Đề tài Gìn giữ và bảo tồn các giá trị văn hoá của dân tộc Mường

MỤC LỤC Phần khái quát Lý do chọn đề tài Mục đích nhiệm vụ Phần Nội dung 1. Khái niệm 1.1. Khái niệm tín ngưỡng 1.2. Khái niệm tín ngưỡng dân gian 2. Tín ngưỡng dân gian - hai loại tín ngưỡng cơ bản nhất của dân tộc Mường là tục thờ thần và tổ tiên 2.1. Tiền đề ra đời và tiến trình phát triển của hai loại tín ngưỡng trên 2.2. Tín ngưỡng thờ tổ tiên và quá trình ảnh hưởng của loại tín ngưỡng này đối với cuộc sống hiện nay 2.3. Ý nghĩa của tín ngưỡng đối với dân tộc Mường 2.4. Quá trình phát triển của nền kinh tế thị trường thì nó có những thuận lợi gì, 3. Đề xuất kiến nghị 3.1. Cải thiện và nâng cao mức sống 3.2. Còn nhắc đến tín ngưỡng mà ở trong Xã hội còn rất nhiều điều phức tạp 3.3. Còn đối với mỗi cá nhân Kết luận Tài liệu tham khảo PHẦN MỞ ĐẦU 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI . dân tộc Mường cũng như tất cả các dân tộc khác sống và tồn tại trên lãnh thổ nước ta, ngoài những nhu cầu sống tất yếu (cơm, áo ) thì dân tộc Mường còn luôn luôn tồn tại một vấn đề đó là : Làm thế nào để có một đời sống văn hoá mang đậm bản sắc dân tộc mà không “bế quan toả cảng”. Đó là một vấn đề lớn đang đặt ra cho dân tộc Mường trong giai đoạn phát triển hiện nay. Thời buổi kinh tế thị trường thời buổi của vi tính và công nghệ sinh học. - Tín ngưỡng là một phần nhỏ của Tôn giáo, nó như được nâng nui chăm sóc qua tiến trình phát triển của lịch sử. Để hiểu được đời sống văn hoá nói chung (văn hoá vật chất và văn hoá tinh thần) thì cần hiểu rằng ngoài văn hoá vật chất của dân tộc Mường thì còn tồn tại song song là văn hoá tinh thần (tôn giáo, tín ngưỡng, thờ cúng ) do vấn đề tín ngưỡng là một vấn đề tinh thần mà nó tồn tại ở trong mỗi con người. Mà tín ngưỡng thường là vấn đề xuất phát từ Xã hội với những hiện tượng tự nhiên. - Mặt khác vấn đề tín ngưỡng là một vấn đề bức xúc của các dân tộc nước ta nói chung và của dân tộc Mường nói riêng, cũng chính như Đảng và Nhà nước ta đã nhận định rằng vấn đề dân tộc là một vấn đề cực kì quan trọng của nước ta trong giai đoạn phát triển tiến lên Xã hội chủ nghĩa. - Tín ngưỡng dân gian là một trong các loại tín ngưỡng khá phổ biến của dân tộc Mường, với những đặc điểm, vai trò, ý nghĩa của nó trong công cuộc đưa đất nước ta ngày một đi lên hoà nhập với các nước trên thế giới. Mà vấn đề tín ngưỡng là vấn đề nổi lên trên cả trpng lĩnh vực kế tiếp truyền thống thờ cúng các thành hoàng làng và tổ tiên với ý nghĩa cần cho một cuộc sống yên vui, mùa màng tươi tốt, bội thu.-Hơn nữa tín ngưỡng dân gian là một tín ngưỡng được du nhập từ tự nhiên. Nhưng do quá trình phát triển của các hình thức kinh tế - Xã hội và sự phát triển của khoa học, kĩ thuật, đối lập với các thành tựu đó thì nó cũng nảy sinh hàng loạt các vấn đề về văn hoá mang tính chất phi thực tế. Để giải quyết được các vấn đề khó khăn này và phát huy được tính tích cực của tín ngưỡng dân tộc thì vấn đề đặt ra là rất khó khăn và mang tính cấp thiết. Sống còn cho vấn đề dân tộc và phát triển của đất nước. -Mặt khác khi em chọn đề tài này tức là muốn dựa trên cơ sở khoa học đã có và nhận thức được trong quá trình học trong nhà trường và Xã hội để đưa ra các cách, các phương pháp, phương hướng để giải quyết vấn đề này. Có thể nói rằng tín ngưỡng là một vấn đề hết sức hấp dẫn, vì tín ngưỡng là một phần của đời sống Xã hội mang đậm chất chính trị, để nâng cao nhận thức chính trị trong các dân tộc thiểu số ở vùng cao, thì trước hết phải quan tâm đến vấn đề tín ngưỡng. Vì vậy cũng như các vấn đề khác thì tín ngưỡng của dân tộc Mường là một vấn đề cần quan tâm để gìn giữ và bảo tồn các giá trị văn hoá, mà đó là mục tiêu cho sự phát triển một ý thức, một xã hội. 2. MỤC ĐÍCH, NHIỆM VỤ CỦA ĐỀ TÀI. -Do đây là một bài nghiên cứu khoa học với nội dung, thời lượng còn hạn chế, nên ở đây em đi tìm hiểu vấn đề tín ngưỡng để giải quyết một số vấn đề cơ bản sau : + Do tình hình chính trị trên thế giới ngày càng phức tạp, như đã hình thành các tổ chức khủng bố, các loại hình chuyên nghiên cứu và tìm cách chống phá các nước XHCN như : CIA,và các tổ chức bí mật khác Nhưng đặc biệt hơn cả đó hình thức dùng các truyền đơn, tuyên truyền bằng miệng của các tổ chức này cho nhân dân ta chống phá nhà nước mà đặc biệt là đối với các dân tộc thiểu số, do ít có hiểu biết,ít có cơ hội tiếp cận với các điều kiện kĩ thuật hiện đại . vì vậy chúng dùng nhiều chính sách làm ngu dân, dụ dỗ nhân dân ta chống phá lại nhà nước ta. Đó là một chính sách cực kì nguy hiểm mà bọn phản động dùng để chống phá nước ta, đó là một trong những mục tiêu mà báo cáo khoa học này muốn tìm hướng giải quyết. + Do quá trình nhận thức chính trị của nhân dân ta còn yếu, lại cộng với sự du nhập hàng loạt các loại văn hoá mới với hai chiều hướng (tích cực và tiêu cực). Để tiếp tục gìn giữ bản sắc và phát huy hơn nữa các bản sắc dân tộc đã có và tiếp thu các loại văn hoá có tính tích cực cho dân tộc mình. Mặt khác đó cũng là quá trình nhận thức - tín ngưỡng trải qua quá trình phát triển của Xã hội Việt Nam nói riêng và Xã hội thế giới nói chung thì nó đã phát huy được những gì ?, vai trò của nó ra sao đối với sự phát triển của kinh tế - xã hội, ý nghĩa của việc đóng góp đó, các phương thức - loại hình tác động. Nhưng cũng phải hiểu rằng nó cũng còn tồn tại những mặt chưa tốt, mà qua đây cần vạch ra, chỉ rõ để tìm biện pháp khắc phục dần, đưa đến một kết quả tối ưu. +Tìm hiểu về vấn đề này chính để làm sáng tỏ các nguồn gốc tín ngưỡng, tại sao lại có loại tín ngưỡng ấy ? tín ngưỡng ấy nó được tiến hành như thế nào Nó có tác động gì đối với đời sống của các dân tộc thiểu số ở vùng sâu vùng sa, cụ thể là dân tộc Mường. + Mặt khác tìm hiểu về vấn đề này để khẳng định vị trí của dân tộc Mường so với các dân tộc khác, thông qua hình thức so sánh là “Tín ngưỡng dân gian”. + Mục đích cuối cùng của báo cáo khoa học là để nâng cao đời sống tinh thần cho đồng bào dân tộc miền núi và từ đó củng cố đời sống tinh thần, đưa con người đi đúng quỹ đạo của mình và làm sao để mình - cá nhân mỗi con người có thể đóng góp vai trò của mình trong sự nghiệp tiến lên chủ nghĩa Xã hội của nước ta.  Đó là một số mục tiêu mà báo cáo khoa học này sẽ giải quyết, tuy nó còn hạn chế nhưng do có tính chất thời lượng, nên mới dừng lại ở đó. NHIỆM VỤ CỦA ĐỀ TÀI: * Báo cáo này như một lời cảnh báo, trước hết là đối với từng cá nhân cao hơn nữa là đối với Đảng và nhà nước hãy chú ý hơn tới đời sống của dân tộc thiểu số ở vùng cao, vùng sâu vùng sa,đặc biệt là dân tộc Mường với đời sống hết sức khó khăn không chỉ về vật chất mà cả về tinh thần, đặc biệt còn suất hiện nhiều hiện tượng mê tín dị đoan, ngây nhiều tổn thất trước hết là cho dân tộc Mường,sau đó ảnh hưởng đến an ninh quốc gia. * Nó còn như một ngọn cờ để cảnh báo nhân dân ta về tinh thần cảnh giác đối với các thế lực phản đông bên trong và các lực lượng đối lập bên ngoài đang tìm cách tiêu diệt các nước XHCN trong đó có Việt Nam, mà nổi trội là chiến lược"Diễn biến hoà bình" của mỹ muốn thôn tính cả thế giới.

