Đề tài Giải pháp phát triển hoạt động thanh toán quốc tế đối với Sở Giao Dịch Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế

Với sự gia tăng mạnh mẽ của hoạt động giao lưu thương mại quốc tế, không một quốc gia nào có thể độc lập tồn tại mà không có sự phụ thuộc lẫn nhau, cũng như cạnh tranh với nhau để cùng phát triển. Vì thế, mỗi quốc gia luôn phải thực hiện nhiều mối quan hệ quốc tế trên các lĩnh vực như kinh tế, chính trị, ngoại giao, văn hóa, hợp tác khoa học kỹ thuật trong đó quan hệ về kinh tế chiếm tỷ trọng cao nhất và là nền tảng cho các quan hệ khác. Trong bối cảnh đó, TTQT nổi lên như là chiếc cầu nối giữa kinh tế trong nước với phần kinh tế thế giới bên ngoài, có tác dụng bôi trơn và thúc đẩy hoạt động XNK hàng hóa và dịch vụ, đầu tư nước ngoài, thu hút kiều hối và các quan hệ tài chính, tín dụng quốc tế khác. Từ đó thúc đẩy thương mại quốc tế phát triển. TTQT trở thành một yếu tố quan trọng để đánh giá hiệu quả hoạt động kinh tế đối ngoại trong điều kiện quan hệ kinh tế ngày càng được mở rộng.

doc77 trang | Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1022 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp phát triển hoạt động thanh toán quốc tế đối với Sở Giao Dịch Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
biệt là cán bộ có kinh nghiệm trong hoạt động TTQT. Phần lớn cán bộ được đào tạo chính quy cơ bản, nhưng do công tác thực tế chưa lâu, còn hạn chế về ngoại ngữ cũng như kiến thức về TTQT nên còn nhiều bất cập chưa theo kịp với các biến động phức tạp, những thay đổi nhanh chóng của thị trường. Bản thân thương mại quốc tế là một hoạt động rất phức tạp nên đòi hỏi phải thực sự có chuyên môn sâu, không ngừng học hỏi và phải trải qua quá trình công tác thực tế mới làm tốt được nhiệm vụ này. Thứ sáu, việc ứng dụng công nghệ còn phụ thuộc rất lớn vào sự hỗ trợ của Trung tâm công nghệ tin học NHNo & PTNT Việt Nam về trang bị phần mềm ứng dụng, xử lý sự cố mạngSGD chưa thực hiện hệ thống thông tin quản lý, việc triển khai các dịch vụ mới còn hạn chế. Khả năng cạnh tranh về phương diện công nghệ là chưa cao. 2.3.2.2. Nguyên nhân a) Môi trường pháp lý còn bất cập Xét trên góc độ quốc tế, môi trường luật pháp trong TTQT chính là hệ thống luật lệ nhằm để điều chỉnh mối quan hệ giữa các bên tham gia trong hoạt động TTQT. Nó bao gồm những điều ước quốc tế mà các nước tham gia ký kết và tuyên bố áp dụng, hệ thống luật quốc gia của mỗi nước và những tập quán thương mại quốc tế. Xét trên góc độ quốc gia, đó là hệ thống luật và các văn bản dưới luật do các cơ quan có thẩm quyền của một nước quy định, ràng buộc trách nhiệm và quyền hạn của các chủ thể khi tham gia vào hoạt động TTQT. Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, môi trường pháp lý hoàn thiện là điều kiện quan trọng cho các NHTM tiến hành hoạt động kinh doanh của mình, đặc biệt là hoạt động thanh toán quốc tế được an toàn và hiệu quả. Tuy nhiên, có thể nói môi trường pháp lý của nước ta còn thiếu đồng bộ, thiếu điều kiện đảm bảo an toàn kinh doanh. Hoạt động thanh toán quốc tế tại Việt Nam, thứ tự ưu tiên áp dụng luật: Điều ước quốc tế. Luật pháp Việt Nam. Luật pháp nước ngoài, tập quán, thông lệ quốc tế. Khái niệm điều ước quốc tế phải được hiểu theo qui định tại luật ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế 2005. Tức là: đối với điều ước quốc tế mà chính phủ Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia thì sẽ tuân theo những quy định trong điều ước quốc tế đó. Còn với những điều ước quốc tế mà chính phủ Việt Nam chưa ký kết hoặc tham gia, thì có quyền bảo lưu, không áp dụng những quy định trái với pháp luật của Việt Nam (nghĩa là có thể chỉ áp dụng từng chương, mục, từng điều khoản nào không trái với luật quốc gia, còn những chương, mục, nhưng quy định nào trái với luật quốc gia thì có quyền bảo lưu không áp dụng). Những quy phạm pháp luật của điều ước quốc tế là những quy phạm pháp luật thực chất đã được các quốc gia thống nhất. Do vậy, dựa vào điều ước quốc tế, các bên tham gia dù ở các quốc gia khác nhau, vẫn có thể có một sự thống nhất để giải quyết nhanh chóng các tranh chấp phát sinh, tiết kiệm thời gian. Song hiện nay, ngoài công ước Viên (1980) về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, công ước Brusell (1924) điều chỉnh vận đơn đường biển, luật thống nhất về hối phiếu ULB năm 1930, Việt Nam chưa ký kết nhiều điều ước quốc tế về mua bán và thanh toán với các nước, đặc biệt là các nước phát triển, nên điều ước quốc tế với ý nghĩa là nguồn luật điều chỉnh chưa thực sự phát huy được vai trò của nó. Việt Nam tham gia hội nhập kinh tế thế giới đã được một thời gian dài, các văn bản pháp lý điều chỉnh hoạt động TTQT ở nước ta mặc dù đã đạt được nhiều kết quả khả quan, tuy nhiên so với yêu cầu của TTQT trong điều kiện hội nhập còn rất nhiều hạn chế. Chẳng hạn, gần đây Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh Ngoại hối và Luật các công cụ chuyển nhượng quy định các quan hệ công cụ chuyển nhượng. Song, có thể nói hành lang pháp lý cho hoạt động TTQT chưa hoàn chỉnh, không có văn bản pháp lý quy định quyền lợi và nghĩa vụ của các bên tham gia giao dịch TTQT, do vậy thiếu cơ sở để phân định trách nhiệm và nghĩa vụ của các bên khi tranh chấp xảy ra, quyền lợi chính đáng của các bên không được bảo vệ. Các quy tắc thực hành thống nhất về thanh toán quốc tế (L/C, Nhờ thu, Chuyển tiền) do phòng thương mại quốc tế ban hành không phải là văn bản luật, mà chỉ là tập hợp các tập quán, quy ước và thực tiễn ngân hàng trong TTQT. Khác với luật quốc gia hoặc công ước quốc tế, các văn bản quy tắc này không được tự động áp dụng để điều chỉnh hoạt động TTQT mà mang tính pháp lý tùy nghi. Nghĩa là các bên tham gia có quyền lựa chọn áp dụng hay không áp dụng. Nhưng một khi đã đồng ý áp dụng, chẳng hạn khi thanh toán qua SWIFT có nghĩa là đã chấp nhận UCP 600, thì các quy tắc sẽ ràng buộc nghĩa vụ và trách nhiệm của các bên tham gia. Song, vẫn xảy ra trường hợp luật quốc gia xung đột với quy tắc quốc tế, trong trường hợp này, việt lựa chọn luật để tuân theo được thực hiện theo các nguyên tắc về xung đột pháp luật. Các nguyên tắc về xung đột pháp luật là tổng thể các quy định của pháp luật, là các nguyên tắc của hệ thống pháp luật quốc gia. Vì vậy, nếu có mâu thuẫn giữa các quy tắc và luật pháp quốc gia thì lựa chọn áp dụng là tùy theo pháp luật của từng nước. Theo quy định của Việt Nam, pháp luật và các thông lệ quốc tế sẽ được áp dụng khi việc áp dụng này không gây thiệt hại cho phía Việt Nam