiều vào công nghệ nước ngoài, có đủ khả năng cạnh tranh với các sản phẩm nước ngoài trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, thì vấn đề đặt ra là chúng ta cần có một đội ngũ cán bộ tư vấn thiết kế có có năng lực và giàu kinh nghiệm, đội ngũ kỹ sư, cán bộ quản lý cùng đội ngũ công nhân kỹ thuật tham gia lao động trực tiếp tại các phân xưởng có khả năng hơn nữa trong việc thực hiện các nhiệm vụ của mình. Muốn vậy ngành xi măng cần đẩy mạnh hơn nữa công tác đào tạo đội ngũ kỹ sư, cán bộ quản lý, tư vấn thiết kế, công nhân kỹ thuật và cán bộ trên đại học cho ngành xi măng. Tăng cường năng lực đào tạo cho các trường công nhân kỹ thuật xi măng và trung tâm đào tạo hiện có của ngành để có thể nâng cao hơn nữa chất lượng và số lượng của các học viên được đào tạo tại trường. Bên cạnh việc đào tạo mới phải hết sức quan tâm đến việc đào tạo lại, cập nhất kiến thức mới phù hợp với tình hình phát triển của công nghệ sản xuất xi măng và khoa học quản lý. Cùng với việc đào tạo trong nước, ngành xi măng phải đẩy mạnh đào tạo ở nước ngoài, cả về kỹ thuật công nghệ và quản lý, điều hành dự án, tư vấn thiết kế và quản lý sản xuất, tiêu thụ sản phẩm. Nhưng để có nguồn vốn thực hiện các công tác đào tạo đã đề xướng ở trên thì vấn đề đặt ra là nguồn vốn cho công tác đầu tư phát triển nguồn nhân lực còn ít. Lượng vốn dành cho đào tạo cán bộ tại nước ngoài thì càng không có, lượng vốn dùng cho đào tạo trong nước thì manh mún, không theo một nguồn vốn cụ thể nào cả, khi có thì chi cho đào tạo còn khi thiếu vốn thì chương trình đào tạo bị dừng lại, hoặc kinh phí bị giảm xuống làm cho chất lượng đào tạo không cao. Khắc phục tình trạng trên ngành công nghiệp xi măng cần lập một quỹ đào tạo, quỹ này có thể trích từ quỹ phát triển để sản xuất, quỹ này sẽ để chi dùng cho công tác đào tạo của ngành như: mua sắm thiết bị, dụng cụ học tập, phương tiện và tài liệu giảng dạy, tiền lương cho các thầy và hỗ trợ học bổng cho trò, ngoài ra có thể thực hiện xây dựng thêm trường lớp cho ngành. 1.2.2. Đầu tư cho hoạt động nghiên cứu và chuyển giao công nghệ Đẩy mạnh các hoạt động khoa học công nghệ và khao học quản lý, tiếp tục đầu tư nghiên cứu để làm chủ công nghệ, phát huy hiệu quả năng lực của thiết bị, nâng cao công suất, chất lượng sản phẩm, trong đó chú trọng việc đa dạng hoá sản phẩm, tăng tỷ lệ clinker chất lượng cao. Nghiên cứu xử lý tốt nguyên liệu đầu vào, tiết kiệm tài nguyên, năng lượng, đa dạng hoá chủng loại sản phẩm. Tiếp thu, ứng dụng công nghệ và kỹ thuật tiên tiến của thế giới, nâng cao năng lực và trang thiết bị của các cơ sở nghiên cứu, tiếp nhận và chuyển giao công nghệ; ứng dụng công nghệ tận dụng nhiệt khí thải để sản xuất điện trong các nhà máy xi măng; nghiên cứu ứng dụng công nghệ xử lý và sử dùng phế thải làm nguyên, nghiên liệu phụ gia cho xi măng. Nghiên cứu giảm chi phí vật chất, tăng năng suất lao động, kéo dài thời gian hoạt động của trang thiết bị và nghiên cứu các giải pháp giảm thiểu ô nhiễm môi trường. Đẩy mạnh việc đầu tư thiết bị phân tích kiểm nghiệm có độ chính xác cao, thời gian phân tích ngắn. Cùng với việc nghiên cứu khoa học công nghệ tiếp tục nghiên cứu cải tiến phương pháp quản