Đề tài Hoàn thiện công tác thẩm định khách hàng trong tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu

Trong xu thế hội nhập kinh tế hiện nay, đặc biệt với sự kiện Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO, vai trò của ngành ngân hàng ngày càng trở nên quan trọng đối với sự phát triển và giao lưu hợp tác kinh tế giữa các nước trên thế giới. Đứng trước những cơ hội và thách thức mới, các ngân hàng phải chú trọng phát triển các hoạt động của mình, đặc biệt là hoạt động tín dụng nói chung và hoạt động TDTTXNK nói riêng. Tuy nhiên để vừa đảm bảo phát triển an toàn vừa đảm bảo mục tiêu lợi nhuận cao, ngân hàng phải tích cực hoàn thiện công tác thẩm định khách hàng trong hoạt động tín dụng XNK, vì chỉ có thông qua thẩm định mới đánh giá được hiệu quả thực sự của hoạt động tín dụng và hạn chế được rủi ro cho ngân hàng. Thẩm định khách hàng trong TDTTXNK tại SGD Habubank đã và đang được ban lãnh đạo ngân hàng quan tâm hoàn thiện qua mỗi chặng đường phát triển của mình. Tuy nhiên để phát triển hoạt động tín dụng XNK một cách bền vững, SGD Habubank cần xem xét việc nâng cao hiệu quả hoạt động TDTTXNK nói chung và công tác thẩm định khách hàng trong TDTTXNK nói riêng. Do vậy, ngân hàng cần phải có sự đầu tư nghiên cứu và thực hiện nhiều biện pháp khác nhau đề hoàn thiện hơn nữa việc thẩm định khách hàng. Sau một thời gian thực tập và nghiên cứu thực tế tại SGD Habubank cũng như tìm hiểu những vấn đề mang tính lý luận ở nhà trường, chuyên đề của em đã đề cập đến một số nội dung sau: Thứ nhất: Hệ thống hoá những vấn đề lý luận cơ bản về công tác thẩm định khách hàng TDTTXNK của ngân hàng thương mại, nội dung và các yếu tố ảnh hưởng đến công tác thẩm định khách hàng trong TDTTXNK. Thứ hai: Đánh giá công tác thẩm định khách hàng trong TDTTXNK tại SGD Habubank, rút ra những hạn chế và nguyên nhân của hạn chế đó. Thứ ba: Đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác thẩm định khách hàng trong TDTTXNK tại SGD Habubank. Đồng thời, chuyên đề cũng đưa ra một số kiến nghị với Chính phủ, NHNN, Habubank để tạo điều kiện thuận lợi hơn cho SGD Habubank trong việc hoàn thiện công tác thẩm định khách hàng trong TDTTXNK.

doc86 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1714 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hoàn thiện công tác thẩm định khách hàng trong tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
và công trình giao thông. Dịch vụ tư vấn xây dựng. Lắp đặt trang thiết bị các công trình xây dựng, trang trí nội ngoại thất. Dịch vụ tư vấn nhà đất. Môi giới và xúc tiến thương mại. Dịch vụ giao nhận hàng hoá XNK. XNK các mặt hàng công ty đăng ký kinh doanh. Vốn điều lệ: 1.900.000.000 VND Ngày 17/10/2007 Công ty mở L/C bằng vốn tự có, trị giá L/C: 31.200USD theo giá CIF tại cảng Hải Phòng, Việt Nam. Mặt hàng nhập khẩu là tấm lợp cách nhiệt. Bên bán: ADVANCED TECHNICAL LAMINATES MANUFACTURING SDN. BHD – Malaysia. Nguồn thanh toán bằng vốn tự có của công ty. Nguồn ngoại tệ để thanh toán: Công ty nhờ ngân hàng mua hộ. Ký quỹ: 20% giá trị L/C. Như vậy đây thực chất là một hình thức cấp tín dụng nhập khẩu cho khách hàng, vốn tín dụng là 80% giá trị L/C. Thẩm định của cán bộ tín dụng Hồ sơ Pháp lý Số Ngày Được cấp/ký bởi Giấy CNĐK kinh doanh 0103010331 15/12/2005 Sở KH&ĐT Hà Nội Giấy chứng nhận đăng ký thuế 0101843479 23/12/2005 Cục thuế TP Hà Nội Bổ nhiệm giám đốc 18/CV 16/12/2005 Sáng lập viên Bổ nhiệm kế toán trưởng 05/QĐ 07/12/2006 Chủ tịch HĐQT Cơ cấu tổ chức, sở hữu Công ty Cổ Phần PAM được thành lập 15/12/2005, loại hình doanh nghiệp là Công ty cổ phần, Công ty có quy mô nhỏ nên cơ cấu tổ chức đơn giản, Giám đốc phụ trách chung mọi công việc của công ty. Ngoài ra còn có phòng kế toán tài chính và phòng kinh doanh. Phòng kế toán chịu trách nhiệm trong lĩnh vực thống kê, lập báo cáo kế toán thường xuyên gửi giám đốc và đề xuất những phương án tài chính phù hợp, phòng kinh doanh thực hiện việc lập kế hoạch và tiến hành các hoạt động kinh doanh của Công ty.... Đánh giá chủ doanh nghiệp: Ông Lê Trung Dũng - Giám đốc Công ty. Chủ doanh nghiệp đã từng là nhân viên làm thương mại cho Công ty VINACONEX 10 năm đối với các hoạt động mua bán máy móc, vật liệu trong ngành xây dựng, do đó có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực kinh doanh chính của Công ty. Qui trình hoạt động chính Hoạt động chính của Công ty chủ yếu là nhập khẩu từ nước ngoài (như từ Italy, Malaisia, Hàn Quốc...) máy móc, vật liệu trong ngành xây dựng rồi thực hiện bán lại cho các doanh nghiệp tổ chức trong ngành xây dựng có nhu cầu. Hoạt động đã qua và hiện tại Công ty Cổ Phần PAM mới thành lập được gần 02 năm kể từ ngày 15/12/2005. Công ty thực hiện lập báo cáo kết quả kinh doanh 01 năm một lần do đó hiện tại Công ty chỉ có báo cáo kết quả kinh doanh năm 2006. Kết quả hoạt động bán hàng Doanh thu từ hoạt động bán hàng năm 2006 là: 2,195 tỷ VND. Điều này có thể chứng minh bằng việc tổng giá trị 02 L/C mở bằng vốn tự có của Công ty năm 2006 tại Habubank thì giá trị của hợp đồng ngoại ở mức 2,046 tỷ VND. Kết quả hoạt động tài chính *Về nguồn vốn: Nguồn vốn của Công ty chủ yếu là nguồn vốn chủ sở hữu, năm 2006 nguồn chủ sở hữu là 1,903 tỷ đồng chiếm 99,98% tổng nguồn vốn. Theo báo cáo tài chính của Công ty thì nguồn vốn của Công ty được hình thành từ vốn góp của các cổ đông (vốn kinh doanh 1,9 tỷ đồng) và lợi nhuận chưa phân phối (2,9 triệu), không có vốn vay. *Về tài sản: Vì là công ty hoạt động trên lĩnh vực thương mại cho nên tài sản cố định của công ty không đáng kể, chủ yếu tài sản thể hiện dưới hình thức tiền mặt tại quỹ. Tiền mặt tại quỹ của Công ty chiếm một tỷ trọng rất lớn trong tổng tài sản, tiền mặt tại quỹ của Công ty năm 2006 là 1,777 tỷ đồng. Điều này là do đặc thù của doanh nghiệp kinh doanh thương mại luôn phải có một lượng tiền mặt lớn. Thời điểm cuối năm 2006 doanh nghiệp nhận được tiền thanh toán của khách hàng nên lượng tiền mặt là rất lớn. Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh: Năm 2006 là năm đầu tiên đi vào hoạt động của Công ty, kết quả hoạt động kinh doanh được thể hiện qua doanh thu đạt 2.195 tỷ đồng, lợi nhuận sau thuế đạt 2,9 triệu đồng. Do doanh nghiệp mới đi vào hoạt động nên lợi nhuận của doanh nghiệp đạt được vẫn còn nhỏ. * Các tỷ lệ tài chính của doanh nghiệp: Khả năng sinh lời Lợi nhuận gộp/ Doanh thu thuần năm 2006 là: 31,73% nhưng chỉ tiêu Lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh/Doanh thu thuần chỉ ở mức 0.4%. Điều này là do chi phí quản lý của doanh nghiệp rất lớn: 687 triệu đồng. Điều này là do doanh nghiệp mới thành lập nên chi phí quản lý lớn. Trong thời gian tới Công ty phải nâng cao năng lực quản lý, phấn đấu giảm chi phí quản lý để tăng lợi nhuận. Hiệu quả quản lý vốn lưu động và hoạt động: Công ty làm thương mại nên tài sản của Công ty chủ yếu là tài sản lưu động, tài sản cố định của công ty rất nhỏ như máy tính nên Công ty tính luôn vào chi phí và khấu hao hết trong năm. Do đó trên khoản mục tài sản chỉ thể hiện khoản mục tài sản lưu động. Khả năng thanh khoản và an toàn tài chính: Các chỉ số về thanh khoản và an toàn tài chính của Công ty đều cao. Điều này là do Công ty có tài sản lưu động lớn, lượng tiền mặt nhiều, trong khi nợ ngắn hạn chiếm tỷ trọng nhỏ so với nguồn vốn. Vay nợ và khả năng thanh toán nợ: Trên báo cáo tài chính của Công ty thể hiện nguồn vốn của Công ty chỉ bao gồm nguồn vốn chủ sở hữu, nợ phải trả chỉ có thuế và các khoản phải nộp cho nhà nước 0,4 triệu đồng. Do vậy, khả năng thanh toán nợ của Công ty rất cao. Về khả năng độc lập tài chính: Nguồn vốn chủ sở hữu của công ty năm 2006 chiếm 99,98% do đó khả năng độc lập về tài chính của Công ty là tốt. Quan hệ với các tổ chức tín dụng: Hiện tại Công ty không có dư nợ tại Habubank. Thị trường, chiến lược, chính sách marketing + Thị trường Thị trường chính của Công ty là các Công ty xây dựng có nhu cầu về máy móc và các thiết bị trong ngành xây dựng. + Chiến lược, chính sách marketing của doanh nghiệp Trong giai đoạn tới đây, Công ty tập trung vào mảng hoạt động lắp đặt cũng như cung cấp trang thiết bị (như các tấm trần, vách ngăn, tấm cách điện…) cho các công ty xây dựng, trang trí nội ngoại thất chủ yếu cho các Khu nhà chung cư. Có thể thấy, thị trường này tiềm năng đối với các công ty. Tài sản bảo đảm Xe ô tô biển kiểm soát số 29Z-5025 được định giá với giá trị: 475.000.000VND theo biên bản định giá ngày 13/11/2007. Ph ương án kinh doanh của công ty - Tổng thu của phương án: 58.560 USD - Tổng chi phí của phương án: 56.916 USD + Tiền hàng theo giá CIF: 32.100 USD + Thuế nhập khẩu (30%): 9.360 USD + Thuế VAT (10%): 4.056 USD + Chi phí thủ tục hải quan, vận tải: 1.000 USD + Chi phí ngân hàng: 400 USD Như vậy, theo phương án này thì việc nhập khẩu lô hàng về bán công ty sẽ có lãi khoảng 11.644 USD. Nhận xét: Nhìn chung cán bộ tín dụng đã thẩm định đầy đủ và đạt yêu cầu về tư cách pháp lý của công ty. Cán bộ tín dụng cũng đã tìm hiểu khá kỹ về mặt hàng công ty kinh doanh, đối tượng khách hàng, nguồn hàng. Tuy nhiên, phần lớn những thông tin này là do doanh nghiệp cung cấp, ít thông tin bên ngoài, vì vậy cán bộ thẩm định nên chú ý hơn đến tính chân thực của những thông tin mà giám đốc công ty cung cấp. Trong quá trình thẩm định, cán bộ tín dụng đã phân tích các chỉ tiêu tài chính của công ty. Tuy nhiên do công ty mới thành lập nên chỉ có báo cáo tài chính của năm 2006, do vậy không có số liệu để so sánh giữa các năm. Như vậy, chưa đủ cơ sở để kết luận về tình hình hoạt động của công ty. Mặt khác, không thấy cán bộ thẩm định xem xét báo cáo lưu chuyển tiền tệ. Như vậy sẽ khó xác định được dòng tiền của doanh nghiệp vào/ra như thế nào, có đảm bảo đúng chu kỳ và hoàn trả đúng hạn không. Nguyên nhân có thể là do doanh nghiệp cung cấp thông tin chưa đầy đủ hoặc do thời hạn ngắn nên cán bộ thẩm định có phần chủ quan. Khi xem xét phương án kinh doanh của công ty, cán bộ thẩm định đã phân tích về giá cả và lợi nhuận của phương án. Tuy nhiên, trong TDTTXNK, cần phải xem xét đến các chính sách của Nhà nước về XNK xem liệu có ảnh hưởng gì đến hoạt động của khách hàng không, phải xét đến rủi ro đối tác nước ngoài không thể thông quan xuất khẩu hay việc khách hàng có thể nộp thuế nhập khẩu kịp thời để nhập lô hàng về không. Nhưng trong trường hợp này không thấy đề cập đến vấn đề đó, cũng không nhắc đến thời gian nhập dự tính, thời gian tiêu thụ dự tính. Do vậy, việc thẩm định của cán bộ tín dụng là còn thiếu sót. Vì vậy, công tác thẩm định khách hàng tại SGD Habubank cần được tiếp tục hoàn thiện hơn nữa. 2.3.2.3. Nhận xét về công tác thẩm định khách hàng trong TDTTXNK tại SGD Habubank 2.4.1. Kết quả đạt được SGD Habubank đã và đang phát triển không ngừng về mọi mặt, đặc biệt là trong nghiệp vụ tín dụng. Tính đến thời điểm 31/12/2007, tổng dư nợ cho vay tài trợ XNK của SGD Habubank là 2.545 tỷ đồng , tăng 52% so với cùng kỳ năm ngoái. Có được những thành tựu trên là nhờ sự đóng góp quan trọng của công tác thẩm định khách hàng trong cho vay tài trợ XNK. Các món vay đã được ngân hàng phê duyệt trên cơ sở chú trọng quy trình thẩm định với phương châm khách hàng có đủ điều kiện và có phương án kinh doanh cụ thể mới cấp tín dụng. Ngân hàng đã thực hiện tốt công tác kiểm tra trước, trong và sau khi cho vay, thường xuyên triển khai phân tích, phân loại khách hàng, đánh giá chất lượng tín dụng, từ đó có các biện pháp phù hợp, đảm bảo giảm thiểu rủi ro, nâng cao chất lượng tín dụng của SGD Habubank. Chất lượng thẩm định khách hàng trong cho vay tài trợ XNK một mặt đã góp phần tăng doanh số cho vay, hạn chế nợ xấu, nợ quá hạn có thể gây rủi ro cho SGD Habubank. Tỷ lệ nợ quá hạn trong năm 2007 là 0,19%, đáp ứng được yêu cầu về tỷ lệ nợ quá hạn của NHNN (dưới 0,5%). Công tác thẩm định khách hàng trong cho vay tài trợ XNK không ngừng được nâng cao, góp phần giúp SGD Habubank trở thành địa chỉ đáng tin cậy, thu hút được nhiều khách hàng đến với ngân hàng. Đạt được những thành tựu trên là do sự nỗ lực cố gắng không ngừng của bản thân ngân hàng: SGD Habubank đã thực hiện quy trình thẩm định một cách nghiêm túc và đúng quy chế tín dụng, chú trọng công tác thẩm định khách hàng với phương châm: Khách hàng có đủ điều kiện, có phương án vay vốn khả thi mới tiến hành cấp tín dụng, thực hiện tốt công tác kiểm tra trước, trong và sau khi cho vay. Công tác thẩm định khách hàng tại SGD Habubank không chỉ dựa vào nguồn thông tin thu thập từ phía khách hàng, dựa trên các báo cáo hoặc thông qua tiếp xúc trực tiếp mà còn dựa vào các tài liệu phân tích thị trường trong và ngoài nước, sách báo, tạp chí liên quan, thông tin từ mạng internet, từ hệ thống thông tin rủi ro của NHNN (CIC)... Do đó, thông tin luôn được cập nhật kịp thời về bản thân doanh nghiệp, phương án kinh doanh, thị trường tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp, đóng góp tích cực vào việc nâng cao chất lượng TDTTXNK của ngân hàng. SGD Habubank có đội ngũ cán bộ giàu kinh nghiệm, trẻ, năng động và có trình độ chuyên môn tốt, có đạo đức nghề nghiệp, có lòng nhiệt tình và sự say mê trong công việc. Họ luôn nhận thức được trách nhiệm của mình trong công tác thẩm định khách hàng, luôn phục vụ lợi ích của ngân hàng nhưng đồng thời cũng quan tâm đến lợi ích của các doanh nghiệp. Bên cạnh đó, ngân hàng thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn, bồi dưỡng