trong quan hệ đó. Nhưng, hiện tại không có văn bản nào xác định cụ thể thế nào là thiệt hại nên khó có thể xác định thế nào là gây thiệt hại. Ngay cả trong trường hợp thiệt hại cụ thể có thể nhìn thấy là bên Việt Nam buộc phải thanh toán một số tiền cho bên nước ngoài, thì đó là thiệt hại, hay nếu không thanh toán thì tuy không mất tiền nhưng thiệt hại lại rất lớn, do ngân hàng bị giảm thấp độ tín nhiệm hoặc thậm chí bị đóng cửa trong TTQT. b) Do môi trường kinh tế – chính trị xã hội. Hội nhập trong lĩnh vực tài chính – tiền tệ – ngân hàng làm cho các nước ngày càng phụ thuộc vào nhau nhiều hơn. Cùng với xu thế mở cửa thị trường tài chính – tiền tệ – ngân hàng thì bất cứ một sự chấn động nào về kinh tế ở một nước cũng sẽ tác động đến các nước khác. Vì vậy, sự phát triển kinh tế của moth nhóm nước, một khu vực sẽ kéo theo các nước trong cùng khu vực phát triển. Ngược lại, sự phụ thuộc này cũng đem đến những hệ quả không mong muốn như tình trạng “nhập khẩu lạm phát”, “nhập khẩu khủng hoảng kinh tế” là hiện tượng thường gặp trong những năm gần đây, là mặt trái của thời đại toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế. Môi trường kinh tế trong nước: Số lượng các ngân hàng được cấp phép hành động tăng lên nhanh chóng, các NHTM quốc doanh, ngân hàng cổ phần, ngân hàng liên doanh, ngân hàng nước ngoài ngày càng mở rộng mạnh lưới, đa dạng hóa cả về số lượng và chất lượng dịch vụ. Khác với cạnh tranh trong các lĩnh vực khác, cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng có các đặc trưng: (i) Các đối thủ vừa cạnh tranh, vừa hợp tác với nhau trong lĩnh vực kinh doanh đầy nhạy cảm; (ii) Các đối thủ phải luôn hướng tới 1 môi trường lành mạnh để tránh xảy ra rủi ro hệ thống mà hệ quả tất yếu sẽ là một sự đổ vỡ hàng loạt ngân hàng; (iii) Cạnh tranh thông qua một thị trường luôn có sự can thiệp gián tiếp của NHTW mỗi quốc gia hoặc khu vực. Môi trường kinh tế đối ngoại: Đây là môi trường rất phức tạp, gắn liền với sự khác nhau về tập quán thương mại, pháp luật, văn hóa giữa các quốc gia làm nảy sinh rủi ro trong hoạt động TTQT còn lớn hơn rất nhiều so với thanh toán nội địa. Mặt khác, khi tham gia hội nhập môi trường quốc tế, Việt Nam kinh nghiệm còn ít, năng lực quản lý thấp, uy tín cũng như sự am hiểu về kinh doanh đối ngoại chưa cao. c) Do thị trường Trong các loại thị trường, thị trường hối đoái ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động TTQT của toàn bộ hệ thống ngân hàng. Cho đến nay, hoạt động kinh doanh ngoại hối chủa phát triển do các công cụ phái sinh (Swap, Forward, Option, Future) hoặc là chưa được triển khai áp dụng trong thực tiễn hoặc là hoạt động kém hiệu quả, do đó có thể nói Việt Nam chưa có thị trường hối đoái hoàn chỉnh, mới chỉ có thị trường ngoại tệ liên Ngân hàng, hoạt động trên thị trường này còn kém sôi động, nghiệp vụ đơn giản mà chủ yếu là giao dịch giao ngay, chưa phát triển các nghiệp vụ phái sinh, thành viên tham gia thị trường còn hạn chế, chỉ có các NHTM và Sở giao dịch NHNN. d) Do khách hàng Sau khi hiệp định thương mại Việt – Mỹ được ký kết năm 2000 và nhất là khi Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại thế giới (WTO) cuối năm 2006, hoạt động thương mại quốc tế phát triển mạnh, kinh ngạch XNK tăng năm sau cao hơn năm trước và đạt kỷ lục năm 2007 (kinh ngạch XK: 48,4 tỷ USD, NK: 61 tỷ USD). Đây là điều kiện và là nền tảng để phát triển hoạt động TTQT của các ngân hàng. Vì, hiệu quả TTQT của ngân hàng phụ thuộc vào hiệu quả kinh doanh XNK của doanh nghiệp. Tuy nhiên, các đơn vị kinh doanh XNK của Việt Nam khi tham gia TTQT còn những tồn tại sau: Trong hoạt động XK, rào cản thương mại và phi thương mại ở nhiều thị trường XK gây khó khăn cho hàng XK của Việt Nam. Đặc biệt là các vụ kiện bán phá giá liên tiếp xảy ra ở Mỹ và Châu Âu đánh mạnh vào các mặt hàng XK chủ lực của Việt Nam như thủy sản, dệt may, giày dép đã khiến nhiều doanh nghiệp XK lao đao. Trong khi đó, ở trong nước lại thiên tai, dịch cúm gia cầm, dịch lợn tai xanh liên tục bùng phát và lan trên diện rộng cũng làm ảnh hưởng đến các doanh nghiệp XK. Bản thân các doang nghiệp khi tham gia thị trường thế giới do quy mô sản xuất kinh doanh nhỏ, vốn ít, do đó hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp chủ yếu dựa vào vốn vay ngân hàng. Nên, khi làm ăn buôn bán với nước bạn hàng bị lừa đảo, thua lỗ sẽ liên quan trực tiếp tới chất lượng tín dụng, uy tín trong TTQT của cả hệ thống ngân hàng Việt Nam. Kinh nghiệm trong hoạt động thương mại quốc tế chưa nhiều nên không tránh khỏi những sai sót, thiệt thòi khi ký kết và thực hiện các hợp đồng thương mại quốc tế. Sự thiếu trung thực của khách hàng. Một số khách hàng vì lợi ích trước mắt đã vi phạm các cam kết với ngân hàng. Hàng hóa đã bán hết, nhưng khách hàng cố tình không nộp tiền cho ngân hàng mà lại sử dụng số tiền thu được vào mục đích kinh doanh khác như: bất động sản, hay kinh doanh lô hàng khác Thậm chí có những khách hàng còn lừa đảo, đem giấy tờ giả vào thế chấp cho ngân hàng để mở L/C trả chậm. Không ít khách hàng khi thấy tình hình giá cả thị trường biến động theo xu hướng không có lợi cho mình đã cố tình từ chối thanh toán mặc dù hàng hóa đã được giao đúng hợp đồng và bộ chứng từ hoàn hảo, đã gây ảnh hưởng không nhỏ tới uy tín của ngân hàng. e) Do bản thân Sở giao dịch - Doanh số thanh toán cao tập trung chủ yếu vào công ty vàng bạc đá quý NHNo gây áp lực lớn về ngoại tệ và phí thanh toán, làm tăng chi phí của SGD trong hoạt động. Việc tự cân đối ngoại tệ cho việc mở rộng thanh toán NK đạt tỷ lệ thấp do phần lớn nhu cầu ngoại tệ SGD dành ưu tiên đáp ứng cho việc NK vàng của NHNo. - Đa dạng hóa sản phẩm: các phương thức TTQT chưa đa dạng, chưa đồng bộ, nhiều sản phẩm chỉ tồn tại trên lý thuyết. - Về nguồn nhân lực, mặc dù đội ngũ nhân viên SGD luôn cố gắng học hỏi và nghiên cứu nhằm đáp ứng với nhu cầu của thị trường, nhưng do nguồn kinh phí đào tạo cán bộ còn hạn hẹp, thêm vào đó tài liệu dành cho cán bộ lại ít và thường cũ hơn so với những quy định của quốc tế, ít cập nhật nên cán bộ ít được tiếp cận với những quy định mới của quốc tế. - Cơ sở vật chất kỹ thuật chưa đáp ứng được yêu cầu: mặt bằng giao dịch còn chật hẹp, kết cấu trụ sở làm việc chưa đáp ứng chuẩn mực của một ngân hàng hiện đại, việc bố trí liên thông các phòng nghiệp vụ chưa thuận tiện làm giảm năng suất lao động và sự tiện ích của khách hàng. - Ngoài ra, việc ứng dụng Marketing vào TTQT cũng là một vấn đề quan trọng. Việc tổ chức Marketing sẽ giúp cho SGD thu hút