doc39 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2107 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Gìn giữ và bảo tồn các giá trị văn hoá của dân tộc Mường, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ngưỡng. -Có thể nói rằng, về thực chất, tín ngưỡng ấy là sự phản ánh những nhận thức ban đầu của loài người về các hiện thực tự nhiên và xã hội ở buổi bình minh của lịch sử (nên nó còn được các nhà nhân học, dân tộc học… gọi là tôn giáo sơ khai, hoặc tự nhiên…). Một số người theo thuyết tiến hoá luận như : Jfrazen, E.B Tylor, Ư.Wundt… thì cho rằng về bản chất thì tôn giáo và tín ngưỡng không có gì khác nhau về bản chất vì chúng đều là những phương thức nhận thức hiện thực tác động trở lại hiện thực được đặc định bởi sự từ bỏ tìm kiếm thú vui và bởi sự lựa chọn đối tượng bên ngoài phụ thuộc vào những lề thói và những yêu sách của hiện thực. Trước những lời giải thích như vậy thì chúng ta có thể tiến hành mô hình hoá của những quan niệm về thế giới như sau : Quan niệm về sự phát triển của ý thức trong thế giới Quan niệm về thế giới. Quan niệm hồn linh Các giai đoạn phát triển của con dục cá nhân Các giai đoạn của đời sống tâm thần của nhân loại Các kỹ xảo - Tự động hứng dục -Thoả mãn dục vọng bằng ảo giắc -Tính toàn năng của thư tưởng -ảo giác vận động được quy phó cho tính toàn năng tư tưởng Ma thuật (với tư cách là cách sử dụng tổng hợp, triệt để tính toàn năng tư tưởng) Tự si mê Quan niệm tôn giáo -Khách thể hoá -Cắm chốt con dục vào cha mẹ -Quy phó bản thân cho chủ thần -Hệ thống nghi thức, nghi lễ (tôn giáo(1) Ông đã đưa ra một vài ví dụ để chứng minh cho những luận điểm trên : “Nếu tôi muốn trời mưa tôi chỉ việc làm mộtcái gì đó giống như mưa hay nhắc nhở đêbns mưa, ởmotj bước cao hơn của văn minh, người ta sẽ thay thế thủ tục ma thuật ấy bằng những đám rước xung quanh một ngôi đền và bằng những thỉnh nghiệm những chư hầu cư trú tại đó và sau họ sẽ từ bỏ kỹ sảo tôn giáo ấy và tìm tòi xem bằng những tác dụng nào đến bản thân khí quyển thì có thể gây nên mưa móc. Trích Freud- tr 168-169. Quan biệm khoa học Lựa chọn đối tượng bên ngoài Không còn chỗ cho tính toàn năng tư tưởng Thực nghiệm khoa học -Như vậy về bản chất tín ngưỡng cũng như tôn giáo (một lần đã nói ở trên) là phương thức nhận thức và “cải tạo” hiện thực (ý thức) được thông qua hệ não con người, qua trải nghiệm thực tiễn. Nhưng giữa chúng cũng có sự khác nhau, nhưng chỉ là những đặc điểm mang tính cách lịch sử, với nguồn gốc ra đời (nguyên nhân nào dẫn tới sự ra đời) đối tượng của chúng là gì? kỹ xảo, phương thức vận động ra sao ? đó là cả một quá trình nhận thức mà được ông tổng hợp thành một bảng sau: (mô hình hoá). Đặc điểm Tín ngưỡng Tôn giáo Cội nguồn Thuyết hồi linh -Thuyết hồi linh của vật tố, hoặc thuyết về một đấng siêu nhân khác như : (mana chẳng hạn) Đối tượng sùng bái -Vạn vật hữu linh -Đa thần -Nhất thần Kỹ xảo (phương thức thực hành) - Ma thuật - Lễ nghi tôn giáo Thiết chế -Chưa hoàn chỉnh (điện thờ đơn giản, không có giới tăng lữ mà chỉ có một số ít người trung gian, nghi thức, nghi vật, nghi tượng đơn giản thiếu hệ thống, niềm tin được hình thành trên cơ sở trực cảm cá thể (chưa có hệ thống kinh) -Hoàn chỉnh (có thiết chế vật chất, có giới tăng lữ, hệ thống nghi thức, nghi vật, nghi trượng hoàn chỉnh, có hệ thống kinh dịch ) lịch sử và giai lý tôn giáo) có đạo đức về niềm tin có tình cảm cộng đồng về niềm tin) Phạm vi ảnh hưởng và khung cảnh xã hội -Hẹp -Thường là các cộng động tộc người -ở các xã hội chưa có nhà nước - Rộng -Cộng đồng tộc người, quốc gia thế giới -ở các xã hội nhà nước à Như vậy, các tín ngưỡng về bản chất là những hệ thống tri thức, chúng không chỉ giải thích các hiện tượng riêng biệt, mà còn cho phép nhận thức thế giới như một toàn thể, mà nói như Wundt thì chúng là “sự diễn đạt trí tuệ về trạng thái tự nhiên của nhân loại”. Bằng phép loại suy, chúng ta có thể cho rằng : Người ta nghĩ thế nào thì hành động thế ấy, tức là, tuỳ theo sự phát triển của nhận thức mà con người có phương thức hành động tương ứng. (như ở bảng trên thì tương ứng với ba trình độ nhận thức là hồn linh luận, tôn giáo, khoa học, thì có ba phương thức tác động là ma thuật, lễ nghi tôn giáo và khoa học). Đến đây chúng ta thấy rõ rằng : so sánh tín ngưỡng, tôn giáo với mê tín là một việc làm thiếu tính phương pháp. Sở dĩ như vậy là vì người ta đã nhầm lẫn trong khi so sánh cái tổng thể (tín ngưỡng, tôn giáo), với cái bộ phận mà ở đây là (kỹ xảo và ma thuật). Em xin dẫn một ví dụ để cụ thể hoá vấn đề này : đạo thờ mầu ở nước ta là một tín ngưỡng ? một tôn giáo ? hay một mê tín ? Nếu theo lý thuyết trên, ít nhất chúng ta có thể khẳng định được đạo mầu là một hình thái tôn giáo bản địa. Còn nếu ai đó cho rằng các thủ thật (thực chất là cái kỹ xảo thực hành tín ngưỡng) như hầu đồng, múa hát, vàng mã… v.v. Đó là những hành vi mê tín để đánh giá toàn bộ đào mầu không phải là tín ngưỡng dân gian bản địa thì đó là một sự nhầm lẫn. Điều này sẽ làm ảnh hưởng xấu đến ảnh hưởng của chúng ta khi chúng ta ứng xử với một tín ngưỡng dân gian bản địa. Một yếu tố quan trọng trong nền văn hoá dân tộc của chúng ta. Cần phải quan niệm một cách khoa học rằng, mê tín là thực chất biểu thị sự suy thoái (không đầy đủ) của các hình thái tôn giáo sơ khai (kể cả một tôn giáo đương đại). Tóm lại, bằng những hiểu biết cộng với sự khám phá của khoa học như em đã được dẫn chứng ở trên thì ta có thể khẳng định rằng khái niệm tín ngưỡng dân gian có các phương thức riêng khác nhau, và có nhiều khái niệm trong vấn đề này. Là những hình thái tôn giáo sơ khai, chúng được hình thành trên cơ sở những tâm cách nguyên thuỷ (Primitive mentality) để nhận thức hiện thực và tác động đến hiện thức bằng các kỹ xảo (các biện pháp ma thuật) của thuyết hồn linh. Tín ngưỡng “dân gian” ở đây nhằm phân biệt với tín ngưỡng, tôn giáo chính thống của những xã hội đã có nhà nước (trước khi có nhà nước chưa có sự phân biệt giữa văn hoá dân gian và văn hoá nhà nước chưa có sự phân biệt giữa tín ngưỡng dân gian và tín ngưỡng chính thống). 2. TÍN NGƯỠNG DÂN GIAN - HAI LOẠI TÍN NGƯỠNG CƠ BẢN NHẤT CỦA DÂN TỘC MƯỜNG LÀ TỤC THỜ THẦN VÀ TỔ TIÊN. Dựa trên kết quả đã chứng minh (của các nhà khoa học ở trên) thì ta có thể khẳng định rằng. Mọi tín ngưỡng đều là kết quả của sự đúc kết các mối quan hệ của người với hiện thực khách quan của họ. Chính những đặc điểm của điều kiện tự nhiên và xã hội là cơ sở để hình thành nên các loại tín ngưỡng… Như ở thời kỳ sơ khai, khi mà cuộc sống của con người rất gần gũi với vạn vật của tự nhiên, con người thường xuyên trực tiếp phải đối phó với thiên nhiên, vì vậy thiên nhiên là đối tượng nhận thức của chính họ. Và mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, được coi là mối quan hệ thứ yếu, chi phối ảnh hưởng đến mọi quan hệ xã hội khác. Khi dùng tên các loại động vật đặt tên cho các loài thị tộc cổ xưa, cùng với sự thờ cúng các loại động - thực vật (tổ tiên) là yếu tố chi phối đời sống có tính định hướng của môi trường tự nhiên. Với đời sống xã hội của người cổ xưa. Bước vào thời tiền sử, khi loài người chuyển từ săn bắn, hái lượm sang chăn nuôi, trồng trọt thì môi trường tự nhiên vẫn là yếu tố quyết định, ảnh hưởng đến các quan hệ của người, với môi trường tự nhiên quy định môi trường nông nghiệp (chăn nuôi, trồng trọt) và do đó nó định hướng cách ứng xử cho các cư dân làm náyinh những tín ngưỡng đặc thù cho từng vùng từng dân tộc. -Do đất nước ta nằm trên bán đảo Đông Dương, vớiđịa hình