Đề tài Giải pháp về hạn chế nợ khó đòi tại Sở giao dịch I - Ngân Hàng Công Thương Việt Nam

Sau khi nghiên cứu đề tài, suốt hơn 3 tháng thực tập tại Sở Giao dịch I Ngân hàng công thương Việt Nam, em học hỏi được nhiều điều kể cả về thực tế lẫn kiến thức lý luận chung. Có được kết quả đó, trước hết là nhờ sự quan tâm, hướng dẫn nhiệt tình của cô giáo – TS. Phan Thu Hà và của các cô chú trong phòng kinh doanh của Sở Giao dịch I Ngân hàng công thương Việt Nam.

doc87 trang | Chia sẻ: ndson | Lượt xem: 1211 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp về hạn chế nợ khó đòi tại Sở giao dịch I - Ngân Hàng Công Thương Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ử lý theo phán quyết của toà án hợc theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. +Trường hợp khách hàng bị phá sản, tài sản sẽ được xử lý theo pháp luật về phá sản. -Về vai trò của cơ quan nhà nước. +Những cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ có trách nhiệm tạo điều kiện cho việc xử lý tài sản theo yêu cầu của ngân hàng. +Những cơ quan công án và các phòng ban của UBND thực hiện các biện pháp hỗ trợ khi cần thiết. +Cơ quan nhà nước có thẩm quyền có trách nhiệm thực hiện đăng ký và chuyển giao quyền sở hữu khi tài sản được bán. -Về trường hợp có tranh chấp xảy ra khi xử lý tài sản : Khi mà bên nợ từ chối việc chuyển giao tài sản hoặc gây cản trở việc bán tài sản của ngân hàng, thì việc tranh chấp xảy ra. Khi đó, ngân hàng phải kiện lên tòa án. Việc khởi kiện này có quy trình như sau : +Trên cơ sở hợp đồng đã ký giữa ngân hàng và khách hàng, ngân hàng có quyền đưa sự việc ra toà hoặc nhờ trọng tài giải quyết. +Nếu sự việc không quá phức tạp, có thể nhờ trọng tài giải quyết và các quy định liên quan đến trọng tài tại Việt Nam sẽ được áp dụng. +Nếu trọng tài không giải quyết được hoặc vì một trong hai bên khách hàng và ngân hàng không muốn giải quyết bằng trọng tài mà phải bằng toà án thì hai bên sẽ thực hiện việc chuyển vụ tranh chấp sang toà án giải quyết. +Khi sự việc được toà án giải quyết, bên thế chấp từ chối chuyển giao tài sản thì toà án thực hiện việc cưỡng chế mà thủ tục như sau : .Giữ các tài liệu loiên quan đến toà án (toà kinh tế hoặc dân sự) .Toà thụ lý, xem xét tài liệu và trước hết mời các bên tới để hoà giải. .Nếu không hoà giải được, toà án sẽ mở phiên toà xét xử và đưa ra phán quyết. .Nếu bên thế chấp vẫn từ chối chuyển giao tài sản theo phán quyết thì toà án sẽ cưỡng chế và được “đội cưỡng chế thi hành án” thực hiện- tịch thu tài sản. .Sau phán quyết hoặc tịch thu, tài sản được chuyển giao cho cơ quan có thẩm quyền để tổ chức bán đấu giá. Trường hợp khác, sở không tổ chức bán đấu gía tài sản đảm bảo mà mua lại nó. Đó cũng là một cách xử lý nợ khó đòi. Theo cách này, dựa trên cơ sở luật pháp, quy định của ngân hàng nhà nước - Ngân hàng công thương Việt Nam, sở có các quy định sau : -Sở có thể xem xét mua lại tài sản đảm bảo của khách hàng là các cá nhân hay tổ chức kinh tế vay vốn do thua lỗ mà không trả được nợ cho Sở bằng cách gán nợ, sau đó bán lại hoặc cho thuê. -Về đối tượng sở có thể mua để gán nợ : nhà ở, kho tàng, cửa hàng, khách sạn, có thể gồm cả trang bị nội thất. Các tài sản này phải thuộc sở hữu hợp pháp của khách hàng, phải bán được và có lãi, khi làm thủ tục mua, bán giữa ngân hàng và khách hàng, phải qua công chứng. -Về giá cả : Nếu tài sản thanh lý của doanh nghiệp nhà nước giải thể, sát nhập, chuyển quyền sở hữu thì giá do hội đồng thanh lý quyết định. Nếu là tài sản do ngân hàng phát mại thì giá mua là giá bán công khai mà do hội đồng phát mại bán được. Trường hợp khác do hai bên tự thoả thuận. -Nếu giá trị tài sản mua mà lớn hơn khoản phải trả ngân hàng, giám đốc SGDI có quyền dùng vốn kinh doanh để trả cho khách hàng. Nếu cần sửa chữa, cải tạo để gán, cho thuê, phải làmdự toán theo quy định để trình Tổng giám đốc Ngân hàng công thương Việt Nam duyệt. Nếu được, SGDI sẽ dùng vốn kinh doanh để thực hiện và quyết toán với Ngân hàng công thương Việt Nam. -Trong thời gian tài sản chưa bán, chưa cho thuê, các tài sản phải được quản lý. Khi SGDI có nhu cầu phục vụ hoạt động kinh doanh mà sử dụng phải được sự đồng ý của Tổng giám đốc Ngân hàng công thương Việt Nam và hội đồng thì phải dùng vốn thích hợp để trang trải, nhập tài sản cố định và trích khấu hao theo quy định hiện hành. -Đối với tài sản gán nợ chi nhánh tạm giữ, chưa chuyển quyền sở hữu thì phối hợp với tổ chức kinh tế vay vốn bán lại tài sản khi thu nợ hoặc có văn bản đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền tổ chức đấu giá phát mại tài sản để thu nợ. SGDI-NHCTVN đã và đang xử lý tài sản đảm bảo như thế nào để thu hồi nợ khó đòi. 1/ Vấn đề đảm bảo tài sản tại Sở. Sở nằm ngay trung tâm thủ đô, nơi tập trung nhiều doanh nghiệp cũng như các cá nhân có nhu cầu về vốn cao nên đối tượng khách hàng của sở rất đa dạng như doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần, hợp tác xã, tổ sản xuất, công ty liên doanh, hợp doanh, công ty TNHH… Tuy nhiên, chủ yếu, khách hàng của sở là các doanh nghiệp quốc doanh mà năm 2001, tổng dư nợ của các đối tượng này chiếm 1.355 tỷ trên tổng số dư nợ tại Sở 1479 tỷ, do những khách hàng thường xuyên, có uy tín, lớn của Sở nằm trong khu vực này; hơn nữa, cho vay đói với khu vực này cũng ít rủi ro hơn so với khu vực ngoài quốc doanh-nơi mà sự phức tạp luôn tiềm ẩn trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Vì vậy, hình thức bảo đảm tiền vay tại Sở chủ yếu bằng tín chấp (chiếm 86,3%), hình thức bảo lãnh không đáng kể (1,15%) hình thức cầm cố mà chủ yếu cầm cố sổ tiết kiệm tài khoản tại chính Sở (chiếm 10,93%), còn lại 1,62% là hình thức đảm bảo tài sản, tuy đây là hình thức bảo đảm chiếm tỷ trọng thấp nhưng nợ khó đòi chủ yếu nằm ở đây và đó là hình thức hữu hiệu nhất mà ta muốn đề cấp đến để thu hồi vốn cho ngân hàng, xử lý nợ khó đòi. Biểu 5: Tình hình bảo đảm tiền vay tại SGDI-NHCTVN Hình thức bảo đảm Năm 2000 Năm 2001 Số tiền (dư nợ) Tỷ trọng Số tiền (dư nợ) Tỷ trọng 1.Thế chấp 19,2 1,54% 24,25 1,62% 2.Tín chấp 1084,4 86,99% 1291,9 86,3% 3.Bảo lãnh 19,95 1,16% 17,22 1,15% 4.Cầm cố 128,52 10,31% 163,62 10,93% 5.Tổng 1.246,6 100% 1.497 100% Nguồn: Sao kê tài khoản ngoại bảng SGDI-NHCTVN Sở hoạt động trên địa bàn rộng lớn với nhiều khách hàng hoạt động ở nhiều lĩnh vực kinh tế khác nhau tập trung vào các ngành công nghiệp như lương thực, thực phẩm, phân bón, may mặc, điện, cơ khí, các ngành xây dựng, giao thông vận tải và Bưu chính viễn thông. Do đó, tài sản đảm bảo của Sở cũng rất đa dạng, đa dạng về tính năng, quy mô, hoạt động của từng loại, gây cho Sở nhiều khó khăn trong công tác xử lý. Tài sản đảm bảo tại Sở chủ yếu là nhà ở, quyền sử dụng đất, dây chuyền máy móc, thiết bị, hàng h oá. Các tài sản này đều có thể mua bán, giao dịch thuận lợi trên thị trường. Mặt khác, việc phát mại tài sản ngày càng dễ dàng vì công tác thẩm định hoàn thành tốt nhiệm vụ và nhu cầu xã hội cũng tăng nhanh trong các lĩnh vực này. Đối với SGDI-NHCTVN, các doanh nghiệp nhà nước do sử dụng hình thức đảm bảo vay vốn bằng uy tín nên không cần đến tài sản thế chấp. Song, trong quá trình sử dụng vốn vay, nếu thấy doanh nghiệp hoạt động không hiệu quả hoặc gặp vấn đề gì khác, thì Sở lập tức buộc các doanh nghiệp đó phải thực hiện ký hợp đồng thế chấp để đảm bảo cho khoản vay. Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh bắt buộc phải sử dụng hình thức đảm bảo hoặc cầm cố để đảm cho khoản vay. Đối với các cá nhân vay vốn, tài sản đảm bảo là điều kiện bắt buộc không thể thiếu. SGDI trực tiếp nhận tài sản đảm bảo bằng hiện vật hoặc các giấy tờ sở hữu gốc hợp pháp. Tài sản đảm bảo có tầm quan trọng to lớn khi có rủi ro xảy ra. Nhận thức được điều đó nên Sở luôn coi trọng và coi vấn đề thẩm định khả năng đảm bảo của tài sản đảm bảo như một điều kiện gần như bắt buộc đối với mỗi khoản vay nhất là đối với khách hàng là cá nhân hay doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Sở luôn thực hiện việc định giá tài sản đảm bảo đúng theo quy trình của ngân hàng nhà nước và Ngân hàng công thương Việt Nam. Sở căn cứ vào mục đích từng món vay và giá trị tài sản đảm bảo mà đưa ra mức cho vay phù hợp, thông thường là 70% giá trị tài sản đảm bảo; có khi chỉ 50% hay 80-90%, điều đó phụ thuộc vào mức độ rủi ro trong việc thanh lý tài sản đảm bảo, tức là mức độ biến động giá trị tài sản đảm bảo trên thị trường theo thời gian. Cán bộ tín dụng của Sở thường xuyên kiểm tra, đánh giá tài sản đảm bảo của mỗi khoản vay để tránh rủi ra về vấn đề phát mại (nếu có). 2./.Vấn đề xử lý tài sản tại Sở ở phần trước, đã trình bày về nợ quá hạn và nợ khó đòi tại Sở qua các năm 1999-2001. Ta thấy rằng, nợ quá hạn có xu hướng giảm theo từng năm tuy rằng mức độ giảm còn khiêm tốn. Tuy nhiên về tỷ trọng trên nợ quá hạn, nợ khó đòi lại tăng lên. Điều đó thể hiện việc xử lý nợ khó đòi tại Sở GDI còn nhiều bất cập. Số nợ khó đòi chuyển sang năm 2001 chủ yếu là từ nguồn vốn vay Đài Loan mà các doanh nghiệp vay để mua dây chuyền máy móc thiết bị và một số doanh nghiệp nhà nước vay nợ lớn để kinh doanh nhưng thua lỗ. Tuy rằng số nợ khó đòi cần xử lý bằng cách xử lý tài sản đảm bảo là lớn nhưng nó tập trung chủ yếu ở một số doanh nghiệp (hơn 30 tỷ) chủ yếu là dây chuyền máy móc, thiết bị, nhà cửa và quyền sử dụng đất, hàng hoá, nó phản ánh kết quả công tác xử lý nợ khó đòi của Sở. Tuy nhiên mức độ giảm còn khiêm tốn. Hết năm 2000, số nợ khó đòi là 50,5 tỷ thì số tài sản thế chấp phải xử lý trị giá 28,1 tỷ. Hết năm 2001, hai con số trên là 58 tỷv và 25,8 tỷ. Chi tiết qua biểu Biểu 6: Tài sản đảm bảo phải xử lý để thu hồi nợ khó đòi tại SGDI-NHCTVN Danh mục tài sản 31/12/2000 31/12/2001 Số tiền Tỷ trọng Số tiền Tỷ trọng 1.Nhà cửa, vật ktrúc 8,83 29,8% 7,97 30,9% 2.Quyền sử dụng đất 10,72 38,15% 9,6 37,2% 3.Dây chuyền máy móc 7,12 25,3% 6,53 25,3% 4.Hàng hoá 1,88 6,7% 1,7 6,6% 5.Tổng 28,1 100% 25,8 100% Nguồn: Báo cáo tín dụng SGDI-NHCTVN năm 2000-2001 Các dây chuyền máy móc phải xử lý thường không đồng bộ, nhu cầu của thị trường về sản phẩm là hạn chế. Mặt khác, do vướng một số cơ chế, chính sách của nhà nước về những vấn đề liên quan đến dây chuyền này nên nó không thể hoạt động được và rất khó bán được dù giá trị thực tế cao. Sở đã phát mại để thu hồi nợ một số tài sản song giá bán lại quá thấp (khoảng 10% nguyên giá) nên bị phía doanh nghiệp phản đối. Một số dây chuyền máy móc và hàng hoá thì doanh nghiệp lại không muốn bán mà muốn trả máy hoặc gán nợ nhưng ngân hàng không thể nhận vì việc tiêu thụ những tài sản này trên thị trường là quá khó và việc bảo quản chúng lại tốn kém và có khi do không biết bảo dưỡng lại gây ra hỏng hóc. Còn đối với tài sản đảm bảo là nhà cửa, đất đai thì việc bán lại mắc phải rất nhiều các khó khăn về thủ tục, quy trình xử lý và do người vay thấu thiện chí nên tiến bộ chậm chế. Trong năm 2000 và 2001, Sở đã phát mại được khoảng hơn hai chục căn nhà và chục mảnh đất song, giá trị lại thấp và số tiền thu được càng nhỏ đi khi mà thị trường bất động sản biến động và do Sở phải chịu chi phí không nhỏ phát sinh. Dù cho Sở cố gắng hết mức xử lý tài sản đảm bảo có thể thu hồi đủ nợ khó đòi, nhưng đối với khách hàng là cá nhân, vật đảm bảo chính là nhà cửa của họ thì Sở phải gặp khó khăn do tính nhân đạo của sự việc: số tiền thu được trước hết phải giải quyết chỗ ở mới cho họ, sau đó mới trừ vào nợ, phải làm vậy vì trước hết là tính nhân đạo, sau đó là uy tín của Sở. Tuy nhiên, cái khó lại nằm trong vấn đề phát mại tài sản đảm bảo là nhà cửa, đất đai của doanh nghiệp nhà nước, bởi thực tế tại Sở, các tài sản này có giá trị thấp quá do doanh nghiệp không có quyền quyết định với đất đai đang sử dụng mà chỉ cơ quan quản lý mới làm được trong khi giá trị nhà cửa trên đất đai đó lại có giá trị nhỏ hơn. Đơn cử một số trường hợp sau để hiểu rõ hơn, cụ thể hơn về công tác xử lý tài sản đảm bảo của Sở. -Công ty TNHH Nam Dương: Năm 1995 đã vay 197.184 USD và 167.684 USD để mua 2 dây chuyền máy sản xuất ắc quy ôtô, xe máy (liệu suất 4,5%). Thế chấp 332m2 đất và chính 2 dây chuyền này. Công ty đã ngừng sản xuất và Sở không thu hồi được nợ. SGDI đã phát mại tài sản đảm bảo nhưng 2 dây chuyền đều bán với giá quá thấy, không thu hồi đủ nợ, thậm chí là vốn. -Công ty TNHH Ngọc Thịnh vay 154.000 USD (4,5%) để sản xuất bàn ghế văn phòng. Đảm bảo 186m2 nhà xưởng (khoảng 280 triệu VNĐ) và dây chuyền máy móc (154.000USD). Không sản xuất được, không trả nợ được, Sở đã cho phát mại tài sản nhưng không thể bán đựơc dây chuyền máy này. -Xí nghiệp đo lường, một doanh nghiệp nhà nước chuyên sửa chữa và sản xuất các loại dụng cụ đo lường. Vay 95.409 USD để mua dây chuyền sản xuất (4,5%). Đảm bảo 220m2 (khoảng 5 tỷ VND) thuộc sở hữu tự quản không làm ăn được, xí nghiệp không trả được nợ. SGDI đã thu hết số tiền 61.408 USD dó thanh lý dây chuyền nhưng số đất doanh nghiệp đảm bảo lại cơ quan cấp