Đề tài Giải pháp và mô hình chuyển đổi nghề nghiệp và đào tạo việc làm cho dân cư các vùng nhà nước thu hồi đất phát triển các khu công nghiệp tập trung và đô thị tỉnh Bắc Ninh đến năm 2015

Mục tiêu đào tạo NNL là phải đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH và phát triển KT-XH và nâng cao tỷ lệ lao động qua đào tạo lên 30%, Hội nghị lần thứ II BCHTW khóa VIII Đảng ta xác định: "Phát triển đào tạo đại học, THCN, đẩy mạnh đào tạo công nhân lành nghề bảo đảm có nhiều nhân tài cho đất nước. Kế hoạch đào tạo nghề phải theo sát chương trình KT-XH của từng vùng phục vụ cho sự chuyển đổi cơ cấu lao động cho CNH-HĐH nông nghiệp nông thôn Đào tạo đủ công nhân lành nghề cho các khu công nghiệp, khu chế xuất, có tính đến nhu cầu xuất khẩu. Tại Đại hội IX, Đảng ta đã khẳng định: "Tiếp tục quán triệt quan điểm Giáo dục là quốc sách hàng đầu và tạo sự chuyển biến cơ bản, toàn diện trong phát triển Giáo dục đào tạo Định hình quy mô giáo dục đào tạo, điều chỉnh cơ cấu đào tạo nhất là cơ cấu cấp học theo lãnh thổ phù hợp với nhu cầu phát triển NNL phục vụ phát triển KT-XH. Đề tài “các giải pháp chuyển đổi nghề nghiệp, đào tạo việc làm cho dân cư các Vùng Nhà nước thu hồi đất phát triển các Khu công nghiệp tập trung và đô thị tỉnh Bắc Ninh trong những năm tới” được tiến hành nghiên cứu khi Tỉnh tái lập được 9 năm (1997-2005) và khi công cuộc xây dựng và phát triển Khu công nghiệp tập trung, cụm công nghiệp và Đô thị trải qua 5 năm (2001 –2005) khởi sắc. Quá trình đó cũng đồng thời là quá trình Tỉnh thực hiện các giải pháp chuyển đổi nghề nghiệp, đào tạo việc làm cho dân cư các vùng Nhà nước thu hồi đất để phục vụ các công cuộc trên. Hai quá trình này có quan hệ mật thiết với nhau và đã được các cấp Chính quyền Tỉnh Bắc Ninh tổ chức, chỉ đạo thực hiện đạt nhiều kết quả tích cực, đóng góp vào sự tăng trưởng và phát triển chung của tổng thể kinh tế- xã hội Tỉnh Bắc Ninh những năm qua. Trong triển khai nghiên cứu, Đề tài đã góp phần vào việc tổng kết các quá trình trên, làm rõ các thành tựu đồng thời chú trọng phân tích các vấn đề tồn tại đã và đang đặt ra, đòi hỏi phải giải quyết trong những năm tới. Theo các mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu, Đề tài đã hệ thống hoá một vấn đề lý luận và thực tiễn chủ yếu để làm luận cứ cho việc đề xuất các giải pháp chuyển đổi nghề nghiệp đào tạo việc làm cho dân cư các vùng Nhà nước thu hồi đất phát triển các Khu công nghiệp tập trung và Đô thị Tỉnh Bắc Ninh trong những năm tới. Trong đề xuất các giải pháp, Đề tài đã chú trọng đưa ra các vấn đề về quan điểm, về phương án và mô hình, về hoàn thiện hệ thống cơ chế chính sách, về tổ chức và biện pháp thực hiện. Do đóng góp chủ yếu của Đề tài là hệ thống hoá và đề xuất những căn cứ khoa học về các giải pháp chuyển đổi nghề nghiệp, đào tạo việc làm cho dân cư các vùng Nhà nước thu hồi đất phát triển các Khu công nghiệp tập trung và Đô thị Tỉnh Bắc Ninh trong những năm tới nên Đề tài này đòi hỏi phải được tiếp tục nghiên cứu đề xuất dưới hình thức các Đề án Chính sách, Đề án xây dựng mô hình để trình Hội đồng Nhân dân và Uỷ ban Nhân dân tỉnh xem xét phê duyệt, tổ chức và chỉ đạo việc thực hiện. Trong các Đề án cần nghiên cứu trong thời gian tới, Đề tài kiến nghị ưu tiên cho các công trình thuộc diện thí điểm được trình bày tại mục 2.4 của phần V chương III, Báo cáo Tổng hợp Đề tài./.

docx103 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1554 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp và mô hình chuyển đổi nghề nghiệp và đào tạo việc làm cho dân cư các vùng nhà nước thu hồi đất phát triển các khu công nghiệp tập trung và đô thị tỉnh Bắc Ninh đến năm 2015, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
phép hình thành một số phương án đề xuất xây dựng mô hình chuyển đổi nghề nghiệp và đào tạo việc làm tại tỉnh Bắc Ninh đến năm 2010.2015. 1. Một số phương án đặt ra. 1.1. Chuyển đổi nghề nghiệp và đào tạo việc làm cho dân cư vùng bị thu hồi đất đối với những hộ nông dân bị thu hồi hầu hết diện tích canh tác của gia đình. Đối với những hộ nông dân thuộc phương án này, đất canh tác của gia đình về cơ bản không còn nữa. Họ có hai phương án lựa chọn: phương án 1, tiếp tục làm nông nghiệp; phương án 2, chấm dứt làm nông nghiệp, chuyển sang làm phi nông nghiệp. * Phương án 1 (tiếp tục làm nông nghiệp). Những hộ này phải thựchiện việc mua quyền sử dụng đất nông nghiệp trên thị trường quyền sử dụng đất. Sự lựa chọn này đòi hỏi phải có sự thông thoáng trong thị trường quyền sử dụng đất nông nghiệp, theo đó người mua và người bán quyền này không gặp phải những trở nại nào về điều kiện, thủ tục, hộ khẩu, cư trú… Những hộ sử dụng sự lựa chọn này sẽ làm giảm nhẹ nhu cầu chuyển đổi nghề nghiệp và đào tạo việc làm từ nông nghiệp sang phi nông nghiệp đối với vùng Nhà nước thu hồi đất. Tuy nhiên, nếu nhìn nhận trên bình diện tổng thể về thị trường quyền sử dụng đất nông nghiệp thì thấy rằng: trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh do hạn mức giao đất trồng cây hàng năm, đất nuôi trồng thuỷ sản… của Nhà nước cho mỗi hộ gia đình không quá 3 ha đối với mỗi loại đất thì việc hộ này "mua đất" của hộ kia cũng đồng nghĩa với việc đẩy hộ "bán đất” tới chỗ phải thu hẹp hoặc chấm dứt các hoạt động sản xuất nông nghiệp. Và ở đây lại xuất hiện nhu cầu phải chuyển đổi nghề nghiệp và đào tạo việc làm cho những hộ "bán đất" này mặc dù việc đó diễn ra ngoài vùng nhà nước thu hồi đất, chuyển đổi mục đích sử dụng đất. * Phương án 2 (chấm dứt làm nông nghiệp, chuyển sang làm phi nông nghiệp). Những hộ này buộc phải chuyển đổi nghề nghiệp và thực hiện đào tạo việc làm để chuyển sang các ngành nghề phi nông nghiệp. Sự lựa chọn này có thể diễn ra teo 2 xu hướng: một là làm chủ; hai là làm thuê. Theo xu hướng làm chủ, những hộ bị thu hồi hầu hết đất canh tác sẽ chuyển sang làm kinh tế cá thể, tiểu chủ với các ngành nghề tiểu, thủ công nghiệp, thương mại, dịch vụ. Tại tỉnh Bắc Ninh, xu hướng này có nhiều khả năng hiện thực bởi tỉnh có nhiều truyền thống phát triển tiểu, thủ công nghiệp và đang khuyến khích phát triển các ngành dịch vụ để đạt tỷ lệ cao hơn trong cơ cấu kinh tế tỉnh. Các hộ lựa chọn xu hướng này cần có được những chính sách phù hợp, đặc biệt là các chính sách dành cho khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ và cực nhỏ, trong đó nổi lên là chính sách thị trường vốn và chính sách sử dụng đất đai làm mặt bằng sản xuất kinh doanh phi nông nghiệp. Những hộ lựa chọn xu hướng này thường chủ động trong việc tự chuyển đổi nghề nghiệp và tự tìm cách đào tạo việc làm cho chính mình. Nhìn trên tổng thể, khi số doanh nghiệp tính theo đầu người của Việt Nam còn quá thấp so với mức bình quân trong khu vực và trên thế giới, trong đó Bắc Ninh cũng không phải là ngoại lệ, thì xu hướng thành lập các cơ sở sản xuất kinh doanh nhỏ hoặc cực nhỏ đối với những hộbị thu hồi hầu hết đất canh tác là một xu hướng tích cực cần được Nhà nước quan tâm, tạo điều kiện thuận lợi về môi trường pháp lý vàchính sách kinh tế. Theo xu hướng làm thuê, lao động nông nghiệp tại các hộ bị thu hồi hầu hết đất canh tác buộc phải xin việc làm tại các cơ sở sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp trong tỉnh, và trong những hoàn cảnh nhất định, phải chấp nhận làm thuê ngoài tỉnh, nhất là tại các trung tâm kinh tế lớn của cả nước như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh… Nhu cầu xin việc làm trong xu hướng này thương dễ được giải quyết đối với các cơ sở cần tuyển lao động phổ thông. Tuy nhiên, trong hoạt động của các ngành công nghiệp, dịch vụ thì lao động phổ thông chỉ chiếm một tỷ lệ thấp, trong khi phần lớn lại đòi hỏi phải có tay nghề, phải có trình độ kỹ thuật, nghiệp vụ, chuyên môn thích hợp. Để có thể được tuyển dụng vào làm việc tại các cơ sở công nghiệp, dịch vụ, những lao động nông nghiệp thuộc các hộ bị thu hồi đất nhất thiết phải được đào tạoviệc làm. Tính nhất thiết ở đây không chỉ được đặt ra đối với người cần đào tạo mà còn đặt ra đối với các cơ sở đào tạo và cơ chế chính sách của Nhà nước đối với tất cả các bên tham gia sự nghiệp đào tạo này. 1.2. Chuyển đổi nghề nghiệp và đào tạo việc làm cho dân cư vùng bị thu hồi đất đối với những hộ nông dân bị thu hồi một phần diện tích canh tác của gia đình. Những hộ nông dân thuộc diện này tuy bị thu hồi đất, nhưng gia đình vẫn còn đất canh tác mặc dù đã bịgiảm đi khá nhiều. Những hộnày có 3 phương án lựa chọn: a) Một bộ phận nhân lực của gia đình tiếp tục làm nông nghiệp, số còn lại chuyển sang làm phi nông nghiệp; b) Mua thêm đất nông nghiệp trên thị trường quyền sử dụng đất để cả gia đình tiếp tục làm nông nghiệp; c) Bán nốt phần đất nông nghiệp (chưa bị Nhà nước thu hồi) trên thị trường quyền sử dụng đất để gia đình chuyển sang làm phi nông nghiệp. - Trong 3 sự lựa chọn trên, sự lựa chọn b (mua thêm đất nông nghiệp) và sự lựa chọn c (bán nốt diện tích đất canh tác còn laị) sẽ dẫn các gia đình trong 2 sự lựa chọn đó đến các vấn đề chuyển đổi nghề nghiệp và đào tạo việc làm tương tự như phương án một. - Đối với sự lựa chọn a (một bộ phận nhân lực tiếp tục làm nông nghiệp, số còn lại chuyển sang làm phi nông nghiệp), các gia đình đứng trước 2 xu hướng về tiếp tục làm nông nghiệp, trong đó: Một là, làm nông nghiệp như cũ, hai là, đổi mới cách làm nông nghiệp. Nếu làm nông nghiệp như cũ thì thu nhập của gia đình trong lĩnh vực này sẽ thấp hơn so với khi chưa bị thu hồi đất (do diện tích canh tác đã bị giảm). Xu hướng này do vậy sẽ ít có gia đình chấp thuận, nhất là trong dài hạn. Xu hướng thứ hai là đổi mới cách làm nông nghiệp, theo đó các gia đình phải chọn các ngành nghề, sản phẩm trồng trọt, chăn nuôi, chế biến phù hợp với nhu cầu mới của quá trình hình thành và phát triển các khu công nghiệp, các khu đô thị tại các vùng Nhà nước thu hồi đất, trong đó có đất của gia đình mình (nông nghiệp theo cách làm mới này có thể đặt tên là Nông nghiệp đô thị như đã được đề cập tới tại luận án tiến sỹ kinh tế của tác gỉa Nguyễn Thế Thảo). - Chọn theo hướng Nông nghiệp đô thị - gọi là phương án 3 mặc dù vẫn là làm nông nghiệp những các gia đình vẫn phải thực hiện việc chuyển đổi nghề nghiệp và cần được đào tạo theo các yêu cầu kinh tế, kỹ thuật, nghiệp vụ chuyên môn của Nông nghiệp đô thị. Vấn đề này không chỉ đòi hỏi sự cố gắng, nỗ lực của các gia đình mà còn đòi hỏi phải được dẫn dắt và tạo điều kiện của cơ chế chính sách nhà nước. 2. Đề xuất mô hình. Từ các phân tích trên đây, việc chuyển đổi nghề nghiệp và đào tạo việc làm cho dân cư Vùng Nhà nước thu hồi đất, phát triển các khu công nghiệp tâp trung và đô thị tỉnh Bắc Ninh trong những năm tới cần được nghiên cứu xây dựng theo 3 mô hình sau đây: - Mô hình 1, tiếp tục làm nông nghiệp truyền thống. Các hộ bị thu hồi đất (từ ít đến nhiều) không chuyển đổi nghề nghiệp và đào tạo việc làm, thực hiện việc mua đất nông nghiệp trên thị trường quyền sử dụng đất để bù lại phần đất canh tác đã bị thu hồi, tiếp tục làm nông nghiệp theo truyền thống. - Mô hình 2, chuyển đổi sang làm phi nông nghiệp. Các hộ bị thu hồi đất (từ ít đến nhiều) không tiếp tục làm nông nghiệp, bán nốt diện tích canh tác chưa bị thu hồi để chuyển hẳn sang làm phi nông nghiệp. - Mô hình 3, chuyển sang làm phi nông nghiệp và nông nghiệp đô thị. Các hộ tuy bị thu hồi đất nhưng vẫn còn một số diện tích canh tác đáng kể, muốn chuyển một bộ phận nhân lực của gia đình sang làm phi nông nghiệp, số còn lại chuyển sang làm nông nghiệp đô thị. IV. ĐỀ XUẤT HOÀN THIỆN HỆ THỐNG CƠ CHẾ CHÍNH SÁCH CHUYỂN ĐỔI NGHỀ NGHIỆP VÀ ĐÀO TẠO VIỆC LÀM CHO DÂN CƯ VÙNG BỊ THU HỒI ĐẤT PHÁT TRIỂN CÁC KHU CÔNG NGHIỆP, KHU ĐÔ THỊ. Phù hợp với các phương án đề xuất mô hình trên đây, hệ thống cơ chế chính sách chuyển đổi nghề nghiệp và đào tạoviệc làm cho dân cư vùng bị thu hồi đất phát triển các khu công nghiệp, khu đô thị tỉnh Bắc Ninh trong những năm tới (2006-2010-2015) cần được hoàn thiện theo các định hướng sau đây: 1. Hoàn thiện chính sách thị trường quyền sử dụng đất nông nghiệp. Các hộ nông dân bị thu hồi đất, khi mua để bù đắp phần diện tích bị thu hồi nhằm tiếp tục làm nông nghiệp hoặc muốn bán số diện tích đất canh tác còn lại sau khi bị thu hồi để chuyển sang làm phi nông nghiệp đều cần sử dụng thị trường quyền sử dụng đất nông nghiệp để giải quyết nhu cầu của mình. Tuy nhiên, thị trường này cho tới nay vẫn rất chậm phát triển do đó gây nhiều trở ngại cho cả bên mua và bên bán trong các giao dịch và thực hiện giao dịch về chuyển nhượng quyền sử dụng đất nông nghiệp. Để tháo gỡ những trở ngại này nhằm tạo điều kiện cho các hộ nông dân bị thu hồi đất thực hiện việc tiếp tục làm nông nghiệp hay chuyển sang làm phi nông nghiệp theo nguyện vọng và các lợi thế có được của mình, cần hoàn thiện chính sách thị trường quyền sử dụng đất nông nghiệp theo hướng sau: - Bổ sung vào hệ thống pháp luật việc Nhà nước mua lại quyền sử dụng đất nông nghiệp từ các hộ nông dân cần bán và bán lại quyền này cho các hộ nông dân cần mua tại các vùng Nhà nước thu hồi đất, chuyển mục đích sử dụng đất nông nghiệp phát triển các khu công nghiệp và khu đô thị. Đây không chỉ là chính sách để Nhà nước làm vai trò trung gian cần thiết giữa các bên mua và bên bán trong các hộ nông dân có nhu cầu chuyển nhượng đất nông nghiệp, mà còn là chính sách cần thiết để Nhà nước thực hiện khoản 2, điều 42 Luật Đất đai 2003, trong đó qui định "người bị thu hồi đất nào thì được bồi thường việc giao đất mới có cùng mục đích sử dụng". - Công nhận và tạo điều kiện thuận lợi để các hộnông dân bị thu hồi đất được tự do mua, bán quyền sử dụng đất nông nghiệp trong và ngoài vùng Nhà nước làm khu công nghiệp, khu đô thị theo thoả thuận giữa các hộ mua và bán với nhau. Đây là