nhỏ, hẹp, nhưng nó dài, đặc biệt là đường bờ biển rất dài trên 3000 Km2, có tính chất đặc thù của một bán đảo, cộng với khí hậu gió mùa, ấm,… từ đó tạo ra một môi trường Việt Nam rất đặc biệt, rất phù hợp cho việc phát triển các loại sinh vật riêng biệt. Do vậy khi nông nghiệp nước ta ra đời, từ săn bắt hái lượm thì trồng trọt đã được phổ biến trên toàn thể lãnh thổ Việt Nam. Rất nhiều dữ liệu của ngành khảo cổ học cho thấy từ xa xưa, cư dân Việt Nam đã biết thuần hoá các loài động vật khác nhau để phục vụ cho cuộc sống của mình, những viên đá cuội được ghè đẽo hai mặt, cộng với mài để tạo rìu, búa, chày… Việt Nam (đất nướcvn) nói chùng thì là minh chứng khá rõ nét cho nên rau, củ, quả trên lãnh thổ này. Nhưng đặc biệt hơn là được xuất phát trử cái nôi của dân tộc Mường với truyền thuyết dân gian. Mặt khác do phát hiện được vỏ chấu ở các bình gồm (gò num) thì đã khẳng định rằng, ngoàiviệc thuần hoá các cây trồng khác thì con người đã thuần hoá được cây lúa và trồng lúa được đẩy lên vị trí hàng đầu của nền nông nghiệp. Ngoài ra còn có mối quan hệ hữu cơ của con người với thực vật như các cây cho củ, quả, hạt, rễ… từ đó mà tạo ra mầm mống của cách ứng xử, tức mầm mống của tín ngưỡng. Sự tồn tại đến tận ngày nay của những câu chuyện huyền thoại giải thích về sự hình thành vũ trụ (quắm tô mương, đẻ đất đẻ nước…) đặc biệt là tục thờ tổ tiên, đất, nước, thành hoàng… ở trong các lễ hội thì ta dễ dàng nhận thẩyằng người Việt Nam xưa đã sử dụng quan niệm hồn linh để diễn tả các nhận thức của mình về hiện thực khách quan mà họ đang sống, xuất phát từ quan niệm hồn linh, khi nông nghiệp trồng lúa trở thành phương thức kinh tế chính, bao trùm các lĩnh vực khác, thì tín ngưỡng của cư dân Việt Nam, được dựa trên sự nhận thức từ cây lúa và quá trình trồng và chăm bón ; mặt khác người nông dân Việt Nam xưa quan niệm rằng, mỗi cây lúa có một hồn lúa trú ngụ ở trong đó. Hồn làm cây lúa tốt tươi đâm bông, trổ hạt. Hồn chính là sự sống của cây lúa, hồn rời khỏi nó thì nó sẽ hết, vì thế người ta phải luôn vỗ về, nâng niu để luôn giữ hồn ở lại để cầu mong cho cây lúa tốt, được mùa, bội thu. Vào mùa gặt lúa người dân thiểu số thường làm những cái lều nhỏ để gọi thần lúa về đó trú ngụ (một mua chuộc” thường trên các thửa ruộng thiêng là những thửa ruộng reo đầu tiên và gặt sau cùng. Đấy là nơi mà người ta dồn thần lúa về nên khi gặt lúa phải rất cẩn thận vì đây không phải là một thần riêng mà có nhiều thần lúa. Nếu sơ ý làm phật ý thì sẽ làm cho thần lúa bỏ đi, hạt lúa ở ruộng thiêng được cất giữ tử tế và làm giống cho năm sau. Khi bước vào vụ trồng lúa mới, người ta lại chọn trong số lúa thiêng to, mẩy, rước quanh đồng để hồn lúa ở những cây ấy bay ra “nhập” vào những cây mạ mới cấy, với hi vọng làm cho chúng nảy m,ầm và phát triển nhanh và cho họ những hạt thóc to khoẻ. Rõ ràng các hành động trên đều bắt nguồn từ tục thờ mẹ lúa của dân tộc Mường, tục khấn của lúa… Những quan niệm như vậy (quan niệm cây lúa có hồn) được coi là tín ngưỡng hồn linh, từ đó mà nó đã dẫn đến một hệ thống chỉ dần liên quan đến cách chăm sóc cây lúa. Đó là những ma thuật cầu cho mùa màng tốt tươi, cầu cho mưa thuận, gió hoà (thường được thông qua các lễ hội nông nghiệp. Chính các ma thuật về cầu mùa màng là hệ quả của tín ngưỡng chính là sự thực hành của tín ngưỡng hồn linh trong vạn vặt tự nhiên. Mặc dù có một chút học hỏi, tiếp kiến văn hoá nhưng phải nói rằng, tín ngưỡng của dân tộc Mường là một tín ngưỡng mang đậm bản sắc riêng biệt với những hình thức thờ cúng rất đặc biệt, riêng biệt mà làm cho chúng ta không thể nào không chú ý đến. Ngoài ra khi nhắc đến tín ngưỡng dân gian thì tự đặt ra câu hỏi rằng, các hình thái tín ngưỡng của dân tộc Mường ra sao ? hình thức nào là hình thức đặc trưng, nổi trội, riêng biệt cho dân tộc Mường ?… -Để hiểu rõ thêm về vấn đề này thì em liệt kê một số loại tín ngưỡng của dân tộc Mường và từ cơ số của thực tế mà có thể chọn ra được hai tín ngưỡng đặc trưng. + Tín ngưỡng hồn lúa. + Tín ngưỡng thờ thần núi - Đức thành tản viên. + Tín ngưỡng thờ thổ công + Tín ngưỡng thờ thần nông nghiệp + Tín ngưỡng thờ tổ tiên + Tín ngưỡng thờ thần chàng vàng + Tín ngưỡng thờ thành hoàng làng + Tín ngưỡng thờ táo quân (vua bếp) + Tín ngưỡng thờ vua khú + Tín ngưỡng thờ mạ mụ + Tín ngưỡng thờ phật + Tín ngưỡng thờ thần tự nhiên + Tín ngưỡng thờ bà chúa thác. à Trong các loại tín ngưỡng này thì em chỉ đi sâu vào hai tín ngưỡng cơ bản : Tín ngưỡng thờ tổ tiên, tín ngưỡng thờ thành hoàng làng là hai tín ngưỡng đặc trưng và còn giữ được nhiều nét riêng biệt. 2.1. TIỀN ĐỀ RA ĐỜI VÀ DIỄN TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA HAI LOẠI TÍN NGƯỠNG TRÊN. -Tục thờ htành hoàng làng vốn là của Trung Quốc, nhưng do có ý nghĩa là vị thần bảo hộ thành và hào, do quá trình sinh sống nó dần du nhập vào Việt Nam vào nưhngx năm Bắc thuộc và đến thế kỷ XIV trở về sau ngự trị trên điện thờ của các đình chùa Việt Nam. Nhưng thành hoàng ở Việt Nam lại có những nét khác với thành hoàng ở Trung Quốc, phần lớn là các vị thần có công với nước có nghãi với dân tục thờ thành hoàng nó đã du nhập vào dân tộc Mường ngay sau đó. Thể hiện qua sử thi “đẻ đất đẻ nước” phản ánh rất nhiều các vị thần chi phối đời sống tâm linh của dân tộc Mường như : Cây si, chim Ây cái ứa, lang đá cầm, mụ dạ dầu vua dịt dàng… Nhưng các vị thần hiện diện trên đền, miếu thờ trong cộng đồng làng xóm Mường thì không nhiều. Với các tư liệu thu thập được ở vùng Mường Hoà Bình cho biết người Mường xã Định ghiáo, huyện tân lạc thờ ông Keo Heng - người anh hùng sáng tạo văn hoá đã tìm ra cây thuốc bất tử của dân Mường và thờ ông ải lý, ải lo là người Thái có công đến giúp người Mường bi khai con mương là dẫn nước từ suối kun tưới cho cánh đồng nóng cho cum khang tạo khảng mở. Khi làm lễ dân Mường dân hương hồn ông ải Lý, ải Lo một mâm cỗ có một con vịt luộc với hàm ý tưởng nhớ con người thích sống gần môi trường nước. Người Mường xã tu Lý, huyện Đà Bắc làm một ngôi đền ở làng công thờ cụ tổ Sa Quý Đa, người đã đem dân Mường từ Mộc Châu về khai thác đất đai vùng Tu Lý. Người Mường ở thị xã Thịnh Lang, thị xã Hoà Bình có đình thờ ba vị thành hoàng “tương truyền là ba cho con nhà họ Đinh có công xây dựng bản Mường và giúp vua chống giặc giữ nước và bị hy sinh(1) Trích “Nghi lễ ruộng đồng” cổ truyền của người Mường xã Thịnh Lang in trong văn nghệ Hà Sơn Bình - Sở VHTT Hà Sơn Bình số 2/1991. . ở đình Xác Bái, xã Yên Bông, huyện Lạc Thuỷ, người Mường thờ vua Đinh Tiên Hoàng, hội được tổ chức vào ngày 13 tháng 11 âm lịch, rứơc kiệu, đi đầu đám rước là trai đình vác cờ, cắm lêu đầu những cán cờ là những bông lau, để tưởng nhớ và truyền lại sự kiện vua kéo cờ bông lau kéo quân đi dẹp loạn 12 sứ quân thống nhất sơn hà. Người Mường ở xã Lũng vân, huyện Tân Lạc lập đền thờ ông bà người Thái chồng là Hà Công Lý, vợ là Hà Thị Liên ở gò chằng Khương đã có công đầu tiên khai phá vùng đất Mường chậm. Vào thời kỳ lúa đứng cái, người Mường chậm về gò chằng khương cúng tế ông bà, văn tế nhất thiết phải bằng tiếng Thái. Mặt khác theo một nhà khoa học nước ngoài Pierregrossin thì ở làng Khênh thuộc Kim Bôi, người Mường có miếu thờ một đôi tình nhân người làng Hạ Bì, chàng là Bồng Hương, còn cô gái là nàng Ớm yêu nhau nhưng cha mẹ hai bên không