được khách hàng nhiều hơn và từ đó có thể sẽ nghiên cứu được nhiều nhu cầu và có thể đáp ứng tốt hơn. Bên cạnh đó, việc cung ứng các dịch vụ như tư vấn, dịch vụ thông tincòn hạn chế. Do đó chưa tạo ra được nét đặc trưng đối với khách hàng. KẾT LUẬN CHƯƠNG II Trên cơ sở những lý luận cở chương 1, chương 2 của khóa luận đã tập trung đi vào phân tích thực trạng hoạt động TTQT tại SGD NHNo trong điều kiện hội nhập. Từ việc phân tích thực trạng hoạt động và đánh giá cụ thể hoạt động TTQT trong 3 năm 2006, 2007, 2008, chương 2 đã đưa ra những đánh giá tổng quan về những kết quả đạt được cũng như những tồn tại của hoạt động TTQT trong thời gian qua. Trên cơ sở xem xét những tồn tại của hoạt động TTQT trong thời gian đó, chương 2 cũng phân tích những nguyên nhân cụ thể ảnh hưởng đến việc phát triển hoạt động TTQT tại SGD NHNo. Như đã trình bày trong phần trên, có thể thấy trong thời đại hội nhập ngày càng sâu và rộng như hiện nay hoạt động TTQT có vai trò hết sức quan trọng đối với hệ thống NHTM nói chung và đối với SGD NHNo nói riêng. Do đó, phát triển hoạt động TTQT được xem là nhu cầu hết sức cấp bách của SGD NHNo trong giai đoạn hiện nay. Chính vì vậy, chương 3 của khóa luận sẽ nghiên cứu và đề ra một hệ thống những giải pháp nhằm hạn chế những tồn tại và phát triển hoạt động này tại SGD NHNo. CHƯƠNG 3 GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG THANH TOÁN QUỐC TẾ ĐỐI VỚI SỞ GIAO DỊCH NHNo & PTNT TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ 3.1. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG TTQT ĐỐI VỚI SGD NHNo & PTNT Hoạt động đối ngoại của Việt Nam trong thời gian qua đã được nhiều thành tựu đáng kể, đó là việc Việt Nam gia nhập ASEAN, tham gia APEC và chính thức tham gia tổ chức thương mại thế giới WTO. Xuất phát từ xu thế của nến kinh tế thế giới nói chung và thương mại thế giới nói riêng, đòi hỏi Việt Nam khi từng bước hội nhập vào nền kinh tế thế giới, hội nhập với thương mại toàn cầu và khu vực thì phải xác định được một chiến lược phát triển kinh tế bao gồm cả chiến lược phát triển các hoạt động XNK. Một điều kiện cơ bản để thực hiện được nhiệm vụ trên là mở rộng, phát triển với chất lượng cao các nghiệp vụ ngân hàng quốc tế, trong đó đặc biệt là TTQT: thanh toán NK, thu tiền XK nhanh chóng, an toàn với chi phí thấp nhất sẽ đảm bảo cho sự thành công của kinh tế đối ngoại. Nhằm đảm bảo đẩy nhanh tiến trình hội nhập khu vực và quốc tế, tăng cường hợp tác, tranh thủ tối đa sự hỗ trợ về tài chính, kỹ thuật, công nghệ tiên tiến của các nước, các tổ chức tài chính-ngân hàng quốc tế đảm bảo hoạt động đạt hiệu quả cao, ổn định và phát triển bền vững, hoạt động TTQT ngày càng được chú trọng phát triển, SGD đã có một số định hướng sau: Tiếp tục hoàn thiện dự án hiện đại hóa hệ thống kế toán và thanh toán khách hàng do ngân hàng thế giới tài trợ (IPCAS) nhằm cải thiện chất lượng dịch vụ thanh toán trong nước và đổi mới quy trình tổ chức TTQT, nắm vững pháp luật, thông lệ quốc tế để làm tốt dịch vụ TTQT. Xây dựng nguồn vốn ngoại tệ tăng trưởng nhanh và ổn định, lãi suất đầu vào hợp lý để tạo nên một nguồn vốn chủ động, từ đó có thể tăng cường nguồn ngoại tệ phục vụ cho hoạt động TTQT và tạo được lợi thế cạnh tranh với các ngân hàng khác. Do hiện nay nền kinh tế trong nước và quốc tế có nhiều biến động, nhiều thách thức, nhiều cơ hội nhưng cũng tiềm ẩn khả năng rủi ro lớn, vì vậy SGD cần thực hiện tốt nghiệp vụ TTQT cho khách hàng, nâng cao chất lượng và độ an toàn trong nghiệp vụ TTQT nhằm giữ uy tín với các doanh nghiệp và các ngân hàng trong và ngoài nước. Nghiên cứu phát triển và mở rộng toàn diện các phương thức TTQT để đáp ứng được yêu cầu đa dạng của khách hàng. Tăng cường công tác giáo dục đào tạo cán bộ TTQT cả về chuyên môn lẫn đạo đức nghề nghiệp để thực hiện tốt những nhiệm vụ trong thời đại mới. Xây dựng cơ chế trả lương theo hiệu quả công việc, cơ chế tiền lương, thưởng – phạt riêng đối với đội ngũ cán bộ TTQT nhằm động viên, khuyến khích những cán bộ hoàn thành tốt công việc được giao. Tăng cường công tác kiểm tra kiểm soát đối với hoạt động TTQT nhằm phát hiện kịp thời những sai sót hạn chế khả năng rủi ro xảy ra. TTQT là một lĩnh vực hoạt động phong phú, đa dạng, đầy hấp dẫn nhưng cũng rất phức tạp. Trong thời gian qua, công tác TTQT tại SGD NHNo & PTNT Việt Nam đã có những tiến bộ rõ nét cả về khối lượng thanh toán cũng như về kỹ thuậ nghiệp vụ. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện công tác này không phải không có những vướng mắc cần khắc phục, cần tìm một hướng giải quyết phù hợp. 3.2. GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG TTQT ĐỐI VỚI SGD NHNo TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ 3.2.1. Hoàn thiện môi trường pháp lý cho hoạt động TTQT Cũng như mọi hoạt động kinh doanh khác, hoạt động kinh doanh ngân hàng chỉ có thể phát triển và đạt hiệu quả cao trong điều kiện môi trường pháp lý hoàn thiện. Đặc biệt, đối với hoạt động TTQT- một hoạt động ngân hàng không chỉ liên quan đến yếu tố trong nước mà còn liên qua đến yếu tố nước ngoài, vấn đề này càng được thể hiện rõ nét. CHính vì vậy, để phát triển hoạt động TTQT của hệ thống NHTM, giải pháp đầu tiên đó là cần sớm nghiên cứu và ban hành các văn bản về hoạt động TTQT, tạo điều kiện cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng cũng như của các doanh nghiệp phát triển. Cụ thể hóa đường lối quan hệ kinh tế đối ngoại của Đảng và Nhà nước đảm bảo đúng định hướng XHCN, củng cố an ninh quốc phòng và tự chủ về kinh tế. Tiếp theo, phải có những quy chế, tiêu chuẩn bắt buộc về điều kiện tài chính, phương án hoạt động kinh doanh rõ ràng mới cấp giấy phép XK trực tiếp, không tiến hành một cách ồ ạt để tránh rủi ro. Cải cách chính sách kinh tế đối ngoại, thực hiện chính sách mở cửa và hợp tác kinh tế với nước ngoài. Cải thiện môi trường đầu tư trong nước để thu hút các nguồn vốn đầu tư. Xuất phát từ xu thế của nền kinh tế thế giới nói chung và thương mại thế giới nói riêng, đòi hỏi Việt Nam phải có chính sách về XNK nhằm khai thác các lợi thế so sánh trong phân công lao động và tăng cường sức cạnh tranh của nền kinh tế. Có chính sách về thuế quan nhằm bảo vệ lợi ích của người sản xuất và người tiêu dùng trong nước. Đổi mới công tác quản lý ngoại hối là cơ sở pháp lý quan trọng điều chỉnh toàn bộ quan hệ tiền tệ của nước ta với nước ngoài. Trọng tâm của chính sách quản lý, kinh doanh ngoại hối là vấn đề tỷ giá. NHNN cần xây dựng chế độ tỷ giá hối đoái linh hoạt theo hướng ổn định trong