chính sách cần thiết để giảm thiểu việc phải đảm nhiệm vai trò trung gian của Nhà nước ở điểm trên. 2. Hoàn thiện chính sách bồi thường đối với hộ nông dân bị thu hồi đất nông nghiệp tại các vùng Nhà nước phát triển khu công nghiệp, khu đô thị. Chính sách bồi thường của Nhà nước đối với hộ nông dân bị thu hồi đất nông nghiệp tại các vùng Nhà nước phát triển khu công nghiệp, khu đô thị hiện nay xét về mặt chuyển đổi nghề nghiệp, đào tạo việc làm cho lao động thuộc các hộ này đang rất cần được hoàn thiện trong thời gian tới. 2.1. Về quan niệm, cần có sự phân biệt bồi thường đất với bồi thường chuyển đổi nghề nghiệp và đào tạo việc làm. Khác với đất ở của hộ gia đình, đất nông nghiệp là một loại tư liệu sản xuất và hơn thế, đó lại là loại tư liệu sản xuất không có gì có thể thay thế được. Bởi vậy, bồi thường khi thu hồi loại đất này cho các hộ nông dân một cách đầy đủ nhất là áp dụng theo quy định của khoản 2, điều 42 Luật Đất đai năm 2003 "Người bị thu hồi loại đất nào thì được bồi thường bằng việc giao đất mới có cùng mục đích sử dụng". Trên thực tế, đối với đất ở, qui định này đã có những cơ chế chính sách cụ thể để thi hành (như chính sách tái định cự), còn đối với đất nông nghiệp thì Nhà nước thường chuyển sang áp dụng bồi thường bằng giá trị quyền sử dụng đất tại thời điểm có quyết định thu hồi đất. Từ việc bồi thường bằng đất chuyển sang bồi thường bằng giá trị quyền sử dụng đất là hai việc cần phải nhất quán, nếu không, sẽ tạo ra sự khác biệt mà tổn thất từ sự khác biệt này lại rơi vào hộ nông dân, người rất cần được bảo vệ trước sự rủi ro trong chuyển đổi kinh tế. Tính nhất quán ở đây chính là việc phải xác định giá trị quyền sử dụng đất sao cho khi hộ nông dân nhận được số tiền bồi thường, họ có thể mua được một số đất nông nghiệp có chất lượng và số lượng tương đương với số đất của họ bị thu hồi. Nếu việc mua đất không có điều kiện thực hiện thì số tiền nhận được từ bồi thường theo giá trị quyền sử dụng đất phải đủ để hộ nông dân tạo ra được một loại tư liệu sản xuất mới trong các ngành phi nông nghiệp, đem lại cho họ sự đảm bảo đời sống tương đương hoặc tốt hơn khi chưa bị thu hồi đất. Việc bồi thường theo quan niệm như vậy đã bao gồm trong đó cả việc đảm bảo ổn định đời sống, đào tạo chuyển đổi ngành nghề, bố trí việc làm mớimà Luật đất đai năm 2003 tại khoản 4 điều 42 đã không xem xét đến và do vậy chỉ được giải quyết bằng cơ chế hỗ trợ.Cần thay cơ chế bồi thường và hỗ trợ hiện nay bằng cơ chế bồi thường theo quan niệm trên. 2.2. Về giá, cần có sự phân biệt giữa giá đất với giá chuyển đổi nghề nghiệp và đào tạo việc làm. Hiện tại, giá bồi thường khi thực hiện thu hồi đất nông nghiệp từ các hộ nông dân là giá được qui định theo khung giá đất do các cơ quan có thẩm quyền ban hành. Tại tỉnh Bắc Ninh đang áp dụng giá 41 nghìn đồng/m2 đối với đất cây hàng năm loại 1, loại 6 là 31,73 nghìn đồng/m2 . Đây là giá được xác định theo nguyên tác sát với giá thị trường. Việc áp dụng giá thị trường (về đất) mặc dù có những ưu điểm nổi trội so với trước đây trong các lĩnh vực thuế, phí… nhà đất, nhưng đã tỏ rõ sự không đầy đủ và đúng đắn khi dùng giá thị trường đó để giải quyết mối quan hệ giữa Nhà nước và nông dân khi thực hiện việc thu hồi đất nông nghiệp để phát triển khu công nghiệp và đô thị. Đây là lý do chủ yếu khiến nông dân khiếu kiện với tỷ lệ cao và phổ biến ở nhiều tỉnh xung quanh việc áp giá này so với các loại khiếu kiện khác. Chính sách ruộng đất của Nhà nước đối với nông dân từ cách mạng Tháng Tám đến nay là chính sách thể hiện liên minh chính trị công- nông, là chính sách xã hội trong đó Nhà nước "giao cần câu cho nông dân", là chính sách kinh tế trong đó Nhà nước giao ruộng đất theo hạn mức và không thu tiền (sử dụng đất) đối với hạn mức này. Nay vì công nghiệp hoá, đô thị hoá, Nhà nước phải thu lại "cần câu" đã giao cho nông dân trước đây thì phải trao lại cho họ "một loại cần câu khác" chứ không phải chỉ là giải quyết sòng phẳng về mặt tài chính theo giá đất thị trường. Về mặt định lượng, giá áp dụng bồi thường khi thực hiện thu hồi đất nông nghiệp từ các hộ nông dân để phát triển khu công nghiệp, khu đô thị cần được xác định trên cơ sở giá đất sau khi đã chuyển đổi mục đích sử dụng, trừ đi các chi phí cho sự chuyển đổi đó (chi phí xây dựng cơ sở hạ tầng và các khoản thuế và phí nộp ngân sách nhà nước). Khoản chênh lệch giữa giá đất trước và sau khi chuyển đổi mục đích sử dụng lâu nay được thu vào ngân sách nhà nước hoặc tạo thu nhập cho tổ chức, cá nhân sử dụng đất sau khi chuyển mục đích sử dụng, còn hộ bị thu hồi đất thì không được hưởng gì. Đây là vấn đề cần được xem xét và định lại, theo đó, khoản chênh lệch cần được chia đều cho 3 bên, gồm: Nhà nước –Hộ nông dân bị thu hồi đất -Nhà đầu tư sử dụng đất sau khi đất được chuyển đổi mục đích sử dụng. Giá áp dụng bồi thường khi thực hiện thu hồi đất nông nghiệp từ các hộ nông dân để phát triển khu công nghiệp, khu đô thị theo sự xác định như vậy mới thể hiện đúng việc "thu cần câu cũ, trao cần câu mới" của Nhà nước cho hộ nông dân bị thu hồi đất. Với cần câu mới này, người nông dân thuộc các hộ bị thu hồi đất sẽ có điều kiện tài chính để thực hiện việc chuyển đổi nghề nghiệp và đào tạo việc làm cho mình. Giá áp dụng bồi thường như vậy cũng đồng thời cho phép huỷ bỏ tất cả các khoản hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp và đào tạo việc làm đang được qui định và thực hiện bị động, chắp vá hiện nay. 3. Hoàn thiện cơ chế chính sách chuyển đổi nghề nghiệp và đào tạo việc làm cho dân cư các vùng bị thu hồi đất, chuyển mục đích sử dụng đất phát triển khu công nghiệp, khu đô thị. Mặc dù giá áp dụng cho việc bồi thường trên đây là điều kiện quan trọng về tài chính để các hộ nông dân bị thu hồi đất thực hiện việc chuyển đổi nghề nghiệp và đào tạo việc làm, nhưng việc chuyển đổi và đào tạo này không chỉ phụ thuộc vào yếu tố tài chính mà còn vào nhiều yếu tố khác và đòi hỏi phải có cơ chế chính sách của Nhà nước. 3.1. Nhà nước định hướng cho sự chuyển đổi nghề nghiệp và đào tạo việc làm đối với dân cư các vùng bị thu hồi đất, chuyển mục đích sử dụng đất phát triển khu công nghiệp, khu đô thị. Việc phát triển khu công nghiệp, khu đô thị là việc được hoạch định trong qui hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội của cả nước nói chung và tỉnh Bắc Ninh nói riêng. Trong qui hoạch, kế hoạch này, việc thu hồi đất, chuyển mục đích sử dụng đất được xác định rất cụ thể, tuy nhiên còn thiếu vắng việc định hướng cho sự chuyển đổi nghề nghiệp và đào tạo việc làm đối vơí dân cư các vùng bị thu hồi đất. Sự thiếu vắng đó không chỉ gây ra tình trạng tự phát trong chuyển đổi nghề nghiệp và đào tạo việc làm đối với các hộ bị thu hồi đất mà còn gây bị động cho các cấp chính quyền địa phương khi giải quyết các vấn đề chuyển đổi tự phát này. Sự thiếu vắng trên đây cần được