Đề tài Giải pháp về đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may của Công ty Xuất nhập khẩu dệt may sang thị trường Mỹ

Do đó, nhà nước cần hỗ trợ cho các doanh nghiệp xuất khẩu dệt may, giúp các công ty giảm bớt gánh nặng về chi phí tài chính, thời gian nhằm nâng cao vị thế cạnh tranh và tận dụng được cơ hội kinh doanh để hoàn thành tốt chiến lược “ Đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường Mỹ”.

doc87 trang | Chia sẻ: ndson | Lượt xem: 1243 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp về đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may của Công ty Xuất nhập khẩu dệt may sang thị trường Mỹ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ường Mỹ nhỏ bé 4.230 USD chiếm 0,06% trong Tổng KNXK của công ty năm 2000 nhưng đến năm 2004, thị trường Mỹ đã vươn lên là thị trường xuất khẩu lớn thứ hai của công ty với giá trị xuất khẩu đạt 2.476.359 USD chiếm 31,2 %. Mặc dù, Mỹ đã áp dụng hàng rào bảo hộ dày đặc nhưng cũng không cản được hàng dệt may của các nước đổ vào đây. Vì vậy, ngay từ khi thành lập, công ty đã xác định đây là thị trường tiềm năng đối với mặt hàng dệt may nên đã tập trung nguồn lực phát triển thị trường này. Tuy nhiên, trong ba năm đầu 2000, 2001, 2002, kim ngạch xuất khẩu của công ty sang thị trường này vẫn chiếm không đáng kể trong Tổng KNXK của toàn công ty; năm 2000 chiếm 0,06%, năm 2001 chiếm 0,304% và năm 2002 chiếm 4,97%. Nhưng tốc độ tăng trưởng lại đạt rất cao, năm 2001 giá trị xuất khẩu sang thị trường này tăng 358,58% so với năm 2000, năm 2002 tăng 1304,7% so với năm 2001. Do giá trị xuất khẩu nhỏ nên tốc độ tăng trưởng cao không phản ánh được hiệu quả kinh doanh trên thị trường này. Kim ngạch xuất khẩu sang thị trường này chỉ thực sự tăng mạnh từ năm 2003. Năm 2003, KNXK sang Mỹ tăng 360,67% so với năm 2002 và năm 2004 tăng 97,3% so với năm 2003. Bất kể KNXK của toàn công ty có những thăng trầm (tăng trưởng âm trong 2 năm 2001, 2002), KNXK sang thị trường Mỹ vẫn đạt được sự tăng trưởng đều đặn. Đến năm 2004, với tỉ trọng 31,2% trong Tổng KNXK, thị trường Mỹ đã thay thế vị trí thứ hai của thị trường EU trong cơ cấu thị trường xuất khẩu của công ty. Những cố gắng của công ty trong việc khai thác thị trường này đã đem lại kết quả đáng kể cho công ty trong chiến lược phát triển thị trường. 2. Cơ cấu mặt hàng Hàng dệt may của công ty xuất khẩu sang thị trường Mỹ đáp ứng tầng lớp bình dân ở Mỹ. Các mặt hàng dệt may xuất khẩu chủ yếu là áo jacket, áo sơ mi, quần và hàng dệt kim. Các mặt hàng này đơn giản, giá rẻ nên được người dân có thu nhập trung bình lựa chọn. Cơ cấu mặt hàng dệt may xuất khẩu của công ty sang thị trường Mỹ được thể hiện qua bảng số liệu sau: Bảng 2.4: Cơ cấu mặt hàng dệt may XK của công ty sang thị trường Mỹ Mặt hàng Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003 Năm 2004 GT (USD) Tỉ trọng (%) GT (USD) Tỉ trọng (%) GT (USD) Tỉ trọng (%) GT (USD) Tỉ trọng (%) GT (USD) Tỉ trọng (%) áo jacket 1.170 27,66 11.312 58,3 32.348 2,58 282.801 11,4 áo sơ mi 1.135 26,84 2.883 14,86 5.734 2,1 49.640 3,95 241.019 9,7 Quần 3.013 15,5 107.167 39,3 128.740 10,26 1.082.596 43,72 Quần áo khác 2.648 0,97 28.778 2,29 70.220 2,84 Dệt kim 1.925 45,5 2.190 11,34 153.543 56,35 967.547 77,1 759.580 30,67 Thủ công thêu 3.400 1,28 48.251,6 3,82 40.143 1,67 Tổng KNXK sang Mỹ 4.230 100 19.398 100 272.492 100 1.255.304,6 100 2.476.359 100 Nguồn: phòng Kế Hoạch- Thị Trường- Vinateximex Mặt hàng xuất khẩu chủ lực của công ty trong 2 năm đầu sang thị trường Mỹ là các sản phẩm dệt kim và áo jacket. Năm 2000 xuất khẩu dệt kim mới đạt giá trị 1.925 USD ( chiếm 45,2% kim ngạch xuất khẩu công ty sang thị trường Mỹ), giá ttrị này là rất nhỏ song đây là những bước tiếp cận đầu tiên của công ty vào thị trường này khi mới thành lập. Các sản phẩm dệt kim thì chủ yếu là khăn bông, áo len dệt kim và một số mặt hàng dệt kim khác có giá trị nhỏ. Đây là mặt hàng mà công ty đã quyết tâm khôi phục sau một thời gian không chú trọng đến nó. Vì vậy, các năm sau giá trị của mặt hàng này trong kim ngạch xuất khẩu sang thị trường Mỹ đã tăng lên, và năm 2003 giá trị đóng góp trong kim ngạch xuất khẩu sang thị trường Mỹ lớn nhất 967.547 USD chiếm 77,1%. Năm 2004 giá trị xuất khẩu của mặt hàng dệt kim giảm xuống còn 759.580 USD chiếm 30,67% nhường ngôi vị dẫn đầu cho mặt hàng quần âu. Năm 2004 giá trị xuất khẩu quần âu đạt 1.082.596 USD chiếm 43,72% kim ngạch xuất khẩu sang Mỹ. Bắt đầu xuất khẩu từ năm 2001 trong 4 năm hoạt động mặt hàng này liên tục gia tăng về giá trị xuất khẩu. Năm 2001 mới chỉ đạt 3.013 USD đến năm 2002 là 107.167 USD và năm 2003 là 128.740 USD đến năm 2004 là 1.082.596 USD Với mặt hàng áo jacket xuất khẩu, riêng năm 2002 công ty đã không xuất khẩu mật hàng nào sang thị trường Mỹ là do các đối tác quen thuộc thử đặt hàng các mặt hàng khác để kí hợp đồng lâu dài với nhiều mặt hàng . Đối với năm 2003 giá trị xuất khẩu mặt hàng này vẫn nhỏ đạt 32.348 USD chiếm 2,58% kim ngạch xuất khẩu sang thị trường Mỹ năm đó. Nhưng đến năm 2004giá trị xuất khẩu của nó đạt 282.801USD tăng 8,74 lần so với năm 2003. Sản phẩm áo jacket xuất khẩu của công ty chủ yếu là áo hai lớp và được xuất khẩu sang Mỹ qua bên thứ ba là các đối tác Đài Loan. áo sơ mi là một trong những mặt hàng xuất khẩu đầu tiên của công ty sang thị trường Mỹ. Công ty xuất áo sơ mi nam dệt kim vải cotton . Giá trị xuất khẩu của mặt hàng này cũng tăng nhưng không tăng mạnh bằng các mặt hàng áo jacket và quần âu. Năm 2004 giá trị xuất khẩu mặt hàng này là 241.019 USD tăng gấp 4,85 lần so với năm 2003 nhưng chiếm có 9,7% trong tổng KNXK của công ty sang thị trường Mỹ. Ngoài ra, công ty còn khai thác thêm các mặt hàng khác để xuất khẩu sang thị trường này như quần áo khác hay hàng thủ công thêu để có thể đáp ứng các nhu cầu đa dạng hơn và gia tăng KNXK của mình sang thị trường Mỹ. 3.Hình thức xuất khẩu Thị trường Mỹ rất dễ tính, đa dạng trong tiêu dùng hàng dệt may nhưng lại có hàng rào bảo hộ dày đặc. Do đó, ở các nước có trình độ thấp như Việt Nam thì xuất khẩu gián tiếp qua bên thứ ba là phương thức thâm nhập chủ yếu khi mới vào thị trường này. Và đối với công ty điều này cũng không nằm ngoài đặc điểm chung của ngành dệt may Việt Nam. Phương thức thâm nhập chủ yếu của công ty vào thị trường này là phương thức gia công xuất khẩu. KNXK theo phương thức xuất khẩu của công ty được thể hiện qua bảng dưới đây: Bảng 2.5: KNXK của công ty sang thị trường Mỹ theo