trên quản lý nên không được phép phát mại. Thật là “chết dở”. Còn nhiều trường hợp khác nữa khiến Sở phải “chết dở”. Như vậy ngoài các yếu tố khác thuộc về môi trường, cơ chế, trình độ… thì 3 khó khăn lớn nhất khiến Sở không thực hiện tốt việc xử lý tài sản đảm bảo thu hồi nợ khó đòi: không bán được dây chuyền máy móc, không thể bán đất do cấp trên của khách hàng (DNNN) quản lý, khó khăn về vấn đề nhân đạo khi xử lý TSTC là nhà dân. Ngoài 3 khó khăn lớn nhất kể trên, cụ thể Sở còn gặp bao nhiêu khó khăn nữa. Đó là nội dung phần ngay sau đây: 3/ Chín khó khăn trong quá trình xử lý tài sản đảm bảo để thu hồi nợ khó đòi tại sở GDI-NHCTVN. Phát mại, xử lý tài sản đảm bảo là biện pháp hữu hiệu để thu hồi nợ khó đòi cho Sở nhưng kết quả đạt được còn hạn chế. Bởi vì các khó khăn gặp phải trong thực tế. Chín khó khăn sau không chỉ của riêng SGDI mà các ngân hàng thương mại khác cũng có thể gặp phải. 1.Khó khăn do bên đảm bảo thiếu thiện chí -Người vay cố gắng lẩn tránh việc phát mại tài sản, trốn toà, tránh không cho toà lấy lời khai khiến toà phải hoãn đến khi bắt được con nợ. Bên đảm bảo chầy ỳ, gây khó dễ cho ngân hàng đòi phải có chỗ ở khác về luật quy định về quyền có nhà ở. Hoặc khách hàng cố tình sử dụng quyền kháng cáo để dây dưa, xin kiến nghị để kéo dài thời gian. -Một số khách hàng vay vốn có tài sản đảm bảo là nhà, đất thì chưa hợp lệ. Nhà và đất thường do ông cha để lại, một số chưa muốn làm các giấy tờ chứng nhận quyền sử dụng đất và sở hữu nhà. Vì thế, tạo ra rất nhiều khó khăn trong công tác xử lý TSĐB. -Bên vay lừa đảo ngân hàng, một tài sản nhưng đem đảm bảo nhiều nơi hoặc tài sản đã đem đảm bảo nhưng có thủ đoạn tẩu tán, bán một bộ phận của tài sản, để hậu quả xấu cho ngân hàng. -Bên vay phá sản, không thể thanh toán nên phải trốn nợ, không ký nhận lợi nợ vay do đó không thể làm được thủ tục xử lý tài sản đảm bảo. 2.Khó khăn do năng lực yếu kém cán bộ của Sở Cám bộ tín dụng của Sở GDI còn hạn chế hiểu biết về thị trường các loại tài sản khiến việc định giá tài sản đảm bảo còn sai lệch với giá trị thực. Trước khi đem đảm bảo vay vốn, tài sản đảm bảo được định giá cao quá khiến cho việc phát mại tài sản sau này để thu hồi nợ khó đòi gặp rất nhiều khó khăn. Thực tế là không thu đủ số tiền gốc vốn vay mà Sở đã cho vay chứ chưa nói tới khoản lãi sinh ra 3.Khó khăn trong việc bán tài sản đảm bảo Nguyên nhân chính do không phù hợp nhu cầu người mua, tài sản cũ kỹ, lạc hậu, tâm lý người tiêu dùng không muốn mua những loại tài sản kiểu này. Còn đối với bất động sản, đặc biệt là nhà đất, tuy nó không mất đi giá trị thậm chí còn tăng do giá trị cả nhà đất thường có xu hướng tăng nhưng thị trường bất động sản còn phôi thai, còn rất nhiều khó khăn về pháp lý, hành chính khiến việc mua bán, chuyển nhượng khó thực hiện được. Những tài sản đảm bảo cho nguồn vốn vay Đài Loan của Sở chủ yếu là các dây chuyền máy móc chuyên dùng, không đồng bộ nên việc bán tài sản rất khó khăn. 4.Khó khăn về hồ sơ TSĐB Theo pháp luật, khi đảm bảo, phải lưu ký đầy đủ giấy tờ gốc sở hữu tài sản tại bên cho vay. Nhưng phần lớn tài sản đảm bảo không có giấy tờ này, phần vì chưa làm được như nhà đất, phần vì không cần đến như máy móc, thiết bị, dây chuyền sản xuất, nhất là đối với khách hàng là các doanh nghiệp nhà nước được nhà nước giao quyền quản lý và sử dụng một lượng lớn tài sản nhưng không được cấp giấy tờ nào cả về sở hữu hay chứng minh quản lý. Đây là tồn tại lớn mà Sở phải tập trung khắc phục để thực hiện cho vay theo đúng những quy định ban hành. 5.Khó khăn về việc ngân hàng có ít quyền trong việc xử lý TSĐB. Khi cần xử lý tài sản, bên đảm bảo không bàn giao tài sản cho ngân hàng, họ trầy bửa nhưng chưa có quy định nào được áp dụng xử lý. Một số nơi, chính quyền địa phương chưa ủng hộ việc xử lý tài sản nhất là tài sản là nhà đất của dân, họ không hiểu về hợp đồng kinh tế giữa khách hàng và ngân hàng cũng như hiến pháp 1992 quy định về quyền có nhà ở của dân mà yêu cầu ngân hàng phải bố trí chỗ ở cho bên kia nếu muốn xử lý tài sản. Mặt khác, khi người đi vay không trả được nợ cho ngân hàng, ngân hàng muốn phát mại tài sản thế chấp để thu hồi thì phải làm đơn kiện ra toà để đề nghị giải quyết và chỉ khi bản án được quyết định và có hiệu lực thì ngân hàng mới có quyền yêu cầu trung tâm bán đấu giá, tổ chức bán đấu giá tài sản, 6).Khó khăn khi có tranh chấp, toà án chưa quan tâm xử lý, thời gian thi hành án dài, không hiệu quả, nhiều khi không thi hành án, không có biện pháp cưỡng chế cần thiết. Trong việc xử lý TSĐB, các ngành, các cấp phối hợp còn thiếu chặt chẽ, mỗi cấp một kiểu, làm theo ý mình. Nhiều khi, cơ quan thi hành án giữ quyền đinh jgiá tài sản khiến ngân hàng gặp nhiều trở ngại. Quy định về thời hiệu khởi kiện vụ án kinh tế 6 tháng đối với hoạt động ngân hàng là chưa hợp lý. 7).Khó khăn về thủ tục công chứng TSĐB để vay vốn. Theo pháp luật hiện hành, việc thế chấp tài sản phải được kỹ bằng văn bản theo hình thức hợp đồng thế chấp có chứng nhận của công chứng nhà nước hoặc chứng thực của UBND có thẩm quyền. Tuy nhiên, lệ phí công chứng tương đối cao, thời hạn công chứng chưa phân biệt theo các hình thức cho vay của ngân hàng (ngắn, trung, dài hạn), các phòng công chứng thường không muốn chứng nhận vì không có khả năng kiểm tra chính xác giấy tờ, trình độ của người làm công chững còn thấp. Mặt khác, sự phân công giữa phòng công chứng với sở nhà đất, sở địa chính vì theo dõi bất động sản chưa chặt chẽ, dẫn đến có trường hợp cùng một tài sản mà công chứng nhiều bản tạo kẽ hở để người vay lợi dụng 8).Khó khăn do cơ chế thế chấp, cầm cố vay vốn ngân hàng chưa nâng cao được quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong cho vay và quyết định việc cần thiết có bảo đảm tiền vay hay không. -Tồn tại cơ chế “xin-cho” trong thế chấp, cầm cố, do nhiều khách hàng và ngay cả ngân hàng “xin” nhà nước được miễn thế chấp cầm đối với từng khoản vay cụ thể do nhiều khó khăn khác nhau, dẫn đến ngân hàng nhà nước hợc cổ phần là những cơ quan ở cấp vĩ mô phải thay chức năng của ngân hàng là xem xét, giải quyết từng trường hợp cụ thể. -Cán bộ tín dụng thường coi tài sản thế chấp là điều kiện tiên quyết khi xem xét cho vay nên có khi it schú ý đến việc xem xét hiệu quả của dự án cho vay, xem khoản vay có thể thu hồi được hay không. Tình trạng này dẫn đến việc nhân bất cứ tài sản nào mà người đi vay đem ra thế chấp.làm cho bản chất tín dụng giống việc cầm đồ hơn .Vẻ ngoài, các khoản vay này đều có đảm bảo chấp hành đúng quy đinh của pháp luật nhưng lại là những khoản vay không hiệu quả, khó thu hồi nợ, và khó xử lý tài sản để thu hồi nợ. Mặt khác, tài sản thế chấp không được thẩm định một cách kỹ càng về giá trị, khả năng mua bán, chuyển nhựng trên thị trường nên khi phát mại những tài sản đó sẽ gặp rất nhiều khó khăn làm cho tình trạng ứ đọng tài sản thế chấp, cầm cố không xử lý được ngày càng tăng. Nhiều khoản vay khác đều có tài sản thế chấp đúng quy định nhưng các tài sản thế chấp này lại được hình thành từ vốn vay của chinh sở, nợ chồng lên nợ, sử dụng vốn vay không đúng mục đích và không có hiệu quả nên một số vốn lớn của sở bị ứ đọng vào nhà cửa, đất đai, kho tàng mà danh nghĩa là tài sản thế chấp, cầm cố. Ngược lại, có những khách hàng ít có uy tín, cho vay rủi ro lớn nhẽ ra phải có tài sản đảm bảo hơn thì nhà nước lại cho phép không phải trả thế chấp, cầm cố và cũng không quy định trong trường hợp này … Những khó khăn như vậy góp phần đưa ngân hàng vào tình thế bị động, không tự bảo vệ dược mình khi rủi ro xảy ra. 9).Khó khăn do hệ thống các văn bản pháp luật quy định về xử lý tài sản đảm bảo chưa hoàn chỉnh, đồng bộ và đầy đủ. Đến nay, chưa có một văn bản hướng dẫn cụ thể nào về trình tự, thủ tục, trách nhiệm cũng như quyền hạn của các cơ quan ngân hàng và các bên liên quan về xử lý tài sản đảm bảo, các quy định mới là quy định chung, còn có sự chồng chéo, thiếu thống nhất giữa các văn bản. -Điều 12/NĐ 178 về việc giữ tài sản và giấy tờ của tài sản cầm cố, thế chấp, quy định “nếu tài sản có đăng ký quyền sở hữu, tổ chức tín dụng phải giữ bản chính giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản”. Nhưng thực tế, các ngân hàng lại chưa nắm được danh mục các tài sản theo quy định phải đăng ký quyền sở hữu và cơ quan chức năng cấp chứng nhận quyền sở hữu đó. Điều này khiến một số cơ quan chức năng khi sở đến đăng ký đã không nhận làm mà lý do là chưa được cơ quan cấp trên hướng dẫn. -Luật các tổ chức tín dụng mục 2, khoản 2, điều 54 quy đinh : “Bán tài sản cầm cố để thu nợ, chuyển nhượng, bán tài sản thế chấp để thu hồi vốn trong một thời hạn nhất định theo quy định của pháp luật. Như vậy luật quy định không rõ ràng. Ta hiểu rằng thu hồinợ bằng thu hồi vốn và lãi. Nhưng quy định như trên sẽ dẫn đến việc người vay viện luật mà chỉ trả vốn, không trả lãi. -Bộ luật dân sự quy định sự khác nhau giữa đảm bào và cầm cố là tài sản dùng làm đảm bảo thực hiện hợp đồng là bất động sản hay động sản. Nghị định số 17/HĐBT ngày 16/1/90 của hội đồng bộ trưởng lại quy định sự khác nhau đó là do ai nắm giữ tài sản đó, chủ nợ nắm giữ là cầm cố còn bên nợ nắmgiữ là tài sản đảm bảo. Trên đây là thực trạng về sở GDI-NHCTVN, thực trạng nợ khó đòi, nợ quá hạn tại sở và những vướng mắc và hạn chế chung khiến cho sở còn nhiều bất cập trong công tác nợ khó đòi. Cần tìm ra những giải pháp tốt để giúp sở đạt kết quả tốt trong công tác hạn chế nợ khó đòi nói riêng và thực hiện “an toàn, phát triển, hiệu quả” theo đúng định hướng Ngân hàng công thương Việt Nam đã đặt ra- nói chung. Đó chính là nội dung chương III sau đây : Chương III Giải pháp hạn chế nợ khó đòi tại SGDI-NHCTVN. Việc xử lý tài sản thế chấp thu hồi nợ khó đòi tại Sở GDI-NHCTVN nói riêng và các ngân hàng thương mại nói chung đang có rất nhiều khó khăn. Không phải mãi tận bây giờ, ngành ngân hàng mới đặt ra nhiệm vụ là phải tập trung xử lý nợ khó đòi mà thời gian qua, ngân hàng nhà nước, các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng đã quan tâm rất nhiều đến việc này. Sở GDI-NHCTVN đã thực hiện nhiều biện pháp cụ thể cho mục tiêu giảm thấp tỷ lệ nợ quá hạn xuống còn 3,2% năm 2002 nhằm nâng cao chất lượng tín dụng, củng cố hệ thống ngân hàng. Trên thực tế, đã thu được một kết quả nhất định, nhưng vẫn còn chưa đạt yêu cầu. Trong thời gian thực tập tại SGDI-NHCTVN, sau khi đã tìm hiểu thực trạng, em mạnh dạn đưa ra ý kiến của mình, em mong rằng các ý kiến đó sẽ mang tính xây dựng, góp một phần vào đó giúp SGDI-NHCTVN nói riêng và ngân hàng thương mại nói chung trong việc hạn chế việc nợ khó đòi. Định hướng của SGDI-NHCTVN về hạn chế nợ khó đòi. Ngân hàng công thương Việt Nam là một trong những ngân hàng thưng mại lớn, ngân hàng thương mại quốc doanh, hoạt động của ngân hàng có vị trí rất quan trọng đối với sự phát triển kinh tế của đất nước nói chung và lĩnh vực ngân hàng nói riêng. Là một chi nhánh của Ngân hàng công thương Việt Nam, SGDI phải thực hiện theo các phương hướng và nhiệm vụ mà Ngân hàng công thương Việt Nam giao cho. Vì thế trách nhiệm của sở trong thời gian tới là phải đảm bảo vốn cho nền kinh tế, cho đầu tư phát triển cho xuất khẩu, cho phát triển nông nghiệp nông thôn; phải mạnh dạn huy động vốn, nhất là vốn chung, dài hạn; cải tiến thủ tục, gắn việc cho vay vào phương án sản xuất kinh doanh có hiệu quả; mở rộng thêm hình thức cho vay hợp vốn để có doanh nghiệp vay được vốn phát triển sản xuất kinh doanh -Sở giáo dục I tập trung kiện toàn lại toàn bộ công tác cho vay, chú trọng vào khâu thẩm định dự án đánh giá khách hàng cho thật chính xác; rút kinh nghiệm cho dự án vay vốn Đài Loan để ngăn ngừa, cho nợ quá hạn xảy ra ở mức độ thấp nhất. -Sở tập trung giải quyết nợ quá hạn bằng mọi biện pháp, tích cực thu hồi nợ quá hạn để tránh trường hợp xảy ra trường hợp nợ khó đòi. Đối với nợ quá hạn có tài sản đảm bảo, có đầy đủ giấy tờ hợp pháp do ngân hàng gửi thì có thể xử lý bằng bán, cho thuê hoặc chuyển cho các doanh nghiệp có chức năng kinh doanh nhận tài sản trả nợ dần. Đối với tài sản đảm bảo chưa đủ giấy tờ hợp pháp thì làm việc với các cơ quan chức năng để nhanh chóng hoàn thành thủ tục pháp lý, trình lên ngân hàng nhà nước xin ý kiến để xử lý tài sản đảm bảo đó. Đối với nợ quá hạn do yếu tố khách quan, được đồng ý cho giảm nợ thì xin ý kiến chỉ đạo của ngân hàng nhà nước về nguồn bù đắp để giải quyết. -Trong quá trình xử lý tài sản đảm bảo, Sở vừa thực hiện theo các quy định của Ngân hàng công thương Việt Nam vừa áp dụng một cách thích hợp các giải pháp của mình cho phù hợp từng khoản cho vay, từng đối tượng. -Thực hiện xử lý tài sản đảm bảo theo các văn bản do chính phủ đã ban hành. Nghị định số 165/199/NĐ-CP về giao dịch đảm bảo, NĐ 178 về bảo đảm tiền vay về tổ chức tín dụng trong nước và NĐ 08/2000/NĐ-CP về đăng ký giao dịch bảo đảm. -Phấn đấu 2002 giải quyết được nợ khó đòi từ nguồn vốn vay Đài Loan, giảm tỷ trọng nợ quá