bổ khuyết trong thời gian tới, theo đó, khi trình để cơ quan có thẩm quyền phê duyệt qui hoạch, kế hoạch phát triển khu công nghiệp, khu đô thị nào thì tổ chức chủ trì phải trình luôn cả định hướng chuyển đổi nghề nghiệp và đào tạo việc làm đối với các hộ bị thu hồi đất tại các vùng này. Định hướng này khi được cấp có thẩm quyền phê duyệt sẽ trở thành căn cứ pháp lý quan trọng để không chỉ các hộ bị thu hồi đất mà tất cả các tổ chức nhà nước, ngoài nhà nước đều cùng thống nhất thực hiện. Sự thống nhất đó đảm bảo cho việc chuyển đổi nghề nghiệp và đào tạo việc làm của các hộ bị thu hồi đất được triển khai nhanh chóng, thuận lợi, có hiệu quả. 3.2. Nha nước tạo điều kiện khởi nghiệp cho các hộ nông dân bị thu hồi đất thực hiện chuyển đổi nghề nghiệp Hầu hết các tổ chức, cá nhân khi khởi nghiệp đều gặp những khó khăn, trở ngại phải vượt qua. Đối với hộ nông dân bị thu hồi đất, khi khởi nghiệp để thực hiện chuyển đổi nghề nghiệp thì tình trạng này càng gay gắt, nặng nề hơn. Để trợ giúp họ trong khởi nghiệp, việc tạo điều kiện từ phía nhà nươc có ý nghĩa rất quan trọng, trong đó nổi lên một số sự trợ giúp sau: * Lập vườn ươm cho sự khởi nghiệp. Đây là sự trợ giúp thiết thực cho những hộ nông dân bị thu hồi đát có thể chuyển đổi nghề nghiệp bằng việc xác lập một cơ sở có qui mô nhỏ trong những ngành nghề phi nông nghiệp. Mô hình vườn ươm này đã được áp dụng rộng rãi tại nhiều quốc gia trên thế giới và đã được quảng bá tại Việt Nam. Với tỉnh Bắc Ninh, tại mỗi khu công nghiệp tập trung và khu đô thị mới, Nhà nước cần dành ra một diện tích (một vài ha) để lập vườn ươm này, trong đó tại khu công nghiệp là vườn ươm cho các hộ khởi nghiệp bằng các ngành nghề tiểu, thủ công nghiệp; tại các khu đô thị là vườn ươm cho các hộ khởi nghiệp bằng các ngành nghề dịch vụ. * Bổ xung đối tượng được thụ hưởng chính sách của Ngân hàng chính sách xã hội. Việc khởi nghiệp đối với các hộ nông dân bị thu hồi đất sẽ dựa chủ yếu vào nguồn tài chính từ việc bồi thường của Nhà nước như đã trình bày tại mục 2.2. Tuy nhiên các hộ này vẫn rất cần được sự hỗ trợ của thị trường vốn. Đối với các tổ chức, đơn vị kinh tế đã hoạt động trên thương trường thì việc khai thác các hỗ trợ từ thị trường vốn là điều dễ thực hiện hơn so với các hộ nông dân bị thu hồi đất và bắt đầu lập nghiệp mới. Do vậy cần có một tổ chức tín dụng đặc biệt để các hộ này có thể tiếp cận, và đó chính là Ngân hàng chính sách xã hội. Mặc dù các hộ nông dân bị thu hồi đất đến Ngân hàng này để vay vốn lập nghiệp, vay vốn kinh doanh, nhưng sự lập nghiệp, kinh doanh ở đây không chỉ đơn thuần là những vấn đề kinh tế mà còn là những vấn đề chính trị xã hội. Nhằm khai thông việc này, chính quyền địa phương cần có sự can thiệp đối với hệ thống Ngân hàng chính sách xã hội để các hộ nông dân bị thu hồi đất và thực hiện khởi nghiệp trong chuyển đổi nghề nghiệp cũng được thụ hưởng các chính sách của Ngân hàng này. 3.3. Nhà nước ban hành chính sách đồng bộ của loại hình “Kinh tế hộ”. Trong hệ thống chính sách dành cho các loại hình tổ chức kinh doanh hiện nay, Nhà nước đã có chính sách cho Doanh nghiệp nhà nước, Hợp tác xã, Doanh nghiệp khu vực tự nhân, Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tuy nhiên, đối với các hộ nông dân bị thu hồi đất và thực hiện việc chuyển đổi nghề nghiệp theo đó hình thành loại hình “hộ kinh doanh” phi nông nghiệp hoặc nông nghiệp đô thị với qui mô “cực nhỏ”, thì điều kiện để thụ hưởng các chính sách của Nhà nước dành cho các Doanh nghiệp vừa và nhỏ lại ở ngoài tầm đối với loại hộ kinh doanh này. Sự thiếu vắng chính sách cho các hộ kinh doanh nói chung và cho các hộ kinh doanh phi nông nghiệp, hộ kinh doanh nông nghiệp đô thị đối với các hộ nông dân bị thu hồi đất tại các vùng Nhà nước phát triển khu công nghiệp, khu đô thị nói riêng cần được bù đắp trong thời gian tới trong đó nổi lên là: - Ban hành văn bản Luật về loại hình “kinh tế hộ”, tạo căn cứ pháp lý cho sự phát triển không chỉ đối với các hộ nông nghiệp, hộ kinh doanh phi nông nghiệp tại khu vực thành thị, hộ kinh doanh phi nông nghiệp tại khu vực nông thôn mà cả với hộ kinh doanh phi nông nghiệp, và hộ kinh doanh nông nghiệp đô thị hình thành từ các hộ nông dân bị thu hồi đất và thực hiện việc chuyển đổi nghề. - Bổ sung chính sách đất đai trong đó không chỉ chú trọng tới nhu cầu đất làm mặt bằng kinh doanh của các loại hình Doanh nghiệp lớn, vừa và nhỏ mà cả với loại hình “cực nhỏ” tránh duy trì tình trạng các hộ này phải sử dụng đất ở, nhà ở vào mục đích kinh doanh, gây những bất lợi cho bảo vệ môi trường và sự phát triển mở rộng kinh doanh của các hộ này. - Tạo điều kiện để các hộ kinh doanh nói chung và các hộ kinh doanh phi nông nghiệp, và hộ kinh doanh nông nghiệp đô thị hình thành từ các hộ nông dân bị thu hồi đất nói riêng được tham gia vào thị trường tài chính , tín dụng bình đẳng với các loại hình doanh nghiệp khác. 4. Hoàn thiện tổ chức đào tạo việc làm cho dân cư các vùng bị thu hồi đất phát triển Khu công nghiệp, Khu đô thị. Như trên đã phân tích, người lao động thuộc các hộ bị thu hồi đất, chuyển mục đích sử dụng đất phát triển Khu công nghiệp, Khu đô thị sẽ phải chuyển đổi nghề nghiệp, trong đó có người trở thành chủ nhân của hộ kinh doanh phi nông nghiệp, hộ kinh doanh nông nghiệp đô thị, có người trở thành lao động làm thuê cho các đơn vị kinh doanh trong Khu công nghiệp, Khu đô thị nơi họ vừa bị thu hồi đất, có người phải rời quê hương để làm chủ hoặc làm thuê tại các địa phương khác. Mặc cho tất cả các sự khác nhau đó, họ đều cần được đào tạo việc làm dù đó là làm chủ hay làm thuê, dù đó là làm tại quê hương mình hay tại các địa phương khác. Tổ chức đào tạo việc làm cho các đối tượng này hiện chưa đáp ứng được các yêu cầu trên và rất cần được hoàn thiện trong thời gian tới. 4.1. Về tài chính cho người được đào tạo việc làm. Trong chính sách tài chính hỗ trợ cho hộ nông dân bị thu hồi đất tỉnh Bắc Ninh, việc hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp và hỗ trợ đào tạo việc làm được gộp chung lại với mức 14,7 nghìn đồng/m2 đất bị thu hồi, tính ra mức hỗ trợ này đã bằng 35,8% so với giá đất trồng cây hàng năm loại 1 bị thu hồi (14,7/41 nghìn đồng/m2). Với mức này, một gia đình bị thu hồi đất bình quân 600m2 sẽ được hỗ trợ 8,62 triệu đồng. Về thực chất đây là số tiền được trả thêm cho giá bồi thường đất quá thấp, và không có mấy ý nghĩa cho việc đào tạo việc làm . Vấn đề tài chính cho người được đào tạo việc làm cần được hoàn thiện như đã trình bày tại mục 2 bên trên. 4.2 Về tổ chức cơ sở đào tạo việc làm. Do nhu cầu đào tạo việc làm cho dân cư các vùng bị thu hồi đất khá đa dạng, trong đó có nhu cầu cấp bách trước mắt, có nhu cầu cơ bản lâu dài, có nhu cầu đào tạo tại chỗ, có nhu cầu đào tạo tại các trung tâm của huyện, của tỉnh, của quốc gia… Mặt khác, cho dù nhu cầu đào tạo việc làm cho các