Đề tài Hoàn thiện công tác phân công, hiệp tác lao động ở bộ phận Nhà phòng và Nhà hàng - Công ty Khách sạn du lịch Kim Liên

Phát triển sâu hơn từ hình thức phân công lao động theo chức năng, phân công lao động theo nghề cũng có tác dụng to lớn trong việc phân định rõ trách nhiệm cho người lao động thực hiện công việc, thuận lợi để họ có thể làm quen, hình thành kỹ năng, kỹ xảo trong chuyên môn. Đồng thời bản thân công việc cũng đặt ra những yêu cầu, đòi hỏi đối với người thực hiện chúng về trình độ chuyên môn, hiểu biết, kinh nghiệm để doanh nghiệp có thể lựa chọn người, bố trí phù hợp nhằm đạt được năng suất lao động cao. Không chỉ vậy, nó còn tiết kiệm chi phí cho doanh nghiệp trong việc rút ngắn thời gian đào tạo và làm quen với công việc mà có thể sử dụng sức lao động của công nhân sớm hơn, giảm thời gian lao động hao phí do không làm đúng chuyên môn, sử dụng hiệu quả lao động. Đồng thời, tạo điều kiện trong trang bị máy móc, thiết bị chuyên dùng, nâng cao trình độ tổ chức lao động, phục vụ nơi làm việc hợp lý, khoa học.

doc115 trang | Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 904 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hoàn thiện công tác phân công, hiệp tác lao động ở bộ phận Nhà phòng và Nhà hàng - Công ty Khách sạn du lịch Kim Liên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng tạo ra tác động tiêu cực đến chính bản thân những nhân viên dưới quyền. Cửa hàng trưởng, phó các Nhà hàng thường xuyên đi làm muộn và về sớm, đến bộ phận chủ yếu là ngồi chơi, tán gẫu thì bản thân nhân viên cũng nảy sinh ý thức kém. Còn quản đốc và phó quản đốc tuy đến đúng giờ làm việc hơn nhưng lại không bắt tay vào làm việc ngay mà còn dành thời gian ăn sáng, nói chuyện cũng tạo ra thói quen xấu cho nhân viên dưới quyền. Không chỉ dừng lại ở đó, những chức danh quản lý này còn chưa nghiêm túc trong vấn đề chấm công lao động, hiện tượng chấm tăng công so với thực tế đi làm xảy ra phổ biến. Phân công lao động trực tiếp phục vụ: Một điều cũng dễ dàng nhận thấy trong công tác phân công, bố trí lao động trực tiếp làm việc một cách đồng đều, cào bằng. Ở bộ phận Nhà phòng, mặc dù có căn cứ trên cơ sở của hệ thống mức lao động nhưng với cả hai cách bố trí làm chung và làm riêng cũng đều nảy sinh sự bất hợp lý. Bố trí làm chung: ví dụ một tầng 3 người, thì công việc của mỗi người là như nhau chỉ là sự phân biệt về vị trí làm việc trong phòng ngủ, hay phòng tắm. Còn ở cách bố trí lao động làm riêng tuy có nhiều ưu điểm nhưng cũng không tránh khỏi được hạn chế này khi mỗi lao động dù bậc thấp hay bậc cao đều đảm nhiệm làm tổng thể vệ sinh của 6 phòng. Chính sự phân công như vậy đã nảy sinh sự không công bằng. Do công việc phục vụ phòng là công việc chủ yếu mang tính chất giản đơn, dựa vào sức người thì giữa lao động ở các bậc tay nghề chênh lệch không nhiều trong khi đó những lao động trẻ có mặt mạnh nhanh nhẹn cộng thêm sức khỏe tốt hơn thì những lao động này lại làm việc hiệu quả cao hơn. Mà trả lương lại được trả dựa trên hệ số lương của cấp bậc công nhân dẫn đến những người làm việc tốt hơn mà lương lại thấp hơn ngược lại những nhân viên làm việc hiệu quả thấp hơn lại có lương cao hơn hẳn. Một vấn đề hết sức bất hợp lý và đánh mất ý nghĩa, vai trò của tiền lương. Thêm vào đó, do khối lượng công việc dồn hết vào buổi sáng thì số lượng lao động đi làm cũng được bố trí tập trung vào lúc này, giảm nhiều vào buổi chiều dẫn đến hao phí nhiều lao động hơn là phân bố đều lao động làm việc cả ngày. Ví dụ: nếu bố trí 6 lao động làm vệ sinh tổng số 36 phòng hoàn thành trong một buổi sáng thì chỉ cần 3 người để thực hiện số phòng như trên trong cả sáng và chiều. Như vậy có thể tiết kiệm đến một nửa số lao động. Không chỉ lao động vệ sinh phòng mà thời gian làm của nhân viên trực phụ chưa kết hợp và phát huy hết hiệu quả của ngày công, giờ công. Ví dụ: trực phụ ở nhà 1, nhà 6 các buổi chiều đại đa số chỉ làm công việc đi tua, bố trí phòng ở khi khách đến còn công việc dọn phòng buổi chiều (khi khách đi) và đặt tiêu chuẩn phòng khách đang ở cũ (thực chất là công việc đi tua) lại do người làm chiều đảm nhận nên vệ sinh cao, kính, chớp ở các nhà vào buổi chiều hầu như không làm được hoặc có làm thì rất ít. Còn tại bộ phận Nhà hàng, sự phân công lao động tùy tiện, thiếu chặt chẽ hiện đang là một vấn đề nan giải và nhức nhối nhất hiện nay trong Công ty. Hiện tượng lao động làm việc rời rạc, thiếu ý thức kỷ luật: những lao động mới vào làm, bậc thấp làm việc là chủ yếu trong khi những lao động bậc cao, làm việc lâu năm hơn thì rất nhẹ nhàng, thậm chí cũng ngồi chơi cùng với các Cửa hàng trưởng, phó. Và cũng xuất hiện sự bất hợp lý tương tự bộ phận Nhà phòng trong vấn đề trả lương. Người làm việc nhiều thì lương lại thấp còn những nhân viên có lương cao lại lười biếng, không làm việc hoặc làm việc rất ít. Thời gian làm việc quy định chưa thực sự hợp lý. Quản đốc, phó quản đốc và những lao động làm vệ sinh phòng bắt đầu làm việc từ 7 giờ là sớm, lúc này khách vẫn đang ngủ, chưa ra khỏi phòng thì nhân viên cũng không thể làm việc được ngay. Buổi chiều lại bắt đầu làm việc từ 14 giờ, tức là có 2,5 giờ để nghỉ trưa là quá nhiều. Người lao động có điều kiện để nghỉ ngơi hồi phục sức khỏe nhiều hơn nhưng thay vào đó họ lại mất nhiều thời gian hơn để bắt nhịp lại với công việc. Những lao động nhà gần thì có thể tranh thủ về, còn nhân viên có nhà ở xa hơn không có điều kiện về thì lại mệt hơn vì không có điều kiện nghỉ ngơi. Công việc làm vệ sinh phòng bao giờ cũng bắt đầu bằng việc chuẩn bị các tài sản như nhận ga gối, tiêu chuẩn đặt phòng. Thông thường bước này hết nhiều thời gian vì giờ làm việc của nhân viên tài sản cũng bắt đầu từ 7 giờ, những nhân viên phục vụ phòng phải đợi lấy tài sản phát, nên đến khoảng 7g45 người lao động mới thực sự công việc dọn phòng. Do đó vào những ngày khách đi hết vào buổi sáng chị em phải làm đến 12 giờ mới xong thậm chí có nhà phải làm đến 13g hoặc 14g. Làm quá giờ người lao động được chấm thêm công khi mà thực tế không đòi hỏi như vậy. Với cách phân công lao động theo chức năng như đã phân tích ở trên của bộ phận Nhà hàng thì thời gian làm việc hiện nay chưa sát với thực tế. Tất cả các lao động trong ca đi cùng một giờ mà nhiệm vụ của mỗi người lại có độ chênh lệch về thời điểm. Ví dụ như: nhân viên nấu bếp bận hơn vào buổi sáng đến gần trưa, nhân viên phục vụ bàn lại bận vào lúc muộn hơn