Đề tài Hoàn thiện cơ sở pháp lý về thành lập và hoạt động của Công ty cho thuê tài chính - Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam

- Trước hết, các chủ thể thành lập Công ty CTTC, các Ngân hàng thương mại cần phải có các văn bản hướng dẫn cụ thể hơn nữa những quy định của Nhà nước cũng như của Thống đốc NHNN về hoạt động tín dụng nói chung và hoạt động CTTC nói riêng. Đây chính là cơ sở pháp lý quan trọng cho việc thành lập và hoạt động của các Công ty CTTC. - Để khắc phục vấn đề thiếu vốn hoạt động của các Công ty CTTC, các chủ thể khi thành lập Công ty CTTC nên xem xét và lựa chọn hình thức Công ty cổ phần để thu hút vốn nhàn rỗi trong dân cư hoặc hình thức Công ty liên doanh với nước ngoài vừa để thu hút đầu tư vừa để học tập kinh nghiệm quản lý kinh doanh từ phía đối tác. Giải quyết được vấn đề vốn, đáp ứng được nhu cầu đầu tư máy móc thiết bị của các doanh nghiệp vừa và nhỏ (chiếm 90% tổng số các doanh nghiệp ở nước ta0 khi đó sẽ có điều kiện mở rộng thị phần, phân tán rủi ro bằng cách đa dạng đối tượng đi thuê, theo đó bên đi thuê không chỉ còn là các doanh nghiệp, các pháp nhân nữa mà bao gồm cả các cá nhân và tổ chức khác.

doc74 trang | Chia sẻ: haianh_nguyen | Lượt xem: 1220 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hoàn thiện cơ sở pháp lý về thành lập và hoạt động của Công ty cho thuê tài chính - Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Ngoại thương Việt Nam hỗ trợ bằng cách hoãn chưa bắt nộp khoản phí sử dụng vốn nêu trên. Tuy nhiên các ngân hàng “mẹ” cũng không thể “bao cấp” mãi được vì vậy NHNN nên có những quy định hợp lý hơn về các khoản thuế phải nộp đối với các Công ty CTTC. Trên đây là thực trạng hoạt động kinh doanh của Công ty CTTC - Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, mặc dù mới đi vào hoạt động nhưng Công ty đã thực hiện cho thuê đối với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau với mức dư nợ vào cuối quý I/2000 là 13,738 tỷ đồng, tốc độ tăng trưởng khá khả quan trong quý là 33,14% với kết quả này, Công ty đã góp phần giải quyết một phần nhu cầu về vốn cho các doanh nghiệp trong nước, thúc đẩy sự phát triển của thị trường CTTC nói riêng và thị trường vốn Việt Nam nói chung. Chương III Hoàn thiện cơ chế pháp lý để phát triển thị trường cho thuê tài chính ở nước ta. I-/ Đánh giá tổng quát về hoạt động cho thuê tài chính ở nước ta thời gian qua. 1-/ Những thành tựu. Sau hơn 10 năm thực hiện công cuộc đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam từ Đại hội Đảng lần VI (1986) đến nay, Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng về kinh tế. Một thay đổi quan trọng mà chúng ta đã thực hiện được là việc công nhận một nền kinh tế có nhiều thành phần hoạt động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước. Kể từ khi có định hướng đúng đắn đó các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, đặc biệt là khu vực kinh tế tư nhân với quy mô doanh nghiệp vừa và nhỏ được thành lập với một tốc độ nhanh chóng và cho đến nay số lượng các doanh nghiệp loại này đã chiếm 90% số lượng các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Đây là dấu hiệu đáng mừng. Tuy nhiên, để đáp ứng nhu cầu đổi mới cũng như công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước thì các doanh nghiệp này cần phải luôn luôn đổi mới, đầu tư thêm trang thiết bị công nghệ...Nhưng để làm được việc này thì đòi hỏi các doanh nghiệp phải có vốn, mà hầu hết các doanh nghiệp đều không có vốn tự có để mua sắm trang thiết bị còn đi vay ở các tổ chức tín dụng thì lại gặp nhiều khó khăn về các điều kiện thế chấp, về thủ tục rườm rà...Vì vậy các doanh nghiệp bị rơi vào tình trạng thiếu vốn trầm trọng đang rất khát vốn để phục vụ mở rộng sản xuất, mua sắm trang thiết bị hiện đại... Nhận thức được nhu cầu cấp bách này từ năm 1995 chúng ta đã lựa chọn loại hình tín dụng thuê mua (CTTC) làm giải pháp tối ưu nhất cho vấn đề nan giải trên. Kể từ đó, trên phạm vi toàn quốc, chúng ta đã có 8 công ty CTTC đi vào hoạt động và những thành tựu mà các Công ty này đạt được không phải là nhỏ, với tốc độ tăng trưởng bình quân 7%/ năm, số lượng các doanh nghiệp được các công ty CTTC tài trợ bằng tài sản mỗi năm một tăng, trong đó chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Chỉ xét trong quý I năm 2000, mức tăng dư nợ của một số công ty thuộc các Ngân hàng Thương mại Quốc doanh ta sẽ thấy tốc độ tăng trưởng đáng khâm phục của các CTTC. ở thời điểm 31/ 12/ 1999 tổng mức dư nợ CTTC của công ty CTTC thuộc NHNTVN là 10,318 tỷ đồng; của công ty CTTC - NH Công thương là 11,8; công ty CTTC - Ngân hàng Đầu tư và phát triển là 25,6 và của công ty CTTC số 1 và 2 ; Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn là 5,9. Đến 31/ 03/ 2000 những con số tương ứng là 13,738; 16; 26,3 và 6,28 tỷ đồng. Đối với các doanh nghiệp đi thuê, thì mỗi tỷ đồng dư nợ của các công ty CTTC là 1 tỷ đồng giá trị máy móc, thiết bị được trang bị thêm. Và những trang thiết bị, những máy móc, những dây chuyền công nghệ này lại phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp đi thuê, góp phần tạo ra nhiều sản phẩm , dịch vụ cho xã hội thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng và phát triển. Đạt dược những kết quả đó là hoạt động CTTC có đựoc những điều kiện thuận lợi nhất định. Đó là một môi trường chính trị ổn định với các chính sách kinh tế cởi mở, CTTC có một thị trường khách hàng rộng lớn - đó là các doanh nghiệp vừa và nhỏ đang có nhu cầu đổi mới máy móc, thiết bị. CTTC cũng đã có lợi thế hơn so với các loại hình tín dụng khác khi nó khắc phục được những khó khăn mà các doanh nghiệp gặp phải khi đi vay vốn bằng tiền ở các tổ chức tín dụng. Và đặc biệt là các công ty CTTC được sự quan tâm, giúp đỡ trực tiếp của các Ngân hàng “mẹ” của các định chế tài chính - các chủ thể thành lập công ty CTTC. Bên cạnh đó, qua thực tế vài năm thành lập và hoạt động, các công ty CTTC cũng gặp phải một số khó khăn nhất định. Đó là những khó khăn cề nguồn vốn - các công ty CTTC hiện nay có vô số vốn để phục vụ cho hoạt động kinh doanh còn ít hơn rất nhiều so với nhu cầu của nền kinh tế, là khó khăn của một loạt hình tín dụng mới mẻ nên chưa được thị trường chấp nhận rộng rãi...Và một khó khăn lớn nhất - khó khăn từ môi trường pháp lý. Không chỉ thiếu các văn bản điều chỉnh mà còn có nhiều điểm bất cập ngay trong chính những quy định về hoạt động CTTC. 2-/ Một số khó khăn từ môi trường pháp lý đối với hoạt động CTTC ở nước ta. Mặc dù CTTC là một loại hình tín dụng mới ra đời nhưng đã có những cơ chế pháp lý nhất định, góp