về nghiệp vụ tín dụng nói chung cũng như hoạt động thẩm định nói riêng đã góp phần nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ tín dụng, đảm bảo chất lượng công tác thẩm định. Công nghệ, trang thiết bị ngân hàng có ảnh hưởng tới việc xử lý thông tin trong thẩm định. Công nghệ hiện đại mới đảm bảo kết quả xử lý chính xác, trang thiết bị tốt đảm bảo việc xử lý thông tin nhanh chóng, kịp thời. Hiện nay, SGD Habubank đã và đang thay đổi, hoàn thiện dần công nghệ và trang thiết bị ngân hàng để có thể nắm bắt đầy đủ và nhanh chóng nhất những thông tin phục vụ cho quá trình thẩm định. Ngân hàng có phòng công nghệ thông tin làm nhiệm vụ cung cấp thông tin, bổ sung, cải tiến các phần mềm phục vụ cho hoạt động của ngân hàng. 2.4.2. Hạn chế và nguyên nhân Mặc dù đã đạt được những thành tựu nhất định song công tác thẩm định khách hàng trong TDTTXNK tại SGD Habubank vẫn còn tồn tại một số hạn chế: Những hạn chế trong nội dung thẩm định Đánh giá mức độ tín nhiệm của khách hàng: Mức độ tín nhiệm của khách hàng là mối quan hệ dài hạn, uy tín, thương hiệu của khách hàng trên thị trường, năng lực và trình độ quản lý, sự am hiểu trong lĩnh vực hoạt động kinh doanh... Những yếu tố này rất khó đánh giá một cách chính xác. Hơn nữa, ý thức về việc xây dựng thương hiệu, uy tín của đại bộ phận doanh nghiệp Việt Nam vẫn còn chưa được chú trọng. Rất ít doanh nghiệp khẳng định được thương hiệu của mình. Mặt khác, hoạt động tín dụng ngân hàng mới thực sự phát triển trong vài năm trở lại đây. Mối quan hệ giữa khách hàng với ngân hàng gần như mới được xác lập, chưa đủ độ dài thời gian để tạo sự tin cậy. Do vậy, việc đánh giá mức độ tín nhiệm để làm tiêu chí cấp tín dụng đã được đặt ra nhưng chưa thực sự phát huy được hiệu quả. Đánh giá năng lực tài chính của khách hàng: Hầu hết các báo cáo tài chính của các doanh nghiệp hiện nay không được kiểm toán độc lập, hệ thống thông tin, chuẩn mực kế toán chưa thực sự đủ độ tin cậy. Mặt khác, do trong đội ngũ cán bộ tín dụng còn một số cán bộ trẻ, chưa có nhiều kinh nghiệm nên trình độ và khả năng phân tích, đánh giá tình hình tài chính của khách hàng còn hạn chế, kết luận chưa có độ tin cậy cao. Bên cạnh đó, công tác quản lý tài chính ở nhiều doanh nghiệp hiện nay vẫn còn nhiều bất cập, còn vi phạm chế độ hạch toán kế toán của nhà nước. Hầu hết các báo cáo tài chính đều chưa được kiểm toán, do vậy các báo cáo tài chính doanh nghiệp cung cấp cho ngân hàng chưa phản ánh đúng thực trạng tài chính và tình hình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Hạn chế về nguồn thông tin phục vụ cho công tác thẩm định khách hàng Hồ sơ vay vốn của khách hàng là một trong những nguồn thông tin hữu ích đối với ngân hàng. Tuy nhiên, do khách hàng chỉ cung cấp những thông tin có lợi cho họ nên phần nào những thông tin này không phản ánh đúng thực tế của doanh nghiệp. Trong khi đó, việc thẩm tra độ chính xác của nguồn thông tin do khách hàng cung cấp vẫn chưa được cán bộ thẩm định quan tâm đúng mức. Hạn chế trong việc tổ chức, phân công cán bộ chuyên trách trong công tác thẩm định - TDTTXNK là một hình thức tín dụng đem lại lợi nhuận cao cho ngân hàng nhưng cũng là một hình thức tín dụng phức tạp, tiềm ẩn nhiều rủi ro. Tuy nhiên, hiện nay trong quá trình thẩm định cho vay tài trợ XNK của SGD Habubank, công tác tổ chức và phân công công việc vẫn chưa thực sự hợp lý và hiệu quả. Mỗi cán bộ tín dụng cùng một lúc phải đảm đương nhiều công việc, từ gặp gỡ khách hàng, hướng dẫn khách hàng lập hồ sơ vay vốn, tiến hành thẩm định tình hình sản xuất kinh doanh và phương án vay vốn đến khi thanh lý hợp đồng tín dụng. Hiện tại vẫn chưa có cán bộ thẩm định chuyên trách, do vậy hiệu quả công việc chưa cao. Hạn chế về trang thiết bị, máy móc phục vụ cho quá trình thẩm định Mặc dù, ngân hàng đã rất chú trọng tới việc đầu tư trang thiết bị, máy móc phục vụ cho công tác thẩm định song vẫn không đáp ứng đủ nhu cầu với số lượng ngày càng gia tăng. Công nghệ ngân hàng hiện đại mặc dù đã được áp dụng nhưng vẫn còn hạn chế, chưa phát huy được hiệu quả tốt nhất của công nghệ thông tin trong việc đánh giá, tính toán các chỉ tiêu khi tiến hành thẩm định. Chương 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÔNG TÁC THẨM ĐỊNH KHÁCH HÀNG TRONG TÍN DỤNG TÀI TRỢ XUẤT NHẬP KHẨU TẠI SGD HABUBANK 3.1. Định Hướng phát triển hoạt động XNK của đất nước và của SGD Habubank 3.1.1. Định hướng phát triển hoạt động XNK của Việt Nam đến năm 2010 Việt Nam đang từng bước hội nhập vào nền kinh tế thế giới, hội nhập với thương mại toàn cầu và khu vực, vì thế hoạt động XNK ngày càng sôi nổi và đóng vai trò quan trọng đối với nền kinh tế quốc dân. Để nhanh chóng tìm được chỗ đứng cho mình trên trường quốc tế đòi hỏi Việt nam phải xác định được chiến lược phát triển kinh tế và đặc biệt là chiến lược phát triển hoạt động XNK. Chính vì vậy, Đảng và Nhà nước đã đưa ra định hướng phát triển kinh tế đất nước đến năm 2010 như sau: “Nhà nước có chính sách khuyến khích mạnh mẽ các thành phần kinh tế tham gia sản xuất kinh doanh XNK hàng hoá và dịch vụ. Các doanh nghiệp cần nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường quốc tế, giảm xuất khẩu những sản phẩm thô và sơ chế, tăng nhanh sản phẩm chế biến, tăng sản phẩm có hàm lượng trí tuệ, hàm lượng công nghệ cao. Chủ động xâm nhập vào thị trường quốc tế, chú trọng các trung tâm kinh tế thế giới , mở rộng thị trường mới. Đẩy mạnh hoạt động tiếp thị, xúc tiến thương mại, thông tin thị trường bằng nhiều phương thức. Khuyến khích các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước tham gia hoạt động môi giới, khai thác thị trường quốc tế.” Chiến lược phát triển trong thời gian tới là đa phương hoá quan hệ, đa dạng hoá thị trường, tận dụng ưu thế sẵn có, quyết tâm tăng tổng kim ngạch xuất khẩu lên đến 62,7 tỷ USD, tổng kim ngạch nhập khẩu tăng 57,4 tỷ USD vào năm 2010. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam, đặc biệt là chiến lược phát triển hoạt động XNK đến năm 2010 đã giúp cho SGD Habubank có định hướng trong hoạt động TDTTXNK của mình. 3.1.2. Định Hướng phát triển TDTTXNK tại SGD Habubank Năm 2008, SGD Habubank tiếp tục phấn đấu để đạt được mức sinh lợi cao hơn nữa, duy trì sự phát triển bền vững trên mọi lĩnh vực hoạt động, trong đó có hoạt động TDTTXNK. Ngân hàng tiếp tục mở rộng hoạt động TDTTXNK thông qua duy trì quan hệ với những khách hàng uy tín, lâu năm, đồng thời chủ động tìm kiếm những khách hàng mới có dự án tốt, phương án kinh doanh khả thi để cho vay. Phấn đấu đạt doanh số cho vay năm 2008 là 2910 tỷ đồng, tức là tăng 42% so với năm 2007. Việc mở rộng TDTTXNK phải đi kèm với nâng cao chất lượng tín dụng, đảm bảo an toàn tín dụng, đảm bảo tăng trưởng TDTTXNK đi kèm với hiệu quả tín dụng. Phấn đấu ngày càng có nhiều món vay tốt, giảm thiểu các món vay nhiều rủi ro. Mục tiêu trên chỉ có thể thực hiện được tốt thông qua việc hoàn thiện công tác thẩm định khách hàng trong TDTTXNK. 