phương thức XK Phương thức xuất khẩu Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003 Năm 2004 GT (USD) Tỉ trọng (%) GT (USD) Tỉ trọng (%) GT (USD) Tỉ trọng (%) GT (USD) Tỉ trọng (%) GT (USD) Tỉ trọng (%) Gia công 2.305 54,49 13.938 71,86 200.445 73,6 878.713 70 1.728.498,6 69,8 Trực tiếp 1.925 45,51 5.460 28,14 72.047 26,4 376.591,6 30 747.860,4 30,2 Tổng KNXK sang Mỹ 4.230 100 19.398 100 272.492 100 1.255.304,6 100 2.476.359 100 Nguồn: phòng Kế Hoạch- Thị Trường. Vinateximex Quán triệt sự chỉ đạo của Tổng công ty dệt may Việt Nam ( Vinatex ), thấy được lợi ích của việc xuất khẩu trực tiếp, công ty xuất nhập khẩu dệt may đã cố gắng tăng tỉ trọng xuất khẩu trực tiếp trong KNXK của công ty sang thị trường Mỹ nhưng vẫn không tăng đáng kể. Năm 2000, tỉ trọng xuất khẩu trực tiếp sang thị trường Mỹ là lớn nhất chiếm 45,51% nhưng giá trị xuất khẩu trực tiếp lại rất nhỏ chỉ có 1.925 USD. Các năm sau, giá trị xuất khẩu sang thị trường Mỹ tăng mạnh, với kinh nghiệm của công ty kinh doanh trên thị trường này thì giá trị xuất khẩu trực tiếp cũng tăng nhưng tỉ trọng mà xuất khẩu trực tiếp đóng góp tăng không đáng kể. Năm 2003 tăng 5,2 lần so với năm 2002 và năm 2004 tăng 1,98 lần so với năm 2003. Tuy nhiên, xuất khẩu trực tiếp là hướng đi chính mà công ty hướng tới trong hoạt động kinh doanh của mình. 4.Các biện pháp mà công ty áp dụng để tăng cường xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường Mỹ Để xuất khẩu vào thị trường Mỹ, công ty đă nỗ lực đua ra nhiều biện pháp để tăng cường hoạt động xuất khẩu sang thị trường này. Nhưng là một doanh nghiệp thương mại thuần tuý nên việc tác động đến các nhóm giải pháp liên quan đến cung là rất hạn chế và chủ yếu là công ty áp dụng các biện pháp liên quan đến cầu, nguồn vốn cũng như nguồn nhân lực để đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu sang thị trường Mỹ Đối với nhóm giải pháp liên quan đến cung thì chủ yếu công ty có quan hệ tốt với các đơn vị sản xuất trực tiếp như May 10, May Thăng Long, công ty May 2 Hải Phòng, Dệt 8/3. Đây là những đơn vị sản xuất các mặt hàng có chất lượng tốt và đã được cấp tiêu chuẩn quản lý chất lượng ISO 9002 và tiêu chuẩn SA 8000. Vì vậy, đáp ứng được yêu cầu về tiêu chuẩn chất lượng của các nhà nhập khẩu Mỹ. Để tác động đến việc đổi mới công nghệ sản xuất, công ty đã giúp các đơn vị sản xuất nhập khẩu các dây chuyền sản xuất hiện đại làm nâng cao chất lượng sản phẩm vừa giúp nâng cao năng suất lao động. Còn với chiến lược đa dạng hoá mặt hàng thì công ty đã đẩy mạnh công tác thiết kế sản phẩm, đa dạng hoá mẫu mã để giới thiệu đến khách hàng. Các giải pháp liên quan đến cầu, trong những năm đầu khi tiến hành nghiên cứu thị trường Mỹ, công ty đã tổ chức các cuộc hội thảo chuyên đề về thị trường Mỹ, các khoá học kinh doanh trên thị trường Mỹ với sự giúp đỡ của phòng Thương Mại và Công nghiệp Việt Nam, công ty luật Russin & Vecchi, công ty luật White & Case, công ty Thương mại và phát triển (TDA) và trường đại học Kinh Tế Quốc Dân. Công ty đã thành lập tổ chuyên trách nghiên cứu thị trường Mỹ và hàng năm cũng đã tổ chức đoàn cán bộ sang điều tra, nắm bắt tình hình thực tế của thị trường này hay thu thập thông tin về khách hàng qua Văn phòng đại diện của Vinatex ở Mỹ. Ngoài ra, công ty còn khai thác thông tin về thị trường, đối thủ, khách hàng… qua mạng internet và qua các ấn phẩm của ngành và các ấn phẩm quốc tế. Và điều đáng ghi nhận là công ty đã tổ chức tốt nguồn thông tin nội bộ giúp cho việc cập nhật và phân tích tình hình được nhanh chóng và hiệu quả. Kết hợp với công tác nghiên cứu thị trường, công ty đã đẩy mạnh công tác xúc tiến, quảng bá sản phẩm tới khách hàng Mỹ thông qua việc tham gia một số hội chợ thương mại như hội chợ Atlanta hay cho ra đời các catalogue, các tờ rơi. Về nguồn vốn, công ty đã có mối quan hệ tốt và lâu dài với các ngân hàng lớn như Vietcombank,…, các tổ chức tín dụng để dễ dàng huy động khi cần cũng như sẽ có được lợi thế khi vay vốn. Về nhân lực, công ty cũng đã tuyển thêm các cán bộ mới để đáp ứng nhu cầu mở rộng kinh doanh xuất khẩu. Và công ty cũng đã cử cán bộ đi học để nâng cao trình độ chuyên môn, tin học, ngoại ngữ để đáp ứng được yêu cầu của công việc. V. Đánh giá chung về xuất khẩu hàng dệt may của Công ty xuất nhập khẩu dệt may sang thị trường Mỹ 1.Ưu điểm Khi nhìn nhận về hoạt động kinh doanh của mình, bất kỳ doanh nghiệp nào cũng phải đánh giá được ưu điểm và nhược điểm của mình. Công ty xuất nhập khẩu dệt may khi xuất khẩu sang thị trường Mỹ cũng đạt được một số ưu điểm sau: - Bên cạnh mặt hàng chính là áo jacket, quần âu, áo sơ mi, sản phẩm dệt kim, công ty đã nỗ lực khai thác thêm các mặt hàng như hàng thủ công thêu và một số quần áo khác để xuất khẩu đi Mỹ. Tuy những mặt hàng này giá trị không lớn nhưng nó góp phần tạo nên cơ cấu mặt hàng xuất khẩu đa dạng và làm tăng doanh thu cho công ty. - Gia công là hình thức xuất khẩu chủ yếu của công ty. Nhưng công ty đã cố gắng tận dụng mọi cơ hội để có thể tiếp cận trực tiếp với thị trường này. Một số nhà nhập khẩu vừa và nhỏ của Mỹ với những đơn hàng có khi chỉ có giá trị 2000 USD hay Việt kiều Mỹ là đối tác mà công ty hướng tới trong những bước đi đầu tiên để tiếp cận thị trường này. - Giá cả là phương thức cạnh tranh chủ yếu của hàng dệt may Việt Nam. Nên để nâng cao khả năng cạnh tranh hàng dệt may, công ty đã chủ động tìm kiếm nguồn nguyên vật liệu trong nước để nâng cao tỉ lệ nội địa hóa sản phẩm nhằm hạ giá thành sản phẩm và thu hút được các nhà nhập khẩu Mỹ đến với công ty. -Về chất lượng sản phẩm, công ty đă chú trọng lựa chọn những đơn vị sản xuất có uy tín, có khả năng để khẳng định chất lượng sản phẩm dệt may của mình, giám sát các đơn vị sản xuất hàng dệt may xuất khẩu cho công ty. Công ty đã nhập khẩu các dây chuyền may bán cho các đơn vị sản xuất với giá hữu nghị nhằm giúp các đơn vị này đổi mới trang thiết bị để nâng cao chất lượng sản phẩm. - Giữ chân khách hàng cũ và thu hút khách hàng mới, công ty đã thực hiện các thanh toán hấp dẫn như: thanh toán trả châm, thanh toán theo từng lô hàng nhưng có điều kiện ràng buộc, thanh toán T/T - Với công tác thiết kế thì công ty chủ động tìm kiếm các mẫu mã mới để giới thiệu với khách hàng. Nếu như khách hàng đồng ý với mẫu đó thì tiến hành sản xuất . - Khi nghiên cứu về thị trường Mỹ, công ty đã thành lập tổ xúc tiến và phát triển thị trường chịu khó nắm bắt thông tin từ nhiều nguồn khác nhau như từ các ấn phẩm quốc tế, từ mạng, từ phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, từ Hiệp hội dệt may Việt Nam, hay từ Tổng công ty, từ Văn phòng của Vinatex tại Mỹ nhằm đưa ra quyết định đúng đắn đáp ứng nhu cầu của khách hàng. - Về trình độ nguồn nhân lực công ty đã tổ chức các khóa học kinh doanh trên thị trường Mỹ nhằm trang bị kiến thức chuyên môn cho người lao động khi thực hiện công việc của mình - Về nguồn vốn, công ty đã có mối quan hệ lâu dài với các ngân hàng từ khi còn là Ban xuất khẩu của Tổng công ty. Tiếp bước trên nền tảng cũ, mối quan hệ làm ăn của công ty với các ngân hàng và các tổ chức tín dụng ngày càng phát triển, tạo điều kiện cho công ty dễ dàng khi huy động vốn cho hoạt động xuất khẩu 2.Tồn tại và nguyên nhân 2.1 Tồn tại Mặc dù đã cố gắng trong việc đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường Mỹ nhưng công ty vẫn không tránh khỏi có những vướng mắc, những tồn tại. Những tồn tại của công ty được thể hiện dưới những điểm sau: - Công ty đã chịu khó khai thác thêm nhiều mặt hàng nhưng mặt hàng khác vẫn chỉ chiếm giá trị rất nhỏ còn mặt hàng xuất khẩu chủ lực sang Mỹ vẫn chỉ là áo jacket 2 lớp, áo sơ mi nam vải cotton hay quần âu với kiểu dáng đơn giản. - Chủ trương giảm tỉ trọng gia công xuất khẩu và tăng tỉ trọng xuất khẩu trực tiếp đã thực hiện được nhưng tỉ trọng xuất khẩu trực tiếp cũng tăng không đáng kể. - Chất lượng sản phẩm của công ty vẫn chưa được nâng lên rõ rệt. Sau việc vải bị thôi màu khi thực hiện hợp đồng với công ty của Hàn Quốc hay lô hàng áo sơ mi cho đối tác Đài Loan may không đúng quy cách, công ty đã chú trọng trong việc kiểm tra chất lượng vải và chất lượng may trước khi xuất để hạn chế những sai sót về mặt chất lượng sản phẩm. Tuy nhiên, vải trong nước chưa đạt được yêu cầu về chất lượng cho hàng may nên cơ hội khai thác vải nội địa chưa gây được uy tín cho các đối tác nước ngoài mà chất lượng sản phẩm may phụ thuộc khá lớn vào chất lượng vải. Hạn chế về chất lượng sản phẩm cũng là hạn chế chung của ngành dệt may Việt Nam. - Công tác thiết kế sản phẩm may mặc còn kém. Các sản phẩm này thường rất đơn giản và không mang tính thời trang và công ty chủ yếu vẫn sử dụng những mẫ mã của nước ngoài. Vì vậy, công ty chưa có được các sản phẩm độc đáo thu hút khách hàng. - Công tác nghiên cứu thị trường và tìm kiếm khách hàng chưa đạt hiệu quả. Các thông tin về thị trường Mỹ chủ yếu là các thông tin thứ cấp nên độ chính xác của các đánh giá về thị trường này cho mặt hàng của công ty cũng như các yếu tố ảnh hưởng là không cao. Công ty bị động trong việc tìm kiếm khách hàng, thường thì khách hàng tìm đến với Công ty trước. - Công tác xúc tiến và quảng bá sản phẩm , hình ảnh của công ty chưa được đẩy mạnh - Tuy đã tổ chức được các khóa đào tạo nhân lực về thị trường Mỹ nhưng những cán bộ thực sự am hiểu về thị trường này vẫn còn thiếu nhiều đặc biệt là nhiều người có thể đàm phán với doanh nhân Mỹ - Hạn chế trong việc đáp ứng các lô hàng lớn 2.2. Nguyên nhân Tất cả các tồn tại trên đều bắt nguồn từ những nguyên nhân sau: - Do công ty là công ty Thương Mại thuần túy cho nên công ty khó kiểm soát được các yếu tố liên quan đến cung sản phẩm như quy mô sản xuất, chất lượng sản phẩm,… - Thiếu vốn là vấn đề mà công ty luôn luôn gặp phải, nó làm hạn chế việc đầu tư của công ty cho hoạt động nghiên cứu thị trường, xúc tiến, quảng bá sản phẩm, hình ảnh của công ty. Vì thế, công ty không thể tổ chức thường xuyên đoàn cán bộ sang điều tra, tìm hiểu thị trường Mỹ hay thường xuyên tham gia các hội chợ vì chi phí cho công tác này ở thị trường Mỹ là rất cao. Ngoài ra, thiếu vốn khiến cho việc đầu tư cho công nghệ, nhân lực để đáp ứng các đơn hàng lớn gặp khó khăn Và một nguyên nhân quan trọng nữa dẫn đến những tồn tại trong hoạt động xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường Mỹ là thiếu đội ngũ lao động có chuyên môn cao về thiết kế, marketing hay những cán bộ kinh doanh thực sự am hiểu thị trường Mỹ. Công ty là một doanh nghiệp thuộc ngành dệt may và nằm trong hệ thống kinh tế - xã hội của đất nước cho nên ngoài những nguyên nhân chủ quan trên, công ty còn chịu ảnh hưởng bởi những nhân tố khách quan của cả ngành dệt may và các chính sách của nhà nước. Những tồn tại trong ngành dệt may Việt Nam và trong chính sách của nhà nước dưới đây cũng là nguyên nhân dẫn đến những khó khăn, tồn tại trong hoạt động xuất khẩu của công ty: Thứ nhất, đối với các doanh nghiệp xuất khẩu hàng dệt may nói chung và công ty XNK dệt may nói riêng thì vấn đề nguyên phụ liệu cho ngành dệt may xuất khẩu đang là vấn đề cấp thiết ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của sản phẩm. Hàng năm, Việt Nam phải nhập khẩu 70% nguyên phụ liệu dệt may để sản xuất hàng dệt may xuất khẩu. Nhưng Việt Nam lại chưa có chiến lược quy hoạch tổng thể cho việc phát triển vùng nguyên phụ liệu trong nước. Thêm nữa, tình trạng nguyên phụ liệu cũng là do sự phát triển không cân đối giữa ngành dệt và ngành may, chỉ có 30% sản phẩm ngành dệt đáp ứng được cho hàng may xuất khẩu. Thứ hai, sự lạc hậu trong công nghệ của toàn ngành dệt may làm ảnh hưởng mạnh đến năng suất và chất lượng sản phẩm dệt may. Thứ ba, nguồn nhân lực cho ngành dệt may đang thiếu nhiều cả về lao động có chuyên môn cao và cả lao động trực tiếp có tay nghề cao. Nếu công ty thiếu thì phải tuyển dụng nhưng để có nguồn lao động phục vụ cho công tác tuyển dụng của công ty thì cần phải có sự đầu tư của nhà nước vào đào tạo nhân lực cho ngành dệt may. Thứ tư, nguồn cung vốn cho ngành dệt may chưa phong phú, chưa có sự ưu đãi nào đáng kể. Thứ năm, nhà nước chưa chú trọng giúp đỡ các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong ngành dệt may trong công tác nghiên cứu mở rộng thị trường và xúc tiến quảng bá sản phẩm. Thứ sáu, các ưu đãi về thuế quan cho các doanh nghiệp xuất khẩu hàng dệt may chưa thực sự được thi hành ở cấp dưới, nếu có cơ hội thì hải quan sẽ áp mức thuế cao hơn. Nguyên nhân của việc này là do các văn bản hướng dẫn việc thực thi các luật thuế không rõ ràng. Ngoài ra, các doanh nghiệp xuất khẩu còn mất thời gian vào việc làm thủ tục hải quan do phải qua nhiều cửa với nhiều con dấu. Quản lý hạn ngạch thì phức tạp, chưa có kế hoạch giao hạn ngạch phù hợp làm ảnh hưởng đến việc thực hiện các đơn hàng của các công ty. Với những nguyên nhân chủ quan và khách quan trên, công ty cần có những biện pháp để giải quyết các vấn đề nằm trong khả năng của mình và cần có những kiến nghị với