phần tạo điều kiện cho việc quản lý và thúc đẩy hoạt động này phát triển. Đây cũng chính là điều kiện thuận lợi cho công ty CTTC - Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam cũng như các công ty CTTC khác hoạt động trong một khung pháp lý giành riêng cho lĩnh vực CTTC. Tuy nhiên, trong điều kiện nền kinh tế luôn biến đổi, hơn nữa CTTC là hoạt động còn mới mẻ cho nên qua thực tiễn hoạt động của công ty CTTC - Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam và các công ty khác, hệ thống những chính sách, những quy định về CTTC ở nước ta đã bộc lộ một số điểm chưa phù hợp sau: 1. Về nguồn vốn hoạt động. Theo các quy định hiện hành thì trong tương lai tất cả các công ty CTTC đều thiếu vốn trung và dài hạn để hoạt động. Vì cho đến nay chúng ta chưa có một văn bản nào của Ngân hàng Nhà nước cho phép các công ty CTTC được vay vốn trung và dài hạn của Ngân hàng cũng như các tổ chức tín dụng, chưa nói đến việc vay ưu đãi. Hơn nữa do công ty CTTC theo quy định của pháp luật thuộc loại hình tổ chức tín dụng phi Ngân hàng nên không được phép thực hiện các nghiệp vụ Ngân hàng như : huy động tiền gửi, tiết kiệm, làm nghiệp vụ thanh toán và kinh doanh tiền tệ. Như vậy các công ty CTTC chỉ có thể tiến hành một nghiệp vụ duy nhất mang tính chất “độc canh” là CTTC mà không được phép kinh doanh bất kỳ nghiệp vụ nào khác. Nguồn vốn để thực hiện CTTC là vốn tự có, vốn vay (vay trong nước và vay nước ngoài). Vốn tự có thì không đáng kể, còn vốn vay trong nước thì chưa có cơ chế như nêu trên. Trong khi đó vì hiện nay các Ngân hàng đang thừa vốn nên luôn luôn hạ lãi suất cho vay để thu hút khách hàng. Một minh chứng là vừa qua các Tổng giám đốc các Ngân hàng thương mại quốc doanh đã gặp nhau để thống nhất không lôi kéo khách hàng và đưa ra một mức lãi suất trần ngoại tệ là 7,5%/ năm và lãi suất sàn bằng đồng Việt Nam là 0,75%/ tháng. Với mức lãi suất này thì hoạt động CTTC không thể cạnh tranh được với hoạt động cho vay bằng tiền của các Ngân hàng Thương mại. Mặt khác, vừa qua Chính phủ có Nghị định 178/ 1999/ NĐ - CP ngày 29/ 12/ 1999 về bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng, đã đưa ra những quy định mới về đảm bảo tiền vay, cho phép các Ngân hàng có quyền cho vay tín chấp, thế chấp bằng tài sản hình thành từ vốn vay. Do vậy CTTC cũng mất đi lợi thế cạnh tranh so với cho vay bằng tiền. 2. Về lệ phí trước bạ khi chuyển quyền sở hữu tài sản thuê. Vì đặc điểm của hoạt động CTTC là trong thời hạn thuê, quyền sở hữu tài sản đó thuộc về phía công ty CTTC và khi kết thúc thời hạn thì bên thuê có quyền mua lại tài sản với giá danh nghĩa. Để xác định quyền sở hữu ban đầu sau khi mua tài sản theo yêu cầu của bên thuê, tổ chức tín dụng (công ty CTTC) phải nộp lệ phí trước bạ dựa trên giá trị tài sản và sau khi hết thời hạn thuê nếu bên thuê mua lại tài sản đó với giá danh nghĩa, bên thuê cũng phải nộp lệ phí trước bạ để xác nhận quyền sở hữu của mình đối với tài sản. Như vậy, đối với tài sản được hình thành từ hoạt động CTTC bắt buộc phải nộp lệ phí trước bạ ít nhất 2 lần. Do vậy chi phí cho tài sản CTTC lớn hơn rất nhiều so với tài sản hình thành từ nguồn vốn vay. Điều này đã làm cho hoạt động CTTC gặp nhiều khó khăn so với hoạt động cho vay bằng tiền vì chủ thể kinh doanh nào cũng chọn phương án kinh doanh với chi phí thấp nhất. 3.Về thủ tục xuất nhập khẩu máy móc thiết bị. Theo Nghị định 64/ CP và về lý thuyết thì các công ty CTTC được phép nhập khẩu thiết bị để cho thuê. Nhưng trong thực tế, vấn đề này gặp không ít khó khăn. Suốt một thời gian dài Bộ Thương mại không cho phép các công ty CTTC được nhập khẩu trực tiếp vì công ty CTTC là một tổ chức tín dụng, mà cho phép một tổ chức tín dụng nhập khẩu thì chưa có tiền lệ. Đến khi việc đăng ký mã số xuất nhập khẩu ra đời thay cho việc cấp giấy phép xuất nhập khẩu trực tiếp thì các công ty CTTC lại gặp khó khăn về thủ tục hải quan, mà lý do cũng tương tự như các lý do mà Bộ Thương mại đưa ra trước đây. 4. Về thuế nhập khẩu. Trong hầu hết các trường hợp, nhà đầu tư được miễn thuế nhập khẩu máy móc thiết bị, nếu máy móc thiết bị đó được đưa vào làm tài sản cố định của dự án theo giấy phép đầu tư. Kể cả trong trường hợp các chủ đầu tư vay vốn từ các Ngân hàng Thương mại để nhập khẩu máy móc thiết bị thì họ cũng được miễn thuế nhập khẩu. Ngược lại, nhà đầu tư gặp khó khăn khi họ chọn hình thức đầu tư máy móc thông qua đi thuê tài chính, vì máy móc thiết bị nhập khẩu dưới tên của các công ty CTTC phải chịu thuế nhập khẩu, mà khoản thuế này được tính vào giá trị cho thuê và bên đi thuê phải chịu. Vì vậy, chi phí của CTTC cao hơn so với vay vốn từ ngân hàng để nhập khẩu máy móc thiết bị. 5. Thu tiền bằng ngoại tệ: Như đã trình bày ở trên, các công ty CTTC đã gặp nhiều khó khăn khi nhập khẩu máy móc thiết bị, và công ty cũng phải dùng ngoại tệ để thanh toán trên nhập khẩu tài sản đó cho bên nước ngoài. Điều bất hợp lý là ở chỗ, công ty CTTC phải dùng ngoại tệ để chi trả, thanh toán cho người bán nhưng lại không được phép thu tiền bằng ngoại tệ do bên đi thuê thanh toán. Ngoại tệ, dù là vốn tự có của các công ty CTTC có vốn đầu tư nước ngoài hay là vốn vay của các công ty CTTC nói chung, phải dược bảo toàn thì hoạt động CTTC mới có lãi và nước ngoài mới đầu tư. Nếu chỉ được phép thu tiền bằng đồng Việt Nam, đến một lúc nào đó công ty sẽ bị lỗ lớn vì không thể bù đắp được phần chênh lệch tỷ giá và cũng không còn đủ số ngoại tệ cần thiết để quay vòng. Điều này là không công bằng so với các Ngân hàng Thương mại vì cho vay ngoại tệ, các Ngân hàng Thương mại được thu nợ bằng ngoại tệ. Lợi thế kinh doanh của các Ngân hàng Thương mại là hơn hẳn vì vừa được kinh doanh đa dạng vừa được thu nợ bằng ngoại tệ. 6. Về giấy phép lưu hành đối với tài sản thuê là phương tiện giao thông. Theo quy định hiện hành, giấy phép lưu hành cho các phương tiện giao thông chỉ được cấp cho chủ phương tiện có chức năng kinh doanh phương tiện đó. Do vậy bên thuê (không phải là chủ sở hữu) thì không được cấp giấy phép lưu hành tài sản thuê. Còn các công ty CTTC có tư cách là chủ sở hữu tài sản thì lại không có chức năng kinh doanh. cho đến nay Bộ giao thông - vận tải vẫn chưa có văn bản quy định cụ thể về vấn đề này, cho nên các doanh nghiệp đi thuê các phương tiện phục vụ kinh doanh như: xe tải, xe khách, tàu thuyền...gặp khó khăn trong việc làm thủ tục xin giấy phép kinh doanh, có trường hợp do cách hiểu và vận dụng của các cơ quan quản lý cấp dưới theo các văn bản quy định chuyên ngành nên bên đi thuê trở thành người sử dụng tài sản không hợp lệ... 7. Hệ thống tài chính - kế toán. Cho đến nay, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chưa có hướng dẫn hạch toán kế toán đối với nghiệp vụ CTTC. Theo quy định, các công ty CTTC phải hạch toán theo hệ thống kế toán của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, vì vậy các CTTC đã tuân thủ theo hệ thống kế toán, số tài khoản của Ngân hàng Nhà nước nhưng chưa được hướng dẫn hạch toán kế toán một cách cụ thể. Bộ Tài chính là nghành chủ quản xét duyệt là việc hoàn thành nghĩa vụ thuế của các doanh nghiệp, lại mới chỉ có hướng dẫn hạch toán kế toán đối với các công ty đi thuê, còn các công ty cho thuê thì Bộ Tài chính không có trách nhiệm hướng dẫn vì cho rằng các công ty CTTC là các tổ chức tín dụng nên sẽ được Ngân hàng Nhà nước hướng dẫn. Do các văn bản quy định thiếu sự đồng bộ và sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý như vậy, nên cho đến nay có công ty (như VILC) không biết hạch toán kế toán ra sao đối với một số tài khoản như: - Tài sản thu hồi về để cho thuê tiếp. - Quỹ dự phòng chưa sử dụng cuối năm phải xuất toán khỏi chi phí. Nộp thuế xong, đầu năm sau lại trích lại, gây lỗ giả tạo cho công ty. - Dư nợ công ty cho thuê lại không được tính những khoản đã chi ứng trước để nhập hàng, để chi phí làm thủ tục...Do đó tỷ lệ nợ quá hạn phản ánh không đúng sự thật. 8. Về thuế giá trị gia tăng đối với hoạt động CTTC. Trong thông tư số 49/ 1999/ TT - BTC ngày 06/ 05/ 1999 của Bộ Tài chính ban hành về việc áp dụng thuế giá trị gia tăng trong hoạt động CTTC. Theo thông tư này thì bên cho thuê tài chính là đối tượng không phải chịu thuế giá trị gia tăng đối với dịch vụ CTTC. Tài sản mua vào hoặc nhập khẩu dùng để CTTC đã được nộp thuế giá trị gia tăng sẽ được bên thuê trả dần hàng tháng cho bên thuê (khấu trừ dần). Đây là một bất lợi đối với hoạt động CTTC, bởi vì nếu doanh nghiệp vay được vốn từ Ngân hàng và dùng số tiền đó để mua tài sản thì họ sẽ được khấu trừ thuế ngay trong kỳ sản xuất kinh doanh, còn nếu như họ đi thuê tài chính thì thuế trên tài sản thuê sẽ được khấu trừ dần theo tiền thuê tiền thuê mỗi kỳ mà họ phải trả. Như vậy bên đi thuê sẽ phải chịu một khoản phí do lãi suất tính trên tiền thuế giá trị gia tăng chưa được khấu trừ, mà lẽ ra họ không phải chịu nếu như họ vay tiền từ Ngân hàng để mua tài sản đó. Ví dụ sau đây cho ta thấy rõ hơn vấn đề này: Doanh nghiệp A muốn có một thiết bị trị giá 1 tỷ đồng để phục vụ sản xuất. Để có được tài sản đó, doanh nghiệp A có 3 phương án lựa chọn sau đây: Với các giả thiết: - Tổng số vốn cần có = 1 tỷ đồng. - Thuế suất thuế giá trị gia tăng = 10%/ nguyên giá tài sản. - Lãi suất cho vay trung hạn là 1,1%/ tháng. - Lãi suất cho vay ngắn hạn 1%/ tháng. - Lãi suất tiền gửi ngắn hạn là 0,8%/ tháng. Phương án 1: Doanh nghiệp A vay vốn trung hạn của Ngân hàng 1 tỷ đồng để mua thiết bị đó ị Số thuế giá trị gia tăng phải nộp là: X = 1 tỷ x 10% = 100 triệu. Để có tiền trả thuế giá trị gia tăng, Doanh nghiệp A đi vay ngắn hạn Ngân hàng 100 triệu và ngay trong tháng được khấu trừ thuế giá trị gia tăng đầu vào và đem số tiền đó để trả nợ vay ngắn hạn Ngân hàng với mức lãi phải trả là: 100 x 1% = 1 triệu đồng Phương án 2: Doanh nghiệp A đi thuê tài chính tài sản đó trong hai năm và trả tiền thuế theo phương án các khoản tiền bằng nhau thời hạn trả nợ là 6 tháng (khấu trừ dần). Như vậy, doanh nghiệp sẽ phải trả số tiền thuế giá trị gia tăng làm 4 lần, mỗi lần 25 triệu đồng. Khi đó số tiền lãi tính trên thuế giá trị gia tăng mà doanh nghiệp phải chịu sẽ là: Y = 100 x 6 1,1% + 75 x 6 x 1,1% + 50 x 6 x 1,1% + 25 x 6 x 1,1 = ( 100 + 75 + 50 + 25) x 6 x 1,1% = 250 x 6 x 1,1% = 16,5 triệu Phương án 3: Doanh nghiệp A bỏ vốn đầu tư có thể mua tài sản đó, đồng thời tự trả tiền thuế giá trị gia tăng là 100 triệu. Khi đó chi phí cơ hội cho việc không dùng số tiền đó để gửi Ngân hàng sẽ là: Z = 100 triệu x 0,8% = 0,8 triệu. Như vậy, trong 3 phương án thì đi thuê tài chính, doanh nghiệp A sẽ phải chịu chi phí lớn nhất là Y = 16,5 triệu. 9. Về đăng ký tài sản thuê. Theo quy định tại Nghị định 64/ CP và thông tư số 03/ TT - NH 5 ngày 9/ 2/ 1996 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, sau khi mua tài sản theo yêu cầu của bên thuê, bên cho thuê phải làm thủ tục đăng ký quyền sở hữu (nếu tài sản đó thuộc đối tượng phải đăng ký quyền sở hữu) tại cơ quan có thẩm quyền địa phương. Các văn bản cũng quy định rõ công ty CTTC phải đăng ký tại địa phương nơi đóng trụ sở chính. Vấn đề là ở chỗ khách hàng với tư cách là bên thuê nằm rải rác ở rất nhiều địa phương khác nhau trên phạm vi toàn quốc, theo định kỳ phải di chuyển tài sản thuê về nơi đăng ký để kiểm tra ( đặc biệt là phương tiện vận chuyển). Quy định này gây khó khăn cho cả bên thuê và bên cho thuê và nếu cứ thực hiện theo đúng quy định thì chi phí cho tài sản quá lớn, không đem lại hiệu quả kinh doanh. Ví dụ như công ty CTTC Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam cho công ty xây dựng đóng tại Sóc Trăng thuê một số ôtô, cần cẩu phục vụ cho hoạt động của công ty. Lô hàng này được sử dụng tại Kiên Giang, việc kiểm tra tại Hà Nội ( vì công ty CTTC - Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có trụ sở tại Hà Nội) đối với những phương tiện đó là rất khó khăn và gần như không thực hiện được do khoảng cách về địa lý quá lớn. Còn trong trường hợp để tiêt kiệm chi phí, tài sản thuê không chuyển về nơi đăng ký thì cơ quan có thẩm quyền lại không giám sát được tình trạng thực tế của tài sản, có khả năng gây nguy hiểm cho quá trình vận hành. 10. Quy định về tổng số tiền thuê. Theo Nghị định 64/ C P và Thông tư 03/ T T - NH5 thì tổng số tiền mà bên thuê phải trả cho bên cho thuê ít nhất phải tương đương với giá trị của tài sản vào thời điểm ký kết hợp đồng. Quy định này có điểm không phù hợp với thực tế áp dụng vì có trường hợp do giá trị thuê quá lớn nằm ngoài khả năng tài chính của công ty CTTC bên cho thuê có thể yêu cầu bên thuê góp vốn để mua tài sản đó theo một tỷ lệ nhất định, thậm chí có trường hợp bên thuê phải góp vốn đến 50% giá trị tài sản. Việc bên thuê góp vốn để mua tài sản là hợp lý, bởi lẽ quy định này gắn trách nhiệm bảo quản và sử dụng tài sản trong quá trình sử dụng của bên thuê. Thế nhưng có một bất hợp lý là: nếu như xác định tổng số tài sản như trên thì bên thuê phải trả tới 1,5 giá trị tài sản thực tế. Nếu cứ chiếu theo quy định của pháp luật thì trường hợp này không thể áp dụng được vì sẽ không có bên đi thuê nào chịu góp vốn để mua tài sản. 11. Quy định về thời gian thuê Nghị định 64/ CP có quy định thời gian thuê tối thiểu là 60% thời gian cần thiết để khấu hao tài sản thuê. Quy định này đảm bảo cho phía công ty CTTC có thể thu hồi đủ vốn và một khoản lãi suất cho thuê. Tuy nhiên, trên thực tế quy định này gây khó khăn cho các công ty CTTC vì có những tài sản có giá trị lớn, thời gian khấu hao dài có khả năng chuyển nhượng dễ dàng nhưng bên thuê chỉ có nhu cầu thuê tài sản có giá trị lớn trong thời gian ngắn, sẽ không thể tham gia vào quan hệ thuê tài chính. 