khi trong lúc chuẩn bị, phục vụ khách ăn, thu dọn và vệ sinh đồ dùng phục vụ. Với thời gian này, người lao động phục vụ bàn đến sớm trong khi không cần thiết, khách ăn xong là lúc để thu dọn thì đã gần hết giờ làm việc. Nếu họ bắt tay vào rửa bát, đĩa thì có thể sẽ phải làm quá giờ hoặc họ không làm ngày thì có thể sẽ thực hiện vào ca khác, ngày khác. Như vậy dẫn đến lãng phí công lao động. Còn các Cửa hàng trưởng và Cửa hàng phó với nhiệm vụ được giao như hiện nay thì có thể đi theo giờ hành chính như bộ phận Nhà phòng thì có thể tiết kiệm được công lao động. Từ đó có thể giảm bớt đi một chức danh Cửa hàng phó. Phân tích công việc: các văn bản phân tích công việc hiện vẫn sử dụng từ thời gian cũ (năm 2000) đến nay vẫn chưa có một sự điều chỉnh nào do vấn đề công tác phân công lao động ở dưới các bộ phận thì vẫn thực hiện theo lối truyền thống, công tác tuyển dụng không chặt chẽ, đa số lao động đều là con em cán bộ công nhân viên trong Công ty và các mối quan hệ ngoại giao khác nên các văn bản phân tích công việc không phát huy được vai trò và tác dụng. Đánh giá thực hiện công việc: cũng chưa sát sao, thiếu chặt chẽ. Hàng quý, năm các bộ phận bình bầu lao động xuất sắc theo phương pháp bỏ phiếu kín. Những lao động được khen thưởng có thể chưa thực sự xứng đáng vì cách bình bầu này thiếu tính khách quan, bị chi phối bởi yếu tố tình cảm, không căn cứ trên hiệu quả thực hiện công việc thực tế. Tiền lương: Như đã trình bày ở trên, trả lương cho tất cả các chức danh bằng hệ thống thang bảng lương của Nhà nước gồm lương vòng 1 theo quy định của Nhà nước và lương vòng 2 do Công ty tự xây dựng. Hệ số lương của người lao động được hưởng căn cứ vào cấp bậc công nhân mà họ đang giữ không dựa trên khối lượng công việc mà họ đảm nhận. Hàng tháng căn cứ vào xếp loại lao động A, B, C để trả lương cho người lao động tương ứng với các mức hưởng 100%- 90%- 80%. Nếu trong tháng đó người lao động có vi phạm bị xếp loại B, C sẽ giảm 10-20% mức lương hưởng và không được bình bầu lao động xuất sắc trong quý đó. Trên thực tế, các chức danh quản lý thường tự tiến hành các hình phạt của tổ với những lao động có sai phạm chứ không xếp hạng B, C và chỉ sử dụng với những lỗi nghiêm trọng. Do đó xảy ra thực tế, người lao động làm việc vất vả thì lương thấp, một số chức danh quản lý không làm việc thì lại có mức lương cao. Đây cũng là một hiện tượng khá phổ biến trong các doanh nghiệp Nhà nước. Với những vấn đề đã được nêu trên, tuy đã có bề dày lịch sử trong ngành du lịch nhưng Công ty Khách sạn du lịch Kim Liên còn nhiều bất hợp lý trong công tác phân công, hiệp tác lao động ở bộ phận Nhà phòng và Nhà hàng. Nguyên nhân thực sự của những bất hợp lý trên đó là cách làm việc thiếu khoa học, trì trệ, lỏng lẻo của doanh nghiệp Nhà nước, sự quan tâm chưa đúng mức của Ban lãnh đạo Công ty. Những thành tựu to lớn trong hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty Khách sạn du lịch Kim Liên trong suốt thời gian qua là điều không thể phủ nhận được. Nếu những hạn chế nêu trên có thể được khắc phục thì kết quả không chỉ dừng lại ở đó mà sẽ còn rực rỡ hơn. Từ đó không góp phần xây dựng một hình ảnh đẹp, mới, đưa Công ty lên một tầm cao mới mà còn đem lại cho những cán bộ công nhân viên ở đây một môi trường làm việc chuyên nghiệp, một cuộc sống đầy đủ và sung túc hơn. Chính vì vậy việc hoàn thiện công tác phân công, hiệp tác lao động của bộ phận Nhà phòng, Nhà hàng nói riêng và ở tất cả các bộ phận khác trong Công ty đang trở nên thực sự bức thiết như một đòi hỏi của thực tiễn khách quan. CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN PHÂN CÔNG, HIỆP TÁC LAO ĐỘNG Ở BỘ PHẬN NHÀ PHÒNG VÀ NHÀ HÀNG – CÔNG TY KHÁCH SẠN DU LỊCH KIM LIÊN Phương hướng phát triển trong thời gian tới: Như chúng ta đã biết, Công ty Khách sạn du lịch Kim Liên đã tiến hành xong Đại hội cổ đông. Từ ngày 01/03/2008, Công ty chính thức hoạt động với mô hình Công ty Cổ phần. Cổ đông chiến lược là Ngân hàng Dầu khí toàn cầu có nguồn vốn mạnh, phong cách làm việc chuyên nghiệp đã tác động rất lớn đến Công ty: không còn hoạt động theo kiểu Doanh nghiệp Nhà nước trì trệ, thiếu khoa học mà thay vào đó là một mô hình làm việc mang đậm nét công nghiệp hóa, với tiến độ nhanh, tinh thần trách nhiệm cao. Sự thay đổi này không phải diễn ra một cách từ từ, dần dần mà được triển khai ngay trong toàn bộ Công ty. Dẫn đến những thay đổi rất lớn trong mọi mặt hoạt động của doanh nghiệp. Như Hội đồng quản trị đã tuyển dụng tổng giám đốc đã sống và làm việc một thời gian tại Đức, giám đốc điều hành là người quản lý rất chuyên nghiệp mang quốc tịch Úc. Với sự quản lý, theo dõi, giám sát hoạt động của những chức danh này, tinh thần và thái độ làm việc của toàn bộ nhân viên trong Công ty đã có những chuyển biến đáng kể. Mọi mặt tài chính, nhân sự, sản phẩm, dịch vụ đều được ban giám đốc mới quan tâm xem xét và chắc chắn sẽ có sự điều chỉnh lớn cho phù hợp với mô hình Công ty Cổ phần du lịch với tiêu chuẩn phục vụ được nâng lên 4 sao. Chủ trương của Ban Giám đốc sẽ sát nhập hai lĩnh vực hoạt động chính của Công ty là Khách sạn Kim Liên 1, 2 và Nhà hàng. Đồng thời, các hoạt động bổ trợ khác như: Giặt là, bảo vệ, kỹ thuật sẽ sát nhập vào khối Khách sạn, Nhà hàng này. Như vậy, mọi hoạt động trực tiếp của Công ty sẽ thuộc quản lý chung của Giám đốc điều hành dịch vụ, khách sạn. Tổng giám đốc giám sát hoạt động kinh doanh thông qua Giám đốc điều hành này và quản lý trực tiếp các phòng ban. Với cách tổ chức, sắp xếp này, Tổng giám đốc sẽ chỉ làm việc với Giám đốc các ban, ngành; Giám đốc điều hành dịch vụ, khách sạn tạo điều kiện thuận lợi cho việc thông tin, chỉ đạo thực hiện các chủ trương, chính sách. Đứng trước những thay đổi về mặt cơ cấu tổ chức như vậy, vấn đề nhân sự cũng như phân công, hiệp tác lao động cũng không thể tránh khỏi những biến động. Vậy cần phải có những điều chỉnh như thế nào để đáp ứng những nhu cầu đó. Sau đây là một vài giải pháp: Một số giải pháp chung: Với số lượng cán bộ công nhân viên được bàn giao từ Công ty cũ sang Công ty mới là 689 người, một con số không nhỏ. Để đảm bảo hoạt động hiệu quả, số lao động hiện nay cần được điều chỉnh về số lượng cũng như về chất lượng, ý thức kỷ luật và thái độ làm việc. Trước hết, phòng Tổ chức- hành chính cần lên phương án điều chỉnh lại định mức lao động của bộ phận Nhà phòng một cách phù hợp hơn với điều kiện thực tế và xây