nhà nước nhằm tạo ra hành lang pháp lý và điều kiện thuận lợi nhất cho việc xuất khẩu đạt hiệu quả. Phần này sẽ được trình bày ở chương ba của chuyên đề này. Chương III : Một số giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may của Công ty xuất nhập khẩu dệt may sang thị trường Mỹ trong thời gian tới. I.Triển vọng xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường Mỹ Với nhu cầu tiêu dùng khoảng 90 tỷ USD/năm về hàng dệt may, Mỹ là thị trường có sức hút mạnh mẽ với hàng dệt may của các nước cũng như Việt Nam. Dệt may là ngành xuất khẩu mũi nhọn của Việt Nam và Mỹ được xác định là thị trường trọng điểm cho hàng dệt may Việt Nam hướng tới. Vì vậy, việc đẩy mạnh xuất khẩu dệt may sang thị trường Mỹ là chiến lược ưu tiên hàng đầu của ngành dệt may Việt Nam. Sau Hiệp định thương mại Việt Mỹ, Việt Nam đã khơi thông con đường xuất khẩu sang thị trường này. Năm 2003, Hiệp định dệt may Việt Nam-Hoa Kỳ được ký kết giúp cho hàng dệt may Việt Nam vào Mỹ có lợi thế cạnh tranh hơn. Năm 2004, mặc dù hạn ngạch sang Mỹ bị cắt giảm, ngành dệt may sẽ bước vào thời kỳ hậu hạn ngạch nhưng KNXK của Việt Nam sang thị trường này vẫn đạt 2,7 tỷ USD tăng 8% so với năm 2003. Trước những thách thức của thị trường dệt may hậu hạn ngạch, dự kiến năm 2005, KNXK sang thị trường này đạt 2,8 tỷ USD tăng 3,7% so với năm 2004. Thực tế, trong quý I/2005 vừa qua, KNXK hàng dệt may sang thị trường Mỹ đã giảm do hàng dệt may Việt Nam vấp phải sự cạnh tranh gay gắt với hàng dệt may Trung Quốc. Theo như báo cáo của Mỹ thì thị phần hàng dệt may của Trung Quốc tại Mỹ tăng từ 32% năm 2004 lên đến 50% năm 2005. Hàng Trung Quốc có ưu thế cạnh tranh về giá cả, đáp ứng được số lượng lớn và giao hàng đúng thời hạn. Vì vậy, tính đến hết quý I/2005, Trung Quốc xuất khẩu dệt may sang Mỹ tăng 63%. Sự tăng trưởng quá nóng của hàng dệt may Trung Quốc vào thị trường Mỹ khi Mỹ bãi bỏ hạn ngạch đã khiến cho các nhà sản xuất hàng dệt may Mỹ yêu cầu Chính Phủ hạn chế nhập khẩu để tránh tổn hại cho ngành này. Chính vì vậy, hiện nay, Mỹ đã áp dụng trở lại hạn ngạch với 3 nhóm mặt hàng nóng nhất là cat 338/339 (áo sơ mi và áo cánh), cat 347/348 ( quần dài sợi bông ), cat 652 và 11 nhóm khác đang xem xét. Trước tình hình như vậy, các nhà nhập khẩu Mỹ cũng lo ngại khi nhập khẩu hàng dệt may Trung Quốc và để tránh rủi ro và tránh sự phụ thuộc quá mức vào nguồn cung từ Trung Quốc, họ đã chuyển hướng sang các nhà xuất khẩu dệt may ở các nước khác. Theo báo cáo của ủy Ban Hiệp Thương Quốc Tế Mỹ ( USITC ) về khả năng cạnh tranh xuất khẩu hàng dệt may thời kỳ hậu hạn ngạch thì trong các nước Châu á chỉ có Việt Nam có thể cạnh tranh với Trung Quốc trong xuất khẩu hàng dệt may vào Mỹ. Và nguồn tin từ Hiệp hội nhập khẩu dệt may Mỹ ( USA-ITA) cũng cho biết Việt Nam được coi là nguồn cung lực chọn thứ hai sau Trung Quốc bởi hàng dệt may của Việt Nam có giá rẻ và chất lượng may tốt hơn so với ấn Độ. Mặt khác, Việt Nam đang đẩy nhanh quá trình gia nhập WTO trong năm 2005. Khi vào được WTO hàng hóa Việt Nam sẽ được hưởng những ưu đãi của các nước thành viên, còn hàng dệt may sẽ đựơc bãi bỏ hạn ngạch. Với Mỹ, khi Việt Nam gia nhập WTO, ngoài việc được hưởng quy chế Tối huệ quốc MFN, Việt Nam còn được hưởng chính sách ưu đãi phổ cập GSP, khi đó thuế nhập khẩu của hàng hóa Việt Nam vào Mỹ sẽ giảm đi rất nhiều. Đây là cơ hội tốt cho Việt Nam tận dụng để đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may vào Mỹ. Bởi thế, các doanh nghiệp xuất khẩu hàng dệt may cần có kế hoạch, chiến lược đẩy mạnh xuất khẩu vào thị trường này. II. Định hướng xuất khẩu dệt may của Công ty xuất khẩu dệt may sang thị trường Mỹ. Mỹ đang lấy lại được sự tăng trưởng sau một thời kỳ dài suy thoái. Năm 2004, tăng trưởng kinh tế của Mỹ đạt 4,5%. Và với thực tế kinh doanh xuất khẩu hàng dệt may của công ty vào Mỹ, công ty đã xác định đây là thị trường trọng điểm mà công ty cần phải đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu. Mục tiêu của công ty là gia tăng kim ngạch xuất khẩu vào thị trường này. Chỉ tiêu KNXK vào thị trường này của công ty năm 2005 là 4.000.000 USD và phấn đấu đến năm 2010 đạt 10.500.000 USD Để đạt được chỉ tiêu về kim ngạch xuất khẩu trên, công ty chủ trương đẩy mạnh phương thức xuất khẩu trực tiếp nhằm nâng cao tỷ suất lợi nhuận cho công ty, tăng khả năng kiểm soát thị trường cũng như là để xây dựng thương hiệu của mình ở thị trường Mỹ. Việc tăng cường xuất khẩu trực tiếp sẽ làm giảm bớt khâu trung gian, giúp hàng hoá nhanh chóng đến được tay người tiêu dùng với giá sát với giá gốc. Mặt khác, tăng cường xuất khẩu trực tiếp sẽ giúp công ty tiến gần hơn đến việc xác lập kênh phân phối của chính mình và có thể sử dụng hệ thống này để quảng bá thương hiệu. Đa dạng hoá mặt hàng là chiến lược phát triển mặt hàng của công ty. Công ty xác định phải đổi mới mặt hàng, đa dạng hoá mẫu mã để làm phong phú cơ cấu mặt hàng của công ty nhằm tăng khả năng đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng, tạo cho họ nhiều cơ hội lựa chọn hơn khi mua sản phẩm của công ty. Về chất lượng sản phẩm, công ty xác định cung cấp dòng sản phẩm trung cấp trở lên để có thể cạnh tranh với hàng Trung Quốc. Hàng Trung Quốc thường áp dụng chiến lược cạnh tranh bằng giá cả mà hàng Việt Nam sẽ không thể cạnh tranh được nếu sản xuất cùng chủng loại. Vì thế, chiến lược cạnh tranh mà công ty áp dụng là chiến lược cạnh tranh bằng chất lượng sản phẩm trên cơ sở tương quan với giá cả, mẫu mã và hệ thống phân phối. Chủ trương thiết kế ra những sản phẩm độc đáo mang phong cách riêng của công ty sẽ là chiến lược lâu dài trong việc phát triển mặt hàng của mình và cần có sự đầu tư thoả đáng mới đem lại hiệu quả. Tận dụng lợi thế là công ty con trực thuộc Tổng công ty để khai thác thông tin về thị trường, huy động vốn hay đảm bảo nguồn hàng từ các đơn vị sản xuất trong mối quan hệ giữa công ty con với nhau. Trên đây là việc xác định đích mà công ty cần hướng tới. Vậy công ty sẽ phải làm gì để đạt được mục tiêu đó? Nhà nước nên có chính sách gì để hỗ trợ các doanh nghiệp xuất khẩu hàng dệt may đẩy mạnh xuất khẩu vào thị trường Mỹ. Câu trả lời này thuộc về phần giải pháp sẽ được đề cập dưới đây. III.Các giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may của Công ty xuất nhập khẩu dệt may sang thị trường Mỹ. 1.Giải pháp từ phía Công ty Mỹ là thị trường trọng điểm mà Công ty hướng tới trong chiến lược phát triển thị trường của mình. Vì vậy, để đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường Mỹ, Công ty cần có các biện pháp để tháo gỡ những khó khăn, tồn tại, khai thác cơ hội mà thị trường mang lại. 1.1.