cho lấy nhau, nên cả hai đã cùng nhau tự tới (2) xem :Tính Mường Hoà Bình - Pgierregressin - Nxb Lao động - Sở VHTT Hoà Bình, Hà Nội 1994, trang 99. . ở Đền Trung Báo, xã Cao Thắng, huyện Kim Bôi thờ thành hoàng làng, tương truyền là 3 vị quận công người Mường nhưng chưa rõ thời nào ở xã Cao Phong thuộc Mường Thàng, huyện Kỳ Sơn có một khu đất đẹp gọi là vườn hoa núi cói, tương truyền ở đây Trưởng lý vi hành (quan lang mường thàng) đã lấy một công chúa thời lý và sinh sống tại đó. Họ mất đi thì dân làng lập đền thờ làm thành hoàng. Hơn nữa họ còn hư cấu thành thiên tình sử truyện thơ vườn hoa núi cối. Ở nhiều vùng Kim Bôi, Lạc Sơn, Lương Sơn- Hoà Bình xuất hiện đình thờ, miếu thờ với tên gọi là “Thành hoàng bản thổ”, vị thần có công khai phá đất đai, đồng ruộng cho người Mường sở tại. Còn ở Xuân Đài, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ ngày nay tương truyền rằng Đức Tản Viên sau khi đánh thắng giặc ở phía Tây Bắc (Lào) thì đã về đây và cho quân nghỉ chân ở đây- giữa ruộng đồng. Vì vậy nhân dân Mường ở đây đã lập đền thờ đức Tản Viên ử xã Xuân Đài, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ. Kèm theo còn có các hoạt động lễ hội được tổ chức vào ngày 10 tháng giêng (âm lịch), thường được tổ chức ở giữa cánh đồng từ 11h30 à 13h30 trưa, trong lễ hội dứt khoát phải mổ trâu, đi kèm với nó là các hoạt động ca hát, với nhiều quần áo Mường cộng với chiêng, kèn, trống… Ngoài ra thường gọi đây là lễ khai hạ (Khánh hạ) dứt khoát phải có lễ này song thì nhân dân mới bắt đầu được làm lụng mọi việc (lên rừng, cấy lúa, xây nhà, cất mả…), lập các đền thờ với ý nghĩa cầu cho mùa màng tươi tốt, bội thu, cầu cho mưa thuận gió hoà… Cũng ở đây trong khoảng từ tháng 1 đến tháng 7 (mỗi một tháng một lần)có lễ cầu thành hoàng, thường là mỗi xóm đều có thành hoàng riêng; tháng 1 và tháng 6 thường được gọi là tháng phán tước (mở đầu), còn tháng 2 và tháng 7 thì mới là ngày cúng - thờ chính của nhân dân Mường ở đây ở đây thì cầu giảm bớt sâu bọ, lúa tốt tưới, thờ người có công khai phá ruộng nương. Tiếp trong một năm đó vào khoảng tháng 10 (âm lịch) thì dân tộc Mường ở đây tổ chức “lễ cơm mới” các thổ tù, thổ lang sẽ huy động lực lượng là nhân dân đi gặt lúa (ở ruộng công của làng) thường mỗi làng có một ruộng riêng sau đó jang về nhà thổ tù, thổ lang và đập sát vỏ và sau đó đốt để làm cốm thờ thành hoàng có công với việc trồng và chăm sóc lúa nước. Còn ở các gia đình sau khi đã ăn cơm mới của làng song thì về nhà mình cũng phải tổ chức lễ cơm mới tại nhà ; phải mổ lợn (10 - 30 kg), gà, vịt để cúng tổ tiên. Lễ hội này diễn ra khoảng từ 2 - 7 ngày thì kết thúc. Ngoài lễ hội thờ Đức Tản Viên thì cón có lễ hội cầu (thờ) thái gia đại Vương, tương truyền rằng ông này đi đánh giặc ở Lào về đến quãng sống Bứa (nay thuộc xã Mỹ Thuận, huyện Thanh Sơn) thì ông ta bị quân giặc chém thành 3 phần, nhưng vẫn cưỡi được ngựa, sau đó gặp một người phụ nữ đi úp cá ở bờ sông và hỏi “Bà ơi cho tôi hỏi, liệu một người bị chém thành 3 phần liệu có thể sống được không?” và bà trả lời rằng “Chặt thành 3 phần thì sống làm sao được”. Sau đó người ông đã rời nhau và dơi thành 3 khúc trôi ở trên sông. + Khúc đầu : trôi về Văn Lang (nay thuộc Võ miếu, huyện Thanh Sơn) người dân Mường ở đây đã lập đền Võ ở cửa sông để thờ ông. Ngoài ra 3 năm ở đây còn tổ chức lễ hội một lần, cầu cho mùa màng xanh tốt, gia đình ấm no, hạnh phúc. + Khúc giữa : trôi về tới cuối Xuân Đài (nay thuộc xã Minh Đài, huyện Thanh Sơn) người dân Mường ở đây đã lập miếu thờ và lấy tên là (miếu gốc Đa), thường được thờ vào các ngày lễ tết. + Khúc cuối : trôi và mắc vào một hòn đảo, nay thuộc xã Quang Húc, tỉnh Phú Thọ, ở đây và lập đền thờ Thái Gia đại Vương và thường được dân Mường ở đây hương ứng rất mạnh mẽ. à Có thể nói rằng tín ngưỡng dân gian của dân tộc Mường cực kì là đặc sắc và chứa biết bao điều tiềm ẩn, mà ở đề tài này do có hạn nên mới chỉ giải quyết được phần nào. 2.2. TÍN NGƯỠNG THỜ TỔ TIÊN VÀ QUÁ TRÌNH ẢNH HƯỞNG CỦA LOẠI TÍN NGƯỠNG NÀY ĐỐI VỚI CUỘC SỐNG HIỆN NAY. Cũng như người Kinh chúng ta, thì tín ngưỡng tổ tiên của dân tộc Mường đã in dậm trong tâm thức người Mường từ rất lâu rồi. Người Mường quan niệm người chết thể xác hoá thân vào vũ trụ (trời đất), nhưng linh hồn vẫn tồn tại nhớ về nơi ở cũ. Vì vậy bổn phận của người sống phải phụng sự linh hồn no đủ để linh hồn phù trợ cho người sống yên ổn, khoẻ mạnh, làm ăn phát đạt. Trong ngôi nhà người Mường bàn thờ tổ tiên thường được đặt ở vóng gian giữa nhà. Người con trưởng phải thờ cúng tổ tiên 5 đời (ngũ đại). Mỗi đời thể hiện bằng một bát hương xếp theo hàng ngang. Người con thứ chỉ lập một bát nhang thờ trực tiếp bố mẹ sinh ra minh, khác với người Kinh (con gái đã về nhà chồng thì không được lập bàn thờ thờ cha mẹ đẻ), người phụ nữ Mường sau khi đã về nhà chồng cha mẹ chồng qua đời không có con trái thờ cúng thì nhà chồng cho phép họ lập một bàn thờ cha mẹ đẻ ở nhà chồng ở của vóng khách, nhưng bàn thờ phải nhỏ hơn bàn thờ của nhà chồng. Người Mường ở Lương Sơn, Lạc Thuỷ, Yên Thuỷ là những nơưi tiếp giáp người kinh có duy trì việc cúng giỗ tổ tiên (ông bà, cha mẹ). Nếu người kinh lấy ngày chết của tổ tiên làm ngày giỗ thì người Mường lại khác. Họ lấy ngày người chết rời khỏi nhà đưa đi chôn (đưa ra đồng) làm ngày giỗ chính. Họ cho rằng người chết con nằm ở nhà nghĩa là sợi dây tình cảm giữa người sống và người chết trong gia đình chưa cắt lìa nhau. Chỉ khi người chết được đào chôn sâu, chôn chặt ở dưới đất (người Mường không có tục cải táng) thì người sống và người chết mới thực sự xa nhau. Vì lẽ đó, trước năm 1945, ở nhiều vùng Mường có hư cha mẹ hoặc mẹ chết, gia chủ quân quang tàn giỗ để ở trong nhà hàng năm đợi đến khi chuẩn bị đầy đủ điều kiện vật chất mới gọi là thân tộc, dân làng đến làm ma cho người chết và đưa người chết ra đồng, lúc ấy người chết mới thực sự chết trong con mắt người sống. Từ những tư liệu mà như Lê Thanh Hoa trong cuốn “tín ngưỡng dân gian Việt Nam” cho rằng : Ngoài những tín ngưỡng như trên thì người Mường Bi được biết nhiều hộ gia đình ở vùng này trong nhà lập hai nhà thờ bên nội và bên ngoại. Một làm bàn thờ đặt gần cáng ngoài thờ tổ tiên bên nội, còn một bàn thờ đặt gần vóng phía bên trong thờ tổ tiên họ ngoại. Người Mường Bi không duy trì từ tục thờ cúng tổ tiên theo ngaỳ mất trong năm mà thường lấy ngày lễ tết, ngày cơm mới, ngày làm vía, ngày cầu mát cúng gọi tổ tiên. Việc cùng tồn tại trong ngôi nhà của người Mường hai bàn thờ bên nội bên ngoại chứng tỏ trong xã hội phụ quyền của người Mường trước đây chưa đủ mạnh để gạt bỏ mọi dấu tích ghi nhận vai trò của mầu quyền trong đời sóng văn hoá của dân tộc Mường. Người Mường đã chọn cho họ một lối ứng xử mềm dẻo để dung hoà hai thể đối lập này, tạo ra thế lưỡng hợp ngay trong chính vị ngôi nhà có vai trò do người nam giới cai quản. Trong đời sống xã hội thì tín ngưỡng nó có ảnh hưởng khá sâu rộng, tác động và vai trò của nó dần được phát huy, tín ngưỡng là gì mà có ma lực cuốn hút người ta và khiến người ta sùng tín mãnh liệt như vậy ? đó là mộtcâu hỏi lớn đặt ra cho các nhà khoa học, và đang tìm cách giải đáp. Từ thời nguyên thuỷ cho đến nay là có một khoảng thời gian dài dằng dặc với những khác biệt về lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội… nhưng, niềm