đối tượng này là rất lớn, nhưng cũng không phải vì thế mà nhất thiết phải tổ chức ra những trường, lớp đào tạo riêng cho các đối tượng này. Đây là những vấn đề tuỳ thuộc phần lớn vào năng lực và lợi ích của cơ sở đào tạo, không thể đơn thuần chỉ được tổ chức theo mệnh lệnh hành chính. Trong thời gian tới, việc tổ chức cơ sở đào tạo việc làm cho dân cư các Vùng bị thu hồi đất phát triển Khu công nghiệp, Khu đô thị tỉnh Bắc Ninh cần được hoàn thiện theo các hướng sau: - Đối với những hộ có nhu cầu đào tạo cơ bản, lâu dài, Tỉnh có chính sách khuyến khích cụ thể, trong đó xem xét việc cấp học bổng toàn phần hoặc một phần cho những người theo học các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp. - Đối với những hộ có nhu cầu đào tạo ngắn ngày theo những ngành nghề thông dụng kể cả trong nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ, Tỉnh khuyến khích các trường, các trung tâm sẵn có tại tỉnh mở rộng thêm qui mô, mở thêm ngành nghề đào tạo để đáp ứng tối đa các nhu cầu của họ. Việc tổ chức thêm các trường mới, trung tâm mới cần được xem xét và quyết định một cách tổng thể, trong đó việc đào tạo cho lao động thuộc các hộ bị thu hồi đất chỉ là bộ phận cần được ưu tiên. - Đối với những hộ có nhu cầu đào tạo tại chỗ, Tỉnh có chính sách giao cho cấp Huyện, Thị xã thực hiện, theo đó hình thành các tổ chức đào tạo thích hợp, đặc biệt là đối với yêu cầu ngắn ngày, tại chỗ, ngành nghề và công nghệ dễ dàng chuyển giao. - Đối với những Doanh nghiệp trong khu công nghiệp, khu đô thị thực hiện cam kết tuyển dụng lao động từ các hộ bị thu hồi đất, Tỉnh tạo điều kiện để các Doanh nghiệp tổ chức đào tạo việc làm cho số lao động này, nhất là khi việc đào tạo được tiến hành trước khi Doanh nghiệp đi vào hoạt động. - Sự thành công trong hoàn thiện tổ chức đào tạo việc làm trên đây phụ thuộc vào nhiều yếu tố trong đó có yếu tố về khả năng thanh toán chi phí đào tạo cho các cơ sở của các hộ nông dân bị thu hôì đất. Việc thực thi các chính sách bồi thường cho hộ nông dân bị thu hồi đất hiện nay nếu được sửa đổi, bổ sung như trình bày tại mục 2 sẽ cho phép các hộ này hoàn toàn có được khả năng trên. 4.3. Về chính sách đối với cơ sở đào tạo. Ngoài những chính sách đã có đối với các cơ sở đào tạo nói chung, cần có chính sách riêng đối với các cơ sở đảm nhiệm việc đào tạo việc làm cho dân cư vùng bị thu hồi đất phát triển Khu công nghiệp, Khu đô thị, trong đó nổi lên là: - Tạo điều kiện để cơ sở đào tạo thực hiện việc mở rộng diện tích trường sở theo chính sách giao đất không thu tiền sử dụng đất. - Tiếp tục củng cố, phát triển cơ sở đào tạo công lập, đồng thời trú trọng phát triển cơ sở đào tạo tư nhân, kể cả việc khuyến khích cơ sở đào tạo tư nhân của thành phố Hà Nội và các tỉnh, thành phố khác mở chi nhánh hoặc trường sở chính tại địa bàn tỉnh Bắc Ninh. - Đối với việc đào tạo những ngành nghề mới (nông nghiệp đô thị, cơ khí điện tử, dịch vụ Khu công nghiệp…) mà các cơ sở chưa có truyền thống đào tạo, Tỉnh có sự tác động toàn diện hơn để các cơ sở này sớm hình thành và đưa vào hoạt động các trung tâm, khoa, lớp… loại này vào hoạt động. Sự tác động toàn diện này bao gồm cả những chính sách đầu tư từ ngân sách tỉnh, chính sách thu hút nhân tài tăng cường cho các cơ sở đào tạo. V. TỔ CHỨC VÀ BIỆN PHÁP THỰC HIỆN CÁC ĐỀ XUẤT HOÀN THIỆN HỆ THỐNG CHÍNH SÁCH CHUYỂN ĐỔI NGHỀ NGHIỆP VÀ ĐÀO TẠO VIỆC LÀM CHO DÂN CƯ CÁC VÙNG BỊ THU HỒI ĐẤT PHÁT TRIỂN KHU CÔNG NGHIỆP, KHU ĐÔ THỊ TỈNH BẮC NINH. Các đề xuất hoàn thiện hệ thống chính sách trên cần được thực hiện với những giải pháp về tổ chức và những biện pháp cụ thể sau đây: 1. Về tổ chức thực hiện. Việc chuyển đổi nghề nghiệp và đào tạo việc làm cho dân cư vùng bị thu hồi đất phát triển Khu công nghiệp, Khu đô thị có liên quan tới nhiều cơ quan quản lý nhà nước của tỉnh Bắc Ninh như: Sở Tài nguyên và Môi trường, Sở Nông nghiệp và phát triển Nông thôn, Sở Công nghiệp, Ban Quản lý các khu công nghiệp tỉnh, Sở Tài chính, Sở Lao động- Thương bình- Xã hội. Chỉ cần thiếu sự tham gia và phối hợp của một trong các cơ quan đó thì chẳng những các đề xuất hoàn thiện hệ thống chính sách cho các đối tượng này không hoặc chậm được thể chế hoá mà ngay cả khi đã được thể chế hoá thì cũng khó bảo đảm được chất lượng của chính sách ban hành, đồng thời khó đưa vào cuộc sống. Bởi vậy, về mặt tổ chức, cần có sự phân công hợp lý để huy động sự tham gia và phối hợp đúng và đủ của tất cả các cơ quan chức năng trên, theo đó : - Trong 6 cơ quan trên, chọn một cơ quan đứng ra đảm nhiệm vai trò chung (tổng hợp). Cơ quan tổng hợp này có nhiệm vụ giúp Uỷ ban nhân dân tỉnh quyết định một lộ trình hợp lý cho việc thể chế hoá các đề xuất hoàn thiện hệ thống chính sách được trình bày trong đề tài này. Cơ quan tổng hợp cũng đồng thời là tổ chức giúp Uỷ ban nhân dân tỉnh lãnh đạo, chỉ đạo việc thực hiện các chính sách đã được ban hành. - Phân công cơ quan chủ trì và các cơ quan phối hợp thực hiện việc xây dựng các đề án chính sách để trình Uỷ ban Nhân dân tỉnh ban hành theo thẩm quyền của cấp tỉnh. Đây là những chính sách tỉnh Bắc Ninh hoàn toàn có thể chủ động trong việc ban hành và tổ chức thực hiện. - Phân công cơ quan chủ trì và các cơ quan phối hợp thực hiện việc xây dựng các Đề án Chính sách để Uỷ ban Nhân dân tỉnh trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ cho phép ban hành và thực hiện tại tỉnh Bắc Ninh. Kinh nghiệm từ nhiều tỉnh và thành phố được Trung ương cho phép áp dụng các cơ chế chính sách đặc thù, hoặc thí điểm hoặc làm trước tại các địa phương này đã chỉ rõ rằng trong khi Trung ương chưa kịp sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện cơ chế chính sách chung cho cả nước thì việc cấp tỉnh xây dựng Đề án Chính sách trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ cho phép ban hành và thực hiện thí điểm tại tỉnh là rất hữu hiệu, trong đó nổi lên là. · Dự án Chính sách mua và bán quyền sử dụng đất nông nghiệp phục vụ chuyển đổi nghề nghiệp và đào tạo việc làm tại Vùng Nhà nước thu hồi đất phát triển Khu công nghiệp và đô thị. · Dự án Chính sách bồi thường chuyển đổi nghề nghiệp và đào tạo việc làm đối với hộ nông dân bị thu hồi đất thay thế chính sách bồi thường và hỗ trợ thu hồi đất cho các hộ này theo cơ chế chính sách hiện hành · Dự án “Kiến nghị về Luật Kinh tế hộ” để Đại biểu thuộc đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Bắc Ninh trình ra Quốc hội theo điều 87 Hiến pháp hiện hành. 2. Về biện pháp thực hiện. 2.1.Thống nhất nhận thức. Mặc dù thu hồi đất để phát triển Khu công nghiệp, Khu đô thị là một tất yếu trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá của đất nước nói chung, của tỉnh Bắc Ninh nói riêng, nhưng đối với thu hồi đất nông nghiệp từ hộ nông dân thì việc sử dụng các giải pháp bồi thường và hỗ trợ như hiện nay cần được sửa đổi, bổ sung để chuyển thành bồi thường