Đẩy mạnh công tác nghiên cứu mở rộng thị trường Đây là yếu tố mà Công ty có thể chủ động kiểm soát được. Muốn đẩy mạnh công tác này thì Công ty cần xây dựng kế hoạch nghiên cứu mở rộng thị trường hoàn chỉnh. Xác định năng lực và khả năng khai thác các nguồn lực bên ngoài để cân nhắc mức độ đầu tư cho công tác này nhằm tránh tình trạng đầu tư tràn lan, không tập trung hay đầu tư quá ít. Ngay từ khi thành lập, Công ty đã thành lập nên các tổ phát triển thị trường. Tuy nhiên, hiệu quả làm việc của bộ phận này chưa cao do sự thiếu hụt về nhân sự và thiếu vốn để đầu tư. Do đó, Công ty cần - Tuyển thêm nhân viên mới có khả năng làm việc tốt với thị trường, sắp xếp lại nhân sự cho bộ phận này, xác định trách nhiệm cụ thể cho công việc của từng người. - Hàng năm, tổ chức các chuyến đi khảo sát thực tế để đánh giá được phản ứng của người tiêu dùng với sản phẩm của mình như thế nào, giá cả có phù hợp không, đối thủ cạnh tranh, kênh phân phối nào phù hợp với Công ty… - Công ty cần tận dụng lợi thế là công ty con của Tổng công ty để thu thập các thông tin về nhu cầu, giá cả…qua Văn phòng đại diện của Vinatex ở Mỹ. Sự hỗ trợ các Văn phòng này sẽ giúp công ty giảm được chi phí rất nhiều - Mặt khác, chi phí tìm hiểu thị trường này rất tốn kém nên Công ty cần kết hợp công tác nghiên cứu thị trường với công tác xúc tiến, quảng bá sản phẩm thông qua việc kết hợp tham gia hội chợ, triển lãm với nắm bắt thông tin về tình hình thực tế của thị trường. Nhiệm vụ của đoàn tham gia hội chợ này là vừa quảng bá sản phẩm, hình ảnh của công ty với khách hàng Mỹ vừa phải thu thập thông tin về đối thủ cạnh tranh, giá cả, chất lượng, mẫu mã, xu hướng tiêu dùng sản phẩm để đánh giá được vị trí cạnh tranh của Công ty trên thị trường này. Ngoài ra, Công ty cũng cần thu thập các thông tin từ các nguồn tin như Thương vụ Việt Nam tại Hoa Kỳ, các công ty tư vấn luật, phòng Thương Mại, Hiệp hội dệt may Việt Nam, Hiệp hội dệt may Hoa Kỳ, các ngân hàng của Việt Nam tại Hoa Kỳ hay các ngân hàng Hoa Kỳ tại Việt Nam, các hãng vận tải quốc tế, môi giới vận tải, môi giới hải quan, các ấn phẩm quốc tế và qua mạng để đưa ra các phán đoán chính xác vị thế cạnh tranh, xu hướng thị trường, đánh giá được toàn diện các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động kinh daonh xuất khẩu của công ty trên thị trường Hoa Kỳ. 1.2. Tiếp tục đẩy mạnh công tác xúc tiến, quảng bá sản phẩm, hình ảnh của Công ty Khách hàng chỉ làm ăn được với bạn khi họ biết đến bạn và tin tưởng vào bạn và người tiêu dùng sản phẩm khi họ được thấy nó và được thử nghiệm nó. Vì thế, công ty cần giới thiệu sản phẩm của mình đến với khách hàng, với người tiêu dùng thông qua việc xúc tiến, quảng bá về sản phẩm và hình ảnh của Công ty. Các biện pháp để đẩy mạnh công tác này là - Tích cực tham gia các hội chợ, triển lãm để giới thiệu sản phẩm, hình ảnh của công ty với khách hàng. - Ra đời các catologue về sản phẩm của công ty với các sản phẩm độc đáo mang tính thời trang tạo ấn tượng cho khách hàng - Thông qua văn phòng đại diện của Vinatex để giới thiệu về công ty cho các đối tác Mỹ Về lâu dài, công ty cần xây dựng thương hiệu riêng của mình. Thương hiệu thường gắn với bản quyền về nhãn mác hàng hoá, hình ảnh, logo trên sản phẩm. Thương hiệu phải được xây dựng trên nền tảng chất lượng sản phẩm, mẫu mã và các dịch vụ hậu mại mà công ty có thể cung cấp. Một trong những biện pháp hữu hiệu để xây dựng thương hiệu đó là quảng cáo. Hầu hết, các thương hiệu nổi tiếng thì chi phí quảng cáo của họ chiếm tỷ lệ khá lớn. Do đó, công ty cần xây dựng kế hoạch dành chi phí cho quảng cáo. Công ty có thể sử dụng nhiều hình thức quảng cáo như quảng cáo qua báo chí, ấn phẩm, áp phích…hay quảng cáo qua truyền hình hoặc kết hợp nhiều phương tiện quảng cáo để giới thiệu sản phẩm, hình ảnh của mình đến người tiêu dùng. Quảng cáo qua ấn phẩm, báo chí, áp phích… sẽ tốn ít chi phí hơn nhưng không đưa hình ảnh về sản phẩm, công ty đến với khách hàng một cách nhanh chóng và rộng rãi như quảng cáo qua truyền hình. Tuy nhiên, quảng cáo qua truyền hình rất tốn chi phí và tác dụng lưu giữ hình ảnh không tốt bằng qua báo chí, ấn phẩm…nên tuỳ thuộc vào nguồn kinh phí mà công ty lựa chọn hình thức quảng cáo cho phù hợp. 1.3.Đầu tư vào nguồn nhân lực Nhân lực là nguồn lực quan trọng nhất để đẩy mạnh họat động kinh doanh xuất khẩu vào thị trường Mỹ.Trong thực tế, công ty xuất nhập khẩu dệt may thiếu rất nhiều những cán bộ am hiểu về thị trường Mỹ, các nhà thiết kế giỏi, các nhân viên tiếp thị và bán hàng. Do đó, công ty cần phải đầu tư vào nguồn nhân lực để có thể đẩy mạnh hoạt động kinh doanh xuất khẩu của mình trên thị trường Mỹ. Công ty đầu tư vào nguồn nhân lực bằng con đường đào tạo và phát triển nhân lực Trước mắt để bổ sung sự thiếu hụt về những cán bộ kinh doanh am hiểu về thị trường Mỹ, công ty cần phải kết hợp với các trường đại học, với Bộ Thương Mại và với các ngành có liên quan tổ chức các khoá học tìm hiểu về thị trường Mỹ cho các sản phẩm dệt may. Về lâu dài, công ty cần phải cử cán bộ đi học tại Mỹ để có thể hiểu biết về thị trường Mỹ như họ là người dân nơi đó. Như vậy, ngoài những điều học được qua sách báo họ còn có kinh nghiệm thực tế khi biết được phong tục, tập quán của người dân nơi đây. Kinh nghiệm cuộc sống cộng với lý thuyết học được ở Mỹ sẽ là hành trang giúp họ tự tin khi đàm phán với người Mỹ. Và trong quá trình gửi đi đào tạo công ty có thể kết hợp việc học tập của họ với việc thu thập thông tin về xu hướng tiêu dùng, các mẫu mã, chiến lược cạnh tranh mà đói thủ cạnh tranh áp dụng. Tuyển dụng những nhân viên mới được đào tạo về các chuyên ngành kinh doanh quốc tế, marketing quốc tế, ngoại ngữ để bổ sung vào đội ngũ marketing và kinh doanh của công ty trên thị trường Mỹ. Tuyển dụng các nhân viên thiết kế giỏi để đẩy mạnh công tác thiết kế. Kết hợp với việc đào tạo lại đội ngũ thiết kế của công ty. Công ty cần động viên, khuyến khích các nhân viên tự mình tham gia các khoá học để nâng cao trình độ chuyên môn, trình độ ngoại ngữ… của mình. Bên cạnh đó, công ty cần có các chính sách lương, thưởng hấp dẫn, chế độ đãi ngộ tốt và dành cơ hội thăng tiến cho người lao động nhằm thu hút và giữ chân nhân tài. 1.4.Nâng cao chất lượng sản phẩm Người Mỹ được đánh giá là dễ tính trong tiêu dùng hàng