Đề tài Hoàn thiện các hình thức trả lương tại Công ty dệt Minh Khai Hà Nội

Chẳng hạn cách tính toán lương ở phân xưởng dệt thoi như sau: Tại phân xưởng dệt thoi sợi đã được xử lý (hoặc chưa xử lý) được phân thành 2 loại sợi dọc và sợi ngang tuỳ theo yêu cầu của mặt hàng. Sợi ngang được chuyển sang máy đánh suốt. Sợi dọc được chuyển sang máy mắc tạo thành trục mắc trước khi đưa vào máy hồ dồn (tăng cường lực cho sợi) tạo thành trục dệt. Trục dệt và suốt ngang được đưa vào máy dệt thoi, dệt thành khăn thành phẩm. Phân xưởng dệt thoi dệt một số loại khăn như khăn mặt, khăn tắm, khăn ăn ứng với mỗi loại khăn sẽ có một đơn giá cụ thể do công ty xây dựng (phòng tổ chức lao động xây dựng đơn giá cho các loại khăn, nhằm để tính toán tiền lương ở phân xưởng sau khi có được số lương sản phẩm mà phân xưởng hoàn thành nhập kho). Để có được 1 sản phẩm khăn thì phải trải qua các công đoạn sau: đánh suốt, mắc sợi, hồ dồn, và cuối cùng là dệt.

doc72 trang | Chia sẻ: haianh_nguyen | Lượt xem: 1333 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hoàn thiện các hình thức trả lương tại Công ty dệt Minh Khai Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tạo lại… đó là xu thế tất yếu, và là hướng đi đúng của công ty. Sự biến động về lao động của công ty không rõ nét, chỉ có sự chuyển dịch lao động giữa các phân xưởng khi tình hình yêu cầu đòi hỏi, sở dĩ có thể làm được như vậy là do công việc trong từng phân xưởng tương đối gần nhau. Điều này đã thể hiện sự linh hoạt của ban lãnh đạo công ty. Công ty dệt Minh Khai mới có gần 30 năm trưởng thành và phát triển, do có sự non trẻ như vậy cùng với tuổi đời bình quân thấp nên số lao động phải về hữu rất ít, sự biến động về lao động ít. Trong năm 2001, công ty đã đào tạo mới, đào tạo bổ sung lao động sản xuất, đề bạt và tuyển mới lao động quản lý với 1 số lượng khá lớn nhằm phục vụ cho yêu cầu mở rộng sản xuất. Số lao động tuyển mới được công ty lấy từ các trường Đại học, Cao đẳng, dạy nghề, lao động phổ thông. Công ty cũng cử người đi học nhằm nâng cao trình độ, đáp ứng nhu cầu của công ty cũng như của thị trường. Số liệu cụ thể cho ở bảng sau: Số TT Nội dung Số lượng (người) Tỷ trọng (%) 1 Đào tạo mới LĐSX 46 20.35 2 Đào tạo bổ sung 175 77.43 3 Đề bạt LĐQL 3 1.3 4 Tuyển mới LĐQL 2 0.92 Tổng số 226 100 Trong năm 2002, công ty dự kiến tuyển dụng thêm 5 lao động có trình độ Đại học và Cao đẳng, 22 lao động phổ thông. Bên cạnh nhu cầu tăng lao động thì khả năng sẽ giảm 15 lao động đến tuổi nghỉ hưu. Dự kiến trong quý 1 năm 2002 không có lao động nào phải nghỉ việc. Lượng lao động của Công ty được bố trí như sau: Số TT Tên phòng ban, phân xưởng Số lượng (người) 1 Giám đốc 1 2 Phó giám đốc 3 3 Phòng kỹ thuật 25 4 Phòng kế hoạch thị trường 17 5 Phòng kế toán 8 6 Phòng tổ chức bảo vệ 16 7 Phòng hành chính 7 8 PX tẩy nhuộm 138 9 PX dệt thoi 194 10 PX dệt kim 168 11 PX hoàn thành 420 12 Tổ cơ điện 20 Tổng số 1018 5. Kết quả sản xuất kinh doanh của công ty trong những năm gần đây. Trong các năm 1999 – 2000, do thị trường truyền thống Nhật Bản cũng như thị trường thế giới gặp khó khăn đã làm cho tình hình sản xuất kinh doanh của công ty gặp nhiều biến động. Cùng với đó, công ty cũng gặp phải lúng túng do bỡ ngỡ trước cơ chế thị trường, thị trường Đông Âu bị co lại… Nội địa bị cạnh tranh khốc liệt bởi các công ty trong ngành và sản phẩm của Trung Quốc. Vốn lưu động hạn chế, vốn đầu tư hầu như không có, phần lớn phải đỉ vay cho nên giá thành sản phẩm cao. Giá vật tư thay đổi, việc nhập khẩu nguyên vật liệu gặp nhiều khó khăn… sản phẩm làm ra chưa đạt như mong muốn. Với kinh nghiệm 30 năm trưởng thành và phát triển, tập thể cán bộ công nhân viên chức công ty đã đoàn kết gắn bó vượt qua khó khăn để lại hiệu quả tốt (cho dù còn nhiều điều chưa vừa ý). Để hiểu rõ hơn tình hình, ta sẽ xem xét bảng số liệu “Kết quả sản xuất kinh doanh của công ty trong hai năm 1999 – 2000”. Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh năm 2000. Đơn vị: đồng Số TT Nội dung Giá trị 1 Doanh thu 64.703.963.619 Doanh thu do hoạt động bất thường 426.967.020 Doanh thu do hoạt động sản xuất kinh doanh 64.277.001.599 Doanh thu xuất khẩu 43.825.757.711 (= 3.281.902,21 USD) Doanh thu nội địa 10.451.243.888 Sản phẩm bán trong nước 8.703.761.391 Gia công hàng hóa 1.159.913.785 Uỷ tác xuất nhập khẩu 3.796.040 Kinh doanh vật tư 583.772.632 2 Thuế doanh thu 419.368.558 3 Giá vốn hàng bán 47.500.182.078 4 Chi phí bán hàng 2.291.438.084 5 Chi phí quản lý doanh nghiệp 2.894.405.646 6 Lợi tức 1.319.832.358 7 Thuế phả nộp 461.888.824 8 Lợi tức sau thuế 857.943.534 Thu sử dụng vốn 579.630.000 Trích lập các quĩ công ty 278.313.534 Quĩ đầu tư phát triển 139.156.677 Quĩ dự phòng tài chính 6.957.833 Quĩ khen thưởng 78.855.452 Quĩ phúc lợi 39.427.725 9 Nghĩa vụ đối với Nhà nước Thuế doanh thu 400.000.000 Thuế lợi tức 515.590.276 Thuế môn bài 850.000 Thuế sử dụng vốn 580.000.000 Thuế đất 14.177.800 Thuế đất, nhà xưởng 180.959.000 Thuế xuất khẩu 35.820.721 BHXH phải nộp 660.000.000 Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh năm 2001 Đơn vị: đồng. Số TT Nội dung Giá trị 1 Doanh thu 70.960.860.851 2 Thuế VAT 747.963.144 3 Doanh thu thuần 69.803.874.576 Doanh thu xuất khẩu 56.491.349.028 (= 4.054.096.934 USD) Doanh thu nội ịa 9.312.525.548 Sản phẩm bán trong nước 8.610.809.104 Gia công hàng hóa 507.803.113 Uỷ tác xuất nhập khẩu 7.310.056 Kinh tế vật tư + Thanh lý tài sản 189.603.275 4 Giá vốn hàng bán 55.860.104.919 5 Chi phí bán hàng 3.640.065.781 6 Chi phí quản lý doanh nghiệp 1.451.511.328 7 Thu nhập doanh nghiệp 391.750.222 Lãi do hoạt động tài chính 417.302.005 Chênh lệch USD 25.551.783 Lãi thu được từ ngân hàng 1.438.349.609 Lãi thu được do hoạt động sản xuất kinh doanh 189.603.275 Lãi thu được do hoạt động bất thường 156.180.546 Thu về thanh lý tài sản 33.422.729 Thu về thuê nhà xưởng 215.308.656 Lãi thu được do hoạt động bất thường khác 464.483.621 8 Thuế thu nhập phải nộp 987.027.697 9 Thu nhập sau thuế 581.268.000 Thu sử dụng vốn 405.759.697 Trích lập các quĩ công ty 202.879.848 Quĩ đầu tư phát triển 20.287.984 Quĩ dự phòng tài chính 10.143.992 Quĩ trợ cấp thất nghiệp 114.965.249 Quĩ khen thưởng 57.482.624 Quĩ phúc lợi 10 Nghĩa vụ đối với nhà nước 108.770.816 Thuế doanh thu 544.944.148 Thuế thu nhập 850.000 Thuế môn bài 577.130.000 Thu sử dụng vốn 17.710.000 Thuế