3.2. Giải pháp hoàn thiện công tác thẩm định khách hàng trong TDTTXNK tại SGD Habubank 3.2.1. Nâng cao nhận thức về vai trò của công tác thẩm định khách hàng trong TDTTXNK Định hướng và có nhận thức đúng đắn về công tác thẩm định khách hàng là một trong những yếu tố cơ bản hàng đầu để hoàn thiện công tác thẩm định khách hàng trong TDTTXNK của ngân hàng. Công tác thẩm định khách hàng phải được quán triệt thống nhất cả về nội dung và quy trình thẩm định trong toàn hệ thống ngân hàng. Đây là một yêu cầu cấp thiết bởi nó không chỉ liên quan trực tiếp đến cán bộ trực tiếp tiến hành thẩm định mà còn ảnh hưởng đến các bộ phận khác như bộ phận nguồn vốn, khách hàng. Để thực sự kinh doanh an toàn và có lãi, việc thẩm định cho vay phải tuân thủ mọi quy định chặt chẽ về quy trình nghiệp vụ tín dụng. Thẩm định cho vay phải thực sự đóng vai trò tham mưu cho cấp lãnh đạo trước khi đưa ra quyết định đối với khoản vay. Ngoài ra, thẩm định khách hàng phải đứng trên quan điểm phục vụ khách hàng, mặc dù quyết định của ngân hàng có cấp tín dụng hay không cũng làm cho khách hàng hài lòng và sẽ tiếp tục sử dụng các dịch vụ khác của ngân hàng. 3.2.2. Đa dạng hoá và nâng cao chất lượng nguồn thông tin phục vụ cho quá trình thẩm định khách hàng Thông tin là một trong những yếu tố không thể thiếu được trong quá trình thẩm định khách hàng trong TDTTXNK. Thông tin đầy đủ, chính xác, kịp thời có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với công tác thẩm định. Tuy nhiên, hiện nay ngân hàng đang đứng trước một khó khăn lớn đó là nguồn thông tin mà ngân hàng có được là rất ít, chủ yếu là từ doanh nghiệp, hệ thống thông tin trên thị trường lại không hoàn hảo. Do vậy, việc xây dựng, củng cố và phát triển hệ thống thông tin phục vụ cho công tác thẩm định khách hàng là yêu cầu cấp thiết đối với ngân hàng. Nguồn thông tin cung cấp công tác thẩm định khách hàng ở ngân hàng hiện nay bao gồm thông tin do khách hàng cung cấp, thông tin lưu trữ tại ngân hàng, thông tin thu thập được từ các tổ chức tín dụng khác, thông tin từ trung tâm thông tin tín dụng của NHNN vẫn còn rất nghèo nàn và chất lượng không cao. Bởi vậy, ngân hàng phải đẩy mạnh việc khai thác thông tin bằng nhiều biện pháp, ở nhiều nguồn khác nhau. - Nguồn thông tin nội bộ Ngân hàng cần phải hoàn thiện hệ thống cung cấp thông tin, báo cáo nội bộ, phải có sự trao đổi thường xuyên các nguồn thông tin trong nội bộ ngân hàng, cung cấp thông tin nhanh chóng, kịp thời, chính xác cho công tác thẩm định. Ngoài ra ngân hàng cũng cần phải xây dựng một hệ thống lưu trữ và cung cấp thông tin về khách hàng với trang thiết bị hiện đại. Thông tin cũng cần được phân loại theo từng khách hàng, lĩnh vực kinh doanh hoặc theo tính chất thông tin: + Thông tin về các ngành nghề kỹ thuật: các chỉ tiêu về định mức kinh tế kỹ thuật của từng ngành, tình hình sản xuất của ngành, trang thiết bị, máy móc, công nghệ phục vụ sản xuất của ngành đó... + Thông tin về doanh nghiệp: thông tin về năng lực pháp lý, tình hình sản xuất kinh doanh, khả năng cạnh tranh, khả năng về tài chính, thị phần của doanh nghiệp trên thị trường, lĩnh vực kinh doanh... + Thông tin kinh tế vĩ mô: định hướng phát triển của ngành kinh tế, tình hình tăng trưởng kinh tế, các chính sách ưu đãi hoặc hạn chế của Nhà nước, các biến động của thị trường như biến động về tỷ giá, lãi suất, lạm phát... +Thông tin mang tính tham khảo: là những thông tin rút ra từ quá trình thẩm định khách hàng trước đây. - Nguồn thông tin bên ngoài Ngoài những thông tin từ nội bộ ngân hàng thì những thông tin từ bên ngoài cũng có một vai trò không nhỏ trong công tác thẩm định khách hàng. Đây là nguồn thông tin đa dạng và có tiềm năng khai thác lớn, vì vậy, cần đẩy mạnh và chủ động khai thác nguồn thông tin này. Trung tâm thông tin tín dụng CIC của NHNN có thể cung cấp những thông tin về quan hệ tín dụng của khách hàng với các NHTM. Tuy nhiên độ chính xác của nguồn thông tin này lại phụ thuộc vào các báo cáo do các NHTM cung cấp. Bởi vậy ngân hàng cần nâng cao trách nhiệm trong việc cung cấp thông tin cho CIC. Ngân hàng cũng cần chủ động khai thác thêm thông tin từ bạn hàng và các đối thủ cạnh tranh của khách hàng, các chủ nợ khác của khách hàng, thông tin từ hiệp hội ngành nghề kinh doanh, thông tin từ các tổ chức tín dụng khác... Những thông tin này mang tính khách quan vì vậy, sẽ giúp ngân hàng có những đánh giá tương đối toàn diện và chính xác về những rủi ro trên thị trường, đối thủ cạnh tranh, thị trường tiêu thụ sản phẩm... của khách hàng để phục vụ cho công tác thẩm định khách hàng. Bên cạnh đó, ngân hàng cũng cần tích cực khai thác một cách có chọn lọc, phân tích các thông tin từ báo chí, mạng internet, từ các cơ quan quản lý bộ ngành, cơ quan thống kê, công ty kiểm toán... Để thực hiện được điều này, trước hết ngân hàng cần thiết lập mối quan hệ chặt chẽ với các cơ quan này. 3.2.3. Sử dụng hợp lý, đồng bộ và khoa học quy trình thẩm định khách hàng Mỗi ngân hàng đều phải xây dựng cho mình một quy trình tín dụng riêng, nó được coi như cuốn cẩm nang không thể thiếu được đối với mỗi cán bộ tín dụng để thực hiện công việc của mình. Quy trình tín dụng là rất quan trọng, nó tạo nên sự thống nhất trong toàn ngân hàng cũng như tạo nên các quy định chặt chẽ trong thẩm định món vay, do vậy quy trình thẩm định tín dụng phải được xây dựng một cách khoa học và chặt chẽ. Nhận thức được điều này, SGD Habubank đã cung cấp cho mỗi cán bộ một cuốn sổ tay tín dụng riêng. Tuy nhiên, nội dung của cuốn sổ tay tín dụng này còn rất chung chung, nội dung dàn trải, một số vấn đề như định giá tài sản đảm bảo, phân tích tài chính của khách hàng còn sơ sài. Vì vậy, ngoài cuốn sổ tay tín dụng, ngân hàng nên có những quy định cụ thể hơn để hướng dẫn chi tiết cho cán bộ thẩm định. Bên cạnh đó, khi ban hành những quy định phải tiến hành kiểm nghiệm thực tế để đánh giá mức độ phù hợp và hiệu quả của nó. Trong quá trình thực hiện công tác thẩm định khách hàng cần có sự kiểm tra, giám sát quy trình đó để phát hiện kịp thời những sai sót trong từng khâu của quy trình, tránh tình trạng sai sót dây chuyền gây tốn kém về chi phí và thời gian. Như vậy, hoàn thiện quy trình tín dụng là một yêu cầu tất yếu đối với mỗi ngân hàng để nâng cao chất lượng thẩm định tín dụng nói chung và thẩm định khách hàng nói riêng. Để hoàn thiện quy trình tín dụng và nâng cao chất lượng thẩm định khách hàng, công tác