tin của con người vẫn không mấy thay đổi đối với các lực lượng tự nhiên và xã hội tồn tại xung quanh mình. Lúc đó do trình độ nhận thức thế giới xung quanh còn lại hạn chế, nhất là trình độ khoa học kỹ thuật còn thấp kém, con người Nguyên thuỷ đặt niềm tin và cầu mong sự phù hộ của các lực lượng tự nhiên và xã hội là điều dễ hiểu. Nhưng đối với con người hiện đại cộng với sự nhận thức khoa học kỹ thuật nhanh chóng, nhạy bén, thậm chí ở một góc độ nào đấy có thể cải tạo và làm chủ được thiên nhiên với nền khoa học hiện đại mà lại vẫn còn tin. Nếu không nói là ngày càng tin tưởng hơn vào các thế lực siêu nhân quả là một vấn đề chưa dễ gì lý giải được. -Cho tới nay, đã có nhiều ngành khoa học cố gắng đi tìm con đường giải đáp vấn đề đó, nhưng, những lời giải đáp đó vẫn chưa có sức thuyết phục cao. Có ý kiến đứng về mặt chức năng để giải quyết vấn đề đó và có ý kiến lại nhìn nhận từ góc độ bản chất của nó từ một nhậnthwcs luận và cho rằng tín ngưỡng là sản phẩm của sự u mê, ngu dốt, là sự phản ánh méo mó, hư ảo cái thế giới khách quan vào trong bộ não con người, thậm chí là thế giới quan tiền khoa học, đối lập với khoa học. Nhưng những ý kiến đó cho rằng, cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, xã hội văn minh, những niềm tin đó sẽ bị thu hẹp dần và đi tới chỗ diệt vong. Cách nhìn nhận như vậy về tín ngưỡng không hoàn toàn sai, nhưng cũng không phải là đúng và thiếu sức thuyết phục. Bởi vì, trong thực tế từ xưa nhiều người sùng tín tự nhiên không phải họ ở trình độ thấp kém về nhận thức, thậm chí trong số đó có người đang và đã tìm cách để khống chế tự nhiên, bắt tự nhiên phải tuân theo ý mình. Nhưng niềm tin củahọ ở các thế lực không phải vì thế mà bị suy giảm, ví dụ như trường hợp sùng bái - thờ cúng Đức thánh Tản Viên khá phổ biến nhưng nhiều khi cũng khó giải thích một số các hiện tượng sayra trong đó. Nhưng cái gì nó đều có tính chất hai mặt. Tuy nó cũng đạt được như vậy nhưng nó cũng còn tồn tại những mặt đối lập, đó là sự lạnh nhạt dần đi trong mối quan hệ giữa người với người về cơ chế thị trường tác động, chi phối. Mặt khác, sự phát triển của lực lượng sản xuất đã tạo ra nhịp độ căng thẳng trong cuộc sống xã hội, sự cô đơn vô định của con người bên cạnh cái khối lượng vật chất đồ sộ so mình tạo ra… đặc biệt là trong lúcđang vận động và tìm cách khống chế tự nhiên, bắt tự nhiên phải phục vụ cho con người, chúng ta đã gây ra nhiều hậu quả tại hại, nhất là việc huỷ hoại môi trường sinh thái và phải hứng chịu nhiều đòn giáng trả của tự nhiên. Với những tâm trạng vặ hứng chịu đó “Đôi khi người ta muốn quay về lĩnh vực tâm linh, đi tìm niềm an ủi, tìm chỗ sướng gửi số phận mình ở một lực lượng siêu nhân phi vật chất nào đó (1) Trích trong sách : “Tôn giáo và đời sống hiện đại” của Viện thông tin khoa học xã hội (TTKHXH), Hà Nội 1997. . Tuy chưa hẳn họ đã hoàn toàn tin tưởng vào các lực lượng đó. -Thực trạng xã hội trên đây có thể chính là mảnh đất để tín ngưỡng tồn tại, phát triển. Sự phát triển đó đã khiến một số người “Nói đến cơn sốt tôn giáo trên phạm vi toàn cầu”(2) Viện thông tin khoa học kỹ thuật “Tôn giáo và đời sống hiện đại, Hà Nội 1997. , cho dù còn nhiều ý kiến khác nhau về vấn đề này, nhưng những hoạt động tôn giáo (tín ngưỡng) với sự sùng tín của con người vẫn còn giữ được nhiều giá trị trong xã hội loài người nói chung của các dân tộc thiếuố và đặc biệt là của dân tộc Mường- Vì đó là các chức năng xã hội cần thiết mà các chức năng xã hội khác không thể thay thế được. Vì vậy cùng với sự phát triển của xã hội, chúng ta vẫn chấp nhận sự tồn tại thậm chí ngày càng phát triển của các hoạt động tín ngưỡng đặt đúng vị trí của nó và cần thiết hiểu biết đúng đắn vai trò của nó trong xã hội các dân tộc. Từ đó có thể hạn chế các tác động tiêu cực, phát huy các mặt tích cực của nó nhằm xây dựng một xã hội văn minh, hiện đại nhưng đảm bảo sự phát triển hài hoà, cân đối cả về đời sống vật chất lẫn đời sống tinh thần, đặc biệt là trong đời sống tâm linh. Chừng nào con người là con người và có niêm tin vào tôn giáo, được thể hiện qua các loại tín ngưỡng cụ thể còn tồn tại trên cõi trần thế này, thì con người vẫn mong nước sống trong một xã hội công bằng, nhân ái ấm no hạnh phúc. Đó là khát vọng muôn thuở của loài người, song họ lại bất lực, đành tin vầocí “ảo ảnh” của thế giới khác, tin vào sự phù hộ độ trì của các lực lượng siêu nhân. Song, những niềm tin tôn giáo đó nếu chưa đáp ứng một cách hưảo khát vọng của họ thì chắc chắn nó sẽ không tồn tại đăỉng từ khi loài người được sinh ra cho đến nay. Thực ra tín ngưỡng không chỉ là một niềm tin tôn giáo mà còn là sự kiện lịch sử, một hiện tượng văn hoá, nó là nhu cầu cần thiết và có ích cho đời sống con người. Cho nên muốn hạn chế được tiêu cực và phát huy mặt tích cực của tín ngưỡng thì phải có sự hiểu biết toàn diện, sâu sắc về tín ngưỡng và các hạot động của nó, đồng thời phải nắm được vai trò, vị trí, lịch sử của những tác động đó trong quá khứ và hiện tại, từ đó đề ra được con đường đúng, đáp ứng được nguyện vọng của thế giới tâm linh, phù hợp với công cuộc xây dựng đất nước. 2.3. Ý NGHĨA CỦA TÍN NGƯỠNG ĐỐI VỚI DÂN TỘC MƯỜNG (KINH TẾ, CHÍNH TRỊ, XÃ HỘI…) Như lời chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói : “Đảng ta có chính sách dân tộc đúng đắn, cho nên đã phát huy được truyền thống đoàn kết và yêu nước rất vẻ vang của dân tộc ta …. Phải đoàn kết chặt chẽ giữa các đồng bào lương và đồng bào các tôn giáo, cùng nhau xây dựng đớiongs hoà thuận, ấm nó, xây dựng tổ quốc. Phải chấp hành đúng chính sách tôn trọng tự do tín ngưỡng đối với tất cả các tôn giáo. Ở những vùng tôn giáo có nhiều hợp tác xã nông nghiệp phát triển khá tốt. Nhưng ở một vài nơi, vì có kẻ xấu phản tuyên truyền cho nên một số xã viên thu nhập kém … nguyện vọng của đồng bào giáo dân là “phần xác no ấm, phần hồn thong dong”. Muốn được như thế thì phải ra sức củng cố hợp tác xã, phát triển sản xuất, tăng thu nhập xã viên. Đồng thời phải đảm bảo tín ngưỡng tự do. Nhưng hoạt động tôn giáo không được cản trở sản xuất của nhân dân, không được trái với chính sách pháp luật của Nhà nước”(1) Hồ Chí Minh - Bài nói chuyện tại lớp bồi dưỡng cán bộ về công tác mặt trận, 8-1962 . Đúng như vậy, tín ngưỡng và lễ hội là một cặp phạm trù mang tính chất tương hỗ. Trong lễ hội bao giờ cũng chứa đựng tín ngưỡng, nhưng tín ngưỡng không chri được thể hiện trong lễ hội. Có thể nói rằng đây là cặp phạm trù không thể tách rới nhau, nhưng phạm vi biểu hiện không hề giống nhau. Lễ hội chính là không gian xã hội để cho tín ngưỡng thể hiện, xét về cấu trúc thì lễ hội là hình thức, còn tín ngưỡng là nội dung. Trong lễ hội thì phần lễ chính là phần thể hiện tín ngưỡng của con người đối với hiện thực khách quan, còn hội là phần đời, phần tục. Như một nhà văn hoá người Nga M.Bacchie đã từng nói “Thực chất lễ hội là cuộc sống được tái hiện dưới nhiều hình thức lễ tế và trò diễn, đó là cuộc sống lao động cư dân. Tuy nhiên bản thân cuộc sống không thể trở thành lễ hội được nếu như chính nó không được thăng hoa liên kết và quy tụ thành thế giới tâm linh, tư tưởng và các biểu tượng vượt lên trên thế giới của những phương tiện và điều kiện tất yếu. Đó là thế giới là cuộc sống. Cuộc sống thứ hai thoát li tạm thời thực tại