hạn xuống còn 3,2% Giải pháp của Sở giáo dục I- Ngân hàng công thương Việt Nam về hạn chế nợ khó đòi. Nâng cao trình độ cán bộ nhất là trong công tác xử lý tài sản đảm bảo -Thực hiện các lớp tập huấn, các c uộc hội thảo về kinh nghiệm đối phó với khả năng xảy ra rủi ro tín dụng và cách xử lý nợ khó đòi giữa các ngân hàng trong hệ thống Ngân hàng công thương Việt Nam và ngân hàng nước ngoài, để từ đó học hỏi tiếp thu một cách có chọn lọc những kinh nghiệm để áp dụng vào thực tế tại Sở. -Sở giáo dục I- Ngân hàng công thương Việt Nam thực hiện bồi dưỡng, nâng cao nghiệp vụ, khả năng nắm bắt và hiểu biết về pháp luật, cơ chế, chính sách, văn bản có liên quan cho đội ngũ cán bộ nói chung và cán bộ tín dụng nói riêng để họ có đủ khả năng phòng ngừa và hạn chế hiệu quả nợ quá hạn, nợ khó đòi. -Sở sắp xếp đội ngũ cán bộ một cách chuyên môn hoá để họ nắm bắt được tình hình thị trường, hiểu sâu, hiểu rõ hơn về công việc mình làm tạo điều kiện hạn chế sự xảy ra của nợ quá hạn cũng như làm công tác xử lý nợ khó đòi cho tốt. Cần phân tích đánh giá khách hàng cũng như dự án Dự án mà sẽ được đầu tư bằng khoản tín dụng do Sở cấp một cách chính xác; xem khách hàng là người có đáng tin cậy hay không, dự án có thực sự có hiệu quả hay không. Phải chú ý đến hiệu quả dự án hơn là chú ý đến tài sản đảm bảo. Cần một khung giá giao động hợp lý Giúp định giá tài sản đảm bảo tránh định giá cao quá gây thiệt hại khi xử lý hay thấp quá làm thiệt thòi cho khách hàng. Sở cần đưa ra một niên độ giao động thích hợp về giá để áp dụng cho việc định giá tài sản đảm bảo giúp cho cán bộ ngân hàng được linh hoạt trong quá trình xét duyệt cho vay. Hiện tại, để định giá tài sản trong việc xét duyệt cho vay, Sở đang áp dụng một khung giá chưa có độ giao động hợp lý làm cho nhiều khi giá trị tài sản tại thời điểm định giá khác xa so với lúc phát mại đặc biệt là các tài sản có sự biến động lớn như nhà đất, công trình… vì thế, khiến Sở gặp nhiều khó khăn khi phải phát mại tài sản để thu hồi nợ. Việc đưa ra biên độ giao động giá sẽ khác nhau đối với mỗi loại tài sản, tuỳ thuộc vào sự nhạy cảm của giá tài sản với thị trường, nhiều hay ít để đưa ra biên độ giao động là lớn hay nhỏ. Một biên độ giá như vậy sẽ giúp cho giá trị định giá của các tài sản không quá cao và cũng không quá thấp so với giá thị trường tại thời điểm định giá cũng như thời điểm phát mãi, giảm bớt rủi ro không thu hồi đủ vốn cho Sở. Sở chú trọng hơn nữa đến công ty mua bán được do chính Sở thành lập Theo luật các tổ chức tín dụng (01/10/98), các ngân hàng không trực tiếp kinh doanh bất động sản. Nhưng thực tế, những tài sản đảm bảo hoặc những tài sản có được do thu nợ, siết nợ, gán nợ…rất cần được khai thác vì chúng có thể được khai thác cho thuê, bán lại hoặc liên doanh liên kết; nhất là những bất động sản có giá trị lớn như máy móc, thiết bị, người mua đứt cả không phải là dễ. Muốn giải quyết vấn đề này một cách hiệu quả, phải cần đến công ty mua bán nợ (trực thuộc Sở) mà hoạt động của nó giúp Sở đẩy nhanh quá trình khai thác, giải quyết các tài sản đảm bảo để thu hồi vốn, giúp cho việc làm lành mạnh hoá dư nợ tín dụng của Sở bằng cách đứng ra mua lại các tài sản đảm bảo và thực hiện các phương án khai thác sao có hiệu quả nhất, trên cơ sở nhất, Sở sẽ cấp khoản tín dụng mới, tạo nguồn, tạo điều kiện cho khách hàng khôi phục. *Chú ý đến cách tổ chức công ty -Vốn hoạt động: Xuất phát từ chức năng của công ty là khai thác các bất động sản, tài sản mà Sở nắm giữ thông qua siết nợ, gán nợ, mua được bằng phát mãi, khách hàng giao để trừ nợ… nên nhu cầu vốn của công ty là phục vụ côngtác quản lý và kinh doanh tiếp thị. Lượng vốn này do Sở cung cấp. -Tổ chức cán bộ: các thành viên chủ chốt của công ty nhất là Ban giám đốc là cán bộ của Sở, được Sở cử và làm việc theo chế độ chuyên trách. Nhân viên khác tuyển từ bên ngoài. -Quan hệ giữa Sở và công ty: Trên cơ sở hợp đồng liên doanh liên kết. Ngân hàng góp tài sản, công ty chịu trách nhiệm quản lý, sử dụng và khai thác. -Nguồn thu của công ty: Nguồn thu chính chủ yếu của công ty là việc bán tài sản, cho thuê từ việc được chia do đem tài sản đi liên doanh liên kết khai thác. Nguồn thu này sẽ được chia cho Sở một tỷ lệ nào đó đã thoả thuận để vừađảm bảo cho Sở thu hồi vốn vừa trang trải chi phí hoạt động của công ty . -Về thuế: Công ty kinh doanh không vì lợi nhuận nên sẽ được miễn VAT và đượcgiảm thuế thu nhập doanh nghiệp. Cần một chế độ tài chính phù hợp để giải quyết các chi phí phát sinh trong công tác cho vay có đảm bảo nhất là đảm bảo bằng tài sản đảm bảo Chi phí này gồm rất nhiều khoản: Ngoài chi phí thẩm định, đánh giá do khách hàng chịu còn các chi phí cho cán bộ quản lý tài sản đó, chi phí phát sinh khi xử lý tài sản nếu phải nhờ đến toà án…Sở hiện tại chưa thực sự có quy định rõ ràng về hạch toán chi phí này. Thời gian tới, Sở cần giải quyết tốt vấn đề này tạo điều kiện cho việc xử lý tài sản đảm bảo đúng quy định, tránh khó khăn cho cán bộ làm công tác thu nợ khi phải xử lý tài sản đảm bảo. Nâng cao trách nhiệm của cán bộ tín dụng nhất là trách nhiệm đối với tài sản đảm bảo mà anh ta quản lý. Nếu khoản vay gặp phải sự cố chủ quan gây ra như định giá tài sản đảm bảo không đúng giá trị thực tế, tài sản đảm bảo không đủ “Tư cách” hoặc khoản vay vượt quá tỷ lệ quy định tính trên giá trị tài sản đảm bảo thì trước hết phải quy trách nhiệm cho cán bộ thực hiện công việc này. Còn nếu gặp phải sự cố khách quan, sở nên hạch toán vào kết quả kinh doanh, và coi đó là rủi ro trong kinh doanh tín dụng. Lựa chọn tài sản phù hợp hơn nữa đối với từng hình thức đảm bảo cụ thể. Với loại tài sản có gía trị lâu dài tức là không bị mất giá do thời gian, với các loại tài sản ít mất giá trị sử dụng như đất đai, nhà cửa Giấy tờ có giá thì khi cho vay nên làm giấy chuyển giao giấy tờ về Quyền sở hữu hay quyền sở hữu tài sản cho ngân hàng. Khi mà người vay không trả được nợ thì đương nhiên tài sản là của Sở mà không cần phải phát mại tài sản để thu hồi nợ. Cách này áp dụng cho các tài sản có giá trị ngang giá trị tiền vay cộng với lãi. Ưu điểm rõ rệt nhất của nó là tránh được thủ tục phiền hà trong việc phát mãi tài sản đảm bảo và sự liên két trách nhiệm với hành vi của con nợ khi anh ta có hành vi gây ra trách nhiệm dân sự hoặc hình sự. Với tài sản có giá trị hao mòn theo thời gian, khó tiêu thụ như máy móc,thiết bị lại phải khác. Để đảm bảo cần thiết phải đánh giá lại giá trị tài sản đảm bảo