Đề tài Hoàn thiện nghiệp vụ nhập khẩu thiết bị toàn bộ bằng nguồn vốn nhà nước

Thứ nhất: Một giải pháp mang tính lâu dài, có tính chiến lược đối với toàn nền kinh tế mà nhà nước cần hết sức chú ý đó là tạo cơ sở hạ tầng cho thương mại điện tử phát triển và thúc đẩy thương mại điện tử phát triển trong các doanh nghiệp. Lơi ích của thương mại điện tử đối với các nhà kinh doanh nói chung và kinh doanh xuất nhập khẩu nói riêng là hết sức to lớn. Nó giúp cho việc nghiên cứu và tìm kiếm thị trường được dễ dàng hơn, nhà nhập khẩu có thể so sánh, lưa chon nhà cung cấp một cách tối ưu nhất mà vẫn giảm được chi phí kinh doanh Do tính ưu việt của thương mại điện tử như vậy nên nhà nước cần có chính sách và chiến lược phát triển thương mại điện tử tại Việt Nam một cách đúng hướng. Tuy nhiên hiện nay tình trạng chưa nhận thức rõ về thương mại điện tử, áp dụng thương mại điện tử còn ở trình độ thấp và cơ sở hạ tầng cũng như đội ngũ lao động cho thương mại điện tử còn chưa đáp ứng được nhu cầu. Nhà nước cần có biện pháp tuyên truyền giáo dục và có chính sách đào tạo nghiệp vụ thương mại điện tử để các doanh nghiệp nhận thức được vai trò của thương mại điện tử và ứng dụng thành công vào hoạt động kinh doanh của mình. Thứ hai: Hiện nay ở nước ta cũng đang từng bước xây dựng hệ thống hải quan hiện đại. Mô hình hải quan điện tử đã được đưa vào thử nghiệm và trong quá trình thử nghiệm thì hải quan điện tử đã chứng minh được tính ưu việt của mình, khắc phục được những nhược điểm của hải quan truyền thống như: tiết kiệm được chi phí cho cả phía hải quan cũng như phía các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu, tránh được tình trạng gian lận trong kê khai, giảm bớt được khối lượng công việc cho bên hải quan, một số cán bộ hải quan biến chất cũng khó có thể gây khó khăn, phiền hà, sách nhiễu cho doanh nghiệp hơn. Tuy nhiên hải quan điện tử mới chỉ được thử nghiệm ở một phạm vi nhỏ các doanh nghiệp cũng như các chi cục hải quan. Sau quá trình thử nghiệm và hoàn thiện mô hình hải quan điện tử,Nhà nước cần tích cực, sớm triển khai hình thức này rông rãi trên phạm vi cả nước Thứ ba: Từ thực tế của những công trình thiết bộ nhập khẩu bằng vốn ngân sách Nhà nước hiện nay thì hiệu quả những công trình thiết bị toàn bộ 100% vốn ngân sách nhà nước không cao bằng những nhập khẩu những công trình thiết bị toàn bộ bằng các nguồn vốn khác. Một hình thức nhập khẩu thiết bị toàn bộ cần chú ý đến đó là liên doanh liên kết với các doanh nghiệp nước ngoài cung cấp thiết bị toàn bộ với số vốn của Việt Nam lớn hơn. Hình thức này có ưu điểm là Việt Nam có thể tiết kiệm vốn trong đầu tư, dây chuyền thiết bị toàn bộ đảm bảo hơn về chất lượng và trình độ công nghệ, mặt khác ta lại có thể tranh thủ kinh nghiêm, học hỏi cách thức quản lý hiện đại của đối tác nước ngoài.