12. Quy định về việc gia hạn nợ Các văn bản hiện hành về hoạt động CTTC quy định trong trường hợp do nguyên nhân khách quan dẫn đến chậm trả, bên thuê có thể làm đơn xin gia hạn nợ nhưng không được phép quá 1 kỳ trả nợ (thường là 3 tháng). Nếu chúng ta so sánh qy định này với quy định cho vay bằng tiền của các Ngân hàng thương mại thì có sự không công bằng. Theo quyết định số 324/ 1998/ QĐ - NH1 ngày 30/ 09/1998 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thì thời gian cho vay vốn đối với các khoản tín dụng có thể lên tới 1/2 thời gian cho vay, điều đó có nghĩa là đối với các khoản vay trung, dài hạn - là những khoản có thời gian tương tự như quan hệ CTTC, bên cho vay có thể gia hạn thêm nhiều kỳ trả nợ. Chính điểm mâu thuẫn này đang làm giảm sút nhanh chóng sự hấp dẫn của hoạt động CTTC so với các hoạt động tín dụng khác. 13. Vấn đề xử lý tài sản thuê. Tài sản thuê rất đa dạng, bao gồm máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải... dây chuyền công nghệ... Trong thời gian qua các Công ty CTTC ở nước ta chủ yếu chỉ cho thuê taxi, xe vận tải cỡ nhỏ, đầu kéo Container, dây truyền may xuất khẩu... Thực tế các Công ty cho thuê không ưa chuộng những tài sản liên quan đến dây chuyền sản xuất hoặc tài sản thuộc diện đặc trưng... Bởi lẽ những loại tài sản này khi xử lý hay thu hồi có thể sẽ gặp rủi ro rất lớn, vì khi bên thuê không trả hoặc trả tiền thuê không đúng hạn, thì về nguyên tắc bên cho thuê có thể thu hồi tài sản để bán hay tiếp tục cho thuê, việc này rất khó có thể thực hiện đối với những dây chuyền đặc biệt, những tài sản nằm trong một hệ thống, một dây chuyền sản xuất. Vì khi máy móc thiết bị còn đang nằm trong hệ thống, còn đang vận hành thì nó còn đem lại lợi ích và còn có giá trị kinh tế thực. Nhưng khi bị thu hồi, tách riêng ra khỏi hệ thống hoặc cho vào kho bãi thì nó bị giảm cả về mặt giá trị cũng như giá trị sử dụng. Khó khăn nêu trên tạo điều kiện cho bên thuê có thể chây ỳ trong quan hệ thanh toán nợ, gây khó xử cho các Công ty CTTC. 14. Về hợp đồng cho thuê tài chính. Qua thực tiễn ký kết và thực hiện hợp đồng CTTC tại Công ty CTTC - Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam và một số Công ty CTTC khác đã gặp phải một số vướng mắc nhất định, đặc biệt là tính pháp lý của hợp đồng CTTC đó là: - Thứ nhất, là tính thiếu nhất quán của pháp luật về nội dung của hợp đồng: Theo điều 18 - Nghị định 64/CP thì hợp đồng CTTC là một loại hợp đồng kinh tế được ký kết giữa bên cho thuê và bên thuê về việc thuê một hoặc một số máy móc thiết bị, động sản khác trong một thời gian nhất định, theo những điều kiện quy định tại điều 3 của quy chế này (NĐ 64/CP). Tuy nhiên, Điều 3 của Quy chế cho thuê tài chính lại quy định: “Một giao dịch CTTC phải thoả mãn một trong những điều kiện dưới đây: 1. Khi kết thúc thời hạn cho thuê theo hợp đồng, bên thuê được chuyển quyền sở hữu tài sản thuê hoặc được tiếp tục thuê theo thoả thuận của hai bên. 2. Nội dung của hợp đồng thuê có quy định: Khi kết thúc thời hạn thuê, bên thuê được quyền lựa chọn mua tài sản thuê theo giá danh nghĩa thấp hơn giá trị thực tế của tài sản tại thời điểm mua lại. 3. Thời hạn cho thuê một loại tài sản ít nhất bằng 60% thời hạn cần thiết để khấu hao tài sản thuê. 4. Tổng số tiền thuê một loại tài sản quy định tại hợp đồng thuê, ít nhất phải tương đương với giá của tài sản đó trên thị trường vào thời điểm ký hợp đồng.” Như vậy, quy định tại điều 18 và điều 3 của Quy chế cho thuê tài chính không nhất quán với nhau. Điều 18 yêu cầu hợp đồng CTTC phải thoả mãn những điều kiện quy định tại điều 3, nhưng điều 3 lại quy định Hợp đồng CTTC chỉ cần thoả mãn một trong bốn điều kiện nói trên. Chính vì thế, khi thương thoả hợp đồng, bên cho thuê và bên thuê không biết thoả thuận như thế nào để các điều khoản của hợp đồng phù hợp với điều 18 và điều 3 nói trên của Quy chế cho thuê tài chính. - Thứ hai, về hiệu lực của hợp đồng CTTC. Vì hợp đồng CTTC là một loại hợp đồng kinh tế, nên bên cho thuê và bên thuê có quyền thoả thuận thời hạn có hiệu lực của hiệu lực theo điều 18 của pháp lệnh Hợp đồng kinh tế ngày 25/9/1989. Trên thực tế các bên thường thoả thuận hợp đồng kinh tế có hiệu lực kể từ ngày ký, nên hợp đồng CTTC cũng nằm trong thông lệ đó. Ngoài những đặc điểm chung của Hợp đồng kinh tế thông thường, do tính đặc thù của hoạt động CTTC, hợp đồng CTTC còn phải được đăng ký tại NHNN và cơ quan quản lý hợp đồng, nơi Công ty CTTC đóng trụ sở chính theo quy định của pháp luật. Vì vậy có khi hợp đồng CTTC đã được ký kết và đang được thực hiện thì vì một lý do nào đó cơ quan đăng ký hợp đồng cho rằng một vài điểm trong hợp đồng CTTC chưa hợp lý hoặc không phù hợp với những quy định của pháp luật. Do đó, cơ quan nhận đăng ký hợp đồng yêu cầu các bên sửa đổi, bổ sung hợp đồng CTTC đã được ký kết. Như vậy, hiệu lực của hợp đồng CTTC lại phụ thuộc vào quyết định của cơ quan nhận đăng ký hợp đồng, chứ không như các hợp đồng kinh tế khác - hợp đồng đương nhiên có hiệu lực sau khi ký hoặc theo sự thoả thuận của hai bên. Điều này không những gây nhiều phiền toái cho hai bên trong quan hệ CTTC mà còn làm nảy sinh một số tiêu cực khác liên quan đến vấn đề đăng ký hợp đồng. 15. Quy định về thành lập Công ty CTTC. Luật các tổ chức tín dụng được Quốc hội thông qua ngày 12/12/1997 và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/10/1998. Nhưng cho đến nay, mới chỉ có một Nghị định hướng dẫn thi hành (Nghị định 82/1998/NĐ - CP ngày 03/10/1998 của Chính phủ ban hành danh mục mức vốn pháp định đối với các tổ chức tín dụng). Còn các vấn đề khác như hướng dẫn thành lập và đăng ký kinh doanh đối với một số loại hình tổ chức tín dụng thì vẫn chưa có văn bản nào hướng dẫn chi tiết. Đối với các Công ty CTTC liên doanh, Công ty CTTC 100% vốn nước ngoài thủ tục thành lập và đăng ký kinh doanh tuân theo thông tư 03/TT - NH5 còn đối với Công ty CTTC Việt Nam thì thông tư này lại không hướng dẫn cụ thể mà việc thành lập các Công ty này tuân theo Quyết định số 05/NH5 - QĐ hướng dẫn thực hiện pháp lệnh ngân hàng hợp tác xã tín dụng, Công ty tài chính (23/05/1990) về việc ban hành “Quy định về thủ tục