mà mức độ thường xuyên của nó phụ thuộc vào từng trường hợp cụ thể để đối phó kịp thời khi có dấu hiệu khả nghi xuất hiện vào thời điểm trả nợ, khách hàng không trả nợ được, sở sẽ giải quyết bằng cách phát mãi tài sản đảm bảo, nếu doanh nghiệp bị phá sản, phải trả hết số nợ do tài sản đảm bảo chưa đủ để trả nợ trước khi trả các món nợ khác. Người có đảm bảo tài sản được ưu tiên đòi nợ hơn các chủ nợ khác. Cần coi tài sản đảm bảo là một bộ phận cấu thành nguyên tắc tín dụng nên thường xuyên kiểm tra, đôn đốc và chú ý hơn nữa đến công tác quản lý, điều hành việc xử lý. -Coi trọng tài sản đảm bảo, xem nó như một bộ phận cấu thành nguyên tắc tín dụng cũng là chủ trương của ngân hàng nhà nước, nó tạo sự bình đẳng giữa ngân hàng và khách hàng do đó hạn chế được quan niệm không đúng coi tài sản đảm bảo là điều kiện tiên quyết thì xem xét cho vay; tạo điều kiện cho ngân hàng lựa chọn khách hàng sao cho có uy tín, hoạt động có hiệu quả, có khả năng trả nợ để cho vay ; lựa chon được biện pháp bảo đảm phù hợp với cả hai bên và lựa chọn tài sản đảm bảo. Đó là nhân tố quan trọng giúp giảm bớt tồn đọng tài sản cần phải xử lý. -Đối với tài sản đảm bảo thuộc diện sẽ phát mãi cần thường xuyên bảo quản, bảo dưỡng, tránh việc sau khi tòa án quyết định phát mãi thì tài sản đã cũ kỹ, hỏng hóc, giảm giá khiến ngân hàng không thể thanh lý được. -Sở đề ra kế hoạch từng người, từng việc để nâng cao trách nhiệm, hiệu quả. Đối với vấn đề phát mãi tài sản. -Nếu người vay đã tìm mọi nguồn thu từ kết quả sản xuất kinh doanh và nguồn thu khác mà vẫn không trả hết nợ, phải phát mãi tài sản từ sở tạo điều kiện cho họ tự bán tài sản nhằm thu đựơc giá trị sát thực và tránh cho sở những chi phí phát sinh. -Đồng thời sở phát triển dịch vụ thuê và cho thuê đối với tài sản đảm bảo vì người vay vẫn giữ nguyên quyền sở hữu tài sản được cấp vốn và giữ đến khi chính thức không trả được nợ. -Đối với tài sản là máy móc, thiết bị không đồng bộ, sở liên kết với đối tác cung cấp sản phẩm để từ đó phối hợp với khách hàng để giải quyết những khó khăn có thể. Chú ý phân loại tài sản và lập quỹ dự phòng. Những kiến nghị về vấn đề hạn chế nợ khó đòi tại Sở giáo dục I- Ngân hàng công thương Việt Nam. Kiến nghị với nhà nước. Cần hoàn thiện cơ chế đảm bảo tiền vay. Vấn đề này nên theo hướng không quy định đảm bảo, cầm cố, bảo lãnh là một điều kiện bắt buộc phải thực hiện để vay vốn hoặc được miễn thực hiện mà chỉ nên quy định có tính khuôn khổ pháp luật, tách bạch ra tin dụng chính sách và tín dụng thương mại. Với tín dụng thương mại, cần đưa ra nhiều biện pháp đảm bảo tiền vay một cách phong phú, đa đạng, trên cơ sở đó, các tổ chức tín dụng được lựa chọn khách hàng, lựa chọn dự án để quyết định hay không quyết định cho vay và cho vay có đảm bảo hay không cần tài sản đảm bảo; và áp dụng với mọi chủ thể kinh tế mà không phân biệt đối xử. Với tín dụng chính xác thì do chính phủ chỉ định cho vay và không cần đến tài sản làm đảm bảo, nhưng khi bị tổn thất có các nguyên nhân khách quan gây ra thì chínhphủ phải có trách nhiệm xử lý. Với cơ chế như vậy, sẽ khắc phục được một số tồn tại: -Nâng cao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của ngân hàng và khách hàng trong việc quyết định cho vay và trả nợ. Nhà nước không can thiệp quá sâu vào quyết định của các bên -Xoá bỏ cơ chế “xin cho” đảm bảo -Ngân hàng sẽ lựa chọn được khách hàng có uy tín để cho vay, lựa chọn được biện pháp đảm bảo phù hợp, lựa chọn được tài sản làm đảm bảo. Từ đó sẽ giảm việc cho vay bị động, phụ thuộc, giảm việc nhận bất cứ tài sản đảm bảo nào nên sẽ giảm được tồn đọng tài sản cần xử lý. Cần đưa ra giải pháp về định giá tài sản đảm bảo. -Thành lập một tổ chức chuyên môn về định giá tài sản đảm bảo -Đưa ra một khung giá mở, tạo điều kiện cho các ngân hàng linh hoạt hơn trong việc định giá, không đi quá xa so với quy định của ngân hàng và cũng không cố định vào khung giá đó, tránh tình trạng giá theo khung giá của nhà nước quá thấp so với giá thị trường nhất là thị trường bất động sản. Nhà nước cần thông báo rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng để tránh tình trạng hiêủ lầm giữa khách hàng và ngân hàng và tránh tình trạng cùngmột tài sản đảm bảo nhưng lại được đánh giá khác nhau với các ngân hàng khác nhau. Đơn giản hoá thủ tục đảm bảo -Theo quy định thì tài sản định giá từ 50 triệu trở lên thì phải qua công chứng, nhưng thủ tục về công chứng chưa có sự thống nhất về quy trình. Bộ tư pháp có trách nhiệm hướng dẫn các mẫu giấy tờ để công chứng đến nay vẫn chưa có mẫu hợp đồng đảm bảo. các ngân hàng thương mại quốc doanh, cổ phần…đều có mẫu riêng. -Các giấy tờ về sở hữu thường xử dụng đất có nhiều loại nhưng chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể để kiểm tra các thông tin của tài liệu công chứng khiến thủ tục công chứng rắc rối và mất nhiều thời gian. Vì thế chính phủ cần cải tiến hệ thống liên quan đến giấy tờ sở hữu tạo điều kiện cho việc công chứng. -Khi cần thiết phải xử lý tài sản đảm bảo, thật là vô lý khi mà ngân hàng phải khởi kiện mới được phát mãi. Đáng lý ra sau khi được xác nhận của công chứng, các tài sản đảm bảo đều hợp lệ, hợp pháp thì ngân hàng xuất trình đủ hồ sơ vay, hồ sơ đảm bảo và tái công chứng là có thể tiến hành phát mãi. -Cần thống nhất việc công chứng trong cả nước và giao toàn bộ việc xác nhận công chứng cho phòng công chứng. -Cơ quan tư pháp cần quy định rõ loại giấy tờ nào cần thiết cho hợp đồng công chứng về cầm đảm bảo bảo lãnh -Quy định về trách nhiệm thực hiện việc đăng ký các giao dịch đảm bảo đối với từng cơ quan có thẩm quyền. Các cơ quan này chịu trách nhiệm về thủ tục đăngký, nộp vào hệ thống dữ liệu quốc gia làm cơ sở cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản hay quyền sử dụng đất, tạo điều kiện cho công tác đảm bảo, tránh tình trạng không có chứng nhận sở hữu, nhiều tài liệu sở hữu khác nhau tài liệu giả… việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất còn nhiều bất cập, các cơ quan nhà nước cần thực hiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để đảm bảo tính pháp lý của khoản vay đảm bảo. -Quy định thuận lợi hơn về thủ tục chuyển nhượng quyền sở hữu tài sản và quyền sử dụng đất cho người mua tài sản đảm bảo, nhất là đối với các loại giấy tờ cụ thể chứng minh về việc mua tài sản đảm bảo cầm cố để làm cơ sở cho cơ quan có thẩm quyền làm thủ tục chuyển quyền sở hữu, sang tên. Cần quy định mức cho vay với các loại