hữu hiệu, đạt tới hiện thực lý tưởng mà ở đó mọi thứ đều trở nên đẹp đẽ, lung linh siêu việtvà cao cả” (1) M.Bactrie, sáng tác của Rabơle cổ và phục hưng, Nxb Khoa học, Matxcơva, 1990 (bảng tiếng Nga). . Từ đó mà theo em thì trong các lễ hội nó tồn tại một số loại ý nghĩa mà thực chất là nội dung thể hiện tín ngưỡng của dân tộc Mường. + Giá trị cộng động - ý nghĩa cộng động : Lễ hội là một hoạt động tín ngưỡng, mang tính tập thể cao của các dân tộc nói chung và của dân tộc Mường nói riêng. Mặt khác nó được duy trì trên nền của tín ngưỡng, tôn giáo của một dân tộc. Một tộc người. Nhìn trên lát cắt đồng đại về tín ngưỡng của dân tộc Mường ở (Hoà Bình, Thanh Hoá, Phú Thọ…) thì ta thấy rằng từ xưa thì mọi người, mọi gia đình đều đóng góp lễ vật của mình hoặc gia đình mình để dâng cho thần linh và qua quá trình thờ cúng với một khoảng thời gian quy định, thì các lễ vật lại được chia cho mọi người để lấy may với tư tưởng (được thần phù hộ). Tất cả những tục lệ đó của dân tộc Mường đã tạo ra được giá trị cộng đồng- ý nghĩa cộng đồng của tín ngưỡng của dân tộc Mường. + Ý nghĩa giáo dục : Tín ngưỡng là hoạt động tinh thần để thể hiện tình cảm của con người với thần thánh, tổ tiên để cầu mong mọi lực lượng siêu nhân phù hộ cho mưa thuận gió hoà, mùa màng tốt tươi, nghề nghiệp phát đạt, con người khoẻ mạnh bình an. Qua các hình thức của một lễ hội thì nó bao giờ cũng hàm chứa nhắc nhở mọi thành viên của mọi tộc người hay một nhỏ người hãy luôn luôn giữ lấy cái đạo lí của ông cha về tinh thần lạc quan và yêu lao động… và từ đó nó giúp con người nhận ra được các trách nhiệm của mình và không ngừng cố gắng, đặc biệt là tầng lớp thanh niên. + Ý nghĩa văn hoá tâm linh : Có thể nói rằng để đáp ứng được đời sống văn hoá tâm linh của dân tộc Mường, thì trong quá trình lao động, sáng tạo, để đáp ứng cho những nhu cầu trong cuộc sống và dần làm tăng đời sống chung của dân tộc Mường nói riêng. Để tạo ra giá trị văn hoá vào thế giới tâm linh, thế giới hữu hình thì con người đã phải trải qua biết bao thăng trầm của lịch sử và không ít trường hợp con người phải bó tay (đầu hàng) trước sức mạnh của tự nhiên mà phải nhờ đến sự phù hộ che chở của tổ tiên, dòng tộc, thành hoàng các vị thần linh khác trong cuộc sống và trong sản xuất… Họ cầu mong thần linh phù họ cho cuộc sống bình an, cây trồng bội thu, có thành công trong nghê nghiệp, đi rừng thu được nhiều chiến lợi phẩm. Đúng vậy chỉ thông qua lễ hội, các hoạt động tâm linh khác thì mới làm thoá mòn được đời sống tinh thần của nhân dân ta. Qua nhiều hoạt động khác nhau thì hoạt động, các tín ngưỡng của dân tộc Mường ngày càng được nhiều người biết đến (Du lịch). 2.4. QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG THÌ NÓ CÓ NHỮNG THUẬN LỢI GÌ ? CÒN TỒN TẠI NHỮNG KHÓ KHĂN GÌ ? Trên bước đi của lịch sử dân tộc, cũng như là của nhân loại, thì lịch sử trong đó có tín ngưỡng của dân tộc Mường cũng đang được phát triển mạnh mẽ và như là một đặc điểm nổi trội, nhưng nó lại mang tính chất hai mặt. Một mặt do chưa có kiến thức về khoa học nên còn có những nhận thức lệch lạcvề tôn giáo, đặc biệt là tín ngưỡng, nên đã có những công trình kiến trúc xây dựng lên với ý nghĩa để kiếm ra những đồng tiền bức thiết chứ không đáp ứng được vấn đề tín ngưỡng. Mặt thứ hai là: Do quá trình du nhập của nhiều phong cách “Âu hoá”, “phương tây hoá” nên đã có nhiều loại hình văn hoá lai căng và ảnh hưởng rất lớn đến niềm tin tôn giáo - tín ngưỡng trong dân tộc ta nói chung và dân tộc Mường nói riêng. Cụ thể hơn là hiện tượng thờ tổ tiên trong tín ngưỡng dân gian của người Mường nó xuất hiện ở rất nhiều nước trên thế giới. Hiện tượng này có nhiều cách thể hiện khác nhau, song đều soay quanh việc vừa xuất vừa nhập thần trong xu hướng hoà đồng với vũ trụ, đạo thờ tổ tiên là một đạo gắn chặt với chặng đường phát triển của lịch sử của mộ tdân tộc mang cả tư tưởng, xã hội, kinh tế… là một tín ngưỡng dân gian nên khó tránh khỏi cách ứng xử với thần linh theo tâm thức dân gian, mà trong đó một biểu hiện cụ thể là “lên đồng”, đó là một hiện tượng mê tín vì có hiểu nguồn gốc - ý nghĩa của lên đồng. Tuy nhiên trong thực tế thì vẫn còn nhiều tồn tại mang đậm chất tiêu cực dẫn đến nhiều hoàn cảnh mù mờ. “ghen vợ ghen chồng, không bằng ghen đồng ghen bóng”… Từ đó làm xuất hiện nạn làm hàng mã đua nhau phô diễn ra thị trường, mặt khác còn tăng cường việc phát lộc, xiêm áo xa xỉ, đôi khi lợi dụng thánh thần lên mặt dạy đời những lời chưa tốt đẹp cho lắm. Hơn nữa lại có hiện tượng bói toán quàng xiên. GS. Từ Chi (Một con chim đầu đàn về dân tộc học của nước ta) đã chỉ ra rằng : con người cáng sống gần thiên nhiên thì càng có nhiều khả năng đặc biệt, họ như nghe thấy tiếng thì thầm của vũ trụ để dự đoán được mưa nắng, cảm nhận được nhiều sự kiện trời đất (mà công cụ hiện đại còn chưa xác định đựơc). Có phải chắng không phải sống trong môi trường nhân tạo thì bộ não con người được phát triển nhanh chóng. “đột nhiên” ở các dân tộc thiểu số (Mường, Tày, Thái, Nùng…) sau cách mạng đã hình thành nên nhiều hủ tục mê tín dị đoán. Một số người sau những trận ốm “thập tử nhất sinh” mà người ta nghĩ rằng nhờ đó mà một số tế bào thần kinh của nọ trở về trạng thái ban đầu, dần tới khả năng nhận biết được nhiều điều mà vốn nhiều khoa học còn chưa giải thích được. Vậy thì vấn đề đặt ra cho chúng ta là: “cần sớm có ý kiến để giải thích về hiện tượng này tránh sự ngộ nhận trong quần chúng và tránh sự lợi dụng lòng tin của một số người mà chuyển hoá khả năng này sang mê tín dị đoan”. Một cung bậc khác thì đạo phật ở người Mường cũng được hình thành khá lâuđời rồi, nhưng ở giaiđoạn này bắt đầu có sự phát triển mạnh mẽ, và có một số người lợi dụng đã và đang tìm cách đưa những giáo điều phật giáo để làm phản những chính sách nhà nước. Ở một ngôi đình nhỏ của người Mường ở huyện Thanh Sơn tỉnh Phú Thọ trước kia khi kinh tế còn nghèo thì làm gì có sư và ngôi đình còn làm bằng đất đắp, khi kinh tế phát triển thì sinh ra đủ loại : số lượng sư tăng đáng kể (người hiểu về đạo phậtlại ít), tiền công đức ngày càng nhiều… nhiều người đi tu lại quyên hành đạo, là người thầy nhưng nặng về cúng bái và kinh tế. -Hiện nay một số đạo phật, do sự hạn chế về trí tuệ mà người theo đạo đó đã có nhiều sai lầm đối với chính lời dạy của đức phật - Không mấy ai phân định được phật và đức phật, niệm châm ngôn và cầu kinh nhưng không hiểu đê rút ra được yếu nghĩa… Bản chất của đạo phất là vô thần, là dạy người tín đi tìm cái bản thể chân tâm, nhưng đa số mọi người đi chỉbiết cầu xin cho những lẽ bình thường. Đó là một số điều đủ để làm cho của chùa trở nên lộn xộn, và hiện đây đang là vấn đề làm tổn thương đến trước hết là vật chất, nhưng sâu lắng hơn là tổn thương về ý thức - về những nhận biết về đạo phật. Song song với những cái còn tồn tại chưa tốt thì tín ngưỡng của dân tộc Mường cũng còn giữ lại được một số đặc sắc. Thông qua các hoạt động tín ngưỡng thờ thần, thờ tổ tiên thì nó đã là động lực để người ta tín tưởng có người phù hộ và làm việc hết mình. Ở đây em xin nêu ra một vấn đề mà ngày nay trở thành phổ biến tức là : thường thì ở các lễ cưới người ta phải chọn ngày, chọn giờ đón dâu… Nóđã nêu thành một câu ca mà nhiều người biết đến “Dần thân tỵ hợi tứ hành sung - Nhân quá thì bất trung - Tình duyên thì bất trị”. Có phải chăng đó là những hành động mê tín đó là một câu hỏilớn cần có lời giải đáp mà như ở bài Báo cáo khoa học này do có hạn nên em chưa có thời gian tìm hiểu và giải thích vấn đề này. PHẦN 3 : ĐỀ XUẤT - KIẾN NGHỊ Đưa ra những đề xuất, kiến nghị, giải pháp, định hướng để phát huy hơn nữa những mặt mạnh, giảm dần tiến tới chấm cứt các mặt yếu kém còn tồn tại trong tín ngưỡng của dân tộc Mường. -Trước hết là đưa ra những chuẩn mực chung để đánh giá được vấn đề tín ngưỡng của dân tộc Mường hiện nay và đưa ra các kiến nghị để cho nó có khoa học gắn liền với thực tiễn. Đảng và Nhà nước ta đã có rất nhiều nghị quyết, nghị định về vấn đề dân tộc : nghị quyết 22 của Bộ Chính trị (khoá VI) nghị quyết trung ương 5 (khoá VIII) của Đảng … đã đề ra những đường lối, phương hướng cho việc phát triển tôn giáo của các dân tộc thiểu số nói chung và trong đó có dân tộc Mường. Tuy những chính sách từ trên dội xuống rất đúng đắn, nhưng khi về tới các địa phương các dân tộc thì do cán bộ cấp (xã, thôn) còn có hiểu biết chưa sất sát. Nắm bắt tình hình kém nên còn phổ biến những chính sách ấy chưa được chính xác cho dân ta - đặc biệt là các dân tộc thiểu số. Để giảm bớt tình trạng đó thì em xin đưa ra một số phương hướng, định hướng, giải pháp, kiến nghị đối với Đảng - Nhà nước, đối với xã hội và đối với từng cá nhân. 3.1. CẢI THIỆN VÀ NÂNG CAO MỨC SỐNG… Các cán bộ phải đi sâu hơn nữa vào đời sống của nhân dân (vật chất + tinh thần), nâng cao hơn nữa vấn đề giáo dục. Vì giáo dục là nguồn gốc cho mọi sự phát triển. Một xã hội văn minh giàu đẹp thì phải có những con người trí tuệ (phải có học vấn). Mặt khác phải nâng cao học vấn nghề nghiệp (chất lượng đào tạo nghề), thông qua các hoạt động tuyên truyền cùng băng rôn, cờ, biểu ngữ thường xuyên làm cho các dân tộc thiểu số luôn hiểu được quyền nghĩa vụ của mình và nên tránh xa những tư tưởng (tín ngưỡng) xa rời thực tế. Ví dụ : như ở xã Xuân Đài, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ một năm thì ít nhất cũng phải từ 3 - 4 lần các cán bộ tuyên giáo đi tuyên truyền về vấn đề tôn giáo tín ngưỡng (ngoại lệ còn cùng với các cán bộ đi tuyên truyền dân số KHHGD). Một vấn đề lớn đặt ra cho các cấp các ngành đó là mối quan hệ giữa hiện tại và quá khứ, giữa hiện tại và tương lai, làm sao phải giải quyết mối quan hệ ấy đạt tối ưu. Có thể dựa trên những cái chúng ta đã có ở hiện tại để đánh giá những cái cần giữ và những cái không cần giữ gìn của quá khứ để từ đó mà đề rấcc chính sách sao cho phù hợp, tránh tình trạng khôi phục “cào bằng” (cả cái tốt và cái xấu). Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói rằng. + Nói về văn hóa - tín ngưỡng thì các cán bộ có cố gắng, mà văn hoá nói chung mà trong đó có tín ngưỡng nói riêng thì có thành tích, đấy là điều đáng khen, nhưng khuyết điểm cũng còn khá nhiều. Lấy một ví dụ thôi : “Nói là khôi phục vốn cũ, thì nên khôi phục cái gì tốt, còn cái gì không tốt thì phải loại dần ra. Xem ra, thì năm nay tương đối khá, còn như năm ngoái bảo khôi phục vốn cũ thì khôi phục cả đồng bóng, rước xách thần thánh. Vì khôi phục như thế nên nông thôn nhiều nơi quên cả sản xuất, cứ trống mõ, bì bõm, ca hát lu bù. Có những xã góp tới mấy triệu đồng đi mua áo, mũ, hia, như thế nói khôi phục vốn cũ có đúng hay không? Cái gì tốt thì ta nên khôi phục và phát triển, còn cái gì xấu thì ta nên bỏ đi” (1) Bài nói chuyện tại Hội nghị cán bộ văn hoá ngày 30-10-1958 của Chủ tịch Hồ Chí Minh. . Cùng với các phương hướng đó thì chúng ta cũng cần chú ý đến vấn đề như : Tiếng nói chữ viết. Lễ hội, phong tục tập quán, đời sống tinh thần, các ngày lễ, ý nghĩa của các lễ hội… để từ đó mà chúng ta có điều kiện tiếp cận để tuyên truyền - giáo huấn các dân tộc thiểu số. Mặt khác bằng các vấn đề nghiên cứu để giữ gìn văn hoá nói chung còn tín ngưỡng nói riêng trên cấp độ vĩ mô thì không thể chuẩn xác được mà phải tiếp xúc được với dân ở địa phương và nghe những nguyện vọng của họ. Ví dụ như nhà nước ta đề ra chính sách là : thực hiện bình đằng giữa các dân tộc. Ở trên là như vậy tuy đã có phương hướng hành động nhưng về tới cơ sở tầm quan trọng của nó bị giảm đi thì hiện tượng tranh chấp giữa các dân tộc vẫn xảy ra nhưng các cán bộ đâu biết à thế thì làm sao mà nhà nước biết được. Có phải chăng đó là bệnh quan liêu - là một căn bệnh thường thấy ở một số người cán bộ bây giờ. Đấy là còn chưa nhắc đến vấn đề tham ô hối lộ trong lĩnh vực mê tín dị đoan. Vì vậy khi đã nhận ra được tầm quan trọng của vấn đề tín ngưỡng của dân tộc Mường, từ ý kiến của em thì em mong rằng Đảng - Nhà nước với chức quyền được nhân dân giao phó phải thực hiện - làm sao để làm cho vấn đề tôn giáo tín ngưỡng của nước ta ngày một trong sáng (tránh hiện tượng mê tín dị đoan). Tuy khi đất nước mở cửa thì khó tránh khỏi có nhiều nền văn hoá du nhập và làm thay đổi những tín ngưỡng của ông cha ta để lại mà được chắt lọc qua thời gian và qua không gian mấy nghìn năm lịch sử rạng rỡ. 3.2 . CÒN NHẮC ĐẾN TÍN NGƯỠNG MÀ Ở TRONG XÃ HỘI THÌ NÓ CÒN RẤT NHIỀU ĐIỀU PHỨC TẠP MÀ ĐÃ VÀ ĐANG ĐƯỢC ĐẢNG TA CHÚ Ý VÀ GIẢI QUYẾT. Việt Nam là một nước đa dân tộc, trong nước ta hiện nay có khoảng 54 dân tộc sinh sống và làm việc, trong đó dân tộc thiểu số chiếm tới 8 triệu người, bằng 13% (1993) dân tộc cả nước. Khi mà chúng ta nhắc đến các ngành khoa học, các con người dân tộc, chính sách, hướng phát triển của tín ngưỡng các dân tộc thiểu số thì ta nhận thấy rằng giữa các dân tộc thiểu số có số dân không đều, phân bố rất lộn xộn, phân tán… có sự chênh lệch về trình độ học thức. Mặt khác lại còn khó khăn về kinh tế - xã hội. Vậy thì vấn đề tín ngưỡng của dân tộc Mường là một vấn đề khá nóng bỏng và được nhiều người chú ý đến nhưng lại ở nhiều khía cạnh khác nhau. Ở đây em muốn đưa ra một số kiến nghị - đề xuất của mình dựa trên quá trình tìm hiểu (tham khảo) sách vở và ý kiến của nhiều nhà khoa học khác nhau. Trước hết là trong xã hội nước ta hiện nay luôn luôn tồn tại ranh giới giữa tín ngưỡng và mê tín, tuy nó rất mong manh và không thể nhìn thấy, sờ thấy, nghe thấy và nó là yếu tố của đời sống tâm linh của con người. Tuy nhiên hiện nay vẫn còn những yếu tố mê tín được đan cài trong vấn đề xã hội mà đặc biệt là lễ hội dân gian, dưới dạng ký sinh vào lễ hội. Nổi lên trong xã hội còn xuất hiện nhiều hiện tượng hầu bóng, lên đồng trong các lễ hội dân gian làm ảnh hưởng đến đời sống tâm linh - các quan niệm về các vị thần linh đây là một vấn đề rất khó phân biệt mà cũng là một hiện tượng mà đang xảy ra nhiều tranh luận, là mê tín hay không mê tín. Đó là một hiện tượng tín ngưỡng có nhiều phức tạp và bí ẩn,cần phải nghiên cứu, xem xét một cách khoa học. Ngoài ra còn phương pháp nhập thần (hồn của thần linh hoặc người chết vào thể xác của người sống). Trong xã hội hiện nay hiện tượng này rất phổ biến, đặc biệt là đối với những người nào mà rơi vào tình trạng suy sụp tinh thần. Đi xem bói nó là các hiện tượng mê tín dị đoan mang tính chất hủ tục, đó là việc một số người lợi dụng tín ngưỡng dân gian để buôn thần bán thánh, mưu cầu trục lợi chứ không phải là đáp ứng nhu cầu tự thân của tâm linh, của lòng tin. Đặc biệt trong lúc lên đồng, người ta đã lợi dụng để phán bảo gia chủ phải chuẩn bị cái này, chuẩn bị cái kia, nhất là hình thức nhập