dệt may. Nhưng như vậy không có nghĩa là họ xuề xoà khi lựa chọn mua sản phẩm. Với người Mỹ, sau giá cả thì tiêu chí lựa chọn tiếp theo là chất lượng sản phẩm. Họ rất dễ bị ấn tượng sau khi sử dụng sản phẩm lần đầu tiên. Nếu thấy tốt họ sẽ mua sản phẩm đó thường xuyên, còn nếu thấy không tốt thì khó có thể thuyết phục họ quay trở lại với sản phẩm của công ty mặc dù công ty có cố gắng đến mấy.Tuy nói vậy nhưng không có nghĩa là hình ảnh về sản phẩm, về công ty là không thể thay đổi được. Trong thập niên 50 của thế kỷ 20, các sản phẩm điện tử do Nhật Bản sản xuất đều có chất lượng thấp nhưng với quyết tâm thay đổi hình ảnh này các công ty Nhật Bản đã đầu tư theo chiều sâu để đến bây giờ khi nói đến sản phẩm điện tử của Nhật bản là người tiêu dùng có thể yên tâm về chất lượng tốt. Vì vậy, ngay từ bây giờ công ty phải nâng cao chất lượng sản phẩm để tạo ấn tượng tốt cho khách hàng khi mua sản phẩm của công ty. Công ty xuất nhập khẩu dệt may là công ty thương mại nên chất lượng sản phẩm dệt may phụ thuộc vào các đơn vị sản xuất mà công ty lựa chọn. Nhưng yếu tố mà công ty có thể tác động để nâng cao chất lượng sản phẩm là việc lựa chọn nguyên phụ liệu sản xuất như vải, bông, sợi. Chất lượng sản phẩm dệt may phụ thuộc rất lớn vào chất lượng vào chất lượng nguyên phụ liệu nên cần cẩn thận và kiểm tra kỹ chất lượng nguyên phụ liệu trong quá trình sản xuất sản phẩm. Công ty nên chọn những đơn vị có uy tín và sản xuất trên các dây chuyền đạt tiêu chuẩn quốc tế như ISO 9000, ISO 14000…điều mà các nhà nhập khẩu Mỹ rất quan tâm khi nhập khẩu hàng dệt may. 1.5.Đảm bảo nguồn hàng Không trực tiếp sản xuất sản phẩm là điểm yếu của công ty trong việc kiểm soát nguồn hàng. Công ty đã bỏ lỡ các đơn hàng lớn do không đáp ứng được nguồn hàng. Chính vì vậy, khắc phục tình trạng này công ty cần duy trì mối quan hệ tốt với các đơn vị sản xuất đã làm ăn lâu năm và có uy tín trong ngành như May 10, May Thăng Long, Công ty dệt 8/3, Công ty dệt kim đông xuân, May 2 Hải Phòng. Đa dạng hoá nguồn cung sẽ giúp công ty thực hiện những đơn hàng lớn vừa tránh được sức ép từ phía nhà cung cấp khi phụ thuộc vào một số ít nhà cung cấp. Ngoài ra, công ty cần thực hiện tốt công tác thu mua hàng, giúp đỡ các đơn vị sản xuất trong quá trình sản xuất sản phẩm hay hỗ trợ họ trong việc đổi mới trang thiết bị may, dệt…nhằm tạo ra sự phụ thuộc lẫn nhau giữa công ty và các đơn vị sản xuất, tạo vị thế riêng cho mình. 1.6.Đẩy mạnh công tác thiết kế sản phẩm Thiết kế sản phẩm là khâu yếu nhất của công ty khi đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu sang thị trường Mỹ. Hầu như công ty chỉ thiết kế các sản phẩm dựa trên những mẫu mã của khách hàng khi đặt gia công và chỉ cải tiến đôi chút để tạo ra sản phẩm của mình. Vì thế mà công ty chưa tạo ra được các sản phẩm độc đáo mang phong cách riêng của mình. Sự yếu kém của công tác này là do sự yếu kém về trình độ thiết kế, sự hạn chế về trang thiết bị, máy móc và hạn chế về nguồn thông tin thị trường. Vì vậy, muốn đẩy mạnh công tác này, công ty cần nâng cao trình độ thiết kế, đầu tư đổi mới thiết bị máy móc và kết hợp với công tác nghiên cứu mở rộng thị trường để đưa ra các sản phẩm phù hợp với thị hiếu tiêu dùng. Việc nâng cao trình độ thiết kế nằm trong chiến lược phát triển nguồn nhân lực của công ty. Công ty cần tuyển dụng thêm các nhà thiết kế trẻ, đào tạo lại đội ngũ thiết kế của công ty giúp họ bắt kịp xu hướng thời trang hiện đại. Đầu tư đổi mới trang thíêt bị máy móc giúp các nhà thiết kế chuyên nghiệp hoá công việc thiết kế của mình. Công ty cần áp dụng công nghệ thông tin vào việc thiết kế và sản xuất mẫu như ứng dụng các chương trình phần mềm dành cho thiết kế thời trang giúp nâng cao hiệu quả của công tác thiết kế. Hiệu quả này được đánh giá năng suất lao động cao, tạo ra được nhiều mẫu mã và giảm thiểu sai sót khi thiết kế thời gian. Kết hợp với công tác nghiên cứu thị trường để nắm bắt được nhu cầu tiêu dùng, xu hướng tiêu dùng sản phẩm để thiết kế ra các sản phẩm mà thoả mãn nhu cầu của người tiêu dùng. Cần tạo ra được các sản phẩm độc đáo lấy ý tưởng từ cuộc sống đa dạng của con người. Sự độc đáo được thể hiện trong kiểu dáng, chất liệu, màu sắc. Sản phẩm dệt may là sản phẩm mang tính thời vụ. Chính vì vậy, công tác này cần đẩy nhanh khả năng đổi mới sản phẩm để thu hút khách hàng. 1.7. Đẩy mạnh xuất khẩu trực tíêp Xuất khẩu trực tiếp sẽ giúp công ty tăng tỷ suất lợi nhuận, phát triển thương hiệu. Khi xuất khẩu trực tiếp công ty nên chú ý đến hệ thống các cửa hàng bán lẻ linh hoạt ở Mỹ. ở các cửa hàng này thường chỉ bán những hàng hoá có khả năng bán chạy và hàng hoá sẽ được bổ sung hàng tuần. Do vậy, thay vì đặt một đơn hàng lớn để bán dần các cửa hàng này chỉ nhận những đơn hàng nhỏ với thời gian giao hàng kế tiếp nhau. Đặc điểm này phù hợp với tình hình kinh doanh của công ty nên công ty cần đẩy mạnh việc tiếp cận các nhà bán lẻ này để đẩy mạnh xuất khẩu trực tiếp. Bên cạnh đó, lực lượng Việt Kiều cũng là đối tác cho công ty xây dựng hệ thống phân phối cho các sản phẩm của mình. 1.8.Tạo nguồn vốn Nguồn vốn sẽ giúp công ty giải quyết rất nhiều trong vấn đề mở rộng hoạt động xuất khẩu. Công ty cần có kế hoạch tạo nguồn vốn để đáp ứng cho nhu cầu đầu tư mở rộng hoạt động xuất khẩu sang thị trường Mỹ Nguồn vốn tự có sẽ giúp doanh nghiệp chủ động trong các khoản đầu tư vào hoạt động kinh doanh theo chiều sâu. Khi có lợi nhuân, công ty cần có kế hoạch phân chia lợi nhuận bổ sung vào nguồn vốn kinh doanh sau mỗi kỳ kinh doanh. Đây là biện pháp tốt nhất để nâng cao nguồn vốn tự có của doanh nghiệp. Đối với doanh nghiệp thì vốn luôn luôn là yếu tố giới hạn. Ngoài nguồn vốn tự có doanh nghiệp cần huy động cả nguồn vốn bên ngoài để giải quyết nhu cầu vốn của doanh nghiệp khi đẩy mạnh hoạt động kinh doanh. Nguồn vốn bên ngoài được huy động từ các ngân hàng, các tổ chức tín dụng trong nước và quốc tế. Muốn huy động được nguồn vốn bên ngoài, doanh nghiệp cần kinh doanh có hiệu quả. Đây là căn cứ để các ngân hàng, các tổ chức tín dụng đánh giá được khả năng hoàn trả vốn. Kinh doanh hiệu quả sẽ tạo nên uy tín cho doanh nghiệp, tạo niềm tin cho các nhà đầu tư vốn khi xuất vốn cho công ty vay. Việc vay vốn cũng sẽ dễ dàng hơn khi công ty vừa xây dựng mối quan hệ làm ăn lâu dài với một số ngân hàng, tổ chức tín dụng vừa mở rộng mối quan hệ với các ngân hàng, tổ chức tín dụng khác. Với các mối quan hệ này công ty có thể huy động vốn nhanh nhất khi cần. 