ngắn hạn nhưng có thể thay đổi phù hợp với sự cân bằng dài hạn. Cụ thể là xác định và duy trì tỷ giá mục tiêu trên cơ sở rổ tiền tệ, thực chất là tỷ giá đa biên thực tế, có thể can thiệp nhằm ổn định hay thay đổi tỷ giá khi cần thiết, Tỷ giá mục tiêu phải đảm bảo khả năng cạnh tranh của hàng hóa XK. Cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan hữu quan như: Bộ Công Thương, Tổng cục Hải quan, Phòng thương mại và công nghiệp VN để tạo sự nhất quán cho việc ban hành cũng như áp dụng và thi hành các quy chế, văn bản hướng dẫn giao dịch TTQT. Quy chế này không trái với thông lệ và tập quán quốc tế nhưng phải phù hợp với các bộ luật của Việt Nam và phải tính đến những nét đặc thù về kinh tế xã hội và cả tập quán kinh doanh của nước ta. 3.2.2. Phát triển thị trường ngoại hối Việc hoàn thiện và phát triển thị trường ngoại tệ liên ngân hàng là một trong những điều kiện quan trọng để các NHTM mở rộng nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ và tạo điều kiện phục vụ cho hoạt động TTQT được diễn ra trôi chảy. Thông qua thị trường này, NHNN có thể điều hành tỷ giá cuối cung một cách linh hoạt và chính xác nhất Để hoàn thiện và phát triển thị trường này làm cơ sở cho việc hình thành thị trường ngoại hối hoàn chỉnh ở Việt Nam cần phải thực hiện các biện pháp sau: Đa dạng hóa các ngoại tệ được mua bán trên thị trường. Đa dạng hóa các hình thức giao dịch như: Swap (giao dịch hoán đổi), Forward (mua bán kỳ hạn), Option (giao dịch quyền chọn) Mở rộng đối tượng tham gia trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng nhằm tạo cho thị trường hoạt động với tỷ giá sát thực tế hơn. Chỉ khi thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, thị trường ngoại hối phát triển thì mới đảm bảo có được một tỷ giá linh hoạt, hợp lý, khuyến khích XK và hạn chế NK, góp phần mở rộng sản xuất trong nước. 3.2.3. Cải thiện cán cân thanh toán quốc tế Cán cân TTQT là công cụ tổng hợp và quan trọng để đánh giá, phân tích mối quan hệ kinh tế đối ngoại. Nó thể hiện các hoạt động XNK hàng hóa, dịch vụ, hoạt động đầu tư và vay nợ, viện trợ nước ngoài. Tình trạng các cân TTQT liên quan đến khả năng thanh toán của một quốc gia, vủa các ngân hàng và tác động đến tỷ giá hối đoái và dự trữ ngoại tệ của đất nước. Đẩy mạnh hoạt động XNK. Cơ cấu XNK nước ta trong những năm tới cần chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước. Hiện nay hàng hóa của Việt Nam đã có mặt ở nhiều nước trên thế giới, quan hệ thương mại của nước ta với các nước khác được mở rộng và có bước phát triển đáng kể. Tuy nhiên sản phẩm XK của nước ta còn nghèo nàn chưa qua chế biến còn chiếm tỷ trọng lớn. Để đẩy mạnh XNK cần phải thực hiện những biện pháp sau: Đẩy mạnh hoạt động đối ngoại, đặc biệt là hoạt động thương mại với những thị trường lớn như Nhật Bản, Mỹ, các nước trong khối ASEAN, Trung Quốc, các nước EU, từng bước tham gia tổ chức kinh tế thương mại châu Á – Thái Bình Dương, Tổ chức Thương mại thế giới WTO. Cần phải khai thác có hiệu quả tiềm năng về tài nguyên, sức lao động và đất đai, cải tiến cơ cấu hàng xuất khẩu cho phù hợp với nhu cầu thị trường thế giới, tăng các mặt hàng chế biến gia công, giảm tỷ trọng sản phẩm thô. Cần đầu tư thích đáng vào sản phẩm mà Việt Nam có ưu thế như gạo, cà phê, cao su, hàng thủy sản, các sản phẩm khai khoáng như dầu mỏ, khí đốt Hướng XK phấn đấu chuyển từ sản phẩm thô sang sản phẩm đã qua chế biến. Mở rộng hợp tác và liên doanh với nước ngoài để nâng cao năng lực ngành công nghiệp chế biến hàng XK. Nhà nước phải có chính sách khuyến khích sản xuất và chế biến hàng XK, sử dụng các công cụ quản lý vĩ mô như thuế, lãi xuất, hạn nghạch nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp sản xuất và chế biến hàng XK có điều kiện giảm giá thành và nâng cao tính cạnh tranh của hàng Việt Nam trên thị trường quốc tế. Cần tổ chức công tác điều tra, nghiên cứu thị trường các nước để có những cải tiến các mặt hàng XK cho phù hợp với từng thị trường cụ thể, đồng thời tìm kiếm thị trường mới. Cần có biện pháp quản lý NK, có chính sách bảo hộ nền sản xuất trong nước thông qua việc cấp giấy phép NK, công cụ thuế nhằm hạn chế NK những mặt hàng trong nước đã sản xuất được. Nhà nước cần phải chú trọng chiến lược kinh tế hướng về XK, đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có hoạt động XK thì phải cân đối ngoại tệ, không được mua ngoại tệ từ các ngân hàng trong nước để nhập nguyên liệu, vật tư thiết bị và chuyển vốn ra nước ngoài mà phải thông qua hoạt động XK thu ngoại tệ. Thực hiện chính sách tỷ giá hối đoái linh hoạt, phù hợp với xu thế biến động của thị trường thế giới, phải kiểm soát không để đồng nội tệ mất giá nhằm khuyến khích XK, hạn chế NK song đồng thời vẫn đảm bảo được sự ổn định của nền kinh tế vĩ mô, không gây cú sốc và thiệt hại cho các doanh nghiệp NK. 3.2.4. Các giải pháp về mặt nghiệp vụ a)Đa dạng hóa các hình thức thanh toán quốc tế Như đã nói ở chương 2, các phương thức TTQT mà SGD tiến hành mới chỉ tập trung chủ yếu vào chuyển tiền và L/C, chuyển tiền chiểm tỷ lệ áp đảo các sản phẩm khác chưa được triển khai áp dụng. Do đó SGD cần đề ra một chiến lược đa dạng hóa dịch vụ, mở rộng và nâng cao chất lượng thanh toán chuyển tiền, thu đổi ngoại tệ, nhận và chi trả kiều hối. Cần có biệp pháp thu hút khách hàng sử dụng phương thức TDCT nhiều hơn như vậy không chỉ tăng thêm nguồn phí thu được mà còn có cơ hội để phát triển dịch vụ tài trợ XNK cho khánh hàng. Muốn làm được điều đó Sở cần nghiên cứu để phát triển các lại hình dịch vụ ngân hàng hiện đại như: Phone Banking, House Bnaking, Internet Banking Nghiên cứu chủ động cung cấp dịch vụ mua đứt bộ chứng từ khi khách hàng thực hiện xong nghĩa vụ giao hàng (Bao thanh toán – Factoring), hình thành bộ phận tư vấn và môi giới cho khách hàng. Để cân đối giữa thanh toán hàng nhập với thanh toán hàng xuất, Sở cần có biện pháp thu hút, khuyến khích khách hàng thanh toán xuất khẩu qua ngân hàng, hạn chế việc thanh toán trực tiếp. Ngoài ra, phải có chính sách dự trữ ngoại tệ phục vụ nhu cầu của khách hàng nhập khẩu b) Giải pháp về huy động vốn SGD cần có chính sách tiếp thị thích hợp để thu hút các doanh nghiệp có nguồn thu ngoại tệ để thúc đẩy hoạt động kinh doanh ngoại tệ. Cần đẩy mạnh các hình thức kinh doanh ngoại hối, đa dạng hóa các hoạt động kinh doanh đối ngoại thông qua việc mở rộng các đại lý thu đổi ngoại tệ, phát triển mạng lưới thanh toán thẻ, séc du lịch, khai thác mở rộng dịch vụ chi trả kiều hối, quản lý tốt việc sử dụng ngoại tệ, bảo đảm khả