đất 199.890.750 Thuê đất, nhà xưởng 31.733.023 Thuế xuất khẩu 720.000.000 BHXH phải nộp Theo 2 bảng to có thể thấy rằng, trong 2 năm 2000 – 2001, trong doanh thu của công ty tăng hơn 7 tỷ đồng nhưng thu nhập lại chỉ tăng có hơn 200 triệu đồng. Dù con số chưa phải là lớn, nhưng ta phải hiểu rằng trong thời kỳ này, thị trường chính gặp khó khăn nhưng công ty cũng đã cố gắng vượt qua được, điều đó thể hiện nỗ lực không ngừng của công ty. Trong tương lai, công ty phấn đấu hoàn thành tốt hơn nữa nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của mình để phục vụ sự nghiệp phát triển chung của đất nước. 6. Phương hướng nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của công ty hiện nay và các năm tiếp theo. Trong hơn 30 năm, công ty đã chế thử hơn 300 mẫu sản phẩm và đưa vào sản xuất khoảng 100 mẫu được khách hàng chấp nhận. Công tác KHKT được đặt biệt chú ý và được coi là biện pháp hàng đầu để thúc đẩy sản xuất phát triển. Là một doanh nghiệp sản xuất có khối lượng sản phẩm xuất khẩu ra thị trường nước ngoài rất lớn (khoảng 90% tổng khối lượng, trong đó thị trường truyền thống Nhật Bản chiếm 85%), Công ty dệt Minh Khai cũng đã đề ra cho mình một số phương hướng hoạt động sản xuất kinh doanh mang tính chiến lược lâu dài như sau: - Tiếp tục duy trì sản phẩm truyền thống là khă ăn để xuất khẩu sang Nhật, đây là thị trường chủ đạo để phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh. - Trên cơ sở duy trì thị trường truyền thống, công ty sẽ phát triển một số sản xuất khăn cao cấp dùng bán trong các siêu thị tại Nhật, khăn bán tịa các shop đồ hiệu, khăn ăn cho khách sạn, áo choàng tắm bông cao cấp… - Trước đây công ty chưa chú ý đến việc phát triển thị trường trong nước, đa số sản phẩm bán ra thị trường trong nước là những sản phẩm chưa đủ tiêu chuẩn xuất khẩu. Vì vậy, trong tương lai gần, công ty sẽ tiến hành thiết kế một số sản phẩm theo mùa vụ và sản phẩm phù hợp với điều kiện của Việt Nam để tung ra bán rộng rãi. - Công ty cũng có hướng tiến hành mở trang WEB riêng để quảng cáo rộng rãi sản phẩm trên mạng INTERNET nhằm nâng cao uy tín và mở rộng thị trường. - Trong tương lai, công ty sẽ tiến hành thâm nhập và mở rộng thị phần của mình sang thị trường Âu, Mỹ rộng lớn, đây là thị trường giàu tiềm năng nhưng hiện nay lượng sản phẩm xuất khẩu sang đó lại rất ít (khoảng 5% tổng sản lượng). - Hiện nay, công ty chưa có một đại lý chính thức nào ở trong nước cũng như ngoài nước. Do vậy, công ty có hướng sẽ mở một số đại lý chính thức giới thiệu và bán sản phẩm tại hai thị trường này. - Công ty cũng sẽ đầu tư thực hiện một số dự án nhằm cải tiến dây chuyển công nghệ, nâng cao chất lượng chủng loại sản phẩm… Đó cũng là những hướng đi đúng đắn, tích cực của một doanh nghiệp năng động đang trên đà phát triển. Với tình hình như hiện nay của công ty, chắc chắn việc phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh là rất cần thiết và sẽ đạt hiệu quả cao. iii. phân tích thực trạng công tác trả lương ở Công ty. 1. Phân tích thực trạng quỹ tiền lương Công ty dệt Minh Khai. Hàng năm bộ phận làm lương thuộc phòng tổ chức lao động sẽ tiến hành xây dựng quỹ tiền lương năm kế hoạch cho công ty theo phương pháp sau: ồQTLKH = ồTLKH CNSX + ồTLKHQL + Trong đó: ồQTLKH: là tổng quỹ lương kế hoạch. ồTLKH CNSX = TLMINDN x HCB CNSX x CNSX x 12 tháng (1) Trong đó: ồTLKH CNSX: là tổng tiền lương kế hoạch của CNSX. TLMINDN: mức lương tối thiểu của doanh nghiệp lựa chọn. HCB CNSX: Hệ số lương cấp bậc công việc bình quân của CNSX. CNSX: Số công nhân sản xuất. ồTLKH QL: = TLMINDN x HCBQL x TQL x 12 tháng (2) Trong đó: ồTLKH QL: Là tổng tiền lương kế hoạch của quản lý. HCBQL : Hệ số lương cấp bậc công việc bình quân của LĐQL. TQL : Số lao động quản lý. ồTpc: Là tổng tiền phụ cấp lương được tính trong đơn giá (3) Các khoản phụ cấp lương bình quân được tính trong đơn giá tiền lương, gồm có: - Trách nhiệm - Độc hại - Ca 3 - Nâng cấp bậc - Từ công thức (1), (2) và (3) ta xác định được tổng quỹ lương năm Kế hoạch của công ty. Lương tối thiểu của doanh nghiệp lựa chọn trong khung qui định: TLmin: mức lương tối thiểu chung do Nhà nước qui định (theo Nghị định 280) cũng là giới hạn dưới của khung lương tối thiểu là 210.000 đồng/tháng. TLminđc: Tiền lương tối thiểu điều chỉnh tối đa của doanh nghiệp được phép áp dụng cũng là giới hạn trên của khung lương tối thiểu của doanh nghiệp: TLminđc = TLmin x (1 + Kđc) (trong đó K1(vùng) = 0,3; K2 (ngành) = 1) = 21.000 x (1 + 1,3) = 483.000 đồng/tháng. Khung lương tối thiểu của doanh nghiệp là 210.000 đến 483.000 đồng/tháng. - Mức lương tối thiểu của doanh nghiệp lựa chọn là: 210.000đồng. - Hệ số lương cấp bậc công việc bình quân của CNSX là: 2,34 - Hệ số lương cấp bậc công việc bình quân của lao động quản lý là bậc 4 ngạch 03 bảng lương viên chức thừa hành trong các doanh nghiệp. Bảng tổng quỹ một số năm như sau: Sau khi xây dựng được quỹ tiền lương năm kế hoạch, cán bộ phòng tổ chức lao động sẽ lên Bộ Lao động – Thương binh xã hội để duyệt quỹ lương đó. Hiện nay, Công ty dệt Minh Khai khoán quỹ lương xuống các phân xưởng dựa trên số lượng sản phẩm nhập kho của các phân xưởng và đơn giá sản phẩm do công ty xây dựng (phòng kỹ thuật kết hợp với phòng tổ chức – lao động) trên cơ sở tiến hành định mức lao động ở từng phân xưởng, tính toán mức tiền lương ở phân xưởng (bao gồm tiền lương của CNSX, CPV, cán bộ quản lý….) và hệ số phụ cấp như: phụ cấp làm ca đêm, độc hại, trách nhiệm… Vào thời điểm cuối năm phòng tài vụ tiến hành thống kê tất cả các khoản chi phí tiền lương trong năm và lập báo cáo về tổng quỹ lương thực hiện. Tổng quỹ lương của Công ty được thể hiện cụ thể qua bảng số liệu sau: Chỉ tiêu Đơn vị Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 KH TH KH TH KH TH Tổng doanh thu Tỷ đ 58 64,532 66,5 69,955 68,32 72,55 Tổng quỹ lương Tỷ đ 9,981 11,099 11,97 11,97 12,73 12,762 Qua bảng số liệu trên ta thấy tổng quỹ lương thực hiện ở một số năm nhìn chung là xấp xỉ tổng quĩ lương theo kế hoạch và có xu hướng tăng lên do tổng doanh thu thực hiện cũng tăng lên so với tổng doanh thu theo kế hoch. Công ty dệt Minh Khai luôn luôn đảm bảo tổng quỹ lương chiếm khoảng từ 15 đến 18% tổng doanh thu của công ty. 2. Các hình thức trả lương hiện nay ở Công ty dệt Minh Khai. Hiện nay, Công ty dệt Minh Khai đang áp dụng trả lương theo Nghị định 25, 26CP