2.Giải pháp từ phía nhà nước Để việc đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường Mỹ đạt hiệu quả cao nhất, công ty cần sự hỗ trợ của nhà nước trong việc tạo ra môi trường ngành và các chính sách thuận lợi. Nhà nước nên hỗ trợ cho các doanh nghiệp theo hướng dưới đây. 2.1.Phát triển các vùng nguyên phụ liệu cho ngành dệt may Một điểm bất lợi cho dệt may Việt Nam là không có sẵn nguồn nguyên phụ liệu. Theo thống kê, hàng năm Việt Nam phải nhập khẩu 70% nguyên phụ liệu dệt may để sản xuất hàng dệt may xuất khẩu. Chính vì phải nhập khẩu quá lớn nên giá thành sản phẩm sẽ bị đẩy lên cao, so với Trung Quốc giá thành các sản phẩm dệt may Việt Nam cao hơn khoảng 20-30% so với sản phẩm cùng loại của Trung Quốc. Thêm nữa là nhập khẩu số lượng lớn nguyên phụ liệu sẽ làm cho ngành dệt may Việt nam phải chịu sức ép của các nhà cung cấp nước ngoài và gặp khó khăn khi thực hiện những đơn hàng lớn. Tình trạng thiếu hụt nguyên phụ liệu này một phần là do sự phát triển mất cân đối giữa ngành dệt và ngành may. Hiện nay, chỉ có 30% sản phẩm ngành dệt đáp ứng được nhu cầu cho hàng may xuất khẩu. So với các nước trong khu vực, năng suất lao động của ngành dệt của nước ta chỉ bằng 30-50%. Với thực trạng trên, nhà nước có chiến lược quy hoạch nhằm phát triển vùng nguyên phụ liệu trong nước. Ngành dệt may cần kết hợp với ngành nông nghiệp để phát triển các vùng trồng bông, tăng diện tích trồng bông ở Tây Nguyên và mở rộng ra các vùng khác. Cần mời các chuyên gia kỹ thuật giỏi ở các nước nổi tiếng về trồng bông trên thế giới như Hoa Kỳ, úc tư vấn, giám sát về kỹ thuật trồng bông để tạo ra bông có chất lượng cao đáp ứng được tiêu chuẩn để sản xuất hàng may xuất khẩu. Phát triển ngành dệt để đuổi kịp ngành may. Cần tạo ra được các sản phẩm sợi, vải đủ tiêu chuẩn cho mặt hàng may xuất khẩu hay đảm bảo cho mặt hàng dệt. Muốn vậy nhà nước cần có quy hoạch cụ thể về việc phát triển nguyên liệu các loại tơ cho ngành dệt, có những chính sách ưu đãi và hỗ trợ kỹ thuật cho vùng này. Và để đảm bảo đầu ra cho nguyên phụ liệu sản xuất trong nước, nhà nước cần khuyến khích các doanh nghiệp sản xuất hàng dệt may xuất khẩu nâng tỷ lệ nội địa hoá thông qua các chính sách ưa đãi về thuế quan. 2.2.Phát triển công nghệ Phát triển công nghệ là khâu trọng yếu để thực hiện chiến lược tăng tốc của ngành dệt may Việt Nam đến năm 2010. Phát triển công nghệ giúp nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm. Thực tế, Việt nam chủ yếu là nhận chuyển giao công nghệ, có khi còn nhập khẩu cả những công nghệ lạc hậu từ thập niên 70. Sự hạn chế trong công nghệ đã ảnh hưởng đến năng suất và chất lượng sản phẩm dệt may. Do đó, nhà nước cần có các biện pháp nhằm phát triển công nghệ cho ngành dệt may Trước mắt là vẫn phát triển công nghệ qua con đường nhân chuyển giao công nghệ. Tuy nhiên, nhà nước cần phát triển hoạt động của bộ phận đánh giá công nghệ nhằm giúp các doanh nghiệp trong khâu đánh giá công nghệ.Với góc độ của nhà nước, việc đánh giá công nghệ sẽ có được tầm nhìn rộng hơn, bao quát hơn. Đánh giá công nghệ phải xác định được công nghệ nào là hiện đại, là phù hợp với trình độ sản xuất của đất nước tránh tình trạng nhập khẩu công nghệ lạc hậu hay công nghệ quá hiện đại mà không sử dụng được. Về lâu dài, nhà nước cần phát triển các trung tâm nghiên cứu và phát triển công nghệ, khuyến khích các doanh nghiệp dệt may tự nghiên cứu và phát triển công nghệ của chính mình nhằm nâng cao lợi thế cạnh tranh cho hàng dệt may Việt Nam. 2.3.Đào tạo và phát triển nhân lực Nguồn nhân lực cho ngành dệt may Việt Nam còn yếu và thiếu cả đội ngũ lao động có trình độ cao và cả đội ngũ lao động sản xuất trực tiếp. Với đội ngũ lao động có trình độ cao, ngành dệt may thiếu những nhà thiết kế chuyên nghiệp có trình độ cao, có khả năng tạo ra các mẫu mã phù hợp với nhu cầu người tiêu dùng; thiêú đội ngũ cán bộ quản lý tốt thậm chí thiếu cả những cán bộ, nhân viên am hiểu thị trường Mỹ. Với đội ngũ lao động trực tiếp, theo như đánh giá của các chuyên gia nước ngoài, khả năng sử dụng thiết bị của công nhân may Việt Nam chỉ đạt hiệu suất là 70% trong khi ở các nước trong khu vực là 90%. Trước tình hình đó, nhà nước cần đẩy mạnh công tác giáo dục, đào tạo, chú trọng đến đào tạo đội ngũ thiết kế, đội ngũ quản lý và đội ngũ nhân viên kinh doanh am hiểu thị trường Mỹ thông qua việc - Đầu tư cho các trường đại học như đại học Mỹ Thuật Công Nghiệp, đại học Bách Khoa hay đại học Kiến Trúc phát triển khoa thiết kế thời trang - Khuyến khích các sinh viên theo học chuyên ngành thiết kế thời trang . - Tổ chức các buổi trình diễn thời trang và các cuộc thi thời trang để tạo điều kiện cho các nhà thiết kế có điều kiện thử sức và khẳng định mình - Tạo điều kiện cho các sinh viên học các trường kinh tế có điều kiện tiếp xúc với thực tế để rèn luyện kinh nghiệm thực tế ngay khi còn là sinh viên. Còn đối với đội ngũ lao động trực tiếp thì nhà nước cần đầu tư cho các trường đào tạo công nhân ngành may nhằm tiêu chuẩn hoá các thao tác và từ đó nâng cao năng suất lao động. 2.4.Các giải pháp về vốn Vốn là nguồn lực hạn chế của các công ty khi muón mở rộng hoạt động kinh doanh của mình. Theo như dự kiến các doanh nghiệp dệt may cần 6-7 tỷ USD vào năm 2010 để đầu tư theo chiều sâu, phát triển sản xuất và thúc đẩy xuất khẩu. Do đó, nhà nước cần tạo điều kiện cho các doanh nghiệp vay vốn được dễ dàng và được ưu đãi thông qua - Phát triển hệ thống ngân hàng, tổ chức tín dụng trong nước và quốc tế để tạo nguồn cung vốn phong phú. - Nới lỏng các quy định về vay vốn như tỷ lệ thế chấp, ký quỹ.. - Có các ưu đãi về lãi suất. - Thu hút nguồn vốn nước ngoài thông qua thu hút đầu tư trực tiếp và gián tiếp cho ngành dệt may. 2.5. Giúp đỡ các doanh nghiệp trong việc nghiên cứu thị trường, xúc tiến và quảng bá sản phẩm. Sự hỗ trợ của nhà nước cho các doanh nghiệp trong công tác này được thể hiện qua công tác xúc tiến thương mại: - Bộ Thương Mại nên tăng cường tổ chức hoặc liên hệ cho các doanh nghiệp dệt may tham gia các hội chợ chuyên ngành dệt may, hội chợ hàng tiêu dùng ở Mỹ và hỗ trợ cho các doanh nghiệp chi phí tham gia hội chợ. - Thương vụ Việt Nam ở Hoa Kỳ chịu trách nhiệm cung cấp các thông tin chung về thị trường Mỹ như quy mô, tốc độ tăng trưởng, xu hướng tiêu dùng, sức mua…của hàng dệt may và các thông tin về đối thủ cạnh tranh hay quan trọng hơn đối với các doanh nghiệp xuất khẩu dệt may là thông tin về các nhà nhập khẩu Mỹ. - Các cơ quan thuộc Chính Phủ sẽ đóng vai trò là cầu nối cho các doanh nghiệp xuất khẩu dệt may của Việt Nam với các nhà nhập khẩu Mỹ có nhu cầu nhập khẩu hàng dệt may Việt Nam. Việc gắn kết này sẽ giúp các doanh nghiệp xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam giảm được các chi phí tìm kiếm bạn hàng và có được thông tin xác thực về nhu cầu nhập khẩu hàng của các nhà nhập khẩu Mỹ. - Tư vấn cho các nhà doanh nghiệp về cách điều tra thông tin hiệu quả nhất. - Giúp đỡ các doanh nghiệp xuất khẩu trong việc tìm kiếm nguồn thông tin đáng tin cậy từ các dịch vụ cung cấp tin. Với sự giúp đỡ trên của nhà nước, các doanh nghiệp xuất khẩu hàng dệt may sẽ được thuận lợi hơn rất nhiều trong quá trình thực hiện công tác nghiên cứu mở rộng thị trường, xúc tiến và quảng bá sản phẩm; giúp các doanh nghiệp giảm được các chi phí tài chính và rút ngắn được thời gian, tận dụng được cơ hội kinh doanh. 