năng tái tạo ngoại tệ cho hoạt động TTQT. 3.2.5. Nâng cao trình độ công nghệ ngân hàng theo mặt bằng trình độ quốc tế Ngày 7/11/2006, Việt Nam chính thức trở thành thành viên của tổ chức thương mại thế giới (WTO) đã đánh dấu một mốc phát triển mới trong quá trình hộ nhập KTQT, đem lại nhiều cơ hội đồng thời cũng đặt ra nhiều thách thức cho nền kinh tế. Việc tiếp tục đổi mới và hiện đại hóa công nghệ ngân hàng để có thể phục vụ tốt nhất cho mục tiêu phát triển kinh tế quốc tế đã trở thành xu thế tất yếu trong sự phát triển của các NHTM nói chung và SGD NHNo nói riêng. Mặt khác, TTQT với đặc thù là quy trình phức tạp, rủi ro cao, dễ sai sót do đó cần sự trợ giúp của máy móc thiết bị hiện đại, các phương tiện thông tin liên lạc nhanh chóng nhất. Nhiệm vụ hiện đại hóa công nghệ ngân hàng trước hết cần tập trung đáp ững những yêu cầu sau: - Nhận thức và nâng cao trình độ hiểu biết tin học - Đối tượng khách hàng ngày càng đa dạng với những yêu cầu ngày càng cao. - Sự cạnh tranh về sản phẩm và dịch vụ giữa các ngân hàng ngày càng tăng - Cần có những biện pháp nhằm giảm chi phí giao dịch nhằm tăng tính cạnh tranh. Trong nội dung đổi mới công nghệ ngân hàng trước hết cần đổi mới hệ thống thanh toán. Do vậy phải tạo ra được: Các công cụ thanh toán hợp lý nhất Xác định cơ cấu thanh toán tổng thể tốt nhất. Xây dựng vai trò của NHNN và các NHTM. Xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật mang tính hiện đại có thể sử dụng được lâu dài, tránh lạc hậu. Phải mang tính hợp tác vì lợi ích chung của tất cả các ngân hàng. Cải thiện và nâng cao trình độ tự động hóa trong quy trình công nghệ ngân hàng là một trong những điều kiện tốt để quản lý vốn tập trung, tăng cường hơn nữa sự hòa nhập của hệ thống ngân hàng Việt Nam vào thị trường tài chính thế giới. Thực hiện nối mạng giao dịch với khách hàng trước mắt là các khách hàng lớn nhằm đáp ứng một cách mau lẹ các thông tin về tình hình tài chính thế giới cũng như các nhu cầu của khách hàng và khả năng đáp ứng của ngân hàng sẽ nhanh hơn. Khi giao dịch đã được nối mạng giữa khách hàng và ngân hàng thì chắc chắn mọi giao dịch liên quan đến TTQT đều có thể được kết thúc trong ngày, điều này góp phần không nhỏ vào việc nâng cao hiệu quả và tính an toàn trong hoạt động TTQT. 3.2.6. Giải pháp thu hút khách hàng Khách hàng được coi là trung tâm, là mục tiêu trong hoạt động TTQT. Do đó SGD cần xây dựng chính sách khách hàng và có chính sách tiếp thị hợp lý để quảng bá các sản phẩm dịch vụ: - Đối với những khách hàng có tiềm năng về XNK, hoạt động giao dịch thường xuyên, SGD có thể thực hiện ưu đãi miễn phí mở, phí thanh toán L/C, lãi suất cho vay, chênh lệch tỷ giá mua – bán ngoại tệ. - Đối với các khách hàng là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, quy mô TTQT không lớn, SGD cũng cần đưa ra các chính sách hỗ trợ phù hợp để lôi kéo khách hàng. - Củng cố mối quan hệ tốt đẹp, gần gũi giữa Sở và khách hàng, lắng nghe ý kiến khách hàng để có những cải tiến phong cách phục vụ, quy trình nghiệp vụ ngày càng tốt hơn. - Có kế hoạch tiếp thị phù hợp với các khách hàng trong nước và quốc tế - Thường xuyên chú ý xây dựng phong cách văn hóa kinh doanh tại SGD, tác phong làm việc khoa học, văn minh, lịch sự của mỗi cán bộ, nhân viên. 3.2.7. Giải pháp trong cơ chế đào tạo, tuyển dụng cán bộ Công tác tổ chức, đào tạo và giáo dục cán bộ ngân hàng là một trong những nhiệm vụ hàng đầu để có thể phát triển hoạt động TTQT. Có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng các nghiệp vụ về XNK, TTQT và luật pháp, thông lệ quốc tế đối với những cá bộ làm công tác tín dụng và TTQT, xây dựng quy trình tuyển dụng chặt chẽ, bảo đảm tuyển được những cán bộ có trình độ, năng lực, đạo đức nghề nghiệp đáp ứng nhu cầu hội nhập. Tổ chức các lớp học nghiệp vụ ngắn và dài hạn để đào tạo sâu hơn về chuyên môn TTQT. Những khóa học này cần mở rộng cho mọi nhân viên đều có điều kiện tham gia. Mời các chuyên gia giỏi về giảng dạy để các nhân viên ngân hàng có điều kiện trau dồi về nghiệp vụ cũng như ngoại ngữ. Cử người tham gia các cuộc hội thảo, hội nghị chuyên môn về TTQT trong nước cũng như nước ngoài để tiếp cận với các kiến thức hiện đại. Cử cán bộ đi học ở nước ngoài để tiếp thu, học hỏi những kiến thức nghiệp vụ sâu rộng của họ. Tổ chức các chuyến tham quan các ngân hàng khác ở trong nước hoặc nước ngoài để học hỏi kinh nghiệm và thế mạnh của họ. Có chính sách đãi ngộ hợp lý đối với cán bộ năng lực chuyên môn tốt, tránh tình trạng “chảy máu chất xám” tại chỗ. Có các giải pháp để bố trí sắp xếp các cán bộ vào các công việc thích hợp với khả năng của từng người, nhằm phát huy thế mạnh của họ. Muốn vậy phải thường xuyên quan tâm để nhận định đánh giá được đặc điểm của từng người. Phát huy vai trò chủ động sáng tạo của các cán bộ, tích cực lắng nghe ý kiến của họ, khuyến khích các sáng kiến mới. Đi đôi với việc đào tạo cán bộ, phải thường xuyên tổ chức các đợt kiểm tra, sát hạch trình độ của cán bộ, đặc biệt là trình độ của các bộ làm công tác TTQT. Qua đó cán bộ TTQT có thể tư vấn cho khách hàng, thậm chí có thể tham dự cùng khách hàng khi được yêu cầu để đàm phán ký kết hợp đồng thương mại nhằm thỏa thuận được điều khoản thanh toán có lợi nhất, như tư vấn cho doanh nghiệp trong việc lựa chọn ngân hàng mở thư tín dụng, ngân hàng thanh toán, loại hình L/CQua đó đảm bảo được quyền lợi cảu khách hàng cũng như nâng cao uy tín và hiệu quả hoạt động TTQT của SGD. Muốn thực hiện được nghiệp vụ TTQT, trước hết SGD cần có đội ngũ cán bộ năng nổm nhiệt tình, giỏi chuyên môn và ngoại ngữ, am hiểu về các lĩnh vực ngoại thương, các luật lệ và tập quán quốc tế. Cần tiến hành rà soát, sắp xếp lại cán bộ, nhất là những cán bộ làm công tác TTQT. Có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng các nghiệp vụ về XNK, TTQT và luật pháp, thông lệ quốc tế đối với những cá bộ làm công tác tín dụng và TTQT, xây dựng quy trình tuyển dụng chặt chẽ, bảo đảm tuyển được những cán bộ có trình độ, năng lực, đạo đức nghề nghiệp đáp ứng nhu cầu hội nhập. Có chính sách đãi ngộ hợp lý đối với cán bộ năng lực chuyên môn tốt, tránh tình trạng “chảy máu chất xám” tại chỗ. Đi đôi với việc đào tạo cán bộ, phải thường xuyên tổ chức các đợt kiểm tra, sát hạch trình độ của cán bộ, đặc biệt là trình độ của các bộ làm công tác TTQT. Từ đó có thể tư vấn cho khách hàng, thậm chí có thể tham dự cùng khách hàng khi được yêu cầu để đàm phán ký kết hợp đồng thương mại nhằm thỏa thuận được điều khoản thanh toán có lợi nhất, như tư vấn cho doanh