của Chính phủ. Nói chung công tác trả lương của công ty đã thực hiện được nguyên tắc phân phối theo lao động, điều đó đã đảm bảo được đời sống của cán bộ, công nhân viên hiện nay. Công tác trả lương đều dựa trên tính chất từng công đoạn sản xuất cụ thể nhưng còn có sự chênh lớn giữa lương của bộ phân gián tiếp và lương của bộ phận trực tiếp. Công ty áp dụng 2 hình thức trả lương sau: - Hình thức trả lương theo sản phẩm. - Hình thức trả lương theo thời gian. 2.1. Hình thức theo trả lương sản phẩm. Công ty dệt Minh Khai là đơn vị sản xuất kinh doanh, do vậy tiền lương trả cho người lao động phụ thuộc rất lớn vào số lượng sản phẩm sản xuất ra của công ty có tiêu thụ được hay không. Nhưng công nhân trực tiếp sản xuất ra sản phẩm cho công ty theo dây truyền sản xuất phải đảm bảo yêu cầu về mặt kỹ thuật chất lượng, giá thành thấp. Tiền lương của công nhân làm sản phẩm phụ thuộc vào đơn giá từng loại sản phẩm và khối lượng sản phẩm sản xuất ra được thị trường chấp nhận (đó là những sản phẩm sản xuất ra đúng quy cách chất lượng đã được KCS của công ty kiểm định). ở công ty hiện nay, có hai chế độ trả lương theo sản phẩm : - Chế độ trả lương sản phẩm tập thể. - Chế độ trả lương khoán theo sản phẩm. 2.1.1. Trả lương theo sản phẩm tập thể. Hình thức này được áp dụng ở phân xưởng tẩy nhuộm bởi vì công việc ở đây mang tính chất làm việc tập thể và công việc này một người khó có thể hoàn thành được. Phương pháp tính lương của hình thức này như sau. - Tính tiền lương của tổ được lĩnh. L1 = ĐG x Q1. Trong đó: L1: Tổng số tiền lương thực tế tổ nhận được. Q1: Sản lượng thực tế tổ đã hoàn thành nhập kho. ĐG: đơn giá tiền lương 1kg sản phẩm. - Tính đơn giá tiền lương 1kg sản phẩm trả cho tổ: Trong đó: Lcb: tiền lương cấp bậc của công nhân i. n: Số công nhân trong tổ. Q0: Mức sản lượng của cả tổ. Phòng kỹ thuật tiến hành định mức sản lươợng cho tổ trên cơ sở sử dụng phương pháp thống kê kinh nghiệp kết hợp với chụp ảnh và bấm giờ. Từ tổng số tiền lương của cả tổ, bộ phận làm lương tiến hành chia lương cho từng người công nhân trong tổ bằng phương pháp điểm như sau: - Tính tiền lương cho 1 điểm. Trong đó: l1: Tiền lương cho 1 điểm. D: Tổng điểm thực tế trong tháng của tổ. - Tính lương cho từng công nhân: l = l1 x d. Trong đó: l: tiền lương của một công nhân. d: số điểm của mỗi công nhân. - Phương pháp cho điểm được tiến hành như sau: Mỗi công nhân làm được 1000kg sẽ được 10 điểm. Ví dụ: Có Bảng điểm tháng 12 năm 2000 của tổ nấu tẩy 1 và có tiền lượng 1 điểm là 15030 đồng/điểm. Bảng điểm tháng 12 năm 2000 (tổ nấu tẩy 1). TT Tên Điểm 1 Dũng 880 2 Mạnh 360 3 Trọng 330 4 Anh Tuấn 563 5 Bình 380 6 Hùng 573 7 Toàn 370 8 Anh 830 9 Thông 370 10 Châu 413 11 Thể 343 12 Phạm Hùng 323 13 Đại 50 14 Thanh 526 15 Tuấn 343 16 Minh Tuấn 323 17 Tiến 583 18 Độ 830 19 Đào 390 20 Thái 360 Tổng 9140 Như vậy tiền lương thực một người được lĩnh là: VD: Anh Nguyễn Bá Châu. 1530đ x 413 = 631890. Nhận xét: Hình thức trả lương này quán triệt đầy đủ hơn nguyên tắc trả theo số lượng, chất lượng lao động. Hình thức này có tác dụng nâng cao ý thức trách nhiệm, tinh thần hợp tác và phối hợp có hiệu quả giữa các công nhân làm việc trong tổ. Nhưng bên cạnh đó hình thức này cũng có hạn chế khuyến khích tăng năng suất lao động cá nhân, vì tiền lương phụ thuộc vào kết quả làm việc chung của cả tổ, chứ không trực tiếp phụ thuộc vào kết quả làm việc của bản thân họ. Mặt khác phương pháp cho điểm nhưng hợp lý và chính xác, chưa phản ánh được trình độ chuyên môn kỹ thuật của mỗi người. 2.1.2. Trả lương khoán theo sản phẩm. Hình thức trả lương khoán theo sản phẩm được dùng để trả cho những công nhân làm việc ở những công đoạn tương đối độc lập và tính riêng được sản phẩm cho từng người như dệt, may, cắt… Đơn giá sản phẩm có thể tính theo đơn vị công việc cần hoàn thành hoặc có thể tính theo khối lượng công việc. Tiền lương sẽ được trả theo số lượng sản phẩm mà người công nhân hoàn thành ghi ở phiếu sản phẩm cá nhân, tập thể. Phương pháp tính lương của hình thức này như sau: Công ty căn cứ vào số lượng sản phẩm hoàn thành nhập kho của mỗi phân xưởng để tính toán quỹ lương về phân xưởng. L1 = ĐG x Q1. Trong đó: L1: là tổng tiền lương của phân xưởng. Q1: Số lượng thực tế phân xưởng làm được nhập kho. ĐG: Đơn giá lương tính theo sản phẩm cuối cùng của phân xưởng. Đơn giá lương tính theo sản phẩm cuối cùng của phân xưởng mà Công ty trả có tính đến cả chất lượng sản phẩm hoàn thành. - Đối với sản phẩm đạt tiêu chuẩn loại 1 bằng 100%. - Đối với sản phẩm đạt tiêu chuẩn loại 2 bằng 50% loại 1 - Đối với sản phẩm đạt loại 3, 4 không trả. Sau khi phân xưởng có tổng quỹ lương thì tiến hành tính toán tiền lương, cho từng công nhân trong phân xưởng dựa trên đơn giá khoán cho các sản phẩm ở từng công đoạn và số lượng sản phẩm mà người công nhân hoàn thành ghi ở phiếu sản phẩm cá nhân. Chẳng hạn cách tính toán lương ở phân xưởng dệt thoi như sau: Tại phân xưởng dệt thoi sợi đã được xử lý (hoặc chưa xử lý) được phân thành 2 loại sợi dọc và sợi ngang tuỳ theo yêu cầu của mặt hàng. Sợi ngang được chuyển sang máy đánh suốt. Sợi dọc được chuyển sang máy mắc tạo thành trục mắc trước khi đưa vào máy hồ dồn (tăng cường lực cho sợi) tạo thành trục dệt. Trục dệt và suốt ngang được đưa vào máy dệt thoi, dệt thành khăn thành phẩm. Phân xưởng dệt thoi dệt một số loại khăn như khăn mặt, khăn tắm, khăn ăn… ứng với mỗi loại khăn sẽ có một đơn giá cụ thể do công ty xây dựng (phòng tổ chức lao động xây dựng đơn giá cho các loại khăn, nhằm để tính toán tiền lương ở phân xưởng sau khi có được số lương sản phẩm mà phân xưởng hoàn thành nhập kho). Để có được 1 sản phẩm khăn thì phải trải qua các công đoạn sau: đánh suốt, mắc sợi, hồ dồn, và cuối cùng là dệt. - Phương pháp tính đơn giá tiền lương của một khăn dệt như sau: ĐGKd = ĐGd + ĐGđs + ĐGms + ĐGhd + ĐGpv + ĐGql Trong đó: ĐGKd: Đơn giá tiền lương của một khăn dệt. ĐGd: Đơn giá tiền lương ở công đoạn dệt (tức là người công nhân cứ dệt được 1 khăn thì dược đơn giá là ĐGd). ĐGđs: Đơn giá lương của công nhân ở công đoạn đánh suốt. ĐGms: Đơn giá lương của công nhân ở công đoạn mắc sợi ĐGhd: Đơn giá lương của công nhân ở công đoạn hồ dồn. ĐGpv: Đơn giá lương của công nhân phục vụ. ĐGql: Đơn giá lương của lao động quản lý. ỉ Tính đơn giá tiền lương ở công đoạn dệt: + Để có thẻ xác định được đơn giá thì phòng tổ chức