cấp giấy phép hoạt động cho các tổ chức tín dụng Việt Nam”. Theo quy định tại thông tư số 03/TT - NH5 thì việc thành lập Công ty CTTC 100% vốn Việt Nam cũng phải tuân theo “Luật Công ty”. Nay Luật Công ty được thay thế bằng Luật doanh nghiệp (12/6/1999). Tuy nhiên trong Nghị định số 03/2000/NĐ - CP ngày 03/2/2000 hướng dẫn thi hành Luật doanh nghiệp lại quy định “Nếu có sự khác nhau giữa quy định về thành lập, tổ chức, quản lý... của Luật doanh nghiệp với luật chuyên ngành thì áp dụng theo luật chuyên ngành”. Như vậy việc thành lập Công ty CTTC vẫn không có gì thay đổi - vẫn áp dụng theo Luật các tổ chức tín dụng (12/12/1997) - mà Luật này hệ thốngì chưa có hướng dẫn chi tiết. Hơn nữa, Pháp lệnh Ngân hàng, hợp tác xã tín dụng, Công ty tài chính (23/05/1990) đã hết giá trị pháp lý kể từ khi Luật tổ chức tín dụng có hiệu lực (01/10/1998), vậy thì theo nguyên tắc các văn bản hướng dẫn pháp lệnh này cũng hết hiệu lực thi hành. Nhưng cho đến nay, thủ tục thành lập Công ty CTTC 100% vốn Việt Nam vẫn phải tuân theo Quyết định số 05/NH5 - QĐ - một văn bản hường dẫn pháp lệnh Ngân hàng. Điều này làm cho các chủ thể thành lập Công ty CTTC cũng như các cơ quan chức năng gặp phải khó khăn khi lựa chọn Luật áp dụng trong việc thành lập và cho phép thành lập Công ty CTTC. II-/ Một số giải pháp nhằm hoàn thiện cơ chế pháp lý đối với hoạt động CTTC. Như chúng ta đã biết, công nghệ CTTC đã phát triển mạnh mẽ từ lâu trên thế giới, thể hiện sức sống của nó và sự tồn tại của công nghệ này là tất yếu khách quan do yêu cầu phát triển kinh tế. CTTC là một mô hình đầu tư mới tại Việt Nam nhưng đã được sự quan tâm, hướng dẫn tạo dựng nghiệp vụ mới này ngay từ ngày đầu của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Đến nay, sau một thời gian thực hiện, chúng ta có thể đánh giá, về cơ bản cho thuê tài chính đã có thị trường và được chấp nhận như một giải pháp tín dụng mới cho các doanh nghiệp đổi mới máy móc, thiết bị nhằm công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Các Công ty CTTC dù là 100% vốn nước ngoài, 100% vốn Việt Nam hay Công ty CTTC liên doanh (cho đến nay có tất cả 9 Công ty) ra đời sớm hay muộn đều đã tạo được chỗ đứng của mình trong nền kinh tế. Đến nay, trừ ANZ - V - TRACT Leasing Company chưa hoạt động, còn hầu hết các Công ty đã triển khai việc cho thuê. Nếu như không kể thời gian 2 - 3 năm đầu bị lỗ (trong giới hạn cho phép) thì các Công ty chưa vấp phải những vấn đề gì lớn, nghiêm trọng đến mức phải ngừng hoạt động như các lĩnh vực khác. Nhưng để có thể tồn tại và phát triển, hoạt động CTTC cần có sự quan tâm, hỗ trợ tích cực và có những giải pháp hiệu quả hơn nữa của Chính phủ của NHNN và các cơ quan chức năng khác cũng như các chủ thể thành lập Công ty CTTC trong việc tháo gỡ những khó khăn hiện nay. Căn cứ vào những khó khăn đối với hoạt động CTTC đã trình bày ở phần trên. Sau đây em xin trình bày một số ý kiến đề xuất đối với các cơ quan quản lý Nhà nước, các chủ thể thành lập Công ty CTTC và một vài kiến nghị trực tiếp đối với Công ty CTTC - Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam cũng như các Công ty CTTC khác đang hoạt động tại nước ta. 1-/ Một số kiến nghị đối với các cơ quan quản lý hữu quan. * Chính phủ sớm ban hành Nghị định mới thay cho Nghị định 64/CP và nhanh chóng hướng dẫn mục tiêu Nghị định mới này thay thế cho hướng dẫn số 03/TT - NH5. Nghị định mới này cần quy định rõ chức năng của các Bộ, các ngành liên quan như thương mại, hải quan, tài chính... có trách nhiệm ban hành những văn bản quy định hướng dẫn thực hiện đồng bộ Nghị định này, tạo cho hoạt động CTTC có một hành lang pháp lý thống nhất, không chồng chéo giữa các quy định của các cơ quan chức năng. Nghị định mới cần phải giải quyết nhanh chóng và triệt để những vấn đề còn tồn tại trong các văn bản pháp luật về hoạt động CTTC, cụ thể: - Về lệ phí trước bạ đối với tài sản thuê. Việc nộp lệ phí trước bạ để xác lập quyền sở hữu tài sản đối với các chủ tài sản - những người muốn pháp luật công nhận quyền sở hữu hợp pháp của mình với tài sản là việc làm hoàn toàn hợp lý. Nhưng kể từ khi hoạt động CTTC được đưa vào và sử dụng ở nước ta thì việc nộp lệ phí trước bạ lại vô tình gây khó khăn cho các chủ thể tham gia quan hệ CTTC vì việc phải nộp lệ phí trước bạ 2 lần đối với một tài sản đã làm cho chi phí CTTC quá cao (như đã phân tích ở phần trên). Thiết nghĩ, trong Nghị định mới nên quy định cụ thể việc chuyển giao quyền sở hữu tài sản từ hoạt động CTTC theo hợp đồng thuê khi hết hạn hợp đồng được miễn lệ phí trước bạ sang tên, Quy định được như vậy thì hoạt động CTTC sẽ sôi động hơn rất nhiều, đáp ứng được mục tiêu ban đầu của Nghị định 64/CP là tạo ra cho các doanh nghiệp Việt Nam một kênh dẫn vốn có hiệu quả thông qua hoạt động CTTC. - Về đăng ký tài sản thuê. Theo những quy định hiện hành thì đối với những tài sản thuộc đối tượng phải đăng ký quyền sở hữu, các Công ty CTTC phải đăng ký quyền sở hữu tại địa phương nơi đống trụ sở chính của Công ty. Vì vậy trong Nghị định mới vấn đề này cần được sửa đổi, nên quy định: cho phép đối với những loại tài sản thuê phải đăng ký quyền sở hữu, các chủ thể có thể lựa chọn việc đăng ký tại nơi thích hợp nhất. Có thể nơi đóng trụ sở chính của bên cho thuê, của bên thuê hay tại nơi tài sản thuê được sử dụng. Hiện nay chúng ta đã có Trung tâm thông tin của các tổ chức tín dụng nên các Công ty CTTC hoàn toàn có thể kiểm soát được tài sản cho thuê đồng thời tài sản cho thuê cũng thường xuyên được kiểm tra tính an toàn với chi phí thấp nhất. - Về tổng số tiền thuê: Theo quy định tại Nghị định 64/CP “Tổng số tiền thuê mà bên thuê phải trả cho bên cho thuê ít nhất tương đương với giá thị trường của tài sản vào thời điểm ký kết hợp đồng. Nghị định mới nên quy định: Tổng số tiền thuê mà bên thuê phải trả cho bên cho thuê ít nhấp phải tương đương với giá trị đầu tư của công ty CTTC vào tài sản tại thời điểm chuyển giao tài sản cho bên thuê. Nếu quy định như vậy, nghĩa vụ trả tiền thuê của bên thuê luôn tương ứng với phần tín dụng được cung cấp bởi các Công ty CTTC. - Quy định thời gian thuê hợp lý hơn: Trong Nghị định 64/CP quy định thời gian thuê tối thiểu là 60% thời gian cần thiết để khấu hao tài sản thuê. Để quy định về thời gian thuê được “mềm dẻo” hơn, nên đưa ra một số khả năng cho các chủ thể lựa chọn. Trong trường hợp có nhiều bên thuê có nhu cầu về cùng loại tài sản những không có nhu cầu sử dụng thường xuyên, cho phép Công ty CTTC có thể đồng thời ký kết với nhiều bên thuê về tài sản đó và kèm theo đó là quy định các bên có thể thoả thuận