tổ chức và điều hành trong hoạt động thẩm định phải được tiến hành nghiêm túc với các giải pháp cụ thể sau: - Tách rời hai chức năng thẩm định và chức năng theo dõi, quản lý trong hoạt động cho vay tại ngân hàng. Điều này vừa tăng cường tính chính xác vừa đảm bảo được tính độc lập tương đối và khách quan trong quá trình thẩm định. Ngân hàng nên thành lập bộ phận thẩm định độc lập với bộ phận tín dụng. Cán bộ phòng thẩm định sẽ chuyên đảm nhiệm công tác thẩm định cho vay còn công việc theo dõi, quản lý khoản vay và phê duyệt khoản vay lớn sẽ do bộ phận tín dụng thực hiện. - Kết hợp chuyên môn hoá cán bộ thẩm định theo quy mô khách hàng, theo nhóm ngành kinh tế kỹ thuật và từng lĩnh vực cụ thể. Đối với những khách hàng có quy mô vay vốn lớn, cần có sự phối hợp giữa cán bộ thẩm định và cán bộ có trình độ chuyên môn theo ngành nghề kinh tế kỹ thuật. Khi tiến hành thẩm định những phương án vay phức tạp, vượt ngoài khả năng của cán bộ thẩm định thì cần phải thuê các chuyên gia về lĩnh vực đó để đánh giá chính xác về khách hàng. - Thường xuyên tổ chức các đợt thi nghiệp vụ, đào tạo và tự đào tạo của SGD nhằm rà soát lại đội ngũ cán bộ thẩm định. Cần phân định rõ hơn về quyền lợi và trách nhiệm giữa các bộ phận thẩm định, bộ phận quyết định cho vay, bộ phận kế toán, bộ phận ngân quỹ. 3.2.4. Hoàn thiện nội dung thẩm định khách hàng trong TDTTXNK Chất lượng thẩm định khách hàng phụ thuộc rất lớn vào các nội dung được tiến hành thẩm định. Nếu nội dung thẩm định được thực hiện một cách khoa học, chặt chẽ, đầy đủ sẽ góp phần giúp cho ngân hàng đưa ra các quyết định cho vay chính xác. Về nội dung thẩm định tư cách pháp lý của khách hàng Ngân hàng cần phải nắm vững thông tin về khách hàng vay vốn: xác định xem khách hàng thuộc đối tượng nào, uy tín của họ đối với ngân hàng như thế nào, họ có sẵn lòng trả nợ ngân hàng hay không? Những thông tin này được thể hiện trong hồ sơ pháp lý của khách hàng. Chính vì vậy, ngân hàng cần chú ý quan tâm đến tính đầy đủ, hợp lệ và trung thực của các hồ sơ này. Hiện nay, trên thị trường tồn tại rất nhiều công ty “ma” đến vay vốn ngân hàng, từ đó hình thành nên những khoản nợ xấu và gây thiệt hại lớn cho các ngân hàng. Mặt khác, cũng có những công ty hoạt động kinh doanh không đúng với ngành nghề đã đăng ký hoặc kinh doanh không đúng pháp luật có thể gây ra những rủi ro cho ngân hàng. Chính vì vậy, cán bộ thẩm định phải đặc biệt chú ý đến tư cách pháp lý của khách hàng vay vốn. Bên cạnh tư cách pháp lý của khách hàng, cán bộ thẩm định cũng cần quan tâm đến uy tín của khách hàng. Việc đánh giá uy tín của khách hàng có chính xác hay không cũng ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả thẩm định khách hàng. Nếu đánh giá sai đối tượng khách hàng có thể sẽ làm giảm số lượng những khách hàng có quan hệ tốt với ngân hàng hoặc quyết định cho vay nhầm đối với những khách hàng không có uy tín dễ dẫn đến nguy cơ mất vốn cao của ngân hàng. Để có những đánh giá toàn diện, khách quan về phong cách làm việc, quản lý điều hành, mức độ trung thực, tính cách của khách hàng, việc thẩm định tư cách của khách hàng cần được tiến hành bằng nhiều phương pháp như phỏng vấn trực tiếp, kiểm tra giấy tờ cá nhân, trực tiếp đi khảo sát thực tế ở doanh nghiệp, tìm hiểu qua nhiều nguồn thông tin khác... Cán bộ thẩm định phải hướng dẫn doanh nghiệp lập và trình đầy đủ bộ hồ sơ theo quy chế cho vay của SGD Habubank ban hành đồng thời phải kiểm tra tính pháp lý của các con dấu, chữ ký trong hồ sơ. Ngoài ra, ngân hàng có thể lập một bảng câu hỏi những chi tiết, vấn đề cần tìm hiểu về khách hàng, như vậy sẽ tạo ra sự thuận tiện và chủ động cho cán bộ tín dụng trong việc đưa ra các kết luận về tư cách pháp lý của khách hàng. Việc xác minh được các thông tin về khách hàng một cách chính xác, đầy đủ, hợp pháp sẽ giúp ngân hàng đưa ra quyết định cho vay đúng đắn, tránh rủi ro, tổn thất và ảnh hưởng đến uy tín của ngân hàng. Về thẩm định tình hình tài chính của khách hàng Đây là bước quan trọng trong quá trình thẩm định khách hàng và là cơ sở chủ yếu để đưa ra quyết định cấp tín dụng. Việc phân tích tài chính khách hàng thường dựa trên các báo cáo tài chính như bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả kinh doanh, báo cáo lưu chuyển tiền tệ. Các báo cáo tài chính của khách hàng chính là một trong những nguồn thông tin quan trọng để ngân hàng thực hiện công tác thẩm định có hiệu quả. Cán bộ thẩm định cần đánh giá một cách chính xác những thông tin có trong các báo cáo tài chính của khách hàng, phân tích, xem xét khả năng tài chính của khách hàng. Các báo cáo tài chính không những là cơ sở để đánh giá tình hình tài chính và sinh lợi của khách hàng mà còn đánh giá được khả năng hoàn trả nợ vay của khách hàng. Tuy nhiên, để được vay vốn của ngân hàng, đôi khi các báo cáo tài chính đó đã được làm đẹp lên, những con số trong báo cáo không còn đúng so với thực tế. Chính vì vậy, để đảm bảo các thông tin trong báo cáo tài chính không có sai sót trọng yếu ảnh hưởng đến quyết định cho vay của ngân hàng, ngân hàng nên yêu cầu doanh nghiệp cung cấp những báo cáo đã được kiểm toán. Các báo cáo đã được kiểm toán sẽ giúp ngân hàng thuận lợi hơn trong việc thẩm định, tiết kiệm được thời gian và chi phí nhưng vẫn đảm bảo được tính chính xác. Tuy nhiên, đối với những báo cáo đã được kiểm toán, cán bộ thẩm định cũng phải thận trọng vì có nhiều cách đánh giá khác nhau trong việc quyết định giá trị sổ sách kế toán của các khoản mục. Chính vì vậy, cán bộ thẩm định cần phải linh hoạt, tỉnh táo khi tiến hành phân tích các khoản mục được phản ánh trên báo cáo tài chính, từ đó có thể đưa ra những đánh giá chính xác và khách quan nhất. Cán bộ tín dụng cần thẩm định các khoản mục trong báo cáo tài chính bao gồm: - Đối với bảng cân đối kế toán, cần xem xét các khoản mục bên tài sản và nguồn vốn. Khi xem xét quy mô và kết cấu của tài sản cần chú ý đến mục tài sản lưu động của doanh nghiệp (như tiền và các khoản tương đương tiền, các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn, các khoản phải thu, hàng tồn kho), tài sản tài chính, tài sản cố định hữu hình và vô hình. Các khoản phải thu cần được phân tích cẩn thận vì đó có thể là một trong những nguồn để chi trả khoản vay ngân hàng. Ngoài ra, cán bộ thẩm định cũng cần quan tâm đến thời gian, tính thanh khoản và sự ổn định của giá cả của hàng tồn kho, cần xem hàng tồn kho là thành phẩm hay nguyên vật liệu... Khi tìm hiểu cơ cấu tài trợ, nguồn gốc của tài sản cũng như khả năng độc lập về tài chính của doanh nghiệp, cán bộ thẩm định cần phân tích nợ ngắn hạn, nợ phải trả nhà cung cấp, các khoản phải nộp, phải trả, nợ dài hạn, vốin chủ sở hữu của