lý điều hành sản xuất và quản lý môi trường. Muốn có các nghiên cứu ứng dụng trong ngành như vậy, thì ngành công nghiệp xi măng phải tăng cường công tác khuyến khích nghiên cứu khoa học nâng cao hiệu quả sản xuất trong ngành. Khi lập các báo cáo nghiên cứu cần cụ thể hơn nữa các bước thực hiện trong quá trình nghiên cứu, thể hiện được hàm lượng trí tuệ trong các công trình nghiên cứu để tránh tình trạng đi cóp nhặt các kiến thức ở các công trình khác để biến thành của mình. Đồng thời các công trình nghiên cứu cần gắn hơn nữa với thực tiễn đời sống sản xuất không thể chạy theo thành tích. Thường xuyên tổ chức các buổi hội thảo, trao đổi giữa các đơn vị trong nghành cũng như hội thảo với các chuyên gia đầu ngành để có thêm kiến thức, kinh nghiệm thực tiễn. 1.2.3. Đầu tư cho hoạt động Marketing Nhóm giải pháp về tổ chức, sắp xếp lại sản xuất, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Từ năm 1995 trở về trước, xi măng được xếp vào loại sản phẩm độc quyền. Những năm gần đây khi mà xi măng liên doanh, và xi măng địa phương ra đời rất nhiều, cung cầu được cân đối, có những thời điểm cung vượt quá cầu nên tính độc quyền đang được dần xoá bỏ, tuy nhiên sự bảo trợ của Nhà nước vẫn còn khá mạnh. Ngành xi măng cần mạnh dạn và quyết tâm sắp xếp, tổ chức lại hệ thống phân phối lưu thông, loại bỏ các khâu trung gian để giảm chi phí lưu thông đến mức thấp nhất. Cần có biện pháp đổi mới công nghệ, tiếp tục chuyển từ dùng dầu MFO sang dùng than để sản xuất clinker như ở nhà máy xi măng Hà Tiên II và các nhà máy xi măng được xây dựng giai đoạn sau này, đồng thời thực hiện cải tiến pối liệu, nâng cao năng suất thiết bị để nâng sản lượng. Về thị trường: Cần nghiên cứu khả năng mở rộng thị trường sang các nước láng giềng và các nước trong khu vực, đó là tiền đề để thực hiện xuất khẩu xi măng của Việt Nam, trong đó chú trọng các loại xi măng đặc biệt, đặc chủng có giá trị cao. Song song với việc mở rộng thị trường tiêu thụ, cần có biện pháp hữu hiệu để ngăn cản việc nhập lậu xi măng, trốn thuế và đưa hàng chất lượng thấp vào thị trường Việt Nam. Về giá cả: Một trong những nguyên nhân chủ yếu của việc giá đầu vào cao là do độc quyền sản xuất và kinh doanh làm cho giá tăng kéo theo giá của các ngành sản xuất khác cũng bị ảnh hưởng rất nhiều, trong đó có ngành xi măng. Do đó nhà nước cần kiểm soát việc tình hình giá của các sản phẩm độc quyền, tránh hạch toán chi phí không hợp lý, không sát với thực tế, nhưng vẫn tính vào giá thành. Ngoài ra chi phí nguyên vật liệu trực tiếp chiếm từ 55 – 70% giá thành sản xuất xi măng, trong đó trừ một số mặt hàng thuộc sản phẩm độc quyền theo giá quy định của Nhà nước, còn một số mặt hàng khác thì mua theo giá thị trường. Phần mua bán vật tư loại này cũng nẩy sinh khôn ít tiêu cực (gửi giá, khuyến mại, thưởng người mua) nếu kiểm soát chặt chẽ, công khai sẽ góp phần giảm đáng kể giá thành sản xuất. Cùng với việc thực hiện các biện pháp giảm giá thành sản xuất, thì ngành xi măng cũng cần xây dựng lộ trình hợp lý về giá bán xi măng để chủ động hội nhập và đảm bảo nguồn trả nợ các khoản vay đầu tư phát triển công nghiệp xi măng. Mặt khác, phải luôn nắm bắt thông tin khu vực, thế