kết hợp với phòng kỹ thuật xây dựng định mức sản lượng như sau: Q0 = 480’ x T ĐMm x H x SKK x SK1K (*) Sn Trong đó: Q0: Định mức sản lượng của công nhân ở công đoạn dệt khăn. T: Tốc độ máy (tức là số vòng quay của con thoi trên 1 phút). ở đây người ta lấy tốc độ máy trung bình là 165 V/P. Cứ một vòng quay của con thoi sẽ đan được một sợi ngang, vậy 165V/P là đan được 165 sợi ngang trên phút. Sn: Số sợi ngang khăn được dệt bởi sợi dọc (trục dệt) và sợi ngang (suốt ngang) đan nhau. ĐMm: định mức máy (tức số máy qui định một công nhân phải phục vụ). H: Hiệu suất máy (%). SKK: Số khổ khăn của 1 khổ rộng máy. SK1K: Số khăn của 1 khổ khăn. 480’: tức là thời gian làm việc trong ca. + Tính đơn giá tiền lương ở công đoạn dệt. ĐGd = TLcbcv + Pc Q0 Trong đó: TLcbcv: tiền lương cấp bậc công việc. Pc: tiền phụ cấp lương. ỉ Tính đơn giá tiền lương của công nhân ở công đoạn đánh suốt, măc sợi, hồ dồn: + Định mức sản lượng ở các công đoạn như sau. Phòng kỹ thuật kết hợp với phòng tổ chức xây dựng mức sản lượng bằng phương pháp thống kê kinh nghiệm, kết hợp với phương pháp chụp ảnh bấm giờ. + Tính đơn giá tiền lương ở các công đoạn đánh suốt, mắc sợi, hồ dồn. ĐGi = TLcbcvi + Pci Q0i Trong đó: ĐGi: Đơn giá tiền lương ở công đoạn i. TLcbcvi: Tiền lương cấp bậc công việc ở công đoạn i. Pci: Tiền phụ cấp lương ở công đoạn i. Qoi: Mức sản lượng của công nhân ở công đoạn i. ỉ Tính đơn giá tiền lương của công nhân phục vụ và lao động quản lý. Phòng tổ chức căn cứ vào số lượng công nhân phục vụ và lao động quản lý ở phân xưởng và mức tiền lương của mỗi người để xác định đơn giá tiền lương của họ trong mỗi sản phẩm được sản xuất ra bởi công nhân chính. Thường được xác định nư sau: ĐGpv = 14% ĐGd ĐGql = 2,8% ĐGd ở các công đoạn khác nhau thì đơn giá tiền lương có đơnvị khác nhau, như công đoạn dệt đơn vị là đồng/1 khăn, còn ở công đánh suốt, mắc sợi, hồ dồn đơn vị tính là đồng/1kg… Vì vậy khi xác định đơn giá tiền lương của một khăn dệt phải tiến hành qui chuẩn. - Tính tổng số tiền lương mà phân xưởng dệt thoi được lĩnh: L1 = ĐGKd x Q1. Trong đó: L1: Tổng số tiền lương mà phân xưởng dệt thoi được lĩnh. Q1: Số lượng khăn dệt mà phân xưởng thực tế làm được nhập kho. ĐGKd: Đơn giá tiền lương của một khăn dệt mà Công ty trả. - Phương pháp tính lương cho công nhân của phân xưởng: Phân xưởng tính lương cho công nhân hoàn toàn dựa vào định mức sản lượng của từng công đoạn do phòng kỹ thuật và phòng tổ chức sản xuất. ở công đoạn dệt, phòng tổ chức dựa trên bản báo cáo thiết kế vè các loại máy của phòng kỹ thuật để xác định mức sản lượng cụ thể cho công nhân ở các loại máy đó và đối với các loại sản phẩm khác nhau thì mức sản lượng cũng khác nhau. Phương pháp định mức như công thứ (*). ở các công đoạn khác như đánh suốt, mắc sợi, hồ dồn cũng được định mức theo các loại máy khác nhau bằng phương pháp thống kê kết hợp với chụp ảnh bấm gì. + Phân xưởng xác định đơn giá khoán cho từng loại sản phẩm ở công đoạn dệt: ĐGKhdi = TLcbcv Qospi Trong đó: ĐGKhdi: đơn gián khoán cho sản phẩm i. Q0spi: định mức sản lượng cho sản phẩm i. + Đơn giá khoán cho từng loại máy móc ở các công đoạn đánh suốt, mắc sợi, hồ dồn. ĐGKhij = TLcbcvi Q0ij Trong đó: ĐGkhij: Đơn giá khoán cho loại máy j ở công đoạn i. TLcbcvi: Tiền lương cấp bậc công việc ở công đoạn i. Qoij: Định mức sản lượng loại máy j ở công đoạn i. Ví dụ: Bảng đơn giá khoán cho công nhân ở công đoạn dệt như sau: Tên SP ĐG loại 1 ĐG loại 2 ĐG bd loại 1 ĐG bd loại 2 HS công nhân HS bd HS đêm ( (ca 3) 1954 29.912 9.97 6.248 2.08 1 1 1 262wcm 31 11.66 6.213 2.071 1.1 1 1.2 262yc 50 19 7.14 3.5 1 1 1 28.55td 110 55 15 5 1 1 1 300gyc 31.108 10.369 4.873 1.624 1 0.9 1 300tk 29.56 9.853 4.646 1.549 1 0.9 1.2 300tkm 25.56 9.853 4.646 1.549 1.1 0.9 1.2 300to 27.101 9.033 3.489 1.163 1 1 1 300to2m 25 8.4 4.2 1.4 1 0.9 1 34.90 185 64.67 23.067 7.687 1 1 1 375wcl 54.935 18.31 7.075 2.358 1 1 1 375tr 44.719 14.9 5.759 1.191 1 1 1 + Tính lương cho công nhân chính: l1 = ĐGK x q1 + Pc Trong đó: l1: Tiền lương của 1 công nhân. ĐGK: đơn gián khoán sản phẩm. q1: Số lượng sản phẩm mà công nhân đó thực tế hoàn thành. Pc: tiền phụ cấp lương của công nhân chính. + Công nhân phục vụ bao gồm có công nhân bảo dưỡng, công nhân vận chuyển sợi,… ỉ Đối với công nhân bảo dưỡng thì được tính lương như sau: + Tính đơn giá tiền lương khoán cho mỗi công nhân bảo dưỡng ĐG = L0 M x Q0 Trong đó: ĐG: Đơn giá tiền lương của công nhân bảo dưỡng. L0: Lương cấp bậc công việc. M: Định mức phục vụ của công nhân bảo dưỡng. Q0: Định mức sản lượng của 1 CN chính. ở đây M và Q0 đều do phòng kỹ thuật xây dựng, M được xác định bằng phương pháp thống kê kinh nghiệm kết hợp với phương pháp chụp ảnh bấm giờ. + Tính tiền lương thực tế: L1 = ĐG x Q1 + Pc Trong đó: L1: Tiền lương thực tế của công nhân bảo dưỡng. ĐG: Đơn giá tiền lương bảo dưỡng. Q1: Mức hoàn thành thực tế của công nhân chính. Pc: Tiền phụ cấp lương của công nhân bảo dưỡng. ỉ Đối với công nhân vận chuyển (như vận chuyển sợi, suốt ngang, trục dệt…) thì lương được tính như sau: + Phân xưởng dựa vào định mức lao động của phòng kỹ thuật cho nhóm công nhân vận chuyển để tính đơn giá tiền lương cho nhóm công nhân vận chuyển. + Tính tổng tiền lương của nhóm công nhân vận chuyển: Đơn giá tiền lương của nhóm cnvc x sản lượng thực tế nhóm vận chuyển được. + Nhóm tiến hành chia lương cho cá nhân bằng phương pháp bình bầu A, B, C (dựa vào số ngày công, tính trách nhiệm trong công việc…). Đối với lao động quản lý ở PX được trả lương theo cấp bậc công nhân và thời gian trực tiếp làm việc. Nhưng số tiền này dùng để trả cho lao động quản lý là lấy từ 2,8% ĐG do Công ty trả cho PX khi PX hoàn thành một đơn vị sản phẩm. Sau khi tính toán tiền lương cho toàn bộ công nhân trong PX nếu số tiền trả lương đó lớn hơn tổng quản lý của PX thì PX tiến hành điều chỉnh tiền lương của công nhân bằng cách bằng cách nhân với hệ số nhỏ hơn 1 (tuỳ theo mức độ thâm hụt). Nếu số tiền phải trả lương nhỏ lương nhỏ hơn tổng lương thì PX cũng tiến hành điều chỉnh bằng cách nhân với hệ số lớn hơn 1 để cân đối giữa tiền lương trả công nhân và Tổng quỹ lương. Nhận xét: Ta thấy chế độ trả lương khoán sản phẩm này thúc đẩy công nhân không những phấn đấu hoàn thành công việc nhanh chóng mà còn phấn đấu vượt mức sản lượng giúp công ty hoàn thành tốt kế hoạch sản xuất của công ty giao cho. Bên cạnh