khách hàng. - Báo cáo kết quả kinh doanh cho biết sự dịch chuyển của tiền trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và cho phép dự tính khả năng hoạt động của doanh nghiệp trong tương lai. Báo cáo kết quả kinh doanh phản ánh kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, phản ánh tình hình tài chính của doanh nghiệp trong một thời kỳ nhất định. Nó giúp cho cán bộ thẩm định so sánh doanh thu với số tiền thực nhập quỹ, chi phí phát sinh với số tiền thực xuất quỹ để vận hành doanh nghiệp đồng thời đánh giá mức độ ổn định trong hoạt động kinh doanh và trình độ quản lý của doanh nghiệp. - Báo cáo lưu chuyển tiền tệ phản ánh tình hình ngân quỹ của doanh nghiệp trong thời hạn ngắn. Tìm hiểu tình hình ngân quỹ của doanh nghiệp sẽ cho phép đánh giá được doanh nghiệp có đảm bảo được khả năng chi trả hay không. Báo cáo lưu chuyển tiền tệ phản ánh luồng tiền thực nhập quỹ, thực xuất quỹ của doanh nghiệp, từ đó phản ánh khả năng trả nợ trong ngắn hạn của doanh nghiệp. Về thẩm định chỉ tiêu tài chính Để nâng cao hiệu quả của quá trình thẩm định, cán bộ thẩm định không nên chỉ sử dụng một phương pháp mà nên kết hợp nhiều phương pháp phân tích nhằm đưa ra các kết luận từng phần cũng như toàn diện về khả năng tài chính của doanh nghiệp làm cơ sở cho việc ra quyết định cho vay. - Phân tích hiệu quả sử dụng tài sản cố định: Phân tích các tỷ lệ: Giá trị sản xuất công nghiệp/Tài sản cố định; Lợi nhuận gộp/ Tài sản cố định; Tỷ lệ trích khấu hao đưa vào chi phí… Phân tích mức khấu hao đã đưa vào chi phí so với mức khấu hao cần được kết chuyển vào chi phí của năm phân tích để đánh giá mức độ lỗ, lãi của doanh nghiệp. - Phân tích Doanh thu thuần trong mối quan hệ với Giá vốn hàng bán; phân tích tốc độ tăng trưởng của Doanh thu thuần và cơ cấu doanh thu thuần theo nhóm sản phẩm: nhóm sản phẩm nào quyết định đến sự tăng trưởng của doanh thu thuần, yếu tố nào quyết định đến sự tăng trưởng doanh số bán ra của nhóm sản phẩm đó. Phân tích Giá vốn hàng bán phù hợp với Doanh thu đã được ghi nhận để đánh giá mức độ lỗ lãi, lỗ thật của doanh nghiệp. - Phân tích Lợi nhuận/Giá vốn hàng bán của nhóm sản phẩm đối với khối sản xuất và thương mại. Phân tích giá thành trong mối quan hệ với giá bán, phân tích theo cơ cấu, nhân tố quyết định sự biến động của giá thành và giá bán, phân tích sự biến đổi theo thời kỳ. - Phân tích chi phí hoạt động quản lý của doanh nghiệp: Phân tích các yếu tố cấu thành khoản mục chi phí quản lý doanh nghiệp cũng như các nhân tố quyết định sự biến động của khoản mục này trong mối quan hệ so sánh với doanh thu thuần của năm phân tích. Phân tích các khoản mục chi phí đã phát sinh, cần phải phân bổ vào kết quả kinh doanh của kỳ phân tích. Phân tích phương thức quản lý của doanh ngiệp theo đơn vị sản phẩm. - Phân tích hiệu quả sản xuất kinh doanh chung của doanh nghiệp: Phân tích hệ số Lợi nhuận/Vốn chủ sở hữu, Lợi nhuận/Doanh thu, Lợi nhuận/ Tài sản cố định. Về thẩm định tài sản đảm bảo - Hình thành bộ phận chuyên định giá TSĐB: TSĐB là điều kiện cho vay và giá trị của TSĐB là căn cứ để xác định số tiền vay. Do vậy, định giá TSĐB là một yêu cầu cần thiết và rất quan trọng đối với mỗi ngân hàng. Đối với những loại TSĐB là vật chất, giá trị của chúng lên xuống theo giá trị thị trường, tài sản luôn có khả năng mất giá theo thời gian, do nhiều yếu tố tác động như hao mòn hữu hình, hao mòn vô hình… Vì vậy, định giá TSĐB là một công việc hết sức khó khăn và phức tạp. Để định giá một cách chính xác giá trị của TSĐB cần tổ chức theo hướng chuyên môn hoá về nghiệp vụ định giá, đối với tài sản có giá trị lớn, việc định giá phức tạp cần thuê chuyên gia tư vấn, đánh giá. Trong quá trình cho vay, TSĐB phải thường xuyên định giá lại để đánh giá được đúng giá trị của tài sản ở các thời điểm khác nhau. - Đa dạng hoá danh mục TSĐB Hiện nay, ngân hàng mới chỉ chú trọng tới các TSĐB thông dụng, có giá trị cao, an toàn như đất đai, nhà ở, sổ tiết kiệm, ô tô, các thiết bị đắt tiền…, cách làm này đảm bảo an toàn cho ngân hàng, tuy nhiên nó lại bỏ qua một lượng lớn khách hàng vay vốn có giá trị tài sản đảm bảo thấp. Mặt khác, hình thức bảo đảm bằng bảo lãnh hiện nay vẫn chưa được áp dụng phổ biến tại ngân hàng do mức độ rủi ro cao hơn hình thức dùng tài sản đảm bảo khác. Tuy nhiên, đây lại là hình thức bảo đảm mang lại nhiều thuận lợi cho khách hàng, vì vậy trong thời gian tới ngân hàng nên triển khai rộng rãi hình thức bảo đảm này và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp vay vốn bằng các hình thức đảm bảo khác như tín chấp, bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba. 3.2.5. Nâng cao trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ tín dụng Nhân tố con người là nhân tố quan trọng hàng đầu quyết định chất lượng công tác thẩm định khách hàng. Cán bộ tín dụng thực hiện toàn bộ quy trình từ khâu xét duyệt hồ sơ, phân tích tín dụng để đưa ra quyết định cho vay. Do vậy, năng lực chuyên môn, uy tín cũng như đạo đức của cán bộ thẩm định trực tiếp ảnh hưởng đến chất lượng quá trình thẩm định. Cán bộ thẩm định cần phải nắm vững quy trình nghiệp vụ tín dụng, quy trình và phương pháp thẩm định, đồng thời phải có kiến thức, kinh nghiệm, hiểu biết sâu sắc về các nghiệp vụ ngân hàng và các lĩnh vực xã hội có liên quan. Chính vì vậy, trong thời gian tới, SGD Habubank cần phải kiện toàn đội ngũ cán bộ cả về số lượng và chất lượng. Để thực hiện được mục tiêu trên, SGD Habubank cần thực hiện một số công việc cụ thể sau: - Ngân hàng cần đánh giá lại năng lực của đội ngũ cán bộ tham gia thẩm định, những người không đáp ứng được yêu cầu công việc cần có kế hoạch bồi dưỡng hoặc chuyển sang nhiệm vụ khác. SGD Habubank cần tổ chức sắp xếp và phân công công việc cụ thể dựa trên tính chất và quy mô của từng món vay để phát huy tối đa năng lực của mỗi cán bộ, từ đó đạt được hiệu quả cao nhất trong công việc. Ngân hàng nên thực hiện chuyên môn hoá với từng cán bộ tín dụng bằng cách phân chia theo nhóm cán bộ, mỗi nhóm cán bộ phụ trách một loại khách hàng doanh nghiệp nhất định mà mình am hiểu và có năng lực, hiểu biết về lĩnh vực mà khách hàng hoạt động. Như vậy sẽ tạo điều kiện cho cán bộ hiểu biết sâu sắc về doanh nghiệp, tiết kiệm thời gian và chi phí trong việc thu thập và xử lý thông tin về khách hàng. Đồng thời ngân hàng cũng cần chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, đưa những cán bộ có trình độ chuyên môn cao, phẩm chất đạo đức tốt, tâm huyết với nghề vào những vị trí quan trọng, chủ chốt. - Ngân hàng cũng cần nghiên cứu, tổng hợp nhu cầu bổ sung lực lượng cán bộ thẩm định để tiến hành tuyển chọn trong thời gian tới. Việc tuyển dụng cần phải đảm bảo có chất