chuyển đổi nghề nghiệp và đào tạo việc làm cho những hộ này. Nhận thức này giúp cho việc nghiên cứu, xây dựng các giải pháp chuyển đổi nghề nghiệp, đào tạo việc làm đối dân cư các Vùng Nhà nước thu hồi đất phát triển các Khu công nghiệp, Đô thị tỉnh Bắc Ninh được tiến hành đồng bộ, toàn diện, vừa giải quyết được các vấn đề cấp bách trước mắt, vừa đáp ứng được các đòi hỏi cơ bản, lâu dài về lĩnh vực này. 2.2. Chi ngân sách tỉnh. Việc chuyển đổi nghề nghiệp và đào tạo việc làm cho dân cư Vùng Nhà nước thu hồi đất phát triển Khu công nghiệp và đô thị tỉnh Bắc Ninh là công việc đòi hỏi phải huy động tài chính từ nhiều nguồn, trong đó ngoài nguồn được bồi thường của người bị thu hồi đất ra thì nguồn từ ngân sách tỉnh có vai trò và vị trí quan trọng. Việc chuyển đổi và đào tạo này vừa đòi hỏi phải thực hiện hàng năm, vừa đòi hỏi phải duy trì liên tục trong suốt quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá của tỉnh từ nay đến 2010 và 2015, 2020 nên việc chi ngân sách cho lĩnh vực này cần trở thành một khoản mục trong chi thường xuyên của Ngân sách tỉnh trên cơ sở vận dụng quy định theo khoản 2 của điều 33 Luật Ngân sách nhà nước hiện hành. Khoản chi thường xuyên này là biện pháp tác động trực tiếp của Chính quyền tỉnh tới quá trình chuyển đổi nghề nghiệp và đào tạo nghề nghiệp cho dân cư Vùng Nhà nước thu hồi đất phát triển Khu công nghiệp và đô thị tỉnh Bắc Ninh. 2.3. Khuyến khích doanh nghiệp các thành phần kinh tế đầu tư, tạo việc làm và thu hút lao động. Kết quả của việc chuyển đổi nghề nghiệp, đào tạo việc làm cho dân cư Vùng Nhà nước thu hồi đất phát triển Khu công nghiệp và đô thị tuỳ thuộc một phần lớn vào việc sốlao động được đào tạo có nhận được việc làm tại các cơ sở sản xuất, kinh doanh không. Kinh nghiệm cho thấy địa phương nào không tạo ra được những việc làm mới thì người lao động dù được đào tạo cũng phải dời đến địa phương khác để tìm kiếm việc làm mặc dù phải chịu nhiều rủi ro (do không có nhà ở, không được nhập hộ khẩu, con cái khi đi học hoặc khám chữa bệnh phải nộp kinh phí trái luồng, tuyến… ). Do tầm quan trọng của việc tạo ra việc làm mới nên các biện pháp khuyến khích doanh nghiệp các thành phần kinh tế đầu tư vào tỉnh Bắc Ninh cần được vận dụng tối đa, đặc biệt là: - Thực hiện việc “Trải thảm đỏ cho các nhà đầu tư” theo mô hình của tỉnh Bình Dương. - Thực hiện xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng Khu công nghiệp theo mô hình “cuốn chiếu của nhiều tỉnh, thành phố trong đó có kinh nghiệm của Khu công nghiệp Điện Nam- Điện Ngọc của tỉnh Quảng Nam. 2.4. Thực hiện thí điểm. Trong khi chờ đợi các cấp thẩm quyền ban hành cơ chế chính sách mới thì biện pháp tích cực, chủ động là tự quyết định hoặc xin cấp trên cho được làm thí điểm theo phương hướng và mục tiêu cơ chế chính sách mới. Trong Lĩnh vực chuyển đổi nghề nghiệp và đào tạo việc làm cho dân cư vùng Nhà nước thu hồi đất phát triển Khu công nghiệp và đô thị tỉnh Bắc Ninh cũng đã và đang xuất hiện những yêu cầu của việc ban hành hàng loạt cơ chế chính sách mới so với hiện tại. Tuy nhiên, kinh nghiệm từ thực tiễn của công cuộc Đổi mới những năm qua cho thấy từ khi xuất hiện yêu cầu đổi mới cơ chế chính sách cho đến khi cơ chế chính sách mới được ban hành thường phải mất một khoảng thời gian từ 7 đến 10 năm. Nếu phải chờ đợi như vậy, Tỉnh Bắc Ninh sẽ khó có thể thực hiện được các mục tiêu, nhiệm vụ đặt ra cho việc thu hồi đất, chuyển mục đích sử dụng đất để phát triển các Khu công nghiệp, Khu đô thị cũng như cho việc chuyển đổi nghề nghiệp và đào tạo việc làm cho dân cư các vùng này từ nay đến 2010, 2015 và 2020. Biện pháp cần thiết ngay từ bây giờ là Tỉnh xem xét và quyết định theo thẩm quyền và đề nghị Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ cho phép thí diểm thực hiện một số cơ chế chính sách mới trong lĩnh vực này, mà nổi lên là: - Thí điểm việc giao cho Ban quản lý các Khu công nghiệp Bắc Ninh xây dựng Trường đào tạo nghề với sự tham gia của các doanh nghiệp dưới dạng góp vốn bằng tiền và cơ sở vật chất kỹ thuật. Các kỹ sư, chuyên biên giỏi của các Doanh nghiệp thuộc Khu công nghiệp có thể tham gia giảng dạy để đào tạo chuyên gia, công nhân lành nghề theo địa chỉ, theo đơn đặt hàng của các doanh nghiệp. - Thí điểm việc giao cho tổ chức khuyến công thực hiện việc thành lập và đưa vào vận hành một (Vườn ươm công nghiệp) để phục vụ việc chuyển đổi nghề nghiệp và đào tạo việc làm cho những hộ nông dân bị lấy đất cần lập nghiệp bằng các ngành nghề tiểu, thủ công nghiệp. Tương tự như vậy, tiến hành thí điểm việc giao cho tổ chức khuyến nông thực hiện việc thành lập và đưa vào vận hành một “Vườn ươm” về phát triển nông nghiệp đô thị. - Thí điểm thực hiện cơ chế chính sách bồi thường chuyển đổi nghề nghiệp và đào tạo việc làm thay cho chính sách bồi thường và hỗ trợ thu hồi đất tại một vùng (được lựa chọn cụ thể của tỉnh Bắc Ninh) Nhà nước thu hồi đất để phát triển Khu công nghiệp, Khu đô thị. KẾT LUẬN Đề tài “các giải pháp chuyển đổi nghề nghiệp, đào tạo việc làm cho dân cư các Vùng Nhà nước thu hồi đất phát triển các Khu công nghiệp tập trung và đô thị tỉnh Bắc Ninh trong những năm tới” được tiến hành nghiên cứu khi Tỉnh tái lập được 9 năm (1997-2005) và khi công cuộc xây dựng và phát triển Khu công nghiệp tập trung, cụm công nghiệp và Đô thị trải qua 5 năm (2001 –2005) khởi sắc. Quá trình đó cũng đồng thời là quá trình Tỉnh thực hiện các giải pháp chuyển đổi nghề nghiệp, đào tạo việc làm cho dân cư các vùng Nhà nước thu hồi đất để phục vụ các công cuộc trên. Hai quá trình này có quan hệ mật thiết với nhau và đã được các cấp Chính quyền Tỉnh Bắc Ninh tổ chức, chỉ đạo thực hiện đạt nhiều kết quả tích cực, đóng góp vào sự tăng trưởng và phát triển chung của tổng thể kinh tế- xã hội Tỉnh Bắc Ninh những năm qua. Trong triển khai nghiên cứu, Đề tài đã góp phần vào việc tổng kết các quá trình trên, làm rõ các thành tựu đồng thời chú trọng phân tích các vấn đề tồn tại đã và đang đặt ra, đòi hỏi phải giải quyết trong những năm tới. Theo các mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu, Đề tài đã hệ thống hoá một vấn đề lý luận và thực tiễn chủ yếu để làm luận cứ cho việc đề xuất các giải pháp chuyển đổi nghề nghiệp đào tạo việc làm cho dân cư các vùng Nhà nước thu hồi đất phát triển các Khu công nghiệp tập trung và Đô thị Tỉnh Bắc Ninh trong những năm tới. Trong đề xuất các giải pháp, Đề tài đã chú trọng đưa ra các vấn đề về quan điểm, về phương án và mô hình, về hoàn thiện hệ thống cơ chế chính sách, về tổ chức và biện pháp thực hiện. Do đóng góp chủ yếu của Đề tài là hệ thống hoá và đề xuất những căn cứ khoa học về các giải pháp chuyển đổi nghề nghiệp, đào tạo việc làm cho dân cư các vùng Nhà nước thu hồi đất phát triển các Khu công nghiệp tập trung và Đô thị Tỉnh Bắc Ninh trong những năm tới nên Đề tài này đòi hỏi phải được tiếp tục nghiên cứu đề xuất dưới hình thức các Đề án Chính sách, Đề án xây dựng mô hình để trình Hội đồng Nhân dân và Uỷ ban Nhân dân tỉnh xem xét phê duyệt, tổ chức và chỉ đạo việc thực hiện. Trong các Đề án cần nghiên cứu trong thời gian tới, Đề tài kiến nghị ưu tiên cho các công trình thuộc diện thí điểm được trình bày tại mục 2.4 của phần V chương III, Báo cáo Tổng hợp Đề tài./. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ IX – nhà xuất bản Chính trị quốc gia, 2001. Dự thảo Báo cáo Chính trị trình Đại hội Đại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ X- Tài liệu nội bộ. Hiến pháp nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 (sửa đổi)- Nxb Chính trị Quốc gia, năm 2002. Luật Tổ chức Chính phủ năm 2001 – Nxb Chính trị Quốc gia, năm 2002. Luật Tổ chức Hội đồng Nhân dân và Uỷ ban Nhân dân 2003- Nxb Chính trị Quốc gia, 2004. Bộ luật Lao động nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam (sửa đổi bổ sung) năm 2002- Nxb Chính trị, Quốc gia, 2005. Luật Đất đai năm 2003 – Nxb Tư pháp, 2005. Luật Ngân sách nhà nước năm 2002- Nxb Chính trị, Quốc gia, 2003- Dự thảo Báo cáo Chính trị của Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh khoá 16 tại Đại hội Đại biểu Đảng bộ lần thứ 17- Tỉnh Bắc Ninh, 2005. Tài liệu nội bộ. Qui hoạch tổng thể phát triển kinh tế- xã hội Tỉnh Bắc Ninh đến năm 2010 và một số định hướng chiến lược đến năm 2020- UBND Tỉnh Bắc Ninh, 2001. Niên giám thống kê Tỉnh Bắc Ninh (các năm 2000- 2004) – Cục Thống kê Tỉnh Bắc Ninh. Phát huy lợi thế so sánh đẩy mạnh phát triển kinh tế Tỉnh Bắc Ninh- Nguyễn Thế Thảo, Luận án Tiến sỹ kinh tế – 2005. Sự hình thành và phát triển thị trường bất động sản trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam – Viện Nghiên cứu QLKT TW- Nxb Khoa học và kỹ thuật, 2003. Một số vấn đề phát triển thị trường Lao động Việt Nam- Viện Nghiên cứu QLKT TW- Nxb Khoa học kỹ thuật, 2003. Đề án Đào tạo nghề nghiệp ngắn hạn cho lao động nông thôn Thành phố Hà Nội giai đoạn 2005-2010- Sở Lao động thương binh- xã hội thành phố Hà Nội, 8/2005. Tạo việc làm cho nông dân bị thu hồi đất Tỉnh Hải Dương- Huyền Ngân, … 3.1.1.Mục tiêu phát triển KT-XH của tỉnh Bắc Ninh đến năm 2010. Trên cơ sở nhận định tình hình chung và đánh giá sự phát triển NNL, Bắc Ninh đã xây dựng quy hoạch tổng thể phát triển KT-XH thời kỳ 2000-2010, phấn đấu đến năm 2015 trở thành tỉnh công nghiệp, trong đó chủ trương tiếp tục đẩy mạnh CNH-HĐH(nhất là CNH-HĐH nông nghiệp nông thôn), tiếp tục chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo hướng CNH-HĐH. Cụ thể: - Đối với nông nghiệp nông thôn: Phát triển theo hướng xây dựng nền sản xuất hàng hóa quy mô lớn, hiệu quả và bền vững có năng suất chất lượng và sức cạnh tranh cao trên cơ sở sử dụng các tiến bộ khoa học công nghệ tiên tiến để đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng tăng tỷ trọng dịch vụ công nghiệp trong cơ cấu kinh tế nông thôn, khai thác có hiệu quả tiềm năng của các tiểu vùng kinh tế trong tỉnh, gắn phát triển nông nghiệp với công nghiệp chế biến, tiểu thủ công nghiệp. -Đối với công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp: Phát triển công nghiệp chế biến nông-lâm sản trên cơ sở phát huy thế mạnh của nông nghiệp. Tập trung vào công nghiệp phục vụ sản xuất nông nghiệp và đáp ứng một phần nhu cầu tiêu dùng ở nông thôn. Phát triển các ngành công nghiệp có hàm lượng lao động cao như đồ uống, dệt may, da giày. Ưu tiên các ngành sản xuất: vật liệu xây dựng, cơ khí, điện máy, hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu. Phát triển các làng nghề truyền thống, đặc biệt chú ý các làng nghề có sản phẩm xuất khẩu như thêu ren, tơ tằm. Phát triển công nghiệp gắn với quy hoạch đô thị, giữ gìn bảo tồn các di sản thiên nhiên, các công trình văn hóa, di tích lịch sử và bảo vệ sinh thái. Chuyển mạnh nền công nghiệp từ chủ yếu là gia công hiện nay sang sản xuất hiện đại để đạt giá trị xuất khẩu cao. Tuy nhiên, căn cứ vào tiềm năng nguyên liệu và nguồn lực lao động, Bắc Ninh cần ưu tiên đầu tư phát triển vào tiềm năng nguyên liệu và nguồn lực lao động, Bắc Ninh cần ưu tiên đầu tư phát triển vào các nhóm ngành như: + Công nghiệp chế biến nông - lâm sản - thực phẩm và đồ uống. + Công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng. + Công nghiệp cơ khí (chế tạo và sửa chữa). + Công nghiệp hàng tiêu dùng (may mặc, da giày, hàng thủ công mỹ nghệ) và các sản phẩm phục vụ lễ hội, du lịch. + Tạo điều kiện phát triển các làng nghề, các ngành nghề thủ công gắn với công nghệ mới. -Đối với thương mại và du lịch: Tập trung quy hoạch xây dựng mạng lưới kinh doanh bán buôn, bán lẻ trên địa bàn gắn với thị trường Hà Nội, các tỉnh và nước ngoài. Liên kết chặt chẽ với các cơ sở sản xuất nắm vững nguồn hàng để trực tiếp ký kết hợp đồng mua bán tiêu thụ sản phẩm đảm bảo uy tín. Giữ vững và tìm kiếm thị trường trong và ngoài nước. Xuất khẩu với đầu tư phải gắn với vùng nguyên liệu nông sản, công nghiệp tập trung của tỉnh để từng bước tạo mặt hàng chủ lực. Phát triển du lịch thành ngành kinh tế quan trọng. Trên cơ sở quy hoạch tổng thể phát triển du lịch, tăng cường đầu tư phát triển du lịch, xây dựng các dự án huy động mọi nguồn vốn của các thành phần kinh tế cho du lịch. Theo quy hoạch tổng thể phát triển KT-XH, trong thời gian tới ở Bắc Ninh cần đạt là: Nhịp độ tăng trưởng GDP đạt 7,5% - 8%/ năm giai đoạn 2001-2005 và 9% - 10% giai đoạn 2006 -2010. Bảng 3.1. Dự báo cơ cấu ngành kinh tế trong GDP. Đơn vị tính: % Thời gian Ngành kinh tế 2005 2010 Nông nghiệp, lâm nghiệp và thuỷ sản 25,7 14 Công nghiệp và xây dựng 47,1 55 Dịch vụ 27,2 31 Nguồn:Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh năm 2005[12]. - Kim ngạch xuất khẩu năm 2005 là 80 triệu USD, năm 2010 là 200 triệu USD. - Thu nhập bình quân đầu người đạt 14 triệu VNĐ vào năm 2010. 