doc32 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1508 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hoàn thiện nghiệp vụ nhập khẩu thiết bị toàn bộ bằng nguồn vốn nhà nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
p lý quốc tế trong kinh doanh nhập khẩu thiết bị - Doanh nghiệp đã kinh doanh nhập khẩu nghành hàng máy móc thiết bị lẻ tối thiểu 5 năm và có mức doanh số nhập khẩu máy móc thiết bị trong một năm không dưới 5 triệu USD. - Doanh nghiệp có vốn lưu động do Nhà nước giao và tự bổ sung bằng tiền Việt Nam và tiền nước ngoài tối thiểu tương đương với 500.000 USD tại thời điểm đăng ký kinh doanh nhập khẩu thiết bị. Doanh nghiệp xin kinh doanh nhập khẩu thiết bị toàn bộ làm hồ sơ đăng ký kinh doanh gửi về Bộ Thương mại. Hồ sơ đăng ký kinh doanh bao gồm: Đơn xin kinh doanh nhập khẩu thiết bị. Giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu. Hồ sơ hợp lệ xác nhận vốn lưu động ( bao gồm vốn Nhà nước giao và vốn tự bổ sung). Bảng tổng kết tài sản 5 năm cuối cùng (biểu tổng hợp). Sơ đồ tổ chức bộ máy kinh doanh và cán bộ cần thiết để đảm bảo đủ năng lực kinh doanh thiết bị. Trong vòng 30 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ Bộ Công thương sẽ trả lời b ằng văn bản cho đương sự ý kiến thuận hay không thuận. Chỉ các doanh nghiệp đã được Bộ Thương mại cấp quyền kinh doanh nhập khẩu thiết bị mới được phép kinh doanh nhập khẩu thiết bị. Các doanh nghiệp khác nếu có nhu cầu nhập khẩu thiêt bị thì uỷ thác cho các doanh nghiệp được Bộ thương mại cấp quyền kinh doanh nhập khẩu thiết bị theo thoả thuân phù hợp với các quy định hiện hành. 1.3 Doanh nghiệp được chỉ định nhập khẩu thiết bị toàn bộ Chủ đầu tư là doanh nghiệp có nhu cầu nhập khẩu và sử dụng thiết bị toàn bộ (chỉ được nhập khẩu các loại máy móc, thiết bị mà sản xuất trong nước chưa đáp ứng yêu cầu kinh tế -kỹ thuật của dự án,công trình đã được duyệt), khi có luận chứng kinh tế kỹ thuật được duyệt phù hợp với quy định tại Nghị định 385/HĐBT ngày 7/11/1990 sẽ gửi yêu cầu đến Bộ Thương mại và đề nghị xem xét chỉ định doanh nghiệp nhận uỷ thác nhập khẩu thiết bị. Trong yêu cầu cần nêu rõ tên thiết bị, đặc điểm kỹ thuật chủ yếu,mục đích sử dụng, trị giá ước tính, nguồn vốn nhập khẩu, thời hạn nhập khẩu và kiến nghị doanh nghiệp uỷ thác nhập khẩu, yêu cầu này phải được cơ quan chủ quản xác nhận (Cơ quan chủ quản là Bộ, các cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trực tiếp quản lý chủ đầu tư). Bộ thương mại xét chỉ định doanh nghiệp nhập khẩu trong số các doanh nghiệp có quyền kinh doanh nhập khẩu thiết bị toàn bộ theo nguyên tắc sau: Nếu doanh nghiệp nhập khẩu được chủ đầu tư kiến nghị nằm trong số các doanh nghiệp được Bộ Thương mại cấp giấy phép kinh doanh ngành hàng máy móc thiết bị toàn bộ thì Bộ Thương mại giải quyết như đề nghị của chủ đầu tư. Nếu chủ đầu tư không kiến nghị doanh nghiệp nhập khẩu hoặc kiến nghị chưa phù hợp thì Bộ Thương mại tham khảo ý kiến chủ đầu tư để chỉ định doanh nghiệp nhập khẩu. Trong các trường hợp đặc biệt do tính chất đặc thù của thiết bị và nguồn vốn Bộ Thương mại quyết định việc chỉ định doanh nghiệp nhập khẩu. Các hình thức nhập khẩu thiết bị toàn bộ. Gồm có 2 hình thức: Đấu thầu mở rộng hay đấu thầu hạn