dựng hệ thống mức lao động cho từng Cửa hàng. Đây sẽ là những cơ sở để Công ty xác định được số lượng lao động thực tế cần thiết ở từng chức danh. Từ đó mới áp dụng các biện pháp giảm bớt số lao động hiện có. Trước hết là những lao động làm việc tại các bộ phận trực tiếp này, sau đó đến các bộ phận dịch vụ bổ sung, gián tiếp để tiến hành bố trí lại lao động phù hợp hơn. Trước tình hình sát nhập các khách sạn và Nhà hàng thành một khối hoạt động kinh doanh thì mô hình các chức danh quản lý ở từng đơn vị hiện nay cần phải thu hẹp lại và làm việc có hiệu quả hơn, phát huy vai trò của mình trong việc chỉ đạo, giám sát, kiểm tra hiệu quả hoạt động của đơn vị được giao nhiệm vụ quản lý. Không chỉ vậy, những lao động trực tiếp sản xuất cũng cần sử dụng với số lượng hợp lý, trên cơ sở phân công, hiệp tác lao động một cách chặt chẽ và khoa học. Đồng thời xây dựng hệ thống trả lương mới không theo thang bảng lương của Nhà nước mà là những mức lương cụ thể cho từng chức danh công việc. Trong phân cấp quản lý do Tổng Giám đốc ban hành giao Giám đốc điều hành chịu trách nhiệm toàn bộ hoạt động của khối dịch vụ, khách sạn về sản xuất, kinh doanh đến nhân sự. Chính vì vậy, Phòng Tổ chức- hành chính sau khi Giám đốc điều hành dịch vụ, khách sạn điều chỉnh nhiệm vụ trách nhiệm của các chức danh công việc, bố trí thời gian làm việc mới sẽ tiến hành xây dựng hệ thống các văn bản công việc của các chức danh ở bộ phận Nhà phòng và Nhà hàng. Từ đó căn cứ vào mức độ phức tạp, khối lượng công việc, tính trách nhiệm của từng chức danh công việc sẽ hình thành nên hệ thống bảng lương mới. Một số giải pháp riêng: 1. Phân công, hiệp tác lao động: 1.1. Chức danh quản lý: Trước những nhiệm vụ được giao: vừa làm những trọng trách quản lý, giám sát đảm bảo chất lượng phòng phục vụ của cả một Nhà phòng, vừa làm chuyên môn nghiệp vụ vệ sinh phòng - một khối lượng công việc rất lớn mà người quản đốc phải gánh vác. Từ đó dẫn đến họ không có nhiều thời gian để kiểm tra kỹ chất lượng vệ sinh của các phòng. Nhưng nếu như chức danh này không phải tham gia làm việc chuyên môn như những nhân viên khác thì nhiệm vụ lại hơi nhẹ, hao phí lao động quản lý mà thay vào đó tăng số lao động trực tiếp, cùng với thực tế dư thừa về số lượng và vai trò của Cửa hàng trưởng, phó ở các Cửa hàng như hiện nay. Để dung hòa giữa những bất cập nêu trên, ta cần xây dựng mô hình chức danh quản lý chuyên trách liên các đơn vị. Cụ thể là những chức danh quản lý sẽ tách ra chỉ chuyên thực hiện công tác giám sát, kiểm tra, quản lý, theo dõi mọi mặt hoạt động của đơn vị được giao nhiệm vụ quản lý, không phải tham gia làm việc trực tiếp trong công tác chuyên môn, nghiệp vụ với những nhân viên dưới quyền. Thêm vào đó để tận dụng hợp lý và hiệu quả những lao động quản lý này ta sẽ phân nhóm các Nhà phòng, Cửa hàng thành những nhóm lớn. Mỗi người sẽ chịu trách nhiệm với không chỉ một Cửa hàng, Nhà phòng như trước mà là 3 Nhà phòng, 3 Cửa hàng. Với cách thức bố trí như thế này, mỗi Nhà phòng sẽ giảm bớt một người quản đốc, phó quản đốc, đồng thời cán bộ quản lý có thể chuyên tâm thực hiện nhiệm vụ của mình, giảm bớt đầu mối quản lý mà khối lượng công việc vẫn đảm bảo sử dụng hiệu quả lao động. Chức danh này cũng không nhất thiết phải đi làm tất cả các ngày trong tháng, với trách nhiệm giám sát họ chỉ cần đi làm số ngày công chế độ trong tháng. Khối lượng công việc về sổ sách sẽ giảm đáng kể nếu các báo cáo, đối chiếu doanh thu hàng ngày là nhiệm vụ quản đốc không còn phải thực hiện bằng tay nữa mà số liệu của Nhà phòng và lễ tân sẽ tự đối chiếu qua hệ thống phần mềm có nối mạng internet. Chính vì vậy, để khoa học, nhanh và liên hoàn cần giao nhiệm vụ cho bộ phận tin học- công nghệ thông tin của Công ty xây dựng hệ thống phần mềm quản lý dịch vụ với đặc điểm dễ sử dụng để các nhân viên trực phòng có khả năng thao tác khi khách check in, check out. Thêm vào đó, Công ty cần mở lớp hướng dẫn sử dụng phần mềm một cách thống nhất và hệ thống cho các nhân viên trực phòng để những lao động này có thể nhập và kiểm tra dữ liệu một cách chính xác. Quay lại với chức danh quản lý, việc bố trí này sẽ thực hiện trên cơ sở có sự tính toán tương đối về quy mô của các Nhà phòng trong một nhóm và vị trí của mỗi đơn vị để tạo điều kiện thuận lợi trong quá trình tác nghiệp của người quản lý. Cụ thể: với 9 Nhà phòng như hiện nay chỉ cần đến 3 lao động quản lý, mỗi lao động quản lý 3 Nhà phòng được phân theo nhóm như sau: Nhóm 1: Nhà phòng 1-2-5 hiện có 160 phòng; Nhóm 2: Nhà phòng 3-8-6 với 125 phòng; Nhóm 3: Nhà phòng 4-4A-9 có quy mô 140 phòng. Vị trí xây dựng của các Nhà phòng trong mỗi nhóm là gần nhau với sự phân chia này chúng ta có thể nhận thấy thực sự hình thành nên 3 khu Nhà phòng trong Công ty. Để tạo điều kiện thuận lợi cho cách phân công này, Công ty cần phải tiến hành đồng bộ hoá chất lượng các phòng, thống nhất trong trang bị: số lượng, chất liệu tủ, giường, bàn, ghế, đèn ngủ; đặt tiêu chuẩn hàng hóa ở các nhà: số lượng khăn mặt, lau chân, khăn tắm... Có như vậy mới khoa học, thuận lợi trong công tác theo dõi, giám sát không chỉ của những người quản lý Nhà phòng, mà còn đối với phòng Kinh doanh trong công tác quản lý tài sản. Không chỉ vậy, đây là cơ sở để tiến hành dịch chuyển, điều động lao động giữa các Nhà phòng trong cùng một nhóm khi cần thiết. Về tiêu chuẩn chất lượng, nhóm 2, 3 có sự tương đương nhau và đạt tiêu chuẩn 3 sao, nhóm 1 thấp hơn với hai nhà đạt tiêu chuẩn 2 sao (Nhà phòng số 1,2). Với mô hình này, mỗi Nhà phòng sẽ vẫn tồn tại chức danh người giữ tài sản để thuận tiện cho việc thu nhận, cung cấp các hàng hóa phục vụ công việc làm phòng của các nhân viên ở mỗi nhà. Tuy nhiên, cần quy định công việc sổ sách, giao và nhận ga, gối bẩn ở các nhà được thực hiện vào buổi chiều khi khối lượng công việc đã giảm bớt, để dành thời gian buổi sáng làm vệ sinh phòng như những nhân viên khác. Công việc này nên chọn những lao động trẻ tuổi, có sức khoẻ thì thời gian thực hiện nhiệm vụ sẽ được rút ngắn, hiệu quả công việc cao hơn. Còn ở bộ phận Nhà hàng, hiện nay đang có 7 Nhà hàng, trong đó có hoa sen 3,5 phục vụ cơm bình dân cho khách nghỉ tại Công ty và cán bộ công nhân viên mà khối lượng khách là tự phát, không định được trước với hai Cửa hàng phục vụ cơm trưa, tối sẽ làm phân tán, có sự chênh lệch về số lượng khách mà chưa sử dụng hết được công suất. Không có sự thống nhất về đối