nghiệp trong việc lựa chọn ngân hàng mở thư tín dụng, ngân hàng thanh toán, loại hình L/CQua đó đảm bảo được quyền lợi cảu khách hàng cũng như nâng cao uy tín và hiệu quả hoạt động TTQT của SGD. 3.2.8. Giải pháp về công tác ngân hàng đại lý Trong nghiệp vụ TTQT, hệ thống ngân hàng đại lý có ý nghĩa quan trọng trong việc triển khai có hiệu quả nghiệp vụ này. Sở cần phối hợp với Trụ sở chính để củng cố mối quan hệ đối ngoại với các ngân hàng đại lý hiện nay. Mở rộng quan hệ đại lý với các ngân hàng trên thế giới cả về số lượng và chọn các đối tác nước ngoài có uy tín, phù hợp trong từng lĩnh vực để xây dựng các mối quan hệ ngân hàng đại lý chặt chẽ. Thuận lợi chính của việc sử dụng mối quan hệ với các ngân hàng đại lý là chi phí thâm nhập thị trường nước ngoài thấp, không cần cung cấp nhân sự mà có thể tận dụng ngay bộ máy ngân hàng đại lý để phục vụ cho nhu cầu kinh doanh của mình. Thông qua mối quan hệ với các ngân hàng đại lý sẽ tận dụng được các hạn mức tín dụng, hạn mức xác nhận L/C, hạn mức thanh toán, hạn mức tái tài trợ L/C, hạn mức kinh doanh ngoại tệ, ký kết các hiệp định khung vay vốn trung dài hạn. Bên cạnh việc mở rộng quan hệ đại lý, để hoạt động TTQT có hiệu quả cao và thuận lợi, SGD cần thiết phải cân đối nguồn ngoại tệ dự trữ tại các ngân hàng thường xuyên có quan hệ thanh toán và phải tính toán tỷ lệ dự trữ các loại ngoại tệ cho phù hợp. Nhằm đáp ứng nhu cầu thanh toán bằng các loại ngoại tệ khác nhau của các DN. 3.2.9. Các giải pháp trong quản lý điều hành của SGD Bộ máy tổ chức của chi nhánh có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của SGD. Để công tác điều hành công việc được thuận lợi và phát huy được hết khả năng của SGD thì bộ máy tổ chức phải được bố trí phù hợp, từng cán bộ đứng ở từng vị trí phải có điều kiện phát huy được hết năng lực của mình, tạo ra sức mạnh tổng hợp cho SGD. Nhanh chóng thực hiện các chuẩn mực quốc tế vào quản lý, cung ứng dịch vụ ngân hàng trên cơ sở phát triển các nghiệp vụ, mở rộng và phát triển mạng lưới để nâng khả năng tiếp cận khách hàng Nghiên cứu, phát triển, ứng dụng các sản phẩm dịch vụ mới nhằm mang lại nhiều tiện ích hơn cho khách hàng đồng thời nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của SGD. Học tập thực tiễn mô hình quản lý sản phẩm dịch vụ của các ngân hàng đã thành công trong công tác này và áp dụng phù hợp thực tiễn SGD. Kinh nghiệm và mô hình tổ chức là những điều kiện trong hệ thống NHNo không có. Do đó việc thực hiện và triển khai mang tính manh mún và hình thức thiếu sự quản lý nên không đạt được hiệu quả theo mong muốn. Đối với NHNo trừ các sản phẩm truyền thống của ngân hàng được thực hiện có bài bản thì các dịch vụ ngân hàng chỉ mang tính sơ khai và không có chiến lược, và sách lược để phát triển, hầu hết đề thiếu tính đồng bộ trong triển khai thực hiện. Kinh nghiệm của các ngân hàng thành công trong lĩnh vực này nếu được nghiên cứu ứng dụng vào NHNo sẽ đem lại cơ hội thành công hơn cho NHNo, góp phần rút ngắn thời gian và chi phí nghiên cứu ứng dụng. Cải cách phương thức điều hành, phân cấp các khâu quản lý rõ ràng và khoa học hơn để nâng cao trách nhiệm, nghĩa vụ, quyền lợi, gắn liền hiệu quả hoạt động của các bộ phận và tăng cường hiệu lực của công tác quản trị điều hành của lãnh đạo Sở. Cần có một kế hoạch và quy trình kiểm tra giám sát cụ thể, sâu sát, kịp thời phát hiện và ngăn chặn những sai sót có thể nảy sinh. Sự hoạt động có hiệu quả của bộ phận kiểm tra, kiểm soát nội bộ sẽ giúp cảnh báo sớm những rủi ro, mức độ sai sót sẽ giảm đi, thông qua đó hiệu quả hoạt động kinh doanh chung, trong đó có hoạt động TTQT sẽ ngày một phát triển. 3.3. KIẾN NGHỊ 3.3.1. Kiến nghị đối với các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền Với chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng XHCN, vai trò điều tiết của Nhà nước ngày càng được khẳng định. Xu hướng hội nhập vào nền kinh tế thế giới đem lại cơ hội lớn cho mỗi quố gia đồng thời cũng là thách thức đối với các nước đang phát triển như Việt Nam. Hoạt động TTQT cần đến những chính sách, định hướng thích hợp với mục tiêu từng thời kỳ để hoạt động kinh doanh đạt hiệu quả và ngày càng phát triển. Vì vậy Chính phủ và các bộ ngành liên quan cần phải làm những việc sau: Sự đổi mới của NHTM nói chung và hoạt động TTQT nói riêng không thể tách rời các cơ chế, chính sách của Đảng và Nhà nước. Trong thời gian qua, Chính phủ và các bộ, nghành đã có nhiều cố gắng trong việc ban hành các văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động TTQT như: Luật thương mại, luật tổ chức tín dụng, luật đầu tư nước ngoài, luật doanh nghiệp, nhằm hướng tới một hoạt động có hiệu quả nhằm đáp ứng nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, cho tới nay, hệ thống văn bản pháp luật trong nước vẫn chưa đầy đủ, thiếu đồng bộ, chính sách liên quan tới XNK không ổn định, thủ tục giao dịch rờm rà. Chính vì vậy, đã gây ra không ít những khó khăn, lúng túng cho NHTM Việt Nam trong phát triển hoạt động TTQT trong quá trình hội nhập. Do đó Chính phủ nên đưa nội dung TTQT vào chương trình xây dựng pháp luật. Tuy nhiên, như Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An phát biểu tại kỳ họp tháng 12/2004, nếu cứ theo tiến độ hiện nay thì phải 15 – 20 năm nữa mới hoàn thành được việc xây dựng các Bộ luật cần thiết. Chính vì vậy, để kịp thời, đề nghị Chính phủ sớm ban hành Nghị định về TTQT. Trong điều kiện hội nhập hiện nay, cùng với sự phát triển của nền kinh tế, đòi hỏi phải có một hình thức văn bản pháp lý cao hơn về lĩnh vực quản lý ngoại hối. Luật ngoại hối sẽ thống nhất lại những quy định nằm rải rác trong các bộ luật trước đó, đảm bảo điều chỉnh tốt những vấn đề ngoại hối phát sinh theo đúng quy định, chính sách của Đảng và Nhà nước. Chính phủ phải tạo được sự thống nhất giữa các bộ, các ngành có liên qua để tránh xung đột về thông lệ quốc tế với quy định trong nước về nghĩa vụ cam kết tài chính chủa ngân hàng với nước ngoài. Điều này rất cần thiết không chỉ đối với ngân hàng mà còn là cơ sở để tòa án, trọng tài sử dụng là căn cứ khi xét xử các vụ tranh chấp trong thương mại quốc tế. Xuất phát từ xu thế của nền kinh tế thế giới nói chung và thương mại thế giới nói riêng, đòi hỏi Việt Nam khi từng bước hội nhập vào nền kinh tế thế giới, hội nhập với thương mại toàn cầu và khu vực thì phải xác định được một chiến lược phát triển kinh tế bao gồm cả chiến lược phát triển các hoạt động XNK. Cần tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước trong điều tiết