chế. Các công đoạn của đấu thầu gồm: Lập hồ sơ gọi thầu và công bố. Phân phát hoặc bán hồ sơ gọi thầu. Mở thầu. Xét đơn thầu. Tuyên bố trúng thầu. Đàm phán ký kết hợp đồng. Mua sắm trực tiếp thông qua gọi chào hàng cạnh tranh. Lập đơn xin chào hàng . Gọi chào hàng cạnh tranh. So sánh đánh giá chào hàng. Đàm phán kí kết hợp đồng. 1.4 Hợp đồng nhập khẩu thiết bị toàn bộ. Trong quá trình nhập khẩu thiết bị toàn bộ bằng vốn ngân sách Nhà nước, ta phải đặc biệt chú ý tới phần hợp đồng vì nó có điểm khác với hợp đồng kinh tế thông thường như: Hợp đồng nhập khẩu thiết bị toàn bộ phải có điều khoản quy định rằng hợp đồng chỉ có hiệu lực khi được cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước Việt Nam phê duyệt, trừ trường hợp nhập khẩu thiết bị lẻ có giá trị đơn vị máy dưới 100.000 USD hay tổng trị giá hợp đồng dưới 500.000 USD, doanh nghiệp nhập khẩu có quyền tự quyết định về các điều khoản của hợp đồng; Hợp đồng nhập khẩu thiết bị phải nói rõ nội dung chuyển giao công nghệ (nếu có) và giá của công nghệ được chuyển giao. Nội dung chuyển giao công nghệ được thể hiện bằng điều khoản về chuyển giao công nghệ trong hợp đồng nhập khẩu thiết bị hoặc hợp đồng chuyển giao công nghệ kèm theo hợp đồng chính. Sau khi ký hợp đồng nhập khẩu thiết bị, doanh nghiệp kinh doanh nhập khẩu làm văn bản đề nghị Bộ Thương mại phê duyệt hợp đồng (áp dụng đối với các hợp đồng phải phê duyệt) sau khi đã có ý kiến của cơ quan chủ quản. Hồ sơ cần thiết để xin phê duyệt hợp đồng bao gồm: Hợp đồng (có chữ ký của các bên mua bán) gồm cả tiếng nước ngoài và tiếng Việt (hoặc bản dịch) và các tài liệu có liên quan như Luận chứng kinh tế kỹ thuật, catalogues thiết bị (nếu có), các chào hàng hoặc các đơn thầu chung cuộc, biên bản kết luận về đấu thầu hoạc so sánh chào hàng… Văn bản phê duyệt Luận chứng kinh tế kỹ thuật của công trình phù hợp với quy định hiện hành. Văn bản đề nghị của cơ quan chủ quản. Văn bản của cơ quan có thẩm quyền cho phép sử dụng các nguồn vốn viện trợ, vay nợ của nước ngoài hay nguồn vốn Ngân sách Nhà nước khác cho công trình. Văn bản bảo lãnh của Ngân hàng (nếu hợp đồng nhập khẩu thiết bị quy định cần có bảo lãnh thanh toán của Ngân hàng). Các giấy tờ, văn bản khác mà Bộ Thương mại hoặc Hội đồng thẩm định Nhà nước yêu cầu Hồ sơ được lập thành 4 bộ (nếu thuộc phê duyệt của Bộ Thương mại ) và 8 bộ (nếu thuộc phê duyệt của Hội đồng thẩm định Nhà nước). Hồ sơ phải có 1 bản gốc, các bộ trực tiếp theo có thể là bản sao. Những hợp đồng nhập khẩu thiết bị có điều khoản về chuyển giao công nghệ hoặc chuyển giao công nghệ kèm theo sẽ được Bộ Thương mại và Hội đồng thẩm định Nhà nước xem xét phê duyệt khi đã có ý kiến của Bộ Khoa học công nghệ môi trường về những vấn đề chuyển giao công nghệ. Bộ Thương mại sẽ xem xét và phê duyệt các hợp đồng thiết bị toàn bộ có giá trị vốn đầu tư của dự án dưới 5 triệu USD (trị giá vốn đầu tư của dự án bao gồm cả đầu tư cho xây dựng cơ bản và đầu tư cho máy móc thiết bị nhập khẩu) sau khi đã có ý kiến của cơ quan chủ quản. Nếu vốn đầu tư của dự án trên 5 triệu USD, Bộ Thương mại đưa ra Hội đồng thẩm định Nhà nước xem xét, trong đó: Dự án đến 10 triệu USD, Hội đồng thẩm định Nhà nước tự quyết định phê duyệt; Dự án trên 10 triệu USD