tượng: khách và người lao động trong Công ty. Chính vì vậy, chỉ cần có 1 Cửa hàng hoa sen 3 có vị trí đẹp và thuận lợi hơn phục vụ cơm bình dân cho khách nghỉ tại Công ty. Còn Cửa hàng Hoa sen 5 sẽ trở thành căngtin nội bộ chuyên phục vụ cơm trưa, tối cho toàn thể cán bộ công nhân viên làm việc trong ngày. Người lao động sẽ yên tâm làm việc hơn, không còn phải lo lắng vấn đề ăn giữa ca, hạn chế sự lộn xộn giữa những người không ăn cơm tại Nhà hàng mà ra khỏi Công ty ăn vừa không đảm bảo an toàn cho người lao động, vừa không khoa học hợp lý. Đây cùng là cơ sở để giảm bớt thời gian nghỉ trưa dài như đã nói ở trên. Muốn vậy, phòng Kinh doanh cần trang bị khoảng 500 khay ăn cơm inox cho Hoa sen 5 để phục vụ cho cán bộ công nhân viên. Ở đây, phong cách phục vụ cũng sẽ khác, không có nhân viên phục vụ bàn như những Cửa hàng khác mà bản thân mọi người lao động trong Công ty sẽ tự đi lấy khẩu phần ăn, và chuyển khay ăn tới khu vực vệ sinh của Nhà hàng này. Như vậy, không chỉ tiết kiệm lao động ở hoa sen 5 mà còn rèn luyện, nâng cao ý thức của mỗi người lao động với Công ty. Với nhiệm vụ này, Hoa sen 5 trở thành một đơn vị phục vụ cán bộ công nhân viên nên đội ngũ lao động ở đây cần tách khỏi Nhà hàng và chuyển thuộc quản lý của phòng Tổ chức- hành chính. Lúc này, Nhà hàng sẽ chỉ còn 6 Cửa hàng, được tiến hành phân chia thành 2 nhóm theo nguyên tắc về vị trí, tương đồng về chất lượng như đã nêu trên ở bộ phận nhà phòng. Từ đó giảm bớt số lao động quản lý ở mỗi Cửa hàng như trước đây. Đồng thời mỗi nhóm nhà này cũng chỉ cần một nhân viên thống kê chịu trách nhiệm làm sổ sách, thống kê, báo cáo. Như vậy, tuy các chức danh quản lý không phải tham gia làm chuyên môn mà tập trung vào công tác giám sát, quản lý nhưng khối lượng công việc không hề ít đi mà trách nhiệm lại tăng thêm. Mọi vấn đề sai sót, lỗi xảy ra ở bất kỳ một nhà nào thuộc phạm vi quản lý được giao chức danh quản lý ở đó sẽ chịu hoàn toàn trách nhiệm trước Giám đốc điều hành và Tổng Giám đốc. Ngoài những chức danh quản lý nhóm các Nhà phòng, Cửa hàng như đã nêu trên, cũng cần thiết có một chức danh chịu trách nhiệm chung, quản lý những cán bộ này và báo cáo trực tiếp với Giám đốc điều hành. Mối quan hệ này sẽ có thể phác họa ở sơ đồ sau: Giám đốc điều hành dịch vụ, khách sạn Trưởng quản lý Nhà hàng Trưởng quản lý Nhà phòng Phó quản lý Nhà hàng 1 (quản lý nhóm Cửa hàng 1) Phó quản lý Nhà hàng 2 (quản lý nhóm Cửa hàng 2) Phó quản lý Nhà phòng 1 (quản lý nhóm Nhà phòng 1) Phó quản lý Nhà phòng 2 (quản lý nhóm Nhà phòng 2) hàng 2) Phó quản lý Nhà phòng 3 (quản lý nhóm Nhà phòng 3) Sơ đồ 3: Mô hình quản lý tại bộ phận Nhà phòng, Nhà hàng (giải pháp) Những ứng cử viên cho các chức danh trên nên lựa chọn trong các quản đốc, phó quản đốc, Cửa hàng trưởng, phó ở các đơn vị hiện nay. Bởi họ là những người đã có thực tế, kinh nghiệm làm việc. Cần ưu tiên những người dưới 50 tuổi để họ có thời gian làm quen với công việc và cống hiến cho Công ty. 1.2. Lao động trực tiếp: Ở bộ phận Nhà phòng hiện nay nên áp dụng hình thức bố trí lao động làm riêng. Với ưu điểm đã được trình bày ở phần thực trạng, cách thức phân công này tỏ ra hiệu quả hơn rất nhiều so với phương pháp truyền thống. Do đó, Giám đốc điều hành cùng với trưởng quản lý Nhà phòng cần xem xét, nghiên cứu để áp dụng rộng rãi tại các tổ Nhà phòng. Ở các khách sạn lớn có cách bố trí lao động làm việc chuyên môn hóa hẹp theo kiểu một nhân viên chuyên làm vệ sinh phòng ngủ riêng, vệ sinh nhà tắm riênglàm các phòng ở tất cả các tầng. Nhưng theo em với những công việc này không cần thiết phải chia nhỏ như vậy dẫn đến diện hiểu biết về nghề của người lao động hẹp, khó điều chuyển sang các vị trí trong cùng một nghề hơn. Còn đối với bộ phận Nhà hàng, như những quy định trong tiêu chuẩn cấp bậc công việc đã nêu, ta dễ dàng nhận thấy những công việc của chức danh nhân viên phụ bếp và vệ sinh Nhà hàng thực chất cũng chính là những nhiệm vụ của người nấu bếp và vệ sinh Nhà hàng. Nhưng do số lao động ở các Cửa hàng thừa quá nhiều nên đã hình thành nên những công việc này. Trên thực tế chỉ có 2 chức danh nấu bếp và phục vụ bàn phải thi nâng bậc lương, còn những chức danh còn lại không phải thi mà được nâng bậc lương định kỳ 2 năm một lần (nếu trong quá trình giữ bậc cũ không bị áp dụng hình thức kỷ luật kéo dài thời hạn nâng lương). Hệ số lương đang áp dụng của chức danh phục vụ bàn và vệ sinh Nhà hàng là chung một ngạch lương chỉ khác nhau một chức danh có thi và một chức danh không phải thi nâng bậc, một sự bất hợp lý hiện đang tồn tại. Chức danh phụ bếp có ngạch lương riêng, với hệ số lương mỗi bậc cũng gồm 7 bậc, thấp hơn hệ số của chức danh nấu bếp và cao hơn của nhân viên phục vụ bàn và vệ sinh Nhà hàng. Để sử dụng hợp lý số lao động cần giảm bớt những chức danh phụ bếp và vệ sinh Nhà hàng. Những nhân viên làm nấu bếp sẽ đảm nhận thêm các công việc của phụ bếp vẫn làm trước đây, nhân viên phục vụ bàn có trách nhiệm làm vệ sinh khu vực đón tiếp, phục vụ khách để xóa bỏ chức danh vệ sinh Nhà hàng. Có như vậy mới tận dụng được hết thời gian lao động của các chức danh, không hao phí lao động. Đến lúc đó, việc tự giác chấp hành nghiêm chỉnh thời gian làm việc là yêu cầu của thực tế công việc chứ không còn chỉ là ý thức chấp hành kỷ luật của bản thân người lao động. Thời gian làm việc cũng cần phải được qui định lại cho phù hợp với thực tế công việc hơn. Nhân viên vệ sinh phòng không làm việc từ 7 giờ sáng mà bắt đầu từ 8 giờ sáng để giảm bớt thời gian trống khi khách còn đang ngủ, chưa ra khỏi phòng để những lao động này làm vệ sinh. Thời gian nghỉ trưa không kéo dài như trước nữa mà chỉ có 1 giờ từ 12 giờ đến 13 giờ, sau đó lại tiếp tục làm việc đến 5 giờ. Công việc làm vệ sinh phòng không bị bó hẹp hoàn thành trong thời gian làm việc buổi sáng nữa mà san đều trong cả ngày sẽ giảm bớt số lao động đáng kể. Nhân viên trực vẫn làm việc theo chế độ 3 ca/ngày đêm. Với phân công lao động vệ sinh cả ngày thì ban ngày có thể giảm bớt vai trò của người trực phụ. Vì đã có những nhân viên vệ sinh có mặt trên các tầng, việc kiểm và đưa khách về phòng thuộc trách nhiệm của người trực chính. Họ có thể rời vị trí quầy trực để thực hiện những công việc này khi tại đây được lắp một hệ thống camera theo dõi. Khối lượng công việc từ giờ trở đi sẽ không còn nhiều nữa do đó không nhất thiết bố trí thêm lao động trực phụ trong thời gian này. Bộ phận