lượng, trình độ cán bộ phù hợp với yêu cầu công việc. - Ngân hàng cần phải đẩy mạnh công tác giáo dục và đào tạo cán bộ, nâng cao chất lượng đào tạo bằng việc tổ chức đào tạo một cách có hệ thống cho các cán bộ thẩm định về nghiệp vụ chuyên môn cũng như các lĩnh vực khác có liên quan như kiến thức về pháp luật, chính trị xã hội, công nghệ thông tin, ngoại ngữ... - Ngân hàng cũng cần quan tâm thực hiện chế độ đãi ngộ thoả đáng cho đội ngũ cán bộ tín dụng. Kịp thời động viên, khen thưởng những cán bộ có thành tích tốt bằng cách thưởng vật chất, tạo cơ hội thăng tiến, gửi đi đào tạo, tham dự các lớp tập huấn nghiệp vụ trong và ngoài nước, nâng lương... Bên cạnh đó ngân hàng cũng cần đưa ra những quy định xử lý nghiêm khắc những cán bộ thiếu tinh thần trách nhiệm, tư lợi cá nhân, gây thất thoát vốn của ngân hàng. - Do cơ chế, chính sách và các quy định của Nhà nước thường xuyên có những sửa đổi, bổ sung, vì vậy ngân hàng cần có những chính sách đào tạo thêm để kịp thời phổ biến những quy định mới, nâng cao trình độ nghiệp vụ cho cán bộ tín dụng. 3.2.6. Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát Để đảm bảo công việc thẩm định được thực hiện theo đúng quy trình cũng như tránh sự sai sót, gian lận, ngân hàng nên tiến hành kiểm tra, kiểm soát trong quá trình thẩm định khách hàng. Công tác kiểm tra, kiểm soát đối với quá trình thẩm định khách hàng bao gồm ba giai đoạn: - Kiểm soát trước: Mục đích của giai đoạn này là phát hiện ra những điểm bất hợp lý của nghiệp vụ thẩm định trước khi thực hiện như tính đầy đủ và chính xác của các điều kiện vay vốn, các thông tin thu thập được, tính hợp lệ của hồ sơ khách hàng. - Kiểm soát trong: Tác dụng của giai đoạn này là giám sát quá trình thực hiện thẩm định, hạn chế việc thực hiện không đúng quy trình nghiệp vụ, giảm thiểu những thiếu sót, sai sót về thủ tục... nhằm tránh những thiệt hại về sau. - Kiểm soát sau: Được thực hiện khi nghiệp vụ thẩm định về cơ bản đã hoàn thiện, kiểm tra một cách toàn diện và tổng quát một lần nữa trước khi đưa ra quyết định cấp tín dụng. 3.2.7. Hiện đại hoá trang thiết bị và ứng dụng khoa học công nghệ trong công tác thẩm định khách hàng Ngày nay, khoa học - công nghệ đang không ngừng phát triển đã kéo theo sự phát triển của nhiều ngành nghề, lĩnh vực khác nhau. Ngành ngân hàng là một trong những ngành ứng dụng nhiều công nghệ mới, hiện đại. Hoạt động của hệ thống ngân hàng đều dựa trên những chương trình được hệ thống hoá, đem lại hiệu quả cao, an toàn và nhanh chóng. Trang thiết bị hiện đại sẽ giúp cho quá trình phân tích, đánh giá của cán bộ thẩm định được nhanh chóng và chính xác hơn. Chính vì vậy, các ngân hàng cần không ngừng đổi mới trang thiết bị, công nghệ mới để theo kịp sự phát triển chung của ngành và phục vụ tốt hơn cho công tác thẩm định khách hàng. 3.3. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác thẩm định khách hàng trong TDTTXNK tại SGD Habubank Kết quả của công tác thẩm định được biểu hiện qua chất lượng của các khoản vay. Vấn đề này không chỉ quan trọng với ngân hàng mà còn có ý nghĩa cho toàn xã hội, đồng thời liên quan đến nhiều nhân tố khác trong nền kinh tế như các vấn đề pháp lý, môi trường hoạt động của ngành, môi trường vĩ mô của nền kinh tế. Để nâng cao chất lượng trong hoạt động cho vay tài trợ XNK của ngân hàng không chỉ đòi hỏi có sự nỗ lực, cố gắng của bản thân ngân hàng mà cón đòi hỏi có sự phối hợp, hỗ trợ của các cơ quan hữu quan. 3.3.1. Kiến nghị với Chính phủ và các bộ ngành liên quan Để đảm bảo tính chính xác và thống nhất trong hệ thống thông tin, Chính phủ cần chỉ đạo các doanh nghiệp thực hiện nghiêm túc chuẩn mực kế toán hiện hành, các báo cáo tài chính phải được kiểm toán hàng năm. Bên cạnh đó đưa ra những quy định xử phạt hợp lý nếu các doanh nghiệp không tuân thủ đúng quy định, có hành vi gian lận, làm báo cáo giả. Thực hiện tốt công tác này sẽ đảm bảo tính minh bạch, chính xác trong công tác tài chính của doanh nghiệp, qua đó tạo lòng tin cho các ngân hàng trong công tác thẩm định khách hàng trong cho vay tài trợ XNK, giảm bớt chi phí và thời gian cho ngân hàng. Ngoài ra, Chính phủ nên thường xuyên tổ chức xếp hạng doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực XNK, kịp thời động viên, khen thưởng những doanh nghiệp có thành tích tốt. Từ đó khuyến khích các doanh nghiệp nâng cao sức cạnh tranh và uy tín trên thị trường. Chính phủ cần hoàn thiện và thống nhất các văn bản pháp luật và dưới luật để tạo điều kiện cho ngành ngân hàng có khung pháp lý đầy đủ, minh bạch và nhất quán, phù hợp với thông lệ quốc tế, đồng thời tạo một hành lang pháp lý thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động và phát triển. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường hiện nay, đặc biệt là khi nước ta gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO có nhiều sự cạnh tranh, cơ hội và thách thức mới, do vậy, Chính phủ cần có chính sách hợp lý để phát triển các loại hình doanh nghiệp, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước nói chung và doanh nghiệp XNK nói riêng phát triển. 3.3.2. Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước Ngân hàng Nhà nước là ngân hàng của các ngân hàng, thực hiện chức năng quan trọng là thực thi chính sách tiền tệ, ra các văn bản điều hành và giám sát hoạt động của các NHTM. Do vậy, sự điều hành và chỉ đạo đúng đắn, kịp thời của NHNN là rất quan trọng. NHNN cần hoàn thiện và cụ thể hoá các nội dung của luật ngân hàng và các văn bản dưới luật, hướng dẫn thực thi các văn bản do NHNN ban hành. Bổ sung, sửa đổi kịp thời các điểm không còn phù hợp trong các văn bản cũ, cải thiện nội dung phù hợp với tình hình mới trong nền kinh tế hiện nay, giúp cho các ngân hàng không bị lúng túng khi gặp vấn đề phát sinh, góp phần nâng cao hiệu quả của việc áp dụng luật cũng như chính sách vào hoạt động ngân hàng. NHNN cần giám sát và hướng dẫn các NHTM đi đúng hướng, thực hiện đúng mục tiêu phát triển của hệ thống ngân hàng. NHNN cần dành một khoản vốn thích đáng cho quỹ hiện đại hoá NHTM để hướng tới mục tiêu đổi mới toàn diện và triệt để hoạt động ngân hàng. NHNN cần có các chính sách khuyến khích, hỗ trợ cho các NHTM trong công tác đào tạo nghiệp vụ tín dụng, triển khai các chuẩn hoá quy trình kỹ thuật trong công tác thẩm định. Bên cạnh đó, NHNN cần xây dựng trung tâm thông tin và dữ liệu nhằm tạo ra nguồn thông tin quan trọng cho các ngân hàng, giúp kiểm soát được sự không lành mạnh của các luồng thông tin khác nhau trên thị trường. Hoàn thiện các chuẩn mực an toàn, các tiêu chuẩn về thẩm định tín dụng trong ngân hàng, tạo hành lang pháp lý thuận lợi, nâng cao sức cạnh tranh của các ngân hàng