đó trả lương khoán sản phẩm với việc xác định đơn giá phức tạp, dễ phát sinh hiện tượng làm ẩu, làm tắt... Hình thức trả lương này đòi hỏi phải có kế hoạch sản xuất ổn định, cung cấp đầy đủ, kịp thời nguyên vật liệu, công cụ, phương tiện sản xuất. 2.2. Hình thức trả lương theo thời gian. Hiện nay công ty vẫn áp dụng hình thức trả lương theo thời gian cho một số đối tượng như: - Cán bộ quản lý. - Những người lao động đang trong thời gian đi công tác hoặc nghỉ phép. - Những công nhân làm những công việc không định mức được. Tiền lương mà công ty trả cho những người hưởng thời gian phụ thuộc vào ngày công thực tế làm việc và hệ số cấp bậc mà người công nhân đó đạt. Trong đó: Ltt: Tiền lương thực tế mà người lao động nhận được. TLmindn: Mức lương tối thiểu mà doanh nghiệp lựa chọn (hiện nay công ty dệt Minh Khai vẫn lựa chọn mức lương tối thiểu là 180.000 đồng). K: hệ số cấp bậc mà người công nhân đảm nhiệm. Tcđ: Ngày công quy định (26 ngày) Ttt: Ngày công thực tế mà người công nhân đi làm. C: Tiền lương cân đối lại (do Giám đốc cân nhắc tuỳ từng công việc mà cán bộ công nhân viên đảm nhiệm) Tổng số tiền mà Giám đốc dùng để cân đối lại tiền lương cho cán bộ công nhân viên (nếugọi là Tc) được hình thành trên cơ sở khi tổng doanh thu thực hiện lớn hơn tổng số doanh thu theo kế hoạch. Lúc đó tổng quỹ lương dùng để trả cho lao động toàn công ty sẽ tăng lên so với quỹ lương kế hoạch (bởi vì công ty luôn luôn đảm bảo quỹ tiền lương chiếm khoảng từ 15 đến 18% tổng doanh thu). Chính vì vậy TC bao gồm phần quỹ lương tăng thêm cộng với số tiền còn dư thừa khi công ty chưa trả hết theo kế hoạch. Sau khi có được Tc giám đốc tiến hành xem xét, đánh giá từng công việc mà cán bộ công nhân viên đảm nhiệm về một số mặt như: trách nhiệm của người cán bộ, nhân viên đó công việc, với công ty, tính hiệu quả của công việc mà cán bộ công nhân viên đảm nhiệm... Mục đích của việc cân đối lại tiền lương cho cán bộ công nhân là nhằm đảm bảo đời sống cho họ, khuyến khích để họ yên tâm, tận tụy trong công việc hơn làm cho họ cảm thấy cảm thấy mức lương đó là thoả đáng đúng với năng lực của mình. VD: Để tính tiền lương theo thời gian của anh Nguyễn Văn Phú phòng tổ chức – lao động là chuyên viên 5/8. Tổng thời gian đi làm trong tháng là 27 công và ngày nghỉ phép, lễ là 2 ngày. Ta sẽ có: đồng Riêng đối với ngày nghỉ phép và nghỉ lễ cũng được tính như trên. Do vậy lương của những ngày nghỉ phép, lễ là: đồng Vậy tiền lương của anh Nguyễn Văn Phú là 880.107 đồng. ở đây tiền lương cân đối lại (do Giám đốc cân nhắc) là 330.000 đồng. Công ty Dệt Minh Khai hiện nay thực hiện thanh toán tiền lương cho người lao động làm 2 kỳ: Kỳ 2: Tạm ứng vào ngày 25 hàng tháng các phòng ban, PX lập bảng lương gửi lên phòng tài vụ. Căn cứ vào ngày công thực tế họ đi làm tiền tạm ứng được chia làm 3 mức: 300.000đ, 200.000đ, 150.000đ. Kỳ 2: là số tiền thanh toán vào ngày 15 hàng tháng. Đây là phần tiền lương còn lại sau khi đã trừ phần tạm ứng và các khoản bảo hiểm phải khấu trừ theo quy định. Nhận xét: Hình thức trả lương theo thời gian đã khuyến khích người lao động đi làm đầy đủ ngày công trong tháng, khuyến khích nâng cao trình độ chuyên môn để được nâng bậc lương trước thời hạn. Mặt khác việc trả lương cho Giám đốc, phó giám đốc, quản đốc, phó quản đốc, các trưởng phòng... đã gắn chặt với hiệu quả sản xuất kinh doanh của công ty. Điều này là hợp lý đối với một công ty làm ăn trong cơ chế thị trường hiện nay. Bên cạnh đó, do cách trả lương cho người lao động trong mỗi phòng ban chỉ căn cứ vào hệ số lương và ngày công thực tế làm việc, cho nên tiền lương của mỗi người nhận được chưa gắn với kết quả lao động và chất lượng công việc. Phần iii một số ý kiến nhằm hoàn thiện các hình thức trả lương tại công ty dệt minh khai Trong nền kinh tế thị trường hiện nay mỗi một doanh nghiệp muốn đứng vững và phát triển thì không còn con đường nào khác là luôn luôn phải tìm cách cải tiến, đổi mới từng mặt và toàn diện hoạt động sản suất kinh doanh của mình nhằm loại bỏ những yếu tố bất hợp lý kìm hãm sự phát triển và phát huy tối đa những yếu tố tích cực. Tiền lương là một công cụ hết sức quan trọng quyết định ý thức và hiệu quả làm việc của mỗi người, quyết định hoạt động sản xuất của doanh nghiệp. Hoàn thiện các hình thức và phương pháp trả lương là một yêu cầukhông thể thiếu trong điều kiện hiện nay của mỗi một doanh nghiệp hoạt đọng theo cơ chế thị trường. Qua nghiên cứu và phân tích thực trạng trả lương ở công ty dệt Minh Khai tôi xin đưa ra một số ý kiến sau: I. Hoàn thiện các điều kiện trả lương theo sản phẩm. Hoàn thiện công tác định mức lao động. Định mức lao động giữ vai trò rất quan trọng trong hình thức trả lương theo sản phẩm, nó không những là cơ sở để tổ chức lao động khoa học mà còn là cơ sở để tính đơn giá một cách chính xác. Muốn hoàn thiện công tác trả lương theo sản phẩm trước hết phải hoàn thiện công tác định mức. Hoàn thiện công tác định mức bao gồm hai nhiệm vụ chủ yếu đó là nâng cao trình đọ và sự hiêủ biếtcho những cán bộ làm công tác định mức và phải xác định được phương pháp xây dựng định mức phù hợp. Nâng cao trình độ cho cán bộ làm công tác định mức lao động. Các mức lao động được xây dựng lên có chính xác, chặt chẽ và hợp lý hay không trước tiên phụ thuộc vào trình độ của những người xây dựng ra chúng. Người làm công tác định mức muốn xây dựng được các định mức lao động khoa học đòi hỏi phải cókiến thức, sự hiểu biết nhất định về mức lao động thông qua việc học tập và nghiên cứu. Có như thế thì làm công tác định mức ở các cơ sở sản xuất mới lựa chọn phương pháp xây dựng mức phù hợp với hoàn cảnh thực tế của đơn vị mình. Công tác định mức được tiến hànhkhông chỉ để làm cơ sở để tính đơn giá mà còn là cơ sở lập kế hoạch sản xuất của đơn vị. Tóm lại muốn có được mức lao động có chất lượng cao trước hết cần phải có đội ngũ cán bộ định mức nắm vững đựoc chuyên môn và kiến thứcvề mức lao động. ở công ty dệt Minh Khai hiện nay công tác định mức lao động do phòng kỹ thuật kết hợp với phòng tổ chức lao động đảm nhiệm. Nhìn chung các cán bộ làm công tác định mức đều qua đào tạo về các phương pháp khoa học xây dựng mức lao động. Nhưng để cho công tác định mức ngày càng phát triển, mức lao động được xây dựng ra càng chính xác và hợp lý, hàng năm công ty cần bồi dưỡng nâng cao trình độ cho những cán bộ náy, nhằm giúp