Nhà hàng bố trí làm việc theo ca sáng từ 7 giờ đến 15 giờ, Ca chiều từ 15 giờ đến 22 giờ, nghỉ ăn trưa 0.5 giờ. Có thể thấy một vấn đề của thực tế đặt ra hiện nay là sử dụng hiệu quả số lao động trên cơ sở tận dụng hết năng lực, khả năng của người lao động. Chính vì vậy việc giảm bớt số lượng lao động là điều hết sức bức thiết không chỉ trong bộ phận Nhà hàng và Nhà phòng mà trong toàn Công ty. Để có cơ sở cho chủ trương này, sau khi hoàn thiện cơ chế hoạt động, tiến hành phân công lại các vị trí, chức danh cũng như về điều kiện làm việc, môi trường làm việc cần thực hiện xây dựng hệ thống định mức lao động mới cho hai bộ phận này. Bộ phận Nhà phòng quy định mỗi nhân viên đảm nhiệm bao nhiêu phòng như mô hình định mức cũ, nhưng có những điều chỉnh phù hợp hơn. Riêng bộ phận Nhà hàng, cần định mức trên cơ sở mỗi nhân viên có thể phục vụ được bao nhiêu mâm hoặc khách. Từ đó thông qua khả năng phục vụ theo xây dựng của từng đơn vị mà bố trí số lượng lao động phù hợp. Ví dụ: một nhân viên phục vụ bàn có thể phục vụ được 15 mâm 6 người thì với khả năng phục vụ tối đa là 150 mâm của Cửa hàng đó thì chỉ cần đến 10 lao động phục vụ bàn. Với bộ phận Nhà hàng chỉ cần bố trí định biên lao động theo khả năng phục vụ cao nhất của mỗi Cửa hàng, không còn lao động dự phòng bởi vì công suất hoạt động trong năm không cao bằng Nhà phòng. Trong thời điểm khối lượng công việc nhiều có thể thuê lao động mùa vụ để đảm bảo công việc. Phân tích công việc- Đánh giá thực hiện công việc- Tiền lương: 2.1. Lao động quản lý: Phòng Tổ chức- hành chính khảo sát thực tế căn cứ trên phạm vi giao quản lý, khối lượng công việc, tính trách nhiệm, mức độ phức tạp đảm nhận của các chức danh: trưởng quản lý, phó quản lý, người giữ tài sản xây dựng nên bản mô tả công việc, bản xác định yêu cầu đối với người thực hiện công việc, bản tiêu chuẩn thực hiện công việc. để xây dựng nên mức lương cho mỗi vị trí của chức danh này đảm bảo tính công bằng, hợp lý. Cũng như xây dựng hệ thống mức lương tương ứng có căn cứ trên đánh giá thực hiện công việc. Và mức lương sẽ được ấn định một khoản tiền cụ thể trả cho từng tháng khoảng: 5 đến 7 triệu đồng/ tháng, không trả lương theo bậc như trước. Công tác đánh giá thực hiện công việc không lỏng lẻo như trước đây mà nên để chức danh quản lý trực tiếp tiến hành theo đánh giá mức độ hoàn thành công việc của những chức danh thuộc sự quản lý. Ví dụ: Giám đốc điều hành đánh giá mức độ hoàn thành công việc trưởng quản lý, tương ứng với sự đánh giá của trưởng quản lý đối với phó quản lý, phó quản lý với người giữ tài sản. Với mỗi một sai phạm, lỗi sẽ ấn định % mức phạt trừ tiền lương. Cách làm này tuy có vẻ hơi chặt chẽ, nặng nề quá nhưng thật ra là phù hợp với hoàn cảnh hiện tại của Công ty, để thắt chặt, lập lại kỷ luật trong thực hiện công việc. Cũng như là phương pháp “tạo nhiệt” để góp phần loại bỏ dần những lao động không đủ năng lực làm việc. 2.2. Lao động trực tiếp: Nhiệm vụ của lao động làm vệ sinh phòng không có thay đổi do đó vẫn có thể áp dụng bản mô tả công việc cũ. Với cách bố trí lao động làm riêng ở Nhà phòng còn rất thuận lợi cho việc đánh giá thực hiện công việc của từng lao động thông qua chất lượng phục vụ vệ sinh phòng được kiểm tra thường xuyên bởi phó quản lý. Còn riêng bộ phận Nhà hàng, khi giảm các chức danh lao động phụ bếp, vệ sinh nhà hàng thì nhiệm vụ của chức danh nấu bếp và phục vụ bàn đã tăng thêm cần được bổ sung vào bản mô tả công việc. Việc đánh giá thực hiện công việc của người lao động được đánh giá theo tháng trên cơ sở kiểm tra giám sát của phó quản lý. Do đặc thù của công việc trong ngành du lịch không thể chia nhỏ, phân loại theo bậc và bố trí những lao động có cấp bậc công nhân tương ứng thực hiện, chính vì vậy để công bằng trong trả công lao động xứng đáng với sức lao động mà người lao động bỏ ra, Công ty không nhất thiết phải áp dụng hệ thống thang bảng lương của Nhà nước như hiện nay mà thay vào đó là cách trả lương mới: theo chức danh công việc mà người lao động đảm nhận. Ai làm công việc nào sẽ được trả theo lương của công việc đó để tránh tình trạng bất hợp lý trong vấn đề trả lương không công bằng và không có động lực thúc đẩy như hiện nay ở cả bộ phận Nhà phòng và bộ phận Nhà hàng. Chủ trương tiến hành giảm biên chế của Công ty sẽ thực hiện: tận dụng số lao động hiện có, có xem xét đánh giá, phân loại những nhân viên có khả năng làm việc tốt, ý thức kỷ luật cao và nhân viên tay nghề yếu, kỷ luật kém. Giám đốc Nhân sự- hành chính sẽ gửi các thông báo tới từng đơn vị về công tác rà soát lại nhân sự. Việc đánh giá này trước hết là từ trưởng các đơn vị, chính những chức danh này là người trực tiếp tiếp xúc với người lao động nên có những đánh giá trong thực tế thực hiện công việc hàng ngày của họ. Những người không đủ điều kiện tiếp tục làm việc Công ty sẽ đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động. Trên thực tế, với môi trường làm việc đầy cạnh tranh, thay đổi rất lớn so với mô hình Công ty cũ, nhiều nhân viên không có khả năng đáp ứng với sức ép quá lớn cũng sẽ tự đào thải mình, xin đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động. Trên cơ sở đánh giá trên cũng cần thiết bố trí lại lao động: những nhân viên có trình độ tay nghề cao, trẻ điều động về làm việc tại những Cửa hàng, Nhà phòng có tiêu chuẩn chất lượng cao để sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực hiện có ở các bộ phận này. KẾT LUẬN Công ty Khách sạn du lịch Kim Liên không ngừng nâng cao vị thế trong ngành du lịch Việt Nam, đã và đang từng ngày đóng góp sức mình vào chiến lược đưa du lịch nước nhà “thực sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước”. Chất lượng ở tất cả các dịch vụ ngày một hoàn thiện, thái độ phục vụ thân thiện, cởi mở của cán bộ công nhân viên nơi đây đã dành được lòng tin yêu của khách hàng trong nước cũng như quốc tế. Trong hiện tại cũng như tương lai, Công ty Khách sạn du lịch Kim Liên không chỉ dừng lại ở khẩu hiệu: “Kim Liên điểm đến an toàn và thân thiện” mà vẫn giữ vững ý chí phấn đấu và đề ra mục tiêu cao hơn với khẩu hiệu: “Kim Liên tuyệt vời như thế !” Để thực hiện được yêu cầu ấy, Công ty đã có nhiều biện pháp nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, mở rộng thị trường. Trong đó, dịch vụ buồng phòng, ăn uống vẫn luôn luôn được quan tâm, chú trọng, đánh giá là những dịch vụ chính, truyền thống của Công ty từ những ngày