bán lại tài sản cho một chủ thể thuê với giá danh nghĩa hoặc tài sản vẫn thuộc về bên cho thuê (để khắc phục khó khăn khi xử lý tài sản thuê). Trường hợp không ký được hợp đồng theo phương thức nêu trên, bên cho thuê được phép cho thuê với thời gian ngắn đối với nhiều chủ thể có cùng nhu cầu nhưng số tiền thuê phải trả cao hơn so với quan hệ thuê mua thông thường (có thể cao hơn 200% so với quan hệ thuê thường). Biện pháp này vừa tạo điều kiện cho bên thuê có cơ hội tốt nhất trong kinh doanh đồng thời cũng giúp cho bên cho thuê nhanh chóng thu hồi vốn đầu tư (thực hiện khấu hao nhanh) trong điều kiện chúng ta chưa thực hiện hoạt động cho thuê vận hành. - Nghị định mới nên quy định thêm nghĩa vụ mua bảo hiểm đối với trách nhiệm chi trả, thanh toán để giải quyết khó khăn trong việc xử lý tài sản thuê. Biện pháp này có thể làm tăng chi phí kinh doanh của bên thuê nhưng là biện pháp an toàn cho Công ty cho thuê, phần phí bảo hiểm trách nhiệm chi trả có thể được san sẻ giữa bên cho thuê và bên thuê. Đây không phải là biện pháp hoàn toàn mới mẻ và cá biệt trong hoạt động tín dụng bởi lẽ nghĩa vụ mua bảo hiểm tiền gửi của quỹ tín dụng nhân dân đã được thực hiện trong nhiều năm nay. - Nghị định mới cần khắc phục được tính thiếu nhất quán của pháp luật về nội dung của hợp CTTC bằng việc quy định cụ thể một giao dịch CTTC phải hội tụ cả 4 điều kiện quy định tại điều 3 của quy chế tạm thời về tổ chức và hoạt động của Công ty CTTC tại Việt Nam. Bởi vì 4 điều kiện này là những điều khoản chủ yếu của hợp đồng mà theo pháp luật những điều khoản đó bắt buộc phải có trong hợp đồng mà theo pháp luật những điều khoản đó bắt buộc phải có trong hợp đồng, nếu thiếu chúng, thì hợp đồng CTTC không được hình thành và không có hiệu lực pháp luật. Hơn nữa cả 4 điều kiện nói trên đều có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, điều này ràng buộc với điều kia và ngược lại. Giả thiết rằng, hợp đồng CTTC chỉ thoả mãn một điều kiện (điều kiện cả về thời gian thuê) nhưng tổng số tiền thuê lại thấp hơn giá trị của tài sản đó trên thị trường tại thời điểm ký kết hợp đồng (hoặc ngược lại) thì bên cho thuê (hoặc bên thuê) ở vào tình thế bất lợi về quyền và lợi ích. Do đó cuộc thương lượng và đàm phán hợp đồng khó mà đi đến được việc ký kết hợp đồng. Vì lẽ đó, Hợp đồng CTTC cần phải thoả mãn đầy đủ 4 điều kiện quy định tại Điều 3, vừa phù hợp với thực tế giao kết hợp đồng kinh tế vừa phù hợp với Điều 18 của Quy chế cho thuê tài chính. Về tính hiệu lực của hợp đồng cũng cần phải có quy định rõ ràng và nên bãi bỏ việc đăng ký hợp đồng CTTC như hiện nay. - Nghị định mới cũng cần bổ sung thêm quy định về thủ tục thành lập Công ty CTTC 100% vốn Việt Nam, thay thế cho việc áp dụng Quyết định số 05/QĐ - NH5 (07/01/1991) ban hàng “Quy chế cấp giấy phép hoạt động cho các tổ chức tín dụng Việt Nam” tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan chức năng cũng như các chủ thể thành lập Công ty CTTC 100% vốn của Việt Nam khi lựa chọn luật áp dụng, khuyến khích các chủ thể có đủ điều kiện thành lập Công ty CTTC, thúc đẩy thị trường CTTC phát triển. * Kiến nghị với NHNN Việt Nam . - Về nguồn vốn hoạt động: Đề nghị NHNN cho phép các Công ty CTTC được vay vốn trung và dài hạn tại các tổ chức tín dụng bao gồm vay tái chiết khấu từ NHNN bằng hồ sơ cho thuê tài chính hoặc vay trung dài hạn từ NHNN thế chấp bằng hồ sơ đang cho thuê tài chính và được vay vốn từ các nguồn tài trợ. Nói cách khác NHNN có chính sách ưu đãi các Công ty CTTC bằng các các Công ty CTTC được đưa vào danh sách, được xem như một kênh dẫn vốn từ các nguồn vay nợ, từ nguồn viện trợ của Chính phủ và từ các quỹ phát triển như FDI, ODA... - Về việc thu tiền thuê bằng ngoại tệ: Đến nay, NHNN đã cho phép các Công ty CTTC được mua lại ngoại tệ của Ngân hàng thương mại khi có nhu cầu nhập khẩu. Nhưng không phải lúc nào cũng có nhu cầu nhập khẩu ngay khi nhận được tiền thuê bằng đồng Việt Nam. Vì vậy Công ty bị lỗ khi tỷ giá biến đọng. Vậy đề nghị NHNN cho phép các Công ty CTTC được thu nợ bằng ngoại tệ nếu đầu tư bằng ngoại tệ (nhập khẩu tài sản để cho thuê) như các Ngân hàng thương mại và được mua ngoại tệ khi có yêu cầu thanh toán ra nước ngoài. Và ngoại tệ đã mua được đưa vào tài khoản hoạt động của Công ty mà không bị khống chế tại một tài khoản đặc biệt chờ thanh toán. - Về hệ thống kế toán - tài chính: Đề nghị NHNN sớm ban hành văn bản hướng dẫn hạch toán kế toán đối với các Công ty CTTC tạo điều kiện thuận lợi trong công tác kế toán doanh nghiệp. Làm tốt công tác kế toán thì sẽ giúp cho việc quản lý tài sản thuê được dễ dàng, tránh được những rủi ro tài chính, giúp cho việc đánh giá tình hình tài chính của bản thân doanh nghiệp cũng như của khách hàng được chính xác từ đó có thể đưa ra được những quyết định kinh doanh đúng đắn và có hiệu quả nhất (Đối với Công ty CTTC nên cho áp dụng hệ thống kế toán Quốc tế (IAS) có nhiều thuận lợi và phù hợp hơn). - Quy định về việc gia hạn nợ: NHNN nên sớm có quy định sửa đổi nội dung liên quan đến việc gia hạn nợ trong quan hệ cho thuê tài chính trong trường hợp do nguyên nhân khách quan dẫn đến việc chậm trả của bên thuê - hiện nay quy định bên cho thuê không được gia hạn quá một kỳ trả nợ - cần phải sửa đổi quy định này để tạo ra sự bình đẳng giữa cho thuê tài chính với các quan hệ tín dụng ngân hàng khác. * Kiến nghị với Bộ Thương mại. - Về thủ tục nhập khẩu máy móc, thiết bị: Đề nghị Bộ Thương mại cho phép các Công ty CTTC được đăng ký mã số nhập khẩu. Khi có mã số, Công ty được quyền nhập khảu trực tiếp và thường xuyên tất cả các mặt hàng được phép nhập khẩu theo quy định của pháp luật trên cơ sở yêu cầu của bên thuê, không phải xin phép từng lần. Các Công ty CTTC cũng có thể uỷ thác nhập khẩu hoặc ký hợp đồng nhập khẩu có sự tham gia của ba bên: Bên cho thuê, bên thuê và bên cung cấp tài sản thuê. * Kiến nghị với Bộ Tài chính. Vừa qua, Cục thuế đã cho phép các Công ty đi thuê được khấu trừ thuế GTGT hàng tháng. Trong khi đó nếu đi vay ngân hàng thì họ sẽ được khấu trừ ngay. Để tạo điều kiện thuận lợi cho các Công ty đi thuê tài chính, đề nghị Bộ Tài chính cho phép các doanh nghiệp đó được khấu trừ thuế GTGT một lần ngay khi ký hợp đồng thuê, tránh cho họ phải trả thêm lãi trên số tiền thuế giá trị gia tăng trong suốt thời gian thuê. Đối với những tài sản thuê do Công ty CTTC nhập khẩu trực tiếp, đề nghị Bộ Tài Chính cho áp dụng mức thuế nhập khẩu (hoặc miễn thuế nhập khẩu) như khi bên đi thuê tự nhập khẩu tài sản này. Về thuế thu nhập doanh nghiệp như quy định hiện nay của Bộ Tài chính thì các Công ty