2.6.Các chính sách ưu đãi về thuế quan Thuế quan sẽ tác động đến giá cả hàng hoá và khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường. Để giúp các doanh nghiệp tăng khả năng cạnh tranh, nhà nước cần có các chính sách ưu đãi về thuế quan. Giảm thuế là biện pháp mà các công ty trông đợi nhất ở chính sách thuế. Ngành dệt may là ngành phải nhập khẩu 70% nguyên phụ liệu để sản xuất sản phẩm cho nên nhà nước nên giảm thuế hoặc miễn thuế nhập khẩu cho các nguyên phụ liệu chính như bông, vải, sợi giúp doanh nghiệp giảm chi phí sản xuất. Ngoài ra, nhà nước cũng cần giảm thuế VAT, thuế xuất khẩu giúp hạ giá thành sản phẩm. Nhà nước phải có các văn bản hướng dẫn các doanh nghiệp về việc thực thi luật thuế hay thông báo cho các doanh nghiệp khi có sự thay đổi Hoàn thiện các quy định về thuế giúp các doanh nghiệp dễ dàng khi khai thuế và nộp thuế Ngoài các chính sách trên, nhà nước cần cải cách các thủ tục Hải quan theo hướng đơn giản hoá nhằm tiết kiệm thời gian cho các doanh nghiệp khi xuất khẩu. Hỗ trợ cho các doanh nghiệp bằng việc lập các quỹ hỗ trợ cho các doanh nghiệp xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường Mỹ. Hay cập nhật các thông tin về luật pháp Mỹ liên quan đến nhập khẩu hàng dệt may vào Mỹ. Xây dựng chế độ quản lý hạn ngạch minh bạch tránh tình trạng mua bán chuyển nhượng hạn ngạch trái phép, có kế hoạch phân bổ hạn ngạch sớm để giúp các doanh nghiệp có định hướng khi sản xuất hàng xuất khẩu vào thị trường này, giảm phí hạn ngạch giúp các doanh nghiệp giảm thêm được khoản chi phí. Trên đây là các biện pháp mà bản thân Công ty xuất nhập khẩu dệt may và nhà nước cần thực hiện nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường Mỹ. Kết luận Trước tình hình mới là thị trường dệt may thế giới đang bước vào thời kỳ hậu hạn ngạch và Hiệp định dệt may Việt Nam-Hoa Kỳ hết hiệu lực, tình hình xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường Mỹ có những thay đổi lớn. Nhưng những thay đổi này không nằm ngoài dự đoán của các nhà chuyên môn, đó là sự thống lĩnh của hàng dệt may Trung Quốc trên thị trường Mỹ. Trong khi đó, Mỹ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của hàng dệt may Việt Nam và là thị trường trọng điểm của Công ty xuất nhập khẩu dệt may. Bởi thế, đẩy mạnh hàng dệt may sang thị trường Mỹ là nhiệm vụ khó khăn trong bối cảnh hiện nay cho Việt Nam và cho Công ty xuất nhập khẩu dệt may. Qua phân tích thực trạng hoạt động kinh doanh xuất khẩu của công ty vào thị trường Mỹ, ta thấy công ty cũng đã đạt được sự tăng trưởng đáng kể khi xuất khẩu vào thị trường này trong mấy năm qua. Tuy nhiên, công ty vẫn còn những tồn tại trong việc mở rộng hoạt động xuất khẩu vào thị trường này. Đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường Mỹ là mục tiêu mà Công ty xuất nhập khẩu dệt may đưa ra trong chiến lược phát triển thị trường của mình. Đề tài này cũng cho thấy được thực trạng xuất khẩu của Công ty Vinateximex sang thi trường Mỹ, những ưu điểm và những tồn tại để đề ra biện pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may của công ty sang thị trường Mỹ. Dưới góc độ một doanh nghiệp, công ty cần chủ động thực hiện các biện pháp để đưa hoạt động xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường Mỹ đạt hiệu quả, không những tăng về kim ngạch xuất khẩu mà còn tăng khả năng xuất khẩu trực tiếp, làm phong phú mặt hàng, mẫu mã và cải thiện được vị thế cạnh tranh của mình trên thị trường Mỹ. Chỉ có những nỗ lực của Công ty mà thiếu đi sự hỗ trợ của nhà nước thì công ty cũng sẽ gặp rất nhiều khó khăn khi thực hiện hoạt động xuất khẩu cũng như khi thực hiện mục tiêu của mình. Do đó, nhà nước cần hỗ trợ cho các doanh nghiệp xuất khẩu dệt may, giúp các công ty giảm bớt gánh nặng về chi phí tài chính, thời gian nhằm nâng cao vị thế cạnh tranh và tận dụng được cơ hội kinh doanh để hoàn thành tốt chiến lược “ Đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường Mỹ”. Danh mục tàI liệu tham khảo 1. Doãn Kế Bôn, “ Nâng cao khả năng cạnh tranh cho hàng may mặc xuất khẩu khi WTO xoá bỏ hạn ngạch dệt may vào năm 2005”, Tạp chí Thương mại, số 8/2005. 2.Như Hoa, “ Dệt may 2005 – 8 thách thức lớn”, Thế giới thương mại số 12/2004 3. Nguyễn Thị Nga, “ Về phong cách ăn mặc của người Mỹ ”, tạp chí Châu Mỹ ngày nay, số 10/2004. 4. Nguyễn Thị Hường (chủ biên) (2001), Giáo trình kinh doanh quốc tế, Tập 1, Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội. 5. Nguyễn Thị Hường (chủ biên) (2002), Giáo trình kinh doanh quốc tế, Tập 2, Nhà xuất bản Lao động - Xã hội, Hà Nội. 6. Lê Thị Hoài Thương, “ Một số giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu trực tiếp hàng dệt may tại Công ty xuất nhập khẩu dệt may- Vinatexime”, Luận văn tốt nghiệp, QTKDQT 41. 7. Lê Văn Tuấn, “ Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang thị trường Mỹ ”, Luận văn tốt nghiệp, KTQT 41. 8. Lê Văn Đạo, “ Để ngành dệt may Việt Nam tiếp tục phát triển trong thời kỳ hậu hạn ngạch ”, Tạp chí Thương mại số 3+4+5/2005. 9. Vũ Hữu Tửu (2002), Giáo trình kỹ thuật nghiệp vụ ngoại thương, Nhà xuất bản Giáo Dục, Hà Nội. 10. Trung tâm thông tin thương mại ( Bộ Thương Mại ), “ Hướng dẫn tiếp cận thị trường Hoa Kỳ ” (2001), Nhà xuất bản Thống Kê, Hà Nội. 11. “ Xuất khẩu dệt may năm 2005- Cơ hội và thách thức ”, Ngoại thương số 6 ra ngày 21-28/202/2005. 12. Các trang web: - www.vnn.vn - www.vnexpress.net - www.hatrade.com - www.tintucvietnam.vn. - www.vietnameconomy.com.vn.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docR0077.doc
Tài liệu liên quan