họ có được những kiến thức khoa học, cập nhật về phương pháp định mức của các doanh nghiệp trên thế giới. Có thể bằng nhiều cách như cho cán bộ đi nâng cao trình độ,học hỏi kinh nghiệm ở doanh nghiệp trong nước và nước ngoài,tham gia vào các khoá học ngắn hạn dài hạn về tổ chức lao động . Phương pháp xây dựng định mức. Hiện nay các mức lao động ở công ty dệt Minh Khai được xây dựng chủ yếu dựa vào phương pháp thống kê kinh nghiệm, khảo sát thực tế - phân tích tính toán còn ít. Vì thế chưa xác định được mức sản lượng một cách chính xác, chưa đề ra được biện pháp nhằm hạn chế thới gian lãng phí để tăng thời gian tác nghiệp từ đó có thể tăng sản lượng. Để khắc phục nhược điểm này của công ty tỗi xin đưa ra một số ý kiến sau: Mức lao động phải được xây dựng dựa trên báo cáo thiết kế về máy móc thiết kế do phòng kỹ thuật cung cấp, cộng với việc sử dụng kết hợp giữa hai phương pháp khảo sát bấm giờ và chụp ảnh ngày làm việc. Thông qua quá trình bấm giờ cán bộ định mức có thể xác định được thời gian tác nghiệp sản phẩm, phát hiện được những nguyên nhân không hoàn thành mức do công nhân có những thao tác, động tác không hợp lý, do việc tổ chức phục vụ nơi làm việc chưa tốt đồng thời cũng tìm ra được những phương pháp làm việc tiên tiến để phổ biến rộng rãi cho công nhân. Qua công tác chụp ảnh thời gian làm việc giúp cán bộ định mứcphân tích được tình hình sử dụng thời gian làm việc trong ngày của công nhân, phát hiện ra thời gian lãng phí tìm ra được nguyên nhân và biện pháp loại trừ để tính thời gian tác nghiệp, thời gian phục vụ, thời gian nghỉ ngơi và nhu cầu cần thiết trong ngày. Chỉ khi kết hợp được kết quả của hai phương pháp này thì mức lao động mới thực sự chính xácvà đem lại kết quả cao. Người làm công tác định mức sau khi khảo sát thực tế nơi làm việc bằng phương pháp bấm giờ trực tiếp, quan sát nhiều lần cho mỗi bước công việc, quan sát các thao táccủa công nhân làm việc với nhịp độ trung bình phù hợp với chế độ làm việc của dây chuyền sẽ cho phép tìm ra được nguyên nhân gây lãng phí, hao phí thời gian làm việc, xác định được định mức trong ca một cách hợp lý . Sau đó cán bộ định mức lấy hao phí bình quân của các lần quan sát được làm mức hao phí cho từng công việc và tổng hợp lại được tổng hao phícho từng bước công việc và thời gian hao phí cho một đơn vị sản phẩm. Từ đó có được mức sản lượng trong một ngày sản xuất. Xây dựng hệ thống định mức có căn cứ khoa học để từ đó làm cơ sở xác định đơn giá sản phẩm chính xác là một điều kiện quan trọng để thực hiện một cách có hiệu quả nhất các hình thức trả lương tại doanh nghiệp. Song để tạo điều kiện cho người công nhân thực hiện được mức đề ra một cách có hiệu quả thì công ty cũng cần phải hoàn thiện công tác tổ chức phục vụ nơi làm việc, đánh giá số lượng, chất lượng sản phẩm sản xuật ra một cách chính xác đầy đủ. Hoàn thiện công tác tổ chức phục vụ nơi làm việc . Thiết kế nơi làm việc: nơi làm việc phải được thiết kế theo yêu cầu của quá trình sản xuất và quá trình lao động. Nơi làm việc là những nơi làm việc chuyên môn hoá cả về máy móc thiết bị và công nhân. Tại nơi làm việc, tiến hành thực hiện một chức năng nhất định của quá trình sản xuất. Vì vậy tại những nơi làm việc đều được phân thành những bộ phận riêng biệt, trang bị cùng loại máy móic thiết bị. Bố trí nơi làm việc: căn cứ vào quy trình sản xuất nhằm thực hiện sản xuất theo dây chuyền, các khâu của quá trình công nghệ phải được bố trí liền nhau tạo thành một dòng chảy liên tục, sản phẩm của khâu là nguyên liệu của khâu tiếp theo. Nơi làm việc phải được xem xét thường xuyên, phân tích tìm những cản trở trên phương diện bố trí để nơi vạt liệu có thể xắp xếp lại, cải tạo lại đảm bảo các yếu tốgiúp công nhân làm việc thuận lợi hơn. Công ty dệt Minh Khai là một doanh nghiệp thuộc ngành Dệt- May. Đặc điểm công nghệ của ngành nàycó các yếu tố về ánh sáng, tiếng ồn, bụi … là những yếu tố có vai trò lớn tác động năng suất lao động của người công nhân. Công ty nên cho lắp đặt những thiết bị thông gió ở các phân xưởng. Ngoài ra công ty nên trang bị những thiết bị bảo hộ cho mỗi công nhân để họ có thể tránh được buị, ồn … cuối cùng là hệ thống chiếu sáng đầy đủ cho các đơn vị sản xuất. Phục vụ nơi làm việc: Bộ phận bảo toàn, sửa chữa cần thường xuyên kiểm tra sửa chữa định kỳ các máy móc, thiết bị, hạn chế tới mức tối thiểu thời gian chờ đợi sửa chữa khi hư hỏng máy trong ca làm việc. Phân công cong nhân làm vệ sinh phục vụ theo từng bộ phận sản suất, quét dọn nhằm đảm bảo tốt các điều kiện về vệ sinh lao động. Hoàn thiện viẹc bố trí và sử dụng lao động. Việc bố trí lao động của công ty vẫn có những điểm chưa chính xác cần phải sửa chữa . Bố trí lao động thường theo ý chủ của cán bộ kỹ thuật mà chưa dựa vào mức độ phức tạp của công việc và bậc thợ công nhân. Để sử dụng đầy đủ và có hiệu quả cao nguồn nhân lực của công ty theo tôi công ty nên thường xuyên mở các cuộc thi tay nghề cho công nhân để từ đó bố trí lao đọng một cách hợp lý, đúng với yêu cầu của công việc và trình độ lành nghề của công nhân. Có như thế mới đảm bảo được sự trả lương một cách chính xác và công bằng. Hoàn thiện công tác thống kê, kiểm tra nghiệm thu sản phẩm. Để trả lương đúng, sát với kết quả của người lao động, công tác thống kê, kiểm tra về số lượng và chất lượng sản phẩm của công nhân sản xuất ra chiếm một vị trí rất quan trọng. Có ghi chép đầy đủ, tỉ mỉ, chính xác số lượng đầy đủ của mỗi cá nhân thì mới tiến hành trả lương một cách chính xác được. Việc theo dõi, ghi chép nên giao cho những người có trách nhiệm và phải được tiến hành từng ngày. Cải tiến phương pháp cho điểm trong hình thức trả lương theo sản phẩm tập thể. Trong cách chia lương cho từng công nhân ở trong tổ(sau khi có được tổng tiền lương của cả tổ) chưa được chính xác và công bằng bởi theo như cách cho điểm của tổ, cứ làm được 1000 kg thì mỗi công nhân sẽ được 10 điểm. VD: ở tổ nấu tẩy1, công việc của họ là nấu tẩy, trong đó có những công đoạn là phức tạp khó khăn đòi hỏi người côngnhân phải có trình độ- kỹ thuật (công nhân bậc cao) mới đáp ứng được yêu cầu của công việc và ngược lại cũng có những công đoạn đơn giản chỉ cần công nhânbình thường cũng có thể thực hiện được(công nhân bậc trung bình). ở đây có sự chênh lệch về trình độ lành nghề (cấp bậc công nhân), vậy mà khi tiến hành cho điểm thì lại cho đồng đều. Điều