đầu mới thành lập cho đến nay. Trong thời gian thực tập tại Công ty Khách sạn Du lịch Kim Liên, em nhận thấy việc nâng cao hiệu quả của công tác Phân công, hiệp tác lao động ở bộ phận Nhà phòng và Nhà hàng là rất cần thiết, xuất phát từ đòi hỏi của thực tiễn hoạt động và quản lý. Vì vậy, em đã lựa chọn đề tài: “Hoàn thiện công tác phân công, hiệp tác lao động ở bộ phận Nhà phòng và Nhà hàng- Công ty Khách sạn du lịch Kim Liên”. Qua thời gian thực tập này em đã có những hiểu biết tương đối toàn diện về hoạt động nói chung cũng như tình hình tổ chức lao động nói riêng của bộ phận Nhà phòng, Nhà hàng tại Công ty. Trong chuyên đề, em cũng mạnh dạn nêu lên những nhận xét và một số kiến nghị với Công ty. Cuối cùng, em xin chân thành cảm ơn Tiến sỹ Mai Quốc Chánh và Phòng Tổ chức hành chính cùng với các Nhà phòng, Cửa hàng - Công ty Khách sạn du lịch Kim Liên đã tận tình chỉ bảo, giúp đỡ em hoàn thành Chuyên đề thực tập này. Em xin chân thành cảm ơn! MỤC LỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Giáo trình Tổ chức lao động khoa học trong xí nghiệp- Đại học Kinh tế Quốc dân. Nhà xuất bản Giáo dục, 1994. Tập bài giảng Tổ chức lao động - Trường Cao đẳng Lao động - Xã hội. Nhà xuất bản Lao động - Xã hội, 2004. Lịch sử hình thành và phát triển của Công ty Khách sạn Du lịch Kim Liên: 45 năm phát triển và hội nhập, 2006. Tiêu chuẩn nghiệp vụ kỹ thuật phục vụ trong khách sạn, nhà hàng - Khoa du lịch và khách sạn - Đại học Kinh tế quốc dân. Giáo trình nghiệp vụ phòng (dịch vụ du lịch) - Công ty Khách sạn du lịch Kim Liên, 2004. Nội quy lao động - Công ty Khách sạn du lịch Kim Liên, 2004. Quyết định số 260/KL của Công ty Khách sạn du lịch Kim Liên, ngày 05/12/2002 về việc ban hành định mức lao động phục vụ phòng khách sạn. PHỤ LỤC Quy định về tiêu chuẩn cấp bậc kỹ thuật công việc của một số nghề tại Công ty Khách sạn du lịch Kim Liên I. Nghề Phục vụ phòng: Bậc 1: Quét buồng ngủ, lau chùi ghế, giường, tủ, gương soi, cửa kính đánh tủ cốc tách, cọ rửa chậu men, hố xí, bể tắm sạch trắng, không mờ, không mùi hôi. Lau quét nền nhà, sân gác, hành lang, cầu thang, lối đi. Đặt đúng vị trí các đồ dùng phục vụ khách sẵn trong phòng ở như: Khăn mặt, khăn tắm, giấy vệ sinh, xà phòng, phích nước, cốc tách Thuộc tên, quy cách, công dụng, cách sử dụng của mỗi dụng cụ tiện nghi phục vụ khách tại phòng như: đèn quạt, vòi hoa sen, tủ đầu giường, chậu men, tủ phấn, khăn trải giường, khăn phủ giường, chăn màn Bậc 2: Làm được tiêu chuẩn của bậc trên và thêm: Giúp khách mang xách hành lý, hưóng dẫn khách đến phòng, giúp khách treo cất, sắp xếp đồ dùng, quần áo vào đúng chỗ treo lên mắc, xếp vào ngăn kéo, tủ gọn gàng và ngăn nắp. Nắm vững phương pháp làm vệ sinh 1 phòng ngủ theo đúng trình tự quy định cho từng việc (mở đóng các cửa, vắt màn, gấp chăn, lau chùi bàn ghế, giường tủ, đánh cốc tách, quét dọn trong phòng, lau sàn cọ rửa nơi rửa mặt, phòng tắm, vặn quạt cho thoáng khí và lau khô đạt các yêu cầu khô, sạch bóng hết mùi hôi, ngăn nắp trật tự. Làm giường đúng kỹ thuật: Lật gối, lật đệm, trải khăn giường, buông màn, trải khăn (các kiểu đơn giản) ngay ngắn, gọn gàng, phẳng phiu, cân đối. Chuẩn bị phòng tắm đúng cách thức, dụng cụ trắng, bóng, không có vết mờ, vết bẩn, phòng tắm không có mùi hôi. Có đủ những thứ cần thiết thuộc tiêu chuẩn đặt phòng như: lược, bàn chải đánh răng, dép, xà phòng Bậc 3: Làm được tiêu chuẩn của bậc trên và thêm: Làm giường các kiểu phức tạp đúng kỹ thuật (trải khăn giường, trải khăn, trẩig, trải phủ giường, buông vắt màn) ngay ngắn, phẳng phiu, cân đối, không lồi lõm hoặc trùng giữa. Tháo lắp các loại giường. Nắm vững tình hình khách đi đến hàng ngày và thực hiện tốt thể thức quy định và chuẩn bị đón khách về những công việc phải làm khi khách đi (làm vệ sinh, kiểm tra hệ thống điện nước, thiết bị tiện nghi) Biết cách mở đóng cửa kính, cửa chớp, kéo rèm che nắng, màn gió ở những buồng có khách phù hợp với thời tiết (mùa hè, mùa đông, trời nóng, trời mưa, buổi sáng, trưa, chiều, tối) để tạo cho căn phòng có được không khí và ánh sáng tốt , nhiệt độ vừa phải. Pha chế thuốc sát trùng, tẩy uế sử dụng để làm vệ sinh phòng tắm. Sử dụng thành thạo các máy móc thiết bị: máy hút bụi, điều hoà nhiệt độ, phát hiện kịp thời những hư hỏng trong hệ thống điện nước, máy móc thiết bị để yêu cầu sửa chữa. Bậc 4: Làm được tiêu chuẩn của bậc trên và thêm: Sắp xếp bố cục phòng ngủ (loại trung bình) phù hợp với diện tích và điều kiện trang thiết bị của khách sạn (đồ vải, đồ gỗ, đồ da và các tiện nghi khác) đạt yêu cầu đẹp mắt, gọn gàng, thuận tiện cho khách sử dụng và các công việc phục vụ. Làm các kiểu giường khác nhau (giường một, giường đôi) tuỳ theo mức độ trang bị và yêu cầu của thời tiết, đảm bảo đúng kỹ thuật. Bảo quản tốt mọi tài sản được phân công quản lý gồm: đồ vải, đồ gỗ, đồ da, thuỷ tinh pha lẫn kim loại, đồ mỹ nghệ không để mối mọt, hoen ố mốc, han rỉ, mất mát. Nắm vững những qui định trong việc giao dịch với bộ phận Nhà hàng, giặt là, kho, các bộ phận tu sửa trong Công ty để giải quyết những yêu cầu đúng thủ tục, nguyên tắc. Bậc 5: Làm được tiêu chuẩn của bậc trên và thêm: Có khả năng bố cục, trang trí các phòng ngủ loại sang, phòng hạng nhất, phòng đặc biệt, có đủ tiện nghi thích hợp với sử dụng ánh sáng, tranh ảnh mỹ nghệ đạt yêu cầu mỹ thuật, lịch sự. Dự trù đủ những thứ đặt buồng cho khách có tiêu chuẩn (hoa tươi, bánh kẹo, hoa quả, chè) Nắm được sở thích, phong tục tập quán và thị hiếu của khách trong nước và ngoài nước về các mặt sinh hoạt, trang bị trong các phòng để áp dụng cách bảo quản thích hợp. Thông thạo nghiệp vụ phục vụ phòng, thao tác thành thạo, chất lượng phục vụ cao, đảm bảo mỹ thuật, vệ sinh, giải quyết công tác nhang gọn, đúng nguyên tắc chế độ. Nắm vững tình hình các phòng được phân công quản lý, báo cáo kịp thời. Hiểu sơ lược cách cấu tạo và công dụng của các loại máy móc tiện nghi hoặc các thiết bị chạy điện như bàn là, lò sưởi, máy hút bụi, mát đun nước nóng, máy điều hoà nhiệt độ sử dụng thành thạo không để xảy ra tai nạn và biết cách bảo quản tốt từng loại. II. Nghề Nấu bếp: Bậc 1: Nhóm củi, chọc lò, sử dụng các loại bếp phức tạp (đun than, các loại bếp gas, bếp điện cỡ trung bình và lớn), nắm vững độ nóng của các chất đốt. Sơ chế rau củ đúng yêu cầu chế biến (hoa lơ, đậu luộc, đậu quả, măng tây, củ cải đỏ,), cắt tỉa rau để làm chân tẩy hoặc các món xào. Trong nấu nướng thực hiện