chính sách tiền tệ, chính sách thị trường và chính sách thương mại nhằm đẩy mạnh XK, quản lý chặt chẽ NK, qua đó tạo cơ hội cho ngân hàng mở rộng và phát triển hoạt động TTQT và hạn chế được tình trạng thâm hụt của cán cân thương mại quốc tế của Việt Nam. Cuối cùng là tiến hành hỗ trợ hiện đại hóa công nghệ ngân hàng – một kế hoạch mang tính dài hạn, một chiến lược phát triển tổng quát nên chỉ riêng ngành ngân hàng thì khó có thể thực hiện được. Do đó, để hiện đại hóa công nghệ thành công thì một đòi hỏi tất yếu là phải có sự hỗ trợ từ phía Nhà nước. Nhà nước cần quản lý, giám sát chặt chẽ, thẩm định chính xác các chương trình đầu tư cũng như các hợp đồng mua bán công nghệ, trang thiết bị máy móc với nước ngoài để tránh biến thị trường Việt Nam thành “bãi rác công nghiệp” gây lãng phí nguồn ngoại tệ quốc gia. Có như vậy, công nghệ ngân hàng Việt Nam mới có điều kiện phát triển theo kịp với trình độ trong khu vực và trên thế giới, từ đó phục vụ tốt cho mọi hoạt động kinh doanh của ngân hàng, trong đó có hoạt động TTQT. 3.3.2. Kiến nghị đối với Ngân hàng Nhà nước Thứ nhất, NHNN cần tập trung xây dựng các điều kiện cần thiết trình Chính phủ ban hành Nghị định về TTQT. NHNN nên thành lập một đơn vị chuyên về TTQT, có nhiệm cụ hướng dẫn chỉ đạo hoạt động này đối với các NHTM. Thực tế, cho tới nay khi có phát sinh vướng mắc về TTQT, có nhiều Vụ, Cục phải tham gia (Vụ Pháp chế, Vụ QUản lý ngoại hối, Vụ Quan hệ quốc tế). Thứ hai, cần sớm nghiên cứu nhằm hoàn thiện và phát triển thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, tiến tới thành lập thị trường hối đoái thích ứng với xu thế hội nhập và phát triển của ngành ngân hàng Việt Nam. Do đó. NHNN cần tăng cường việc giám sát và buộc các NHTM phải xử lý trạng thái ngoại hối của mình trong ngày bằng việc mua hoặc bán ngoại tệ trên thị trường liên ngân hàng, mở rộng đối tượng tham gia vào thị trường ngoại tệ liên ngân hàng. Phát triển các nghiệp vụ vay mượn ngoại tệ, nghiệp vụ tiền gửi qua đêm và các hình thức mua bán ngoại tệ như: mua bán kỳ hạn, hợp đồng tương lai, hợp đồng hoán đổi ngoại tệ, hợp đồng quyền chọn Cần tăng cường hơn nữa vai trò của NHNN trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng. Thứ ba, gia nhập WTO cũng là quá trình hội nhập về tỷ giá và từng bước thực hiện chức năng chuyển đổi VND trong mậu dịch đa phương và song phương. Tuy nhiên tỷ giá này về cơ bản trong mối quan hệ thương mại giữa Việt Nam và các nước cũng dựa căn bản vào tỷ giá so sánh giữa VND và USD là căn cứ tính toán. Song, chính sách tỷ giá hậu WTO phải có bước đi hợp lý và thích ứng, bởi những ảnh hưởng khó lường mà nó mang lại đối với nền kinh tế Việt Nam. Việc thả nổi tỷ giá đồng Việt Nam có thể là hiện thực ở thời điểm nào đó, song trước mắt vẫn phải áp dụng tỷ giá linh hoạt có sự quản lý của Nhà nước. Sự nóng vội trong tự do hóa tỷ giá trong những năm đầu hậu WTO cái lợi thì ít (XK) song cái thiệt vẫn còn lớn hơn (tăng vốn NK, tăng giá bán nội địa, tăng chi phí sản xuất đối với các sản phẩm sử dụng nguyên vật liệu nhập ngoại, đội giá thành, tăng giá cả, đồng thời làm tăng nợ phải trả cho nước ngoài). Nhìn chung, để tiến tới tự do hóa tỷ giá hối đoái phải có một quá trình và nó chỉ có thể “an toàn” bằng thực lực của nền kinh tế Việt Nam trong tương quan với kinh tế của các nước phát triển. Cần nỗ lực đưa giá trị đồng Việt Nam trở về đúng giá trị thực của nó mới có thể đánh giá đúng được sức mạnh của nền kinh tế, không tạo ra những cơn sốt ngoại tệ giả tạo và tạo điều kiện cho bọn đầu cơ ngoại tệ kiếm lời, tỷ giá mua bán phải là tỷ giá thật và không có thu phí ngoài để tạo thuận lợi cho ngân hàng cũng như cho khách hàng. Thứ tư, cần trang bị hệ thống thông tin tiếp nhận tỷ giá, các nguồn thông tin đa chiều, chính xác, nhanh chóng, thường xuyên đổi mới thông tin và cung cấp kịp thời cho các NHTM. Thứ năm, củng cố và phát triển quan hệ đại lý với các ngân hàng nước ngoài, thực hiện tốt vai trò làm tham mưu, tư vấn cho Chính phủ để đưa ra những chính sách quản lý phù hợp, có hiệu quả nhằm tạo điều kiện khuyến khích quan hệ đại lý giữa các NHTM Việt Nam và các ngân hàng trên thế giới ngày càng phát triển. NHNN cũng nên có những quy định cụ thể về quan hệ đại lý đối với các NHTM Việt Nam. Ví dụ như, cho phép một số chi nhánh ngân hàng lớn mở tài khoản ngoại tệ tại nước ngoài, từ đó củng cố và mở rộng thêm quan hệ đại lý với các ngân hàng trên thế giới. 3.3.3. Kiến nghị đối với NHNo & PTNT Việt Nam Đề nghị NHNo & PTNT Việt Nam hỗ trợ SGD trong việc xây dựng và thông qua công tác khảo sát, học tập mô hình của các ngân hàng trong khu vực trong kinh doanh nghiệp vụ ngân hàng, đồng thời lựa chọn SGD là đơn vị thực hiện thí điểm các dịch vụ ngân hàng mới của NHNo để khai thác tối đa vị thế và năng lực của SGD. Trợ giúp SGD trong công tác đào tạo cán bộ chuyên sâu về lĩnh vực kinh doanh dịch vụ ngân hàng và tiếp cận các thông tin chính thống, cập nhật nhất về các dịch vụ sản phẩm ngân hàng. Xây dựng hệ thống thu nhập và xử lý thông tin về các sản phẩm dịch vụ ngân hàng của các ngân hàng trên địa bàn: Thị trường dịch vụ ngân hàng hiện tại của các ngân hàng trên địa bàn: Thị trường dịch vụ ngân hàng hiện tại ở Việt Nam theo đánh giá là đang ở giai đoạn sơ khai nên bất cứ các dịch vụ mới nào khi đưa ra công chúng đều hết sức quan trọng trong xây dựng hình ảnh của ngân hàng đó. Đồng thời NHNo cần tăng cường các hoạt động quảnh bá tiện ích của các sản phẩm dịch vụ mới của ngân hàng như thẻ, Internetbanking, các sản phẩm bán chéo liên kết thương hiệu với các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực bán lẻ khác (điện thoại, điện nước, các dịch vụ công cộng, bảo hiểm) Pháp lệnh ngoại hối có hiệu lực thi hành từ ngày 01/06/2006, nghị định 160/2006 NDD – CP ban hành 28/12/2006, nhưng cho đến thời điểm này Ngân hàng Nhà nước vẫn chưa ban hành thông tư hướng dẫn vì thế NHNo chưa có quy trình cụ thể áp dụng, gây khó khăn và bất cập cho chi nhánh vì có sự khác biệt giữa những văn bản cũ so với nội dung mới của pháp lệnh. Cần xây dựng cơ chế điều hành hoạt động ngoại hối của NHNo & PTNT Việt Nam theo các Pháp lệnh ngoại hối, Nghị định 160 về quản lý ngoại hối và các thông tư hướng dẫn do NHNN ban hành. Qua đó tổ chức điều hòa, quản lý các hoạt động ngoại tệ cho phù hợp, đảm bảo sự tăng trưởng đồng đều giữa TTQT – Kinh doanh ngoại tệ, thu hút khách hàng cho các Chi nhánh trong toàn hệ thống. Để thu hút được nhiều ngoại tệ phục vụ TTQT, NHNo cần xây dựng chính sách kinh doanh với nước ngoài. Đặc