này là chưa hợp lý, dẫn tới việc tính lương không chính xác và công bằng đối với các công nhân trong tổ. Theo tôi ở các tổ nên cải tiến các cho điểm theophương pháp sau: Khi tổ làm được 1000 kg thì: Đối với những công nhân làm việc ở những công đoạn phức tạp đòi hỏi trình độ kỹ thuật cao sẽ cho 10 điểm (công nhân bậc cao). Đối với các công nhân mà làm việc ở công đoạn đòi hỏi trình độ – kỹ thuật thấp hơn(công nhân bậc 3;4) sẽ cho 8 điểm. Đối với công nhân làm viẹc ở những công đoạn còn lại(công nhân làm việc ở những công đọn đơn giản, bậc 1;2) sẽ cho 6 điểm. Với phương pháp cho điểm mà chia làm ba mức là 10 diểm, 8 điểm và 6 điểm đã phần nào hợp lý hơn và trong cách tính lương cũng chính xác và công bằng hơn, từ đó sẽ có tác dụng kích thích tăng năng suất lao động ,mọi người đều phải cố gắng hơn, tích cực hơn trong công việc của mình. áp dụng hình thức trả lương sẩn phẩm có thưởng. Hình thức trả lương sản phẩm có thưởng là sự kết hợp trả lương theo sản phẩm (theo đơn giá cố định và số lượng sản phẩm thực tế đã hoàn thành) và phần tiền thưởng do đã tiết kiệm được thời gian sản xuất theo tỷ lệ phần trăm cụ thể của đơn giá tiền công. Công ty nên ấn định tỷ lệ phần trăm số giờ tiết kiệm, thường thì ở một số công ty mức chia tỷ lệ phần trăm tiền thưởng từ 30 đến 50%. Để hiểu rõ hơn giải pháp này, ta sẽ lấy một ví dụ cụ thể sau đây: Theo kế hoạch trả lương chia tỷ lệ tiền thưởng là 50-50 với đơn giá giờ công là 1000dồng / 1đơn vị sản phẩm, và tiêu chuẩn công việc là 1 đơn vị sản phẩm trong 1 giờ (hoặc 8 đơn vị sản phẩm trong 8 giờ / ngày). Một công nhân suất xắc làm được 11 đơn vị sản phẩm trong ngày. Tính tiền lương sản phẩm có thưởng của công nhân trên? Cách tính : Công nhân trên làm được 11 đơn vị sản phẩm tức là đã tiết kiệm được 3 giờ. Theo kế hoạch trả lương chia tỷ lệ tiền thưởng là 50-50 tức là công nhân trên được hương 50% tiền thưởng 3 giờ tiết kiệm được là 1 giờ 30 phút hay là 1500 đồng. Vậy công nhân trên được lĩnh là 8 C 1000 + 1500 = 9500 đồng/ngày. Tác dụng của việc áp dụng hình thức trả lương theo sản phẩm có thưởng ở công ty dệt Minh Khai : Đối với công ty dệt Minh Khai, kế hoạch này dễ thực hiện bởi vì tiêu chuẩn công việc dựa trên hoạt động trong quá khứ, mức tiêu chuẩn thời gian không chính xác cũng không gây hậu quả trầm trọng cho công ty do mức tiền thưởng ở mức khiêm tốn. Trong trường hợp này công ty được chia tiền thưởng tiết kiệm thời gian vì thế giảm bớt được chi phí lao động. Với mức tiền thưởng cơ bản bảo đảm mức thu nhập đủ sống cho công nhân, kế hoạch này khuyến khích công nhân sản xuất nhiều hơn trước kia khi chưa thực hiện kế hoạch này. Để khuyến khích toàn bộ hoạt động sản xuất, một số công ty chia phần tỷ lệ tiền thưởng thời gian tiết kệm được cho các quản đốc phân xưởng, tổ trưởng, và một phần cho công nhân gián tiếp hỗ trợ cho hoạt động sản xuất. Tuy nhiên, bất lợi của kế hoạch trả lương loại này là tiêu chuẩn lao động không chính xác, cho nên tiêu chuẩn công việc là “dễ “ hoặc là “khó”. Do đó, công ty nên dần dần cải tiến, tiêu chuẩn hoá các phương pháp sản xuất và sau đó ấn định các tiêu chuẩn công việc qua chương trinhf nghiên cứu thời gian. Để khuyến khích công nhân sản xuất có hiệu quả hơn, công ty nên ấn định tỷ lệ thưởng cao hơn trước. Bởi vì một khi đã ấn dịnh tiêu chuẩn công việc chính xác sẽ có khuynh hướng giảm bớt khối lượng thời gian tiết kiệm được. Cải tiến hình thức trả lương theo thời gian ở công ty dệt Minh Khai. Theo thông tư 05 / 2001/TT – BLĐTBXH hướng dẫn việc thi hành nghị định 28/ CP ngày 28/ 3/ 1997. Quy định mức lương tối thiểu chung áp dụng cho các doanh nghiệp Nhà Nước được thực hiện kể từ ngày 01/01/2001 là 210000 đồng / tháng. Hiện nay, công ty dệt Minh Khai vẫn áp dụng hình thức trả lương theo thời gian với việc sử dụng mức lương tối thiểu để tính toán lương hàng tháng cho cán bộ công nhân viên là180.000 đòng/ tháng, thấp hơn mức lương tối thiểu chung do nhà Nước quy định là 210.000 đồng. Nhưng để bù lại mức tiền lương tối thiểu thấp , công ty đã cộng thêm khoản C (tiền lương cân đối lại) vào tiền lương cơ bản , do giám đốc cân nhắc tuỳ từng tháng, mức độ vất vả, tính trách nhiệm trong công việc của các cán bộ công nhân viên đảm nhiệm. Công thức tính là: Trong đó : Ltg : Lương thời gian mà công nhân lĩnh. TLmindn : Lương tối thiểu của doanh nghiệp là 180.000 đồng. Tcđ : Ngày công theo quy định. Ttt : Ngày công thực tế mà công nhân đi làm. K : Hệ số lương cấp bậc. C : Tiền lương cân đối lại Với cách tính lương thời gian trên sẽ dẫn tới tiền lương cơ bản của cán bộ công nhân viên tương đối thấp, gây thiệt thòi cho họ, đặc biệt là những người có hệ số cấp bậc (hệ số lương) thấp và thậm chí họ lại là những người không được xếp vào diện được cân đối lại lương bởi họ đảm nhiệm những công việc bình thường (tức là trong tiền lương không có khoản C). Hoặc những người có hệ số cấp bậc cao nhưng vì một lí do nào đó trong tháng họ không đảm nhiệm công việc mà được xét vào diện được cân đối lại lương. Để khắc phục nhược điểm này, theo tôi công ty nên cải tiến cách tính toán lương thời gian như sau: - Công ty nên sử dụng mức lương tối thiểu và 210.000 đồng theo đúng quy định của nhà nước về tiền lương tối thiểu áp dụng chung cho các doanh nghiệp nhà nước. - Khi công ty sử dụng mức lương tối thiểu là 210.000 đồng để tính lương trả cho những cán bộ công nhân viên hưởng lương thời gian thì tổng số tiền lương thời gian cần chi phí sẽ tăng lên và để bù lại số tiền lương tăng lên đó công ty nên giảm bớt khoản C (tiền lương cân đối lại cho mỗi cán bộ công nhân viên). - Công ty nên coi khoản C là tiền thưởng cho cán bộ công nhân viên khi hoàn thành xuất sắc công việc đựoc giao. Và tổng số tiền mà hàng năm dùng để cân đối lại lương cho công nhân viên sẽ được chuyển vào quỹ khen thưởng của công ty. Công ty có thể khen thưởng cho cán bộ công nhân viên hưởng lương thời gian dưới hình thức bình bầu A, B, C… Theo tôi công việc này nên giao cho phòng tổ chức tiến hành. Phòng tổ chức cần phải xây dựng nên các tiêu chuẩn cụ thể dùng làm căn cứ để các phòng ban tiến hành bình bầu một cách chính xác. Theo tôi xếp loại A nếu đạt được các tiêu chuẩn sau: 1. Tính hiệu quả của công việc 2. Tính trách nhiệm với công việc 3. Số ngày công đi làm tối thiểu là 26 ngày công 4. Thực hiện đúng giờ giấc làm việc, tức là sáng làm việc bắt đầu từ 7giờ 30 phút đến 11 giờ 30 phút và chiều làm việc từ 1 giờ 30 phút đến 5 gìơ 30 phút. 5. Không vi phạm nội quy lao động , kỷ luật lao động của . 