được những quy định cơ bản về dinh dưỡng để đỡ mất chất bổ (không rang, nướng quá khô mất đạm, rau củ tươi rửa xong mới thái, thái xong nấu ngay). Bậc 2: Làm được tiêu chuẩn của bậc trên và thêm: Sơ chế nguyên liệu nấu, biết phòng tránh những thứ có thể gây độc, gây bệnh như: thịt gia súc có bệnh, trứng hỏng, khoai tây có mầm, sấu tươi, cà chua xanh, nấm độc. Mổ giết động vật thông thường đúng cách thức, đảm bảo sạch, phẩm chất nguyên vẹn: cua bể, cá bể, tôm bể, gà vịt, baba, chim, thỏ Nắm được tính chất, đặc điểm và bảo quản các loại nguyên liệu nấu ăn và gia vị chủ yếu như thịt lợn, cá, trứng, rau củ, bơ sữa, kem tươi, đường, muối, dầu, dấm, hành, tỏi. Hiểu sơ lược cách cấu tạo của các loại lò bếp, phát hiện những chỗ sai quy cách, gây lãng phí nhiệt lượng và chất đốt. Biết cách sử dụng tốt. Bậc 3: Làm được tiêu chuẩn của bậc trên và thêm: Thuộc tên, quy cách, công dụng của các dụng cụ nấu ăn phức tạp quay, khay nướng bánh, khuôn đồ nguội, khuôn làm bánh ngọt cọ rửa đánh bóng và bảo quản tốt từng loại. Biết cách bố trí công việc nấu ăn theo nguyên tắc một chiều để đảm bảo vệ sinh trong quá trình chế biến. Hiểu biết về tính chất của vitamin, chất khoáng, chất đạm để bảo vệ các chất đó trong lúc nấu ăn nóng, vitamin tan trong nước, trong dầu mỡ. Mổ giết đúng quy cách các động vật lớn (dê, cừu, lợn) sơ chế nguyên liệu khô (bóng măng, bằng mực) cắt thái rau củ, thịt cá đúng phương pháp, đạt yêu cầu chế biến, thao tác nhanh, chính xác. Chế biến đảm bảo kỹ thuật, chất lượng khẩu vị và màu sắc của những món ăn thông thường Âu Á. Bậc 4: Làm được tiêu chuẩn của bậc trên và thêm: Hiểu những nguyên nhân gây bệnh đường ruột (gian sán, tiêu chảy) và biết cách phòng tránh. Nắm tính chất đặc điểm của nguyên liệu nấu ăn và gia vị, hiểu rõ bảo quản các loại rau củ, quả, thịt cá, trứng, sữa, bơ, đường bột kem tươi, dầu, dấm, hành tỏi. Sơ chế các loại động vật có mùi tanh hôi nặng và các loại hải sản cao cấp đúng cách thức, đáp ứng với yêu cầu chế biến, sử dụng thông thạo các loại gia vị tươi, khô để ngâm tẩy, tẩm ướp, gia giảm và trang trí các món ăn đúng vị, đúng lượng (nguyệt quế, lamor, xạ hương, thảo tham, nhục đậu khấu, tỏi tây, bột hạt cải, hạt tiêu, tỏi ớt, dầu dấm). Nắm quy tắc xây dựng thực đơn ăn sáng, ăn trưa, ăn tối, ăn nguội (mức thông thường), cải tiến các bộ phận tỏa nhiệt, cách nhiệt thông hơi, hút gió cửa lò bếp để tăng nhiệt và tiết kiệm chất đốt. Chế biến các món ăn phối hợp nhiều nguyên liệu, gia vị phức tạp kết hợp nhiều cách làm chín, trình bày trang trí mỹ thuật, hấp dẫn. Bậc 5: Làm được tiêu chuẩn của bậc trên và thêm: Nắm các loại thịt gia súc có bệnh: + Loại bệnh lây sang người: trâu bò bị bệnh thận, bệnh lao, lợn gạo, giun sán. + Loại không trực tiếp lây bệnh sang người: lợn đóng dấu để hủy bỏ hoàn toàn hoặc sử dụng một phần nhưng đảm bảo đúng quy tắc quy định của cơ quan Y tế và Thú y. Sử dụng thành thạo bảng thành phần hóa học thực phẩm và nắm vững công dụng chính của các chất đạm, béo, ngọt, thể hiện trên việc dự trù các loại thực phẩm để đảm bảo nhiệt lượng và dinh dưỡng cho các điều kiện lao động khác nhau. Pha lọc lợn, bò phân chia thành các loại thịt chủ yếu (thăn, mông, vai, ba chỉ, bắp, nạm) hiểu rõ công dụng của từng loại để chế biến món nào dùng loại thịt ấy. Lột da, rút xương gà, xương cá, lột chân giò, cắt tỉa rau củ thành hoa, đảm bảo chất lượng đúng quy cách, hợp với yêu cầu chế biến có kinh nghiệm hướng dẫn, xây dựng các kiểu lò bếp phù hợp với yêu cầu chế biến và thích ứng với hoàn cảnh thực tế. Nắm các nguyên tắc cơ bản của phương pháp làm chín phức tạp, quay bò, quay lợn xiên cả con, cả tảng, lợn hấp, nướngvận dụng thành thạo các phương pháp đó. Ra thực đơn tính tiêu chuẩn các bữa ăn sáng, ăn trưa, ăn tối, ăn nguội, tiệc trà, tiệc rượu (Á, Âu), quản lý công thức và tiêu chuẩn từng món. Chế biến các món ăn sáng phối hợp phức tạp, chế biến cầu kỳ, trang trí mỹ thuật. Bậc 6: Làm được tiêu chuẩn của bậc trên và thêm: Hiểu biết cơ bản về vi trùng và ký sinh trùng như sán dây, sán lá, nắm được phương pháp diệt trùng, không để gây bệnh. Định khẩu phần các bữa ăn theo thành phần hóa học thực phẩm xây dựng bữa ăn theo yêu cầu về calo và tỷ lệ đạm, béo, ngọt. Nắm số lượng nguyên liệu xuất nhập, hàng ngày, phảm chất từng loại và số lượng tồn kho tại bếp để chế biến và chỉ đạo chế biến, quản lý chính xác các tiêu chuẩn của bữa ăn. Nắm mọi nguyên tắc kỹ thuật nấu ăn từ khâu chọn lọc nguyên liệu, sơ chế, cắt thái đến khâu làm chín, trình bày trang trí món ăn, ra thực đơn cho các loại bữa ăn, ăn thường, ăn tiệc, ăn nguội, ăn nóng, ăn ngồi đúng quy tắc, hợp thời tiết, khẩu vị. Bậc 7: Làm được tiêu chuẩn của bậc trên và thêm: Quản lý công thức tiêu chuẩn và chất lượng các loại bữa ăn: nắm vững khẩu vị, phong tục tập quán của khách nước ngoài, để chỉ đạo chế biến phù hợp với yêu cầu của khách. Nắm mọi thể thức và ra thực đơn cấu tạo bữa ăn và cách ăn của từng loại (ăn điểm tâm, ăn trưa, ăn kiêng, ăn bồi dưỡng, tiệc trà, tiệc rượu, tiệc có nghi lễ ngoại giao, ăn nóng, ăn nguội, ăn buffer, ăn ngồi). III. Nghề Phục vụ bàn: Bậc 1: Làm vệ sinh: phòng ăn, phòng chiêu đãi, phòng tiếp khách Lau rửa dụng cụ thông thường như: đồ sành sứ, thủy tinh, kim loại đảm bảo các yêu cầu sau: + Hết mùi vị cũ (lau sạch sẽ) + Khô bóng, không còn vết mờ, không có dấu tay, dầu mỡ hoặc bụi bám vào các khe hở của dụng cụ. + Sắp xếp dụng cụ gọn gàng loại nào vào loại đó. Trải khăn bàn ngay ngắn, cân đối, chuẩn bị dụng cụ và bày bàn ăn điểm tâm, ăn cơm thông thường đúng thể thức. Bậc 2: Làm được tiêu chuẩn của bậc trên và thêm: Mở các nút chai như: bia, chanh, nước suối, các loại rượu, nắm vững các động tác bưng, đưa thức ăn, thu dọn những dụng cụ ăn uống thông thường. Cắt thái bánh mỳ, chanh quả ớt, biết xay hạt tiêu, trộn mù tạt, biết pha sữa hộp, nước chanh, nước chè đúng công thức, hương vị, đúng kỹ thuật. Chuẩn bị dụng cụ đựng gia vị, bày bàn như dầu dấm, tiêu ớt Bậc 3: Làm được tiêu chuẩn của bậc trên và thêm: Cọ rửa các dụng cụ ăn uống phức tạp đắt tiền như pha lê, thuỷ tinh, sành sứ, gang tây, kim loại mạ bạc, bạc nguyên chất Nắm tính chất, công dụng của mỗi loại dụng cụ ăn uống. Dùng các loại thuốc như: Brillant- Belge và Blane de sine” để làm sạch đánh bóng dụng cụ bằng kim loại, đồng thời biết cách bảo quản dụng cụ của mỗi loại. Thực hiện các quy tắc động tác bưng, đưa, gắp rót trong khâu phục vụ và thu dọn dụng cụ một