trong nước với các ngân hàng nước ngoài. NHNN cần phải xem xét, rà soát lại các quy định về an toàn hệ thống NHTM về các vấn đề vốn điều lệ, chế độ báo cáo tài chính, bảo hiểm tiền gửi, công tác thanh tra, giám sát... phù hợp với chuẩn mực quốc tế, tạo điều kiện thuận loại cho các ngân hàng khi phải làm việc với các ngân hàng nước ngoài. NHNN nên tăng cường quan hệ hợp tác quốc tế nhằm khơi thông các quan hệ ngân hàng và tận dụng các nguồn vốn, công nghệ từ các nước và các tổ chức quốc tế, trao đổi thông tin về lĩnh vực ngân hàng, đặc biệt về đào tạo, phổ biến kiến thức và kinh nghiệm hội nhập cho các cán bộ của NHNN và một số NHTM. 3.3.3. Kiến nghị với Habubank Habubank cần có những bước đi đúng đắn trong quy trình hoạt động của mình, đặc biệt là trong hoạt động cho vay. SGD Habubank cần phải hoàn thiện hơn nữa về nội dung cũng như quy trình thẩm định cho vay tài trợ XNK theo hướng cụ thể hơn các chỉ tiêu phân tích, đánh giá được tính toán và so sánh với các giá trị cơ sở, các chỉ số của ngành trong từng lĩnh vực cụ thể, phát triển đa dạng hoá các sản phẩm tín dụng. Habubank cần nâng cao hiệu quả quản lý, điều hành công tác quản lý tín dụng thông qua việc xây dựng và ứng dụng chương trình quản lý tín dụng trên máy vi tính, thiết lập hệ thống dữ liệu, thông tin tín dụng, thông tin ngành hàng và các thông tin khác có liên quan. Tăng cường đào tạo, tập huấn cho cán bộ thẩm định trong toàn bộ hệ thống. Thường xuyên triển khai các buổi toạ đàm, thảo luận, nghiên cứu... và tổ chức các cuộc thi cán bộ tín dụng giỏi nhằm nâng cao trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ, đáp ứng kịp thời yêu cầu của quá trình hiện đại hoá ngân hàng, hội nhập kinh tế quốc tế, trước sự cạnh tranh gay gắt của các NHTM khác, đặc biệt là các ngân hàng nước ngoài. KẾT LUẬN Trong xu thế hội nhập kinh tế hiện nay, đặc biệt với sự kiện Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO, vai trò của ngành ngân hàng ngày càng trở nên quan trọng đối với sự phát triển và giao lưu hợp tác kinh tế giữa các nước trên thế giới. Đứng trước những cơ hội và thách thức mới, các ngân hàng phải chú trọng phát triển các hoạt động của mình, đặc biệt là hoạt động tín dụng nói chung và hoạt động TDTTXNK nói riêng. Tuy nhiên để vừa đảm bảo phát triển an toàn vừa đảm bảo mục tiêu lợi nhuận cao, ngân hàng phải tích cực hoàn thiện công tác thẩm định khách hàng trong hoạt động tín dụng XNK, vì chỉ có thông qua thẩm định mới đánh giá được hiệu quả thực sự của hoạt động tín dụng và hạn chế được rủi ro cho ngân hàng. Thẩm định khách hàng trong TDTTXNK tại SGD Habubank đã và đang được ban lãnh đạo ngân hàng quan tâm hoàn thiện qua mỗi chặng đường phát triển của mình. Tuy nhiên để phát triển hoạt động tín dụng XNK một cách bền vững, SGD Habubank cần xem xét việc nâng cao hiệu quả hoạt động TDTTXNK nói chung và công tác thẩm định khách hàng trong TDTTXNK nói riêng. Do vậy, ngân hàng cần phải có sự đầu tư nghiên cứu và thực hiện nhiều biện pháp khác nhau đề hoàn thiện hơn nữa việc thẩm định khách hàng. Sau một thời gian thực tập và nghiên cứu thực tế tại SGD Habubank cũng như tìm hiểu những vấn đề mang tính lý luận ở nhà trường, chuyên đề của em đã đề cập đến một số nội dung sau: Thứ nhất: Hệ thống hoá những vấn đề lý luận cơ bản về công tác thẩm định khách hàng TDTTXNK của ngân hàng thương mại, nội dung và các yếu tố ảnh hưởng đến công tác thẩm định khách hàng trong TDTTXNK. Thứ hai: Đánh giá công tác thẩm định khách hàng trong TDTTXNK tại SGD Habubank, rút ra những hạn chế và nguyên nhân của hạn chế đó. Thứ ba: Đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác thẩm định khách hàng trong TDTTXNK tại SGD Habubank. Đồng thời, chuyên đề cũng đưa ra một số kiến nghị với Chính phủ, NHNN, Habubank để tạo điều kiện thuận lợi hơn cho SGD Habubank trong việc hoàn thiện công tác thẩm định khách hàng trong TDTTXNK. Hoạt động thẩm định khách hàng trong TDTTXNK có nhiều vấn đề phức tạp và mang tính thực tiễn cao và một phần do trình độ còn hạn chế nên chuyên đề của em không thể tránh khỏi những thiếu sót. Chính vì vậy, em rất mong nhận được sự quan tâm, góp ý của các thầy cô giáo và các anh chị trong phòng phát triển kinh doanh của SGD Habubank đề em có thể hoàn thiện hơn nữa chuyên đề của mình. Em xin chân thành cảm ơn! DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PGS.TS. Phan Thị Thu Hà (2007), Ngân hàng thương mại, NXB Đại học kinh tế quốc dân. PGS.TS. Nguyễn Đăng Dờn, Nghiệp vụ ngân hàng thương mại, NXB Thống kê. David Cox, Nghiệp vụ ngân hàng hiện đại, NXB Chính trị quốc gia. TS. Nguyễn Minh Kiều, Nghiệp vụ ngân hàng, NXB Thống kê. PGS.TS. Nguyễn Thị Thu Thảo, Nghiệp vụ thanh toán quốc tế, NXB Lao động – xã hội. GS.TS. Lê Văn Tư – Lê Tùng Vân, Tín dụng XNK thanh toán quốc tế và kinh doanh ngoại tệ, NXB Tài chính. PGS.TS. Lê Văn Tề, Nghiệp vụ ngân hàng thương mại, NXB Thống kê. TS. Nguyễn Văn Thanh, Quản trị tài chính quốc tế, NXB Thống kê. Peter Rose, Quản trị ngân hàng thương mại, NXB Tài chính. Edward W.Reed Ph.D, Edward K.Gill Ph.D, Ngân hàng thương mại, NXB Thành phố Hồ Chí Minh. Feredric S.Miskin (1992), Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính, NXB Khoa học và kỹ thuật. Luật các tổ chức tín dụng của nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tạp chí Ngân hàng thương mại. Tạp chí thị trường tài chính tiền tệ. Thời báo kinh tế Việt Nam. Báo cáo thường niên của Ngân hàng thương mại cổ phần nhà Hà Nội các năm 2005 – 2007. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT SGD: Sở giao dịch. XNK: Xuất nhập khẩu. NHTM: Ngân hàng thương mại. NHNN: Ngân hàng Nhà nước. TCTD: Tổ chức tín dụng. TDTTXNK: Tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu. TS ĐB: Tài sản đảm bảo. Habubank: Ngân hàng thương mại cổ phần Nhà Hà Nội. KH&ĐT: Kế hoạch và đầu tư. CNĐK: Chứng nhận đăng ký. TP: Thành phố. HĐQT: Hội đồng quản trị. TNHH: Trách nhiệm hữu hạn. DANH MỤC BẢNG, BIỂU, SƠ ĐỒ, HÌNH VẼ Bảng 2.1: Tình hình huy động vốn tại SGD Habubank giai đoạn 2005 – 2007. Bảng 2.2: Tổng dư nợ cho vay tại SGD Habubank giai đoạn 2005 – 2007. Bảng 2.3: Lợi nhuận thu được từ hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại SGD Habubank giai đoạn 2005 – 2007. Bảng 2.4: Doanh số cho vay XNK tại SGD Habubank giai đoạn 2005 – 2007. Bảng 2.5: Cơ cấu tín dụng XNK tại SGD Habubank giai đoạn 2005 – 2007. Bảng 2.6: Cơ cấu nợ quá hạn trong TDTTXNK tại SGD Habubank giai đoạn 2005 – 2007. Biểu đồ 2.1: Tình hình TDTTXNK tại SGD Habubank giai đoạn 2005 – 2007. Biểu đồ 2.2: Cơ cấu tín dụng XNK tại SGD Habuabnk giai đoạn 2005 – 2007.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc11976.doc
Tài liệu liên quan