3.1.2. Phương hướng đào tạo và sử dụng NNL trong quá trình CNH, HĐH. Để thực hiện mục tiêu của CNH, HĐH trong phát triển KT-XH, hoạt động đào tạo và sử dụng NNL của Bắc Ninh trong thời gian tới theo định hướng sau: 3.1.2.1. Tiếp tục đào tạo và đào tạo lại NNL cả về số lượng, chất lượng cho CNH, HĐH . Mục tiêu đào tạo NNL là phải đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH và phát triển KT-XH và nâng cao tỷ lệ lao động qua đào tạo lên 30%, Hội nghị lần thứ II BCHTW khóa VIII Đảng ta xác định: "Phát triển đào tạo đại học, THCN, đẩy mạnh đào tạo công nhân lành nghề bảo đảm có nhiều nhân tài cho đất nước. Kế hoạch đào tạo nghề phải theo sát chương trình KT-XH của từng vùng phục vụ cho sự chuyển đổi cơ cấu lao động cho CNH-HĐH nông nghiệp nông thôn… Đào tạo đủ công nhân lành nghề cho các khu công nghiệp, khu chế xuất, có tính đến nhu cầu xuất khẩu. Tại Đại hội IX, Đảng ta đã khẳng định: "Tiếp tục quán triệt quan điểm Giáo dục là quốc sách hàng đầu và tạo sự chuyển biến cơ bản, toàn diện trong phát triển Giáo dục đào tạo… Định hình quy mô giáo dục đào tạo, điều chỉnh cơ cấu đào tạo nhất là cơ cấu cấp học theo lãnh thổ phù hợp với nhu cầu phát triển NNL phục vụ phát triển KT-XH. Nâng cao trình độ đội ngũ giáo viên các cấp" [8, tr.292]. Do vậy, thời gian tới cần: - Đào tạo NNL phải chú trọng phát triển toàn diện, góp phần tích cực vào sự nghiệp CNH-HĐH, có tinh thần ham hiểu biết, có tư duy sáng tạo, làm chủ khoa học kỹ thuật hiện đại, có ý thức và năng lực hợp tác, có tinh thần trách nhiệm với cộng đồng xã hội, với môi trường tự nhiên, có nếp sống lành mạnh và sức khỏe tốt để học tập, lao động suốt đời, muốn vậy phải: + Mở rộng quy mô đào tạo đi đôi với coi trọng chất lượng Giáo dục đào tạo và hiệu quả sử dụng, đáp ứng yêu cầu nhân lực trước mắt và lâu dài cho CNH-HĐH. + Thực hiện đa dạng hóa các loại hình đào tạo và trình độ đào tạo (chính quy, không chính quy) và các hình thức như đào tạo từ xa, rèn luyện kỹ năng, tổ chức đào tạo và bồi dưỡng lại cho công nhân đang làm việc theo chu kỳ 5năm/ 1 lần để đáp ứng yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động theo hướng CNH-HĐH. + Cần tập trung sức nhanh chóng phát triển đào tạo nhằm đáp ứng yêu cầu nhân lực cho 17 cụm công nghiệp địa phương, khu công nghiệp Từ Sơn và khu công nghiệp Quế Võ. Đẩy mạnh việc đào tạo lại nhằm bổ túc kiến thức nâng cao năng lực mới, kiến thức công nghệ hiện đại góp phần nâng cao trình độ kỹ thuật và quản lý cho đội ngũ lao động đang sử dụng để nâng cao năng suất lao động. -Trong quá trình đào tạo và đào tạo lại cần thực hiện đồng thời các mặt như: thay đổi cơ cấu lao động nâng cao chất lượng trình độ kỹ thuật công nghệ và tăng cường năng lực quản lý. Trong đó đào tạo lao động kỹ thuật để nhanh chóng khắc phục mặt yếu kém của NNL ở Bắc Ninh hiện nay. Cụ thể: + Đối với giáo dục phổ thông: giữ vững thành quả phổ cập tiểu học và THCS, tăng tỷ lệ huy động học sinh trong độ tuổi vào THPT từ 57% năm 2000 lên 65% năm 2005 và 75% vào năm 2010 [22, tr.7-8]. + Đối với THCN cần mở rộng đào tạo kỹ thuật viên, nhân viên nghiệp vụ có kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp ở trình độ trung học dựa trên nền tảng học vấn THCS. Thu hút 10% học sinh trong độ tuổi vào các trường THCN trong năm 2005 và 15% vào năm 2010 [22, tr.9]. + Đối với dạy nghề: mở rộng đào tạo công nhân, chú trọng đào tạo đội ngũ công nhân tay nghề cao cho một số ngành mũi nhọn và cho xuất khẩu lao động. Phát triển nghề ngắn hạn, đặc biệt ở nông thôn để thực hiện chuyển dịch cơ cấu lao động từ nông nghiệp sang các ngành nghề khác. Thu hút học sinh sau THCS vào học các trường dạy nghề tới 2005 đạt tỷ lệ 25% trong độ tuổi và 30% năm 2010 [22, tr.9]. + Đối với đại học và cao đẳng: cần đáp ứng tốt yêu cầu nhân lực trình độ cao cho CNH-HĐH và phát triển bền vững, nâng sức cạnh tranh và đặc biệt đáp ứng yêu cầu sự nghiệp CNH-HĐH phát triển theo hướng kinh tế tri thức. Do đó một mặt củng cố phát triển trường Cao đẳng Cộng đồng và mặt khác nâng trường Cao đẳng Sư phạm Bắc Ninh lên Đại học, xây dựng một trường Đại học dân lập [22, tr.9]. 3.1.2.2. Giải quyết đúng đắn mối quan hệ cung cầu về NNL qua đào tạo cho các lĩnh vực KT-XH. -Lĩnh vực công nghiệp-xây dựng: Tăng quy mô và điều chỉnh cơ cấu đào tạo để đến năm 2010 có 60 - 65% lao động trong ngành công nghiệp - xây dựng được đào tạo, trong đó 7,5% có trình độ Cao đẳng trở lên, 15% THCN; 42% CNKT. Ưu tiên đào tạo cho các ngành công nghiệp then chốt, các KCN tập trung, khu chế xuất và cho xuất khẩu lao động và cho nông thôn để chuyển dịch cơ cấu lao động, ưu tiên các lĩnh vực chế biến nông sản và công nghiệp vật liệu xây dựng [12, tr.10]. -Đối với nông nghiệp - lâm nghiệp: Phấn đấu năm 2010 đạt 20 đến 30%, trong đó trình độ cao đẳng trở lên có 4%, THCN là 7%, CNKT: 9 - 12%. Chú ý đào tạo và bồi dưỡng nhân lực để phát triển kinh tế trang trại [12, tr.10]. Đồng thời với việc nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 40% vào năm 2010 tiến dần tới sự hợp lý về cơ cấu trình độ giữa cao đẳng, đại học - THCN - công nhân lành nghề trên thế giới là 1 - 4 - 10. -NNL cho một-số ngành và lĩnh vực xã hội khác: + Bảo đảm đủ đội ngũ cán bộ cho ngành Y cả về số lượng, chất lượng và cơ cấu. Chú trọng đào tạo về kỹ thuật Y tế theo kịp trình độ khu vực, đồng thời đào tạo cán bộ có hiểu biết về Y tế cộng đồng để đáp ứng nhu cầu tại tuyến cơ sở. + Đào tạo đội ngũ cán bộ làm công tác và cán bộ quản lý về văn hóa, thể dục thể thao cho các địa phương. + Tăng quy mô và nâng cao chất lượng đào tạo bồi dưỡng thường xuyên cho công chức nhà nước từ cấp xã trở lên. 3.1.2.3. Phát huy việc sử dụng hợp lý, có hiệu quả NNL, trong đó đặc biệt chú ý NNL qua đào tạo. Mục tiêu KT-XH đã đưa ra trong Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh lần thứ XVII chỉ có thể đạt được khi phát huy tối đa NNL hiện có để khai thác các lợi thế về đất đai, tài nguyên. Muốn vậy Bắc Ninh cần xác định được tổng cầu lao động của toàn bộ nền kinh tế và cơ cấu lao động theo ngành, theo khu vực thành thị và nông thôn phù hợp với quá trình đô thị hóa, CNH-HĐH. Trên cơ sở đó một mặt thực hiện điều chỉnh đào tạo NNL để đáp ứng yêu cầu, mặt khác cần đẩy nhanh sự phân công lại lao động, đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu lao động phù hợp với cơ cấu kinh tế theo hướng CNH-HĐH, giảm dần lao động trong nông nghiệp từ 73,6% năm 2000 xuống 48,29% năm 2005 và xuống đến 21,5% năm 2010(xem bảng 3.2). Bảng 3.2. Dự báo cơ cấu lao động tỉnh Bắc Ninh đến năm 2010. Đơn vị: % Ngành kinh tế Thời gian 2000 2005 2010 Nông nghiệp, lâm nghiệp và thuỷ sản 73,6 48,29 21,5 Công nghiệp-xây dựng 14 29,12 51,9 Dịch vụ 12,4 22,59 26,6 Nguồn: UBND tỉnh Bắc Ninh năm 2005 [30] Đồng thời với việc làm trên cần tích cực tạo việc làm mới và ổn định để thu hút được nhiều lao động, giảm tỷ lệ người thất nghiệp ở thành thị xuống dưới 5%, tăng quỹ thời gian lao động được sử dụng ở nông thôn lên 85%. Việc sử dụng NNL qua đào tạo chuyên môn kỹ thuật là vấn đề quan trọng nhất của sử dụng NNL trong quá trình CNH-HĐH, bởi đây là bộ phận quyết định năng suất lao động chung trong toàn tỉnh. trong thời gian tới cần tạo điều kiện để NNL qua đào tạo có cơ hội làm việc rộng rãi, có chính sách thu hút, khuyến khích lao động được đào tạo (nhất là bậc Đại học, Cao đẳng) về làm việc ở nông thôn, đặc biệt là ở các xã miền núi thông qua chế độ ưu đãi về thu nhập, điều kiện để tiếp tục học tập, có thể dễ dàng quay trở lại công tác tại miền xuôi và thành phố sau một số năm công tác nếu họ không muốn ở lại miền núi. - Giải quyết đúng đắn mối quan hệ cung cầu trong đào tạo và sử dụng NNL trên cơ sở phân công lại lao động xã hội, thực hiện sự chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng CNH-HĐH.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxThS26.docx
Tài liệu liên quan