cách thành thạo. Thuộc tên, giá bán và tính chất, cấu tạo của các món ăn uống thông thường, pha chế càphê, sữa và cacao. Bậc 4: Làm được tiêu chuẩn của bậc trên và thêm: Trang trí, bày dụng cụ, bày hoa cho phòng tiệc, bàn ăn hàng ngày (Âu và Á theo đúng quy cách kỹ thuật cho từ 50 khách trở xuống). Phục vụ trình tự các món ăn: khai vị, đầu bữa, tráng miệng trong một bữa ăn. Năm tên, tính chất, cách sử dụng các loại rượu trong bữa ăn như: rượu khai vị, rượu uống trong bữa ăn, rượu uống sau bữa ăn. Thay các dụng cụ trong lúc khách đang ăn. Ướp lạnh, sử dụng vang trắng, champage, nấu và lọc nước đường (siro), nấu sữa tươi pha chocolate.. Bậc 5: Làm được tiêu chuẩn của bậc trên và thêm: Trang trí, đặt dụng cụ, bày hoa và sắp xếp bàn ghế cho các loại tiệc (đứng, ngồi, trà, rượu) phù hợp với tính chất của từng loại tiệc. Phân biệt đặc điểm và hiểu được giá trị của các loại rượu quý để lâu năm như: vang đỏ, trắng, champagne, cognac, whisky và rượu hỗn hợp. Phục vụ thông thạo cách mở, rót và thể thức phục vụ từng loại. Phục vụ: bưng, đưa, gắp, rót và hiểu biết sâu về thành phần chủ yếu, phẩm chất, giá cả các món ăn cao cấp. Dự trù những thứ về uống cho các loại tiệc đúng tiêu chuẩn (rượu, giải khát, chè, thuốc), chọn các thức uống thích hợp với món ăn và đáp ứng được các yêu cầu cần thiết của khách. Pha chế các loại nước giải khát như: nước cam, dứa, mận, chanh và các loại hoa quả ướp đường, đảm bảo vệ sinh, chất lượng. Bậc 6: Làm được tiêu chuẩn của bậc trên và thêm: Phục vụ đúng thị hiếu, đúng yêu cầu, phong tục tập quán về ăn, uống của khách trong nước (Trung, Nam, Bắc) và khách quốc tế (một số nước). Thực hiện phục vụ tinh thông thành thạo về chuyên môn của từng loại tiệc, thực hiện đúng tính chất ngoại giao (tọa đàm, ký kết, họp báo) với chất lượng phục vụ cao. Hiểu biết tường tận tên các loại món ăn phối hợp chặt chẽ với bếp nêu rõ yêu cầu về cách bố trí về khách của từng bàn để kết hợp cắt thái, trình bày và chia các món ăn cho phù hợp để đảm bảo hình thức và chất lượng món ăn. Pha chế thành thạo, đảm bảo chất lượng các loại như cà phê phin, cà phê có kem tươi, có trình độ phục vụ và tổ chức được các bữa tiệc lớn từ 100 khách trở lên. Viết phiếu nhanh, đúng, rõ ràng, thanh toán không nhầm. Bậc 7: Làm được tiêu chuẩn của bậc trên và thêm: Hiểu sâu về tính chất và nắm vững những nghi thức phục vụ các bữa tiệc ngoại giao long trọng (ký hiệp định, hội đàm, chiêu đãi lớn) Có trình độ tổ chức và điều khiển toàn bộ công tác của các bữa tiệc long trọng (từ 200 khách trở lên) với các hình thức tiệc như tiệc đứng, ngồi, trà, rượu và các địa điểm khác nhau (trong nhà, ngoài trời). Thực hiện điêu luyện kỹ thuật phục vụ bàn, cắt thái và trình bày bàn có mỹ thuật, có khả năng phụ trách 1 nhà ăn của khách sạn (trung bình và lớn). Nắm các công thức pha chế giải khát như hoa quả ép, nấu mứt hoa quả, pha chế rượu hỗn hợp. Hiểu biết rộng về xã giao để tiếp đón khách. Quản lý và sử dụng đúng, tốt các tiêu chuẩn của tiệc. ĐỊNH MỨC LAO ĐỘNG PHỤC VỤ PHÒNG KHÁCH SẠN Diễn giải Nhà 1 Nhà 2 Nhà 3 Nhà 5 Nhà 6 Nhà 4 Nhà 8 Nhà 9 Nhà 4A 1. Phòng kinh doanh (phòng) 47 65 32 57 56 47 38 63 35 Trong đó : Phòng 3g 14 14 13 12 11 3 Phòng 4g 1 3 3 2. Công suất dự kiến (%) 85 85 80 85 85 80 80 80 80 Dự kiến phòng phục vụ (phòng) 40.0 55.3 25.6 48.5 47.6 37.6 30.4 50.4 28.0 Định mức dự kiến (phòng/công) 9.2 9.2 6.3 6.5 6.5 5.7 6 6.5 5.5 I. Công tính ngoài định mức 160 160 160 160 160 192 160 169 163 Trực (công/ngày) 135 135 135 135 135 135 135 135 135 Tài sản (công/tháng) 15 15 15 15 15 15 15 15 15 Quản đốc (công/tháng) 10 10 10 10 10 10 10 10 10 Công khác(kính,cây cảnh...VF)(công/tháng) 32 9 3 Họp, lao động, quân sự... II. Lao động dự kiến (40 giờ/tuần) 13.78 16.20 13.37 18.19 18.00 18.57 14.86 19.16 15.01 Trực tiếp phục vụ (người) 5.38 7.71 4.99 9.74 9.55 8.54 6.39 10.16 6.43 Trực (người) 7 7 7 7 7 7 7 7 7 Quản đốc + tài sản (người) 1.17 1.17 1.17 1.17 1.17 1.17 1.17 1.17 1.17 Công khác (người) 1.49 0.42 0.14 Công b/dưỡng phòng vắng khách (người) 0.24 0.33 0.21 0.29 0.28 0.38 0.30 0.42 0.28 Họp, phép, đẻ, ốm (cha tính) III Lao động định biên 14 16 13 18 18 18 15 19 15 (Cha tính phép, ốm, đẻ...) (Nguồn: Phòng Tổ chức- Hành chính) Chức danh Đơn vị Tổng số lao động (người) Bậc 1 Bậc 2 Bậc 3 Bậc 4 Bậc 5 Bậc 6 Bậc 7 Số lượng % Số lượng % Số lượng % Số lượng % Số lượng % Số lượng % Số lượng % Phục vụ bàn Hoa sen 1 21 2 9.52 3 14.29 5 23.81 6 28.57 1 4.76 2 9.52 2 9.52 Hoa sen 2 16 3 18.75 1 6.25 2 9.52 4 19.05 3 14.29 - - 3 14.29 Hoa sen 3 16 2 12.50 - - 4 19.05 5 23.81 1 4.76 - - 4 19.05 Hoa sen 5 15 1 6.67 2 13.33 7 33.33 1 4.76 - - 3 14.29 1 4.76 Hoa sen 6 20 1 5.00 5 25.00 3 14.29 6 28.57 - - 3 14.29 2 9.52 Hoa sen 7 15 1 6.67 3 20.00 3 14.29 3 14.29 2 9.52 1 4.76 2 9.52 Hoa sen 9 16 2 12.50 2 12.50 2 9.52 4 19.05 2 9.52 2 9.52 2 9.52 Nấu bếp Hoa sen 1 24 3 12.50 1 4.17 10 47.62 3 14.29 3 14.29 3 14.29 1 4.76 Hoa sen 2 13 2 15.38 1 7.69 5 23.81 3 14.29 - - 1 4.76 1 4.76 Hoa sen 3 11 1 9.09 2 18.18 2 9.52 3 14.29 1 4.76 1 4.76 1 4.76 Hoa sen 5 15 3 20.00 - - 5 23.81 4 19.05 2 9.52 - - 1 4.76 Hoa sen 6 20 2 10.00 4 20.00 6 28.57 4 19.05 1 4.76 1 4.76 2 9.52 Hoa sen 7 9 1 11.11 2 22.22 3 14.29 1 4.76 - - 1 4.76 1 4.76 Hoa sen 9 14 1 7.14 1 7.14 3 14.29 5 23.81 2 9.52 1 4.76 1 4.76 Chức danh Đơn vị Tổng số lao động (người) Bậc 1 Bậc 2 Bậc 3 Bậc 4 Bậc 5 Bậc 6 Bậc 7 Số lượng % Số lượng % Số lượng % Số lượng % Số lượng % Số lượng % Số lượng % Phụ bếp Hoa sen 1 2 - - - - 2 9.52 - - - - - - - - Hoa sen 2 2 - - 1 50.00 1 4.76 - - - - - - - - Hoa sen 3 0 - - - - - - - - - - - - - - Hoa sen 5 0 - - - - - - - - - - - - - - Hoa sen 6 3 - - 1 33.33 2 9.52 - - - - - - - - Hoa sen 7 2 - - 1 50.00 1 4.76 - - - - - - - - Hoa sen 9 1 - - - - - - 1 4.76 - - - - - - Vệ sinh nhà hàng Hoa sen 1 2 - - 1 - - - 1 4.76 - - - - - - Hoa sen 2 1 - - - - 1 4.76 - - - - - - - - Hoa sen 3 2 - - 1 - - - 1 4.76 - - - - - - Hoa sen 5 1 - - - - 1 4.76 - - - - - - - - Hoa sen 6 2 - - 1 50.00 - - 1 4.76 - - - - - - Hoa sen 7 3 - - - - 2 9.52 1 4.76 - - - - - - Hoa sen 9 1 - - 1 - - - - - - - - - - - Tổng 247 25 10.12 34 13.76 70 28.34 57 23.08 18 7.29 19 7.69 24 9.72 Biểu 10: Cơ cấu lao động theo nghề và cấp bậc công nhân của bộ phận Nhà hàng ( Số liệu tháng 10-12/2007) (Nguồn: Phòng Tổ chức- hành chính)

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLD1-38.doc
Tài liệu liên quan