tài sản đảm bảo phù hợp hơn nữa. Nhẽ ra, chính phủ không cần can thiệp vào mức cho vay, không cần quy định mức cho vay tối đa đối với từngloại tài sản cụ thể (hiện nay mức tối đa là 70% giá trị tài sản đảm bảo). Ví như, những tài sản đảm bảo như chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, sổ tiết kiệm, sổ lương… thì có thể cho vay đến 90%, 95% hay thậm chí 100% giá trị. Ngược lại có những tài sản mà giá cả biến động mạnh như bất động sản, động sản, máy móc… thì mức cho vay có thể chỉ 50% hay 40% thậm chí còn thấphơn nữa. Vì thế, chính phủ cần để cho ngân hàng tự quyết định . Cần một chính về xử lý tài sản đảm bảo để hạn chế những bất cập, giúp ngân hàng khi phát mại tài sản *Cần một cơ chế xử lý tài sản đảm bảo -Quy định nhiều hình thức xử lý tài sản đảm bảo +Bên thế chấp tự bán tài sản +Cả hai bên cùng bán tài sản +Giao cho ngân hàng bán tài sản +Gán nợ hoặc thoả thuận bằng phương thức khác -Nâng cao quyền hạn của ngân hàng trong việc bán tài sản đảm bảo trong một số trường hợp: +Bên thế chấp vắng mặt không thực hiện được nghĩa vụ trả nợ, không có người thừa kế hoặc người thừa kế không thực hiện nghĩa vụ đó. +Sau một thời gian quy định, tài sản không được xử lý như thoả thuận -Đề ra nhiều phương thức bán tài sản để vận dụng linh hoạt vào từng trường hợp: +Bán trực tiếp cho người có nhu cầu +Bán đấu giá thông qua trung tâm hoặc thành lập ra doanh nghiệp chuyên thực hiện nhiệm vụ này. +Ngân hàng được tự tổ chức bán đấu giá tài sản ở những nơi thuận lợi để thu nợ một cách nhanh nhất. +Thu nợ bằng chính tài sản đảm bảo nếu ngân hàng thấy rằng tài sản đó là cần thiết để dùng vào kinh doanh , khai thác, cho thuê… *Cần giảm thuế hoặc miễn thuế khi phát mãi tài sản Nhà nước cần giảm hoặc miễn thuế doanh thu từ việc bán tài sản đảm bảo để trả nợ ngân hàng. Lý do vì bên có tài sản bị lâm vào tình thế buộc phải bán để trả nợ chứ không phải bán vì mục đích kinh doanh. Nếu ngân hàng thay mặt bên đảm bảo bán tài sản có nghĩa là thay mặt chủ sở hữu bán tài sản mà tài sản chưa được chuyển quyền sở hữu cho ngân hàng nên không thể coi việc bán tài sản là hoạt động kinh doanh bán tài sản. Như vậy, cả ngân hàng và bên chủ tài sản không phải nộp thuế tín dụng ngân hàng trong trường hợp bán tài sản đảm bảo *Nhà nước cần làm gì để giúp ngân hàng phát mãi tài sản bằng cách đấu giá. -Lập trung tâm bán đấu giá trong cả nước nhất là nguồn sử dụngđất. -Giảm tỷ lệ phí bán đấu giá đối với tài sản có giá trị cao -Đơn giản hoá các thủ tục hành chính, pháp lý tạo điều kiện dễ dàng cho việc mua bán,chuyển nhượng tài sản *Trường hợp bên vay bị phá sản, nhà nước cần: -Nếu tài sản đảm bảo là quyền sử dụng đất. Bên ngân hàng có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền tổ chức bán đấu giá quyền sử dụng đất để thu hồi vốn và lãi tiền vay. Nhưng hiện nay chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể việc này, việc thực hiện bán đấu giá thông qua trung tâm bán đấu giá nhưng đây không là cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Do đó cần một quy định cụ thể về cơ quan thực hiện đăng ký đảm bảo, giải trừ đảm bảo và cho phép đấu giá và quyền sử dụng đất. -Ngân hàng gặp khó khăn khi mà giá cả tài sản bị giảm so với trước đây-khi đem ra đảm bảo, nhất là với tài sản là đất đai, công trình trên đất… về việc này nhà nước cần quy định khung giá đất địa phương sát với thực tế trong từng thời kỳ và quy định thống nhất căn cứ để định giá quyền sử dụng đất đem thế chấp tránh việc phát mại tài sản không đủ bù cho quyền vay và khoản lãi. -Khi khách hàng của ngân hàng, doanh nghiệp đã lâm vào tình trạng phá sản và toà án đã ra quyết định và tuyên bố phá sản doanh nghiệp, thì việc thu hồi nợ phải tuân theo trình tự phá sản doanh nghiệp. Sau khi nhận được quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp, ngân hàng muốn thanh toán nợ từ tài sản đảm bảo phải được sự đồng ý bằng văn bản của toà án khi toà án đã có quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp thì tiền và tài sản trong đó có tài sản đảm bảo của doanh nghiệp được tổ thanh toán tài sản thuộc cơ quan thi hành án thanh toán theo thứ tự ưu tiên được quy định theo luật phá sản. Vì thế, nếu tài sản còn lại của doanh nghiệp bị phá sản không đủ để thanh toán tất cả các khoản nợ ưu tiên, thì ngân hàng có thể không nhận được đủ tất cả các khoản nợ gồm tiền lãi và gốc từ tiền bán tài sản đảm bảo của doanh nghiệp *Nhà nước cần quy định thật rõ ràng phải giải quyết như thế nào, trình tự ra sao khi bên đi vay dùng một tài sản để thế chấp vay tiền ở nhiều ngân hàng khác nhau: Hiện nay, chưa có luật nói về trật tự giải quyết các khoản nợ của con nợ khi tài sản thế chấp của anh ta bị xử lý mà tài sản đó được đem thế chấp để vay tiền ở hai hay nhiều ngân hàng khác nhau, dẫn đến việc tranh chấp giữa các tổ chức ngân hàngkhi tài sản đó bị xử lý. Nhà nước cần quy định ưu tiên cho những ngân hàng nhận đảm bảo trước. Nếu giá trị tài sản đảm bảo không đủ thì ngân hàng đảm bảo sau cùng sẽ bị thiệt thòi vì ngân hàng đó không thẩm định chính xác hoặc chủ quan trong vấn đề này, đương nhiên phải chịu sự rủi ro. Hiện nay khi mà điều kiện thông tin chưa kịp thời, đầy đủ, các biện pháp ngăn chặn rủi ro còn hạn chế, nên chăng, nhà nước nên bỏ quy định có thể dùng một tài sản để đảm bảo cho nhiều khoản vay ở ngân hàng khác nhau. Để khắc phục, có thể dùng hình thức đồng tài trợ mà một ngân hàng làm đầu mối. Còn nếu vẫn để nguyên quy định này thì cần nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung cơ chế và điều chỉnh lại cho đầy đủ, hợp với thực tế. Toà án cần giúp ngân hàng trong việc phát mãi tài sản hơn nữa -Nhà nước, cụ thể là toà án nhân dân tối cao cần hướng dẫn cụ thể để việc công nhận xử lý tài sản đảm bảo, tạo điều kiện thuận lợi cho ngân hàng để xử lý tài sản đảm bảo thu hồi nợ khó đòi -Cần gộp tiền thi hành án vào ngân hàng để khấu trừ số nợ vay, ngân hàng sẽ báo cáo quá trình nộp tiền thi hành án đến khi giải quyết xong cho phòng thi hành án. -Khi xảy ra việc tranh chấp hợp đồng tín dụng hoặc hợp đồng đảm bảo thì ngân hàng kiện ra toà án có thẩm quyền để xử lý và có biện pháp cưỡng chế thi hành án đã có hiệu lực. -Khi bên vay có liên quan đến các vụ án hình sự thì cơ quan pháp luật cần tạo điều kiện cho ngân hàng phát mãi tài sản đảm bảo. Kiến nghị với ngân hàng nhà nước (NHNN) -Ngân hàng nhà nước cần xúc tiến việc thành lập công ty mua bán tài sản đảm bảo dựa trên kinh nghiệm học