CTTC phải chịu mức thuế 32%. Với mức thuế này thì lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp (Công ty CTTC) luôn nhỏ hơn khoản lệ phí sử dụng vốn (với phí suất 6%/năm). Như vậy thì dù các Công ty CTTC có hoạt động hiệu quả đến mấy thì cũng luôn bị lỗ (Điều này được chứng minh từ thực tế nộp thuế của Công ty CTTC - Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam đã được trình bày ở chương II). Để giải quyết khó khăn này, đề nghị Bộ Tài chính giảm thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp đối với hoạt động CTTC và kết hợp với NHNN xem xét, điều chỉnh thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp hoặc phí suất sử dụng vốn, đảm bảo cho các Công ty CTTC kinh doanh có lãi sau khi thực hiện nghĩa vụ nộp thuế với Nhà nước. * Kiến nghị với Bộ Giao thông vận tỉa về giấy pháp lưu hành đối với tài sản thuê. Theo quy định thì Công ty CTTC là người chủ sở hữu tài sản thuê những người sử dụng phương tiện đó lại là bên đi thuê. Vì vậy đề nghị Bộ Giao thông vận tải có quy định cụ thể đối với các tài sản thuê là các phương tiện giao thông, cho phép bên thuê được phép sử dụng tài sản thuê khi có bản sao giấy chứng nhận quyền sở hữu có công chứng Nhà nước của bên cho thuê. 2-/ Một số kiến nghị đối với các chủ thể thành lập Công ty CTTC tại Việt Nam - Trước hết, các chủ thể thành lập Công ty CTTC, các Ngân hàng thương mại cần phải có các văn bản hướng dẫn cụ thể hơn nữa những quy định của Nhà nước cũng như của Thống đốc NHNN về hoạt động tín dụng nói chung và hoạt động CTTC nói riêng. Đây chính là cơ sở pháp lý quan trọng cho việc thành lập và hoạt động của các Công ty CTTC. - Để khắc phục vấn đề thiếu vốn hoạt động của các Công ty CTTC, các chủ thể khi thành lập Công ty CTTC nên xem xét và lựa chọn hình thức Công ty cổ phần để thu hút vốn nhàn rỗi trong dân cư hoặc hình thức Công ty liên doanh với nước ngoài vừa để thu hút đầu tư vừa để học tập kinh nghiệm quản lý kinh doanh từ phía đối tác. Giải quyết được vấn đề vốn, đáp ứng được nhu cầu đầu tư máy móc thiết bị của các doanh nghiệp vừa và nhỏ (chiếm 90% tổng số các doanh nghiệp ở nước ta0 khi đó sẽ có điều kiện mở rộng thị phần, phân tán rủi ro bằng cách đa dạng đối tượng đi thuê, theo đó bên đi thuê không chỉ còn là các doanh nghiệp, các pháp nhân nữa mà bao gồm cả các cá nhân và tổ chức khác. - Nhằm khuyến khích các khách hàng đang thiếu vốn lưu động có thể tham gia vào hoạt động CTTC và đa dạng các hình thức cho thuê. Các chủ thể thành lập Công ty CTTC nên có hướng dẫn, cho phép các Công ty CTTC có thể thực hiện nghiệp vụ “Bán rồi cho thuê lại” (Sales and LeaseBack). Đây là nghiệp vụ mà các Công ty CTTC trên thế giới đã thực hiện (ở nước ta, Công ty CTTC - Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam đã thực hiện nghiệp vụ này, nhưng do không có hướng dẫn và sự cho phép chính thức của Ngân hàng Ngoại thương nên hiện nay Công ty tạm thời không thực hiện). Đây là một nghiệp vụ rất phù hợp với điều kiện kinh tế nước ta, nhiều doanh nghiệp có cơ sở vật chất tốt, sản xuất kinh doanh có lãi nhưng lại thiếu vốn lưu động. Nếu áp dụng “Bán và cho thuê lại” thì các doanh nghiệp đó sẽ bán máy móc, thiết bị cho các Công ty CTTC để lấy vốn lưu động, sau đó lại thuê chính tài sản vừa bán đó để tiếp tục sản xuất kinh doanh. Như vậy các doanh nghiệp đi thuê sẽ có được một khoản vốn lưu động cần thiết mà vẫn không mất quyền sử dụng tài sản đó. Tài sản dùng để giao dịch trong hình thức này có thể là thiết bị mới hay đã qua sử dụng nhưng còn hữu ích. Bằng một hợp đồng loại “Bán và cho thuê lại” sẽ giúp cho nhiều doanh nghiệp có thể tìm được lối thoát cho tình trạng thiếu vốn lưu động của mình. Không chỉ có vậy, nó cũng có thể thúc đẩy việc tài trợ trung, dài hạn đối với những tài sản trước đó được mua bằng nguồn tiền vay hay được dùng để giảm chi phí huy động vốn nếu hình thức này có mức lãi thấp hơn các chi phí sử dụng vốn khác. - CTTC là một hình thức tài trợ tín dụng mới được áp dụng ở nước ta được vài năm trở lại đây, cho nên các doanh nghiệp, thậm chí ngay cả các cán bộ trong ngành Ngân hàng cũng chưa hiểu rõ hết nội dung, ý nghĩa và tính ưu việt của hình thức tài trợ này. Do đó, cũng như các hoạt động dịch vụ tài chính - tiền tệ mới, trước hết các chủ thể thành lập doanh nghiệp CTTC cần có kế hoạch mở các lớp đào tạo, bồi dưỡng kiến thức về hoạt động CTTC cho không chỉ cán bộ, nhân viên trong ngành mà còn mở rộng cho các đối tượng có quan tâm khác. 3-/ Một số kiến nghị đối với các Công ty CTTC đang hoạt động ở nước ta. - Cho tới nay, ở nước ta đã có 9 Công ty CTTC thuộc các loại hình doanh nghiệp khác nhau được thành lập, trong đó có 8 Công ty đã đi vào hoạt động. Với số lượng như vậy thì thị trường CTTC ở nước ta còn khá mỏng và non yếu so với các loại hình tổ chức tín dụng khác. Trong quá trình hoạt động cũng không thể tránh khỏi những khó khăn. Vì vậy các Công ty CTTC nên có mối quan hệ giúp đỡ và học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau, cùng đóng góp ý kiến với Nhà nước về những vấn đề còn tồn tại của hệ thống luật pháp, của những chính sách đối với hoạt động CTTC. - Đối với những dự án số tiền tài trợ lớn hơn khả năng cho phép (15% vốn điều lệ) các Công ty CTTC nên áp dụng hình thức “cho thuê hợp vốn”. Khi đó hai hay nhiều Công ty cùng thoả thuận góp vốn mua một tài snả có giá trị lớn để đáp ứng nhu cầu thuê tài sản của khách hàng và cùng thoả thuanạ việc phân chia quyền thu lãi cũng như các nghĩa vụ khác theo tỷ lệ vốn góp của mỗi bên vào tài sản cho thuê. - Để đảm bảo việc cho thuê có hiệu quả cao, khi tiến hành một giao dịch CTTC, Công ty cần tuân thủ theo đúng những quy định của pháp luật, đồng thời cũng phải có trách nhiệm hướng dẫn khách hàng, cung cấp cho họ những thông tin cần thiết về tài sản thuê, về lãi suất... có các biện pháp hạn chế rủi ro đến mức thấp nhất. Muốn vậy các Công ty CTTC cần phải nâng cao hơn nữa công thẩm định dự án, cho thuê đầy đủ và kịp thời đối với những dự án có tỉnh khả thi, mức độ an toàn cao. - Các Công ty CTTC cũng phải xây dựng cho mình một kế hoạch kinh doanh phù hợp với quy mô của doanh nghiệp và cũng phải phù hợp với định hướng phát triển kinh tế đất nước trong từng giai đoạn. Đặc biệt, mỗi công ty CTTC cũng phải xây dựng một quy trình nghiệp vụ CTTC cụ thể, trong đó quy định và hướng dẫn từng bước phải làm của một giao dịch CTTC từ thẩm định dự án đến khi kết thúc hợp đồng. Việc làm này sẽ tạo thuận lợi cho các cán bộ, nhân viên trong quá trình làm việc và cũng qua đó gắn trách nhiệm đối với từng người (Công ty CTTC - Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam đã làm được việc này, ngày 15/5/2000 Giám đốc Công ty đã có quyết định số 51/CTTC/QĐ ban hành quy tình nghiệp vụ CTTC). - Các Công ty CTTC cũng nên xúc tiến nghiệp vụ “Cho thuê hợp tác” theo nghiệp vụ này bên cho thuê (Công ty CTTC) có thể yêu cầu bên đi thuê cùng góp vốn để đầu tư tài sản. Như vậy không những giải quyết được vấn đề tài sản có giá trị lớn vượt quá khả năng của Công ty cho thuê, mà đối với những tài sản nằm trong khả năng của Công ty cho thuê thì việc khách hàng góp vốn sẽ gắn trách nhiệm của họ với tài sản, hạn chế được rủi ro cho phía Công ty cho thuê. - Để khắc phục được việc một số khách hàng chưa thực sự hiểu đúng được tiện ích mà hoạt động CTTC đem lại, một số khách hàng coi CTTC cũng tương tự như hình thức mua bán trả góp. Vì vậy muốn được thị trường chấp nhận một cách rộng rãi, các Công ty CTTC cũng cần phải mở rộng các hình thức tuyên truyền, quảng cáo nội dung hoạt động của mình trên các phương tiện thông tin đại chúng. Đối với Công ty CTTC - Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, ngoài các kiến nghị chung cho các Công ty CTTC nêu trên. Công ty cũng cần xây dựng cơ cấu tổ chức cán bộ theo hướng bổ sung các phòng ban sau đây: (Hiện tại Công ty mới chỉ có 12 cán bộ, nhân viên với 1 phòng Giám đốc và 3 phòng chức năng là phòng kinh doanh, phòng kế toán, phòng tổng hợp). Sơ đồ cơ cấu tổ chức đề nghị bổ sung phòng giám đốc Phòng kinh doanh Phòng Kế toán Phòng Tổng hợp Phòng Mar keting Phòng Kỹ thuật Phòng Xuất nhập khẩu Các phòng ban hiện tại Các phòng ban đề nghị bổ sung Chức năng của các phòng bổ sung như sau: 1. Phòng Marketing: Phòng này có nhiệm vụ nghiên cứu thị trường cho thuê tài chính, nghiên cứu và tìm kiếm khách hàng, nghiên cứu các loại tài sản cho thuê. Bên cạnh đó phòng này cũng còn có chức năng tiếp xúc và tìm hiểu phản ứng của khách hàng, làm nhiệm vụ quảng cáo khuếch trương hoạt động của Công ty. 2. Phòng kỹ thuật: Phòng này bao gồm các chuyên gia có trình độ am hiểu về máy móc thiết bị, công nghệ tiên tiến và có khả năng đưa ra kết luận đúng đắn về trình độ công nghệ về chất lượng, chức năng và giá cả hợp lý của tài sản. Từ đó có điều kiện tư vấn cho khách hàng về tài sản cho thuê, có khả năng sửa chữa máy móc, thiết bị khi có rủi ro xảy ra. Phòng này cũng cần thiết lập mối quan hệ với nhà cung cấp để đảm bảo có được những thông tin chính xác về tài sản thuê. 3. Phòng xuất nhập khẩu. Trong tương lai, khi Công ty được trực tiếp xuất khẩu máy móc, thiết bị để cho thuê, thì Công ty cũng nên có bộ phận chuyên môn về xuất nhập khẩu. Phòng xuất nhập khẩu sẽ thực hiện các hoạt động liên kết với nước ngoài, đảm bảo được kế hoạch nhập khẩu máy móc, thiết bị, phục vụ khách hàng. Cùng với việc bổ sung các phòng ban chức năng, Công ty cũng cần phải có kế hoạch đào tạo và phát triển nguồn nhân lực theo hướng: - Tuyển chọn những cán bộ trẻ, có tài năng, có tâm huyết với công việc. - Sắp xếp cán bộ, nhân viên một cách hợp lý để họ có khả năng phát huy tính sáng tạo và năng lực vốn có của mình. - Khuyến khích các cán bộ học thêm, thường xuyên mở các cuộc hội thảo chuyên môn về hoạt động CTTC nhằm nâng cao trình độ của cán bộ nhân viên Công ty. kết luận Cho thuê tài chính chỉ là một dạng kinh doanh tín dụng thuần tuý nhưng lại rất quan trọng đối với một nền kinh tế đang phát triển như nước ta. Nếu được sự quan tâm đúng mức thì những lợi ích mà nghiệp vụ này mang lại cho nền kinh tế không phải là nhỏ. Bởi lẽ, trong tất cả các hình thức tài trợ cho doanh nghiệp thì chỉ có ngành CTTC là có khả năng thu hút vốn, tài trợ trực tiếp cho các doanh nghiệp (đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ) nhằm đổi mới thiết bị, công nghệ, áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất kinh doanh. Tuy vậy, CTTC vẫn mang tính tài trợ là chủ yếu, nguồn thu đơn điệu, hệ số lợi tức không cao và là một nghiệp vụ còn khá mới mẻ ở nước ta. Vì vậy CTTC rất cần có sự hỗ trợ từ phía Nhà nước, cần có những ưu đãi như giảm thuế, hỗ trợ vốn... và đặc biệt là cần có một cơ chế quản lý phù hợp, với những điều kiện pháp lý đảm bảo tính đầy đủ, thống nhất và thông thoáng. Nếu có sự quan tâm đúng mức, cùng với xu hướng tất yếu là sự tương hợp giữa cung và cầu, sẽ thúc đẩy CTTC tìm được sự phát triển đúng tầm vóc của nó so với các nghiệp vụ tài chính khác, khẳng định được rằng “Cho thuê tài chính là nghiệp vụ không thể thiếu trong một nền kinh tế hiện đại”. Cuối cùng em xin chân thành cảm ơn thầy giáo hướng dẫn: PTS. Nguyễn Hợp Toàn, các thầy cô giáo trong khoa Luật; chú Nguyễn Văn Tính - cán bộ hướng dẫn - cùng toàn thể cán bộ, nhân viên Công ty cho thuê tài chính - Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam đã tận tình giúp đỡ em hoàn thành đề tài nghiên cứu của mình. Tài liệu tham khảo I-/ Các văn bản pháp quy. 1-/ Luật các tổ chức tín dụng (12/12/1997) - NXB Chính trị Quốc gia 1998. 2-/ Luật NHNN VN (12/12/1997) - NXB Chính trị Quốc gia 1998. 3-/ Pháp lệnh hợp đồng kinh tế (25/09/1989). 4-/ Nghị định 64/CP (9/10/1995) của CP ban hành “Quy chế tạm thời về tổ chức và hoạt động của các Công ty CTTC tại Việt Nam” - CB số 24 ngày 31/12/1995. 5-/ Nghị định số 82/1998/NĐ - CP ngày 03/10/1998 của CP ban hành “Danh mục mức vốn pháp định đối với các tổ chức tín dụng” - CB số 33 ngày 30/11/1998. 6-/ Nghị định số 03/2000/NĐ - CP hướng dẫn thi hành một số điều của Luật doanh nghiệp - CB số 9 ngày 8/3/2000. 7-/ Thông tư số 3/TT - NH5 ngày 9/2/1996 hướng dẫn thực hiện Nghị định 64/CP. 8-/ Thông tư số 49/TT - BTC ngày 06/05/1999 của Bộ Tài chính hướng dẫn áp dụng Luật thuế GTGT trong hoạt động CTTC - CB 24/99 ngày 6/5/1999. 9-/ Quyết định số 5/NH5 - QĐ ngày 7/1/1991 của Thống Đốc NHNN về việc “Ban hành Quy chế cấp giấy phép hoạt động cho các tổ chức tín dụng Việt Nam”. 10-/ Thông tư số 09/NH - TT ngày 7/1/1999 của NHNN hướng dẫn thực hiện Quyết định 5/NH5 - QĐ. 11-/ Quyết định số 95/1998/QĐ - NHNN5 của Thống đốc NHNN về việc sửa đổi, bổ sung thông tư số 3/TT - NH5 ngày 9/2/1996. II-/ Các tài liệu khác. 1-/ Sách: - Trần Tô Tử, Nguyễn Hải Sản: Tìm hiểu và sử dụng tín dụng thuê mua - NXB Trẻ 1998. - Nguyễn Thị Khế, Bùi Thị Khuyên - Tìm hiểu Luật kinh tế - NXB TP Hồ Chí Minh 1997 2-/ Tạp chí: Thời báo kinh tế, Ngân hàng, Đầu tư, Thị trường tài chính tiền tệ các số năm 1999 và năm 2000. 3-/ Các tài liệu của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam và Công ty CTTC - Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. Mục lục

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docI0011.doc
Tài liệu liên quan