6. Không làm hư hỏng , mất mát, gây thiệt hại về tài sản của công ty. 7. Không làm lộ bí mật công ty. Xếp loại B nếu chỉ đạt được 6 trong 7 tiêu chuẩn trên. Xếp loại C nếu chỉ đạt được 3 đến 4 tiêu chuẩn trên. (chú ý đối với các tiêu chuẩn 1 và 2 sẽ được ưu tiên hơn bởi nó ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty). Sau khi các phòng ban tiến hành bình bầu nội bộ, phòng tổ chức sẽ phải thống kê xếp loại A , B , C và dựa trên quỹ khen thưởng của công ty để tính toán mức tiền thưởng cụ thể cho từng loại. Sau đó phòng tổ chức đưa danh sách những người được bình bầu xếp loại khen thưởng lên giám đốc để xin ý kiến và quyết định cuối cùng của giám đốc. Theo tôi mức tiền thưởng tối thiểu: Loại A: 120.000 đồng Loại B: 80.000 đồng Loại C: 50.000 đồng Ưu điểm của cách tính lương thời gian trên: Việc sử dụng mức lương tối thiểu là 210.000 đồng để tính tiền lương cho cán bộ công nhân viên của công ty là đã thực hiện theo đúng thông tư 05/TT/BLĐTBXH ban hành. Tiền lương cơ bản được nâng lên phù hợp với các doanh nghiệp khác, làm cho người công nhân cảm thấy công bằng và họ sẽ yên tâm trong công việc của mình. Đặc biệt với việc sử dụng hình thức thưởng theo kiểu bình bầu xếp loại A, B, C đã có tác dụng khuyến khích người lao động làm việc tốt và hiệu quả hơn. Điều đó sẽ có ảnh hưởng rất lớn đến kết quả sản xuất kinh doanh của công ty. V- Kiến nghị nhằm hoàn thiện các hình thức trả lương ở công ty dệt Minh Khai. 1. Đối với công ty Muốn có một mức lương hợp lí tạo thế đứng của công ty trên thương trường, công ty cần phải tiến hành cuộc khoả sát về cơ cấu lương trong khu vực-đặc biệt nghiên cứu mức lương của các công ty cùng nghành. Sau đó công ty sẽ đối chiếu với thực trạng của mình để có thể áp dụng mức lương hợp lí theo chiến lược cạnh tranh của mình (tất nhiên là phải tuân theo quy định của nhà nước về lương bổng .) Tuy vậy công ty chỉ nên khảo sát mức lương tịa công ty khác đối chiếu với các cong việc sản xuất chủ yếu của công ty chứ không khảo sát tất cả các loại lương của tất cả các công việc. Đối với các công việc hành chính sự nghiêpj là các công việc lĩnh lương tháng, công ty phỉa tiến hành khảo sát một cách đặc biệt và riêng rẽ bởi mỗi công ty có cơ cấu tổ chức khác nhau. Để cho cơ cấu tiền lương của các bộ phận được hợp lí thì cần phải có một bộ phận tiếp nhận và nghiên cứu các khiếu lại về lương của công nhân. Công ty cần quan tâm đến các yếu tố ảnh hưởng đến tiền lương để có phương hướng cụ thể. Công ty cần đầu tư máy móc thiết bị hiện đại, chú trong công tác chuyển giao công nghệ, đa dạng hóa sản phẩm, dịch vụ… đáp ứng thị hiếu người tiêu dùng. Quan tâm hơn nữa công tác quản lí chất lượng sản phẩm vì đây là khâu quyết định trước khi đưa ra thị trường. Công ty nên tìm kiếm những nguyên vật có giá thành rẻ nhưng vẫn đảm bảo chất lượng, nghiên cứư thị trường cung ứng nguyên vật liệu trong nước. Công ty cũng nên thực hiện chế độ hưu trí phù hợp với người lao động bởi phần lớn lao động trong công ty là nữ, vì lí do sức khoẻ và tuổi tác mà khó có thể đứng máy liên tục trong nhiều năm. Vì vậy cần phải giải quyết chế độ cho họ một cách hợp lí 2- Đối với nhà nước Xuất phát là một doanh nghiệp nhà nước, trình độ kĩ thuật trung bình. Dệt Minh Khai là tiêu biểu cho những doanh nghiệp đang trên đà phát triển, xây dựng đất nước giàu đẹp, tiến lên chủ nghĩa xã hội. Dệt là một nghành mà đa số là lao động nữ, điều này cũng không là ngoại lệ đối với công ty dệt Minh Khai. Công ty luôn có những trường hợp lao dộng nữ nghỉ đẻ, ốm đau… ảnh hưởng tới tiến độ sản xuất. Nhà nước cầm quan tâm đến việc ban hành các chính sách ưu đãi đối với lao động nữ thực hiện tốt hơn nữa các chế độ bảo hiểm xã hội cho họ. Mặt khác, hàng năm nhà nước luôn đặt kế hoạch tiền lương đối với công ty. Nó đã hạn chế khả năng thúc đẩy sản xuất của công ty, vì vậy công ty chỉ có thể đặt mục tiêu là có việc làm cho người lao động đáp ứng mức thu nhập đủ nuôi sống công nhân. Kết luận Công ty dệt Minh Khai là một thành viên của ngành công nghiệp dệt may được thành lập từ cuối những năm 60. Qua nhiều năm hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty đã tạo được uy tín về mặt chất lượng sản phẩm với khách hàng trong nước và nước ngoài, đã cung ứng một phần đáng kể những nhu cầu về sản phẩm của Công ty. Đặc biệt Công ty đã chiếm lĩnh được thị trường rất lớn ở Nhật Bản, Mỹ,... Để đạt được những thành công đó không nằm ngoài lý do là công ty luôn quan tâm đến công tác trả lương cho cán bộ công nhân viên trong công ty. Với các hình thức trả lương phù hợp đã khuyến khích công nhân tăng năng suất lao động, đảm bảo yêu cầu về mặt chất lượng và số lượng, luôn luôn đề cao uy tín đối với khách hàng (đặc biệt là khách hàng nước ngoài bởi họ là những người đòi hỏi yêu cầu rất cao về mặt chất lượng). Qua phân tích công tác trả lương ở công ty ta thấy được một số những ưu điểm như: Doanh thu của công ty không ngừng tăng lên đi đôi với nó là thu nhập bình quân của các cán bộ công nhân viên cũng được nâng cao so với trước, đã đảm bảo được đới sống của cán bộ công nhân góp phần vào sự phát triển chung của đất nước. Tuy nhiên bên cạnh những kết quả đạt được công ty cũng cần có những biện pháp để hoàn thiện các hình thức trả lương hơn nữa, bổ xung những điểm còn thiếu sót. Với sự học hỏi, nghiên cứu cụ thể tại công ty, nhằm góp phần vào việc hoàn thiện các hình tứhc trả lương ở công ty, em mạnh dạn đưa ra một số ý kiến để giải quyết phần nào những vấn đề mà công ty còn thiếu sót. Tuy nhiên do trình độ còn nhiều hạn chế, kinh nghiệm, kiến thức thực tế còn ít nên bài viết không tránh khỏi những sai sót. Các giải pháp này mới là những suy nghĩ bước đầu cần phải được tiếp tục nhiệm vụ để hoàn thiện. Danh mục tài liệu tham khảo Giáo trình kinh tế lao động. Luận văn kinh tế lao động K38, K39. Báo, tạp chí về tiền lương. Tài liệu nghiên cứu của Công ty dệt Minh Khai + Báo cáo về lao động 4/2001 + Quá trình hình thành và phát triển của công ty. + Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. + Quy chế trả lương ở công ty. + Một số tài liệu khác có liên quan đến vấn đề trả lương ở công ty.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docQ0007.doc
Tài liệu liên quan