được ở nước ngoài và áp dụng một cách có chọn lọc vào hoạt động tín dụng ở nước ta theo sự uỷ quyền của Chính Phủ. -Ngân hàng nhà nước cần sớm trình lên Chính phủ và Quốc hội về việc ban hành luật thế chấp tài sản và những văn bản hướng dẫn việc xác định quyền sở hữu tài sản đặc biệt là nhà cửa, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, cần nhanh chóng hoàn thành các giấy tờ liên quan đến tài sản đảm bảo để tạo điều kiện thuận lợi cho ngân hàng và khách hàng trong công tác tài sản đảm bảo. -Ngân hàng nhà nước chủ động phối hợp với toà án nhân dân tối cao, Bộ tư pháp, Bộ công an, Viện kiểm soát nhân dân tối cao, Tổng cục địa chính để nghiên cứu soạn thảo, ban hành văn bản liên tịch nhằm hoàn thiện cơ sở pháp lý, tạo thuận lợi an toàn để hướng dẫn xử lý ngay các khó khăn ách tẵc trong việc giải toả, phát mãi tài sản đảm bảo ở ngân hàng thương mại nước ta hiện nay. -Ngân hàng nhà nước cần sớm có cơ chế quy định về việc thiết lập quỹ bù đắp rủi ro quá hạn. Việc này có tác dụng bù đắp những phần vốn bị mất của nợ khó đòi khi bán tài sản đảm bảo mà không thu hồi đủ nợ : + Trích lập theo từng thời kỳ mức tỷ lệ thích hợp khác nhau thay vì trích lập từ đầu năm. + Trích lập theo giá trị từng nhóm tài sản mà đã được thông qua phân loại + Dựa vào số dư quỹ và bảng phân tích dư nợ quá hạn, nợ khó đòi + Xem xét tỷ lệ trích lập theo mối tương quan tỷ lệ quá hạn và số rủi ro có thể xảy ra cần xử lý. Đồng thời, phân loại thích hợp cho từng loại tài sản theo tính chất của chúng. Kiến nghị với Ngân hàng công thương Việt Nam, SGDI-NHCTVN 1. Giải pháp ngăn ngừa nợ khó đòi: Cần chuyên môn hoá hoạt động đánh giá khách hàng. Như đã trình bày ở phần “ Khái quát về Sở Giao dịch I Ngân hàng công thương Việt Nam” của chương II, Sở gồm 9 phòng mà mỗi phòng có chức năng khác nhau. Tuy nhiên, chúng ta không thấy phòng nào có chức năng chuyên về thẩm định đánh giá khách hàng trong khi đây là vấn đề cực kỳ quan trọng để ngăn ngừa nợ khó đòi. Hoạt động này do một số nhân viên phòng kinh doanh đảm nhận. Rõ ràng, với thực tế như vậy, Sở khó có thể ngăn ngừa nợ khó đòi một cách hiệu quả. Vấn đề này, Sở đã lưu ý, xong vẫn còn chủ quan, tin tưởng vào một lực lượng vừa mỏng lại vừa ít chuyên môn hoá như vậy. Vì vậy, kiến nghị với Sở, với Ngân Hàng công thương Việt Nam, cần chuyên môn hoá việc thẩm định khách hàng. Chuyên môn hoá hoạt động đánh giá khách hàng có thể thực hiện bằng cách thành lập thêm phòng đánh giá khách hàng và tuyển nhân viên được đào tạo đúng chuyên môn. Đánh giá khách hàng bao gồm đánh giá về bản thân anh ta và dự án mà anh ta muốn vay vốn để thực hiện nó. Rõ ràng, nếu bộ phận này đựơc thành lập sớm thì đã không để cho xảy ra tình huống xấu là cho vay vốn Đài Loan – những khoản cho vay để nhập máy móc Đài Loan ( Nơi mà chẳng có gì để chúng ta tin tưởng vào chất lượng máy móc ) và lại lấy chính giá trị máy móc làm đảm bảo ngoài vài trăm mét vuông đất có giá trị không đáng kể so với khoản vay, hậu quả gây ra một khối lượng lớn nợ khó đòi. Có thể thực hiện bằng cách thành lập các công ty chuyên về thẩm định. Các công ty này có thể hoạt động như công ty mua bán nợ đã trình bày ở phần giải pháp ở Sở. Công ty này, ngoài việc thẩm định tất cả các khách hàng, dự án cho vay của Sở, của hệ thống ngân hàng công thương Việt Nam còn tham gia cung cấp sản phẩm thẩm đinh cho các Ngân Hàng hay các tổ chức khác có nhu cầu. Biện pháp này khó thực hiện hơn nhưng một Ngân Hàng thương mại lớn như Ngân Hàng công thương Việt Nam thì có thừa khả năng thực hiện. 2. Giải pháp xử lý nợ khó đòi: Hoàn thiện một số tài sản thế chấp để thanh lý. Một khối lượng rất lớn nợ khó đòi thuộc về dự án cho vay vốn để nhập máy móc từ Đài Loan. Sở dĩ các khoản vay này, như đã trình bày là do dây chuyền máy móc nhập về không đồng bộ, hỏng hóc nhiều nên không phát huy được tác dụng, không thể sử dụng để sản xuất được. Đài Loan hay Trung Quốc đại lục đi nữa, hàng của họ thường chất lượng khó đảm bảo so với của Nhật Bản, Hàn Quốc... rõ ràng các nhà thẩm định đã mắc lỗi lớn trong việc này. Nhưng đã xảy ra rồi chúng ta phải xử lý. Xử lý được các dây truyền máy móc này cách tốt nhất là nhập các linh kiện từ Nhật Bản hay Mỹ hay của một nước nào đó có tiếng là hàng tốt để bổ sung cho đồng bộ rồi mới đem rao bán. Người mua thường ngại mua phải hàng Trung Quốc, Đài Loan, nhất là hàng hoá là máy móc giá trị lớn mà hỏng hóc, không đồng bộ, không thể sản xuất được. Cần bổ sung linh kiện tốt để có thể bán được. Tuy rằng, khó có thể thu hồi đủ nợ nhưng vẫn có thể thu được 1 phần hơn là vứt xó, không ai mua, cuối cùng mất trắng. 3. Giải pháp xử lý nợ khó đòi: Cần mạnh rạn, quyết tâm xử lý rứt điểm và lên tiếng “cầu cưú” cơ quan chức năng. Với tài ssản thế chấp là nhà cửa, vật kiến trúc, các ngân hàng thường mắc phải vấn đề nhân đạo, không nỡ “ rỡ nhà hàng xóm về làm nhà mình”. Nhưng ở đây rỡ nhà hàng xóm không phải là ăn cắp mà là việc làm chính đáng. Xong không nên cứng rắn quá, nhiều khi phải hy sinh một phần để tối ưu đồng thời 2 mục đích. Với tài sản thế chấp là quyền sử dụng đât: thực tế thị trường nhà đất hiện tại thì việc bán quyền sử dụng đất không có nếu không muốn nói là “đấu cát đang đắt như tôm tươi”. Nhưng tại sao lại khó xử lý đối tượng này . Là vì giấy tờ đất cát đó chưa hợp lệ, Ngân Hàng công thương Việt Nam cần phải cầu cứu đến các cơ quan chức năng, cơ quan có trách nhiệm về nhà đất để hoàn thành hồ sơ giúp việc thanh lý được diễn ra nhanh chóng. Lời cầu cứu này củ a Ngân Hàng công thương Việt Nam – tổ chức lớn và có uy tín như vậy thì các cơ quan Nhà nước có chức năng chắc chắn sẽ xúc tiến giải quyết. Đối với các khoản nợ khó đòi được đảm bảo theo hình thức cầm cố thì không bàn nữa vì về bản chất xử lý tài sản cầm cố cũng giống như tài sản thế chấp. Kết luận Sau khi nghiên cứu đề tài, suốt hơn 3 tháng thực tập tại Sở Giao dịch I Ngân hàng công thương Việt Nam, em học hỏi được nhiều điều kể cả về thực tế lẫn kiến thức lý luận chung. Có được kết quả đó, trước hết là nhờ sự quan tâm, hướng dẫn nhiệt tình của cô giáo – TS. Phan Thu Hà và của các cô chú trong phòng kinh doanh của Sở Giao dịch I Ngân hàng công thương Việt Nam. Em xin cảm ơn cô giáo – TS. Phan Thu Hà, cảm ơn các cô chú công tác tại phòng kinh doanh Sở Giao dịch I Ngân hàng công thương Việt Nam, cảm ơn các thầy cô giáo trong khoa Ngân Hàng - Tài Chính.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0208.doc
Tài liệu liên quan