biệt trong điều kiện hội nhập mạnh mẽ như hiện nay, NHNo cần nhanh chóng triển khai việc phát triển chi nhánh ra nước ngoài. Để nhanh chóng hội nhập với hệ thống ngân hàng thế giới, cần đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án hiện đại hóa NHNo để hỗ trợ, phát huy tối đa các tiện ích của dịch vụ sản phẩm NHNo & PTNT Việt Nam. 3.3.4. Kiến nghị đối với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu Các doanh nghiệp XNK là một chủ thể tham gia vào hoạt động TTQT. Vì vậy bản thân các doanh nghiệp XNK cũng phải chủ động thực hiện những biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động TTQT. Các doanh nghiệp có thể thực hiện những biện pháp sau: Thứ nhất: Cần có biện pháp nhằm nâng cao năng lực tài chính, từ đó nâng cao vị thế trên trường quốc tế. Để làm được điều này, biện pháp hữu hiệu nhất đối với các doanh nghiệp chính là phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh. Một doanh nghiệp có tình hình hoạt động kinh doanh tốt và ngày càng phát triển, bản thân nó đã có tác dụng nâng cao năng lực tài chính song quan trọng hơn, nó sẽ giúp các doanh nghiệp ngày càng khẳng định được vị thế trên trường quốc tế, từ đó thu hút được ngà càng nhiều nguồn lực tài chính trong và ngoài nước đầu tư và doanh nghiệp. Thứ hai: Các doanh nghiệp trước khi ký hợp đồng ngoại thương cần xem xét một cách tỉ mỉ và kỹ lưỡng các điều khoản nhằm phát hiện ra những điều khoản gây bất lợi cho mình, từ đó tránh được những thiệt hại có thể xảy ra. Muốn vậy, doanh nghiệp cần có cán bộ chuyên trách về công tác XNK. Các cán bộ này cần được đào tạo chuyên sâu về nghiệp vụ ngoại thương. Đội ngũ này phải am hiểu các điều luật trong TTQT nắm vững những thông lệ thanh toán của nước bạn hàng và những thông lệ, tập quán TTQT, không ngừng nâng cao trình đọ nghiệp vụ, luôn cập nhật về thị trường hàng hóa và thị trường tài chính trong và ngoài nước. Thứ ba: Thực tế cho thấy, khi ký kết hợp đồng ngoại thương, nếu khách hàng Việt Nam không tìm hiểu kỹ đối tác nước ngoài thì dù hợp đồng ngoại thương có chặt chẽ đến đâu mà đối tác nước ngoài cố tình lừa đảo thì quyền lợi của doanh nghiệp Việt Nam vẫn bị vi phạm và ngân hàng với tư cách là người cung cấp tài trợ cho các doanh nghiệp cũng không thể tránh khỏi bị ảnh hưởng. Đa số, các vụ tranh chấp xảy ra là do doanh nghiệp chưa chọn được đúng đối tác. Vì vậy, các doanh nghiệp cần chọn đúng đối tác, cần tìm hiểu thực lực và uy tín của công ty nước ngoài, tránh bị lừa đảo. Trong trường hợp hợp đồng ngoại thương với giá trị lớn thì các doanh nghiệp có thể tranh thủ sự tư vấn của ngân hàng. Ngân hàng thông qua hệ thống các đại lý của họ ở nước ngoài hoặc thông qua phòng Thương mại & Công nghiệp Việt Nam, trung tâm thông tin của NHNN Việt Nam sẽ tìm hiểu để có những thông tin đáng tin cậy về năng lực tài chính, uy tín bạn hàng làm ăn. Thứ tư: Doanh nghiệp cần tranh thủ sự tư vấn của ngân hàng. Việc phát triển và mở rộng hoạt động ngoại thương đã tạo ra nhiều cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam nhưng cơ hội cũng gắn liền với những thách thức. Hiện nay, trình độ nghiệp vụ ngoại thương của các doanh nghiệp còn yếu, kinh nghiệm buôn bán quốc tế chưa nhiều, thiếu vốn, thiếu công nghệ hiện đại để có thể đứng vững trong thị trường cạnh tranh. Vì vậy, các doanh nghiệp Việt Nam ngoài việc tranh thủ sự hỗ trợ về vốn từ các NHTM còn cần phải dựa vào ngân hàng để xin tư vấn về những điều khoản thuộc lĩnh vực chuyên môn của ngân hàng trước khi ký kết hợp đồng ngoại thương. Ngân hàng với nguồn thông tin đa dạng và trình độ chuyên môn cao có thể tư vấn cho khách hàng về tính hiệu quả kinh tế của một lô hàng hay giúp doanh nghiệp tìm được những bạn hàng đáng tin cậy, vừa có tác dụng giảm thiểu rủi ro cho ngân hàng góp phần thúc đẩy sự phát triển của hoạt động TTQT. Thứ năm: Các doanh nghiệp khi đến giao dịch tại ngân hàng cần có sự hợp tác chặt chẽ với cán bộ ngân hàng. Đối với những giấy tờ liên quan như hợp đồng ngoại thương hay đăng ký kinh doanh thì phải cung cấp đầy đủ. Trong quá trình thực hiện hợp đồng thì doanh nghiệp cũng cần giữ mối liên lạc thường xuyên với ngân hàng, thực hiện đúng theo chỉ dẫn của ngân hàng về việc thực hiện các điều khoản của L/C. Khi có tranh chấp xảy ra thì doanh nghiệp cần phối hợp với ngân hàng để tìm ra nguyên nhân và biện pháp khắc phục chứ không chỉ quy trách nhiệm cho ngân hàng. KẾT LUẬN CHƯƠNG III Trên cơ sở những lý luận đã trình bày ở chương 1 và sự phân tích tực trạng hoạt động TTQT tại SGD NHNo ở chương 2, chương 3 của khóa luận đã đưa ra một hệ thống các giải pháp nhằm phát triển hoạt động TTQT tại SGD trong quá trình hội nhập hiện nay để từ đó đề xuất một số kiến nghị đối với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, với NHNN và đối với NHNo & PTNT. KẾT LUẬN Việc Việt Nam trở thành thành viên chính thức của WTO và việc Hoa Kỳ thông qua quy chế bình thường hóa quan hệ thương mại vĩnh viễn với Việt Nam đã mở ra những cơ hội mới cho hoạt động XNK. Một trong những nhân tố quan trọng để thúc đẩy hoạt động thương mại quốc tế của một quốc gia là hoạt động TTQT. Thông qua việc nghiên cứu những vấn đề lý luận và đánh giá hoạt động TTQT trước và sau hội nhập, thông qua thực tế hoạt động TTQT tạo SGD NHNo, khóa luận đã có những đóng góp sau: Một là, hệ thống hóa những vấn đề lý luận về TTQT, xác định vai trò của TTQT đối với nền kinh tế và đối với hoạt động kinh doanh ngân hàng. Hai là, phân tích cụ thể từng phương thức TTQT, ưu nhược điểm của chúng và từng trường hợp áp dụng. Ba là, xây dựng một hệ thống xhir tiêu đánh giá sự phát triển hoạt động TTQT của NHTM trong quá trình hội nhập Bốn là, đã khái quát được những tác động của hội nhập kinh tế quốc tế với ngành ngân hàng nói chung và hoạt động TTQT nói riêng. Năm là, khóa luận đã tiến hành phân tích thực trạng hoạt động TTQT tại SGD NHNo&PTNH trong quá trình hội nhập hiện nay để từ đó rút ra những đánh giá về những kết quả đã đạt được cũng như những tồn tại và nguyên nhân của chúng. Sáu là, khóa luận đã xây dựng một hệ thống các giải pháp (bao gồm các giải pháp vĩ mô và giải pháp vi mô) và từ đó đưa ra những kiến nghị đối với các cơ quan, tổ chức, các đơn vị có liên quan. Tuy nhiên, do còn nhiều hạn chế về kinh nghiệm và thời gian nên khóa luận của em khó tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thày cô giáo và các bạn để khóa luận được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn!

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTH2565.doc
Tài liệu liên quan