giới về lĩnh vực đầu tư sản xuất, thị trường xi măng và các chính sách giá cả để điều chỉnh các kế hoạch chính sách của mình cho phù hợp với tình hình. Tham gia tích cực chủ động cới các hiệp hội xi măng, hiệp hội tư vấn của khu vực và quốc tế để vừa học tập vừa trao đổi kinh nghiệm để cùng đề xuất các cơ chế chính sách, các biện pháp hợp tác, phối hợp thị trường khu vực và các vấn đề liên quan khác. 2. Những giải pháp về phía Nhà nước Để phát triển hơn nữa ngành xi măng, một trong những ngành mang lại hiệu quả kinh tế và xã hội cao, hàng năm đóng góp nhiều cho ngân sách Nhà nước cũng như tổng sản phẩm quốc nội của nền kinh tế thì nhà nước nên có những biện pháp hỗ trợ cho ngành, như: Chính phủ cần thực hiện xem xét và phê duyệt các quy hoạch điều chỉnh để các dự án xây dựng các nhà máy xi măng có cơ sở để triển khai thực hiện, không bị rơi vào tình trạng lúng túng trong quá trình thực hiện vì lo ngại đi sai với chủ trương, chính sách của Nhà nước. Sau khi các quy hoạch được phê duyệt, việc đầu tư phát triển xi măng phải được thống nhất quản lý theo quy hoạch, để tránh tình trạng quản lý trồng chéo, dẫn đến tệ quan liêu trong hành chính. Cần có chính sách đặc thù riêng cho đầu tư phát triển ngành công nghiệp xi măng, cho phép các dự án xi măng được chọn và chỉ định các tổ hợp nhà thầu đối với từng dự án cụ thể như đã áp dụng đối với các dự án thuỷ điện. Về vốn cho các dự án: Cho phép các dự án xi măng bao gồm đầu tư mới, chuyển đổi công nghệ từ lò đứng sang lò quay và trực tiếp sản xuất clinker ở những địa bàn khó khăn như miền núi phía bắc, trung du, tây Thanh Hoá, Nghệ An, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Quảng Nam, Tây Ninh, Bình Phước… được vay vốn ưu đãi từ quỹ hỗ trợ phát triển của Nhà nước đến 30% tổng mức đầu tư. Nhà nước hỗ trợ đủ vốn từ ngân sách để xây dựng các công trình kỹ thuật hạ tầng bên ngoài nhà máy như tuyến điện cao thế, đường bộ, đường sắt… Cho phép chủ đầu tư các sự án xây dựng nhà máy sản xuất xi măng được vay vượt 15% vốn tự có của các ngân hàng thương mại. Giao cho bộ tài chính phát hành trái phiếu hoặc bảo lãnh phát hành trái phiếu cho các dự án đầu tư. Đồng thời chính phủ cần phải sớm giao cho bộ giao thông vận tải sớm hoàn thiện quy hoạch đầu tư hệ thống giao thông đường sông và đường bộ ở khu vực từ Hà Tây đến bắc Nghệ An va Quảng Bình dọc theo quốc lộ 1A và đường Hồ Chí Minh. Giao cho Tổng công ty đường sắt Việt Nam có phương án hợp lý về kế hoạch chạy tàu và giá cước, tính toán lại để tạo điều kiện cho ngành xi măng tổ chức vận chuyển trên tuyến đường sắt Bắc – Nam một phần sản lượng của các nhà máy trong ngành đã và sẽ xây dựng. Giành vị trí để đầu tư xây dựng trạm tiếp nhận trung huyển phân phối xi măng, chinker và vật tư khác phụ vụ công nghiệp sản xuất xi măng. Thủ tướng chính phủ cần đề nghị bộ Tài nguyên môi trường nghiên cứu rút ngắn các thủ tục về cấp phép thăm dò, khảo sát và cấp phép khai thác khoáng sản. Có kế hoạch bố trí các nhiệm vụ điều tra, đánh giá nguyên liệu xi măng tại các khu vực dự kiến xây dựng các nhà máy xi măng theo quy hoạch. MỤC LỤC Trang

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc32380.doc
Tài liệu liên quan