hồn… Đó là hàng loạt các hình thức mê tín dị đoan đã và đang ký sinh trong đó nếu chúng ta (con người) mà không có những hành động thì khó mà thoát hỏi tình trạng mê tín - Đây là một hiện tượng khá phổ biến của dân tộc Mường, dù là ở Hoà Bình hay Thanh Hoá, Phú Thọ… Để hạn chế và dần đưa con người đi đúng quỹ đạo của mình thì việc đề ra các chính sách là cực kỳ cần thiết cho đất nước (nhà nước) ta hiện nay. + Đề nghị các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đánh giá đúng về vấn đề này, cần thiết thì lập các hội đồng đánh giá, cần phải có những văn bản pháp quy là cơ sở để đưa nó vào cuộc sống, lập ra những quy trình cụ thể để vẫn đảm bảo cho tín ngưỡng phát triển lâu bền. + Cần phải có các chính sách thuận lợi (ưu tiên) cho dân tộc ít người và đặc biệt là cho các dân tộc khó khăn trong đó có dân tộc Mường, làm sao để vấn đề này không được mai một, hoặc mất tên trong danh sách các vấn đề cần quan tâm của dân tộc thiểu số nói chung, nâng cao đời sống các dân tộc ít người xa xôi, hẻo lánh, cơ sở kháng chiến cũ… chú ý đến việc di dân để đảm bảo không bị mai một và pha tạp các loại tín ngưỡng không tốt. + Tăng cường phổ cập chữ quốc ngữ cho nhân dân các đồng bào dân tộc thiểu số ; duy trì tiếng nói riêng của dân tộc mình, còn đối với các dân tộc chưa có chữ viết, cụ thể là đối với dân tộc Mường thì trên nguyên tắc bình đẳng giữa các dân tộc của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh mỗi dân tộc trong quốc gia đều có chữ viết riêng cho mình (tức tự lựa chọn). + Tăng cường các hoạt động tuyên truyền, giới thiệu các hình thức tín ngưỡng ở địa phương mang tính cấp thiết đối với vấn đề tín ngưỡng hiện nay ở các dân tộc thiểu số, đặc biệt là dân tộc Mường, do chưa được hiểu cho lắm về chữ viết và các phương tiện kỹthuật. 3.3. CÒN ĐỐI VỚI MỖI CÁ NHÂN THÌ CẮC CHẮN RẰNG CHÚNG TA AI CŨNG LUÔN LUÔN SUY NGHĨ RẰNG : Làm sao để mình sống một cuộc sống thanh thản “tinh thần thong dong”. Dựa trên nền tảng đã được hình thành từ ngàn đời cộng với sự định hướng của Đảng cộng sản Việt Nam. Để hưởng ứng với phong trào trấn hưng các loại hình tín ngưỡng của dân tộc Mường, nó đòi hỏi các cá nhân thuộc dân tộc Mường phải ra sức quán triệt hơn nữa công tác tư tưởng - tinh thần để làm sao có một thái độ đúng đắn đối với tín ngưỡng dân gian của dân tộc mình. Tín ngưỡng chính là niềm tin thể hiện ở người trần tục đối với các lực lượng siêu nhân, các lễ hội hàng năm là nơi thể hiện niềm tin của người dân đối với cõi siêu linh. Lịch sử đi qua nhiều lớp tín ngưỡng đã lắng đọng, kết tinh, có nhà dân tộc học người Nga nhận định rằng : “những truyền thống này là những viên gạch nền mà thiếu chúng thì chúng ta không thể xây nên ngôi nhà của văn hoá tương lai ; và mỗi viên gạch trong đống cổ kính lâu đời đó, cần được chúng ta xem xét cẩn thận lựa chọn những cái có ích và chết đi những cái có hại”(1) Hát văn Ngô Đức Thịnh (chủ biên) Nxb văn hoá dân tộc, Hà Nội 1992, trang 110 . Ngoài ra thì ngoài việc tiếp nhận thì từng cá nhân không ngừng nâng cao trình đô của mình, bằng cách đi học các lớp bồi dưỡng về văn hoá, các phương pháp tổ chức lễ hội… để dần xoá bỏ các hủ tục lạc hậu, dần đưa tín ngưỡng trở thành một vấn đề của nhiều người (tức nhiều người hiểu và theo nó), giảm bớt tình trạng mù quáng và đi theo con đường của mê tín dị đoan. Nhà nước ta có nhiều chính sách hơn nữa về cá nhân trong tín ngưỡng dân tộc như : yêu tiên trong vấn đề quan hệ xã hội, thực hiện dân chủ giữa người Mường với các dân tộc khác, tăng cường các hoạt động hỗ trợ về kinh tế, tri thức khoa học giúp người dân Mường dần đi lên cùng các dân tộc khác, mặt khác phải luôn hình thành trong ý thức của người dân một tư tưởng chín chắn, không khuôn mẫu và mang tính thời đại, để không những dân tộc Mường nói riêng mà cả các dân tộc khác trong nước Việt Nam cùng nhau phát triển và bước vào một thiên niên kỷ mới tràn đầy hạnh phúc. KẾT LUẬN : Sự đa dạng của các tín ngưỡng của dân tộc Mường không phải do bất kỳ một ý muốn chủ quan nào. Nó là một thực tế khách quan của lịch sử phát triển đa dạng các loại hình, phương thức tín ngưỡng. Mặt khác ngoài những mặt còn tồn tại thì tín ngưỡng của dân tộc Mường nó cũng đóng một vai trò khá lớn đối với tín ngưỡng của dân tộc Việt Nam và nó làm cho đời sống tinh thần của nhân dân ta thêm sâu sắc và rất riêng biệt so với các quốc gia khác trên thế giới, nó còn góp phần làm thay đổi bộ mặt của nền văn hoá nước ta ở một thời kỳ và đến nay cũng vậy tín ngưỡng của dân tộc Mường đã đóng góp vào vấn đề “xây dựng một nền văn hoá đậm đà bản sắc dân tộc” (Nghị quyết đại hội VIV). Có thể hiểu rằng tín ngưỡng như là một yếu tố nội sinh của vấn đề văn hoá “to đùng, to đoàng”, thì phải có một tín ngưỡng đúng đắn thì mới có một nền văn hoá đậm đà mang đầy phong cách dân tộc mà chỉ cần nhìn qua, nghe qua đã nhận ra ngày dó là của ai, do ai làm ra, nguồn gốc như thế nào. Một cái không kém đó là hình thức của các lễ hội đó là cái phần hồn của tín ngưỡng, nhưng do một số người trục lợi thường gắn vấn đề hủ tục như : các hoạt động lên đồng, gọi hồn, mưa địa điểm… để dầu mai một đi cấc tín ngưỡng. Hơn thế có ý nghĩa quyết định là các chính sách về dân tộc, đặc biệt ở các dân tộc thiểu số vùng sâu, vùng xa ở những nơi địa đầu tổ quốc còn gặp rất nhiều khó khăn cả về vật chất và tinh thần. Đó là một vấn đề cần quan tâm hơn nữa của các nhà điều hành Đảng và Nhà nước cùng với sự giúp đỡ của các cán bộ chuyên môn, để đưa vấn đề này dần đi vào thành một lề nếp hàng năm, đưa tín ngưỡng dân tộc Mường ngày càng trở nên trong sáng, không bị bóng đen của mê tín dị đoan che phủ./. TÀI LIỆU THAM KHẢO Sách dân tộc học - Đại học Quốc gia Sách Văn hoá các dân tộc Việt Nam - Thống nhất mà đa dạng - Nxb Chính trị quốc gia. Hoàng Lương, Sách Lễ hội truyền thống của các dân tộc Việt Nam - khu vực phía Bắc - Đai học Quốc Gia Lê Như Hoa -Tín ngưỡng dân gian Việt Nam - Nxb Văn hoá thông tin. Báo Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam tháng 8/2002 Báo Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam tháng 11/2002 Báo Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam số 3 - 2002 Báo Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam số 9 - 2002 Báo Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam số 12 - 2002 Tạp chí Văn nghệ dân tộc miền núi số 985-2002 Tạp chí dân tộc học số 5 (119)-2002 Tạp chí dân tộc học số 3 (117)-2002. Tạp chí văn hoá các dân tộc số 3 (2-2001). MỤC LỤC Phần khái quát Lý do chọn đề tài Mục đích nhiệm vụ Phần Nội dung 1. Khái niệm 1.1. Khái niệm tín ngưỡng 1.2. Khái niệm tín ngưỡng dân gian 2. Tín ngưỡng dân gian - hai loại tín ngưỡng cơ bản nhất của dân tộc Mường là tục thờ thần và tổ tiên 2.1. Tiền đề ra đời và tiến trình phát triển của hai loại tín ngưỡng trên 2.2. Tín ngưỡng thờ tổ tiên và quá trình ảnh hưởng của loại tín ngưỡng này đối với cuộc sống hiện nay 2.3. Ý nghĩa của tín ngưỡng đối với dân tộc Mường… 2.4. Quá trình phát triển của nền kinh tế thị trường thì nó có những thuận lợi gì, Đề xuất kiến nghị 3.1. Cải thiện và nâng cao mức sống 3.2. Còn nhắc đến tín ngưỡng mà ở trong xã hội còn rất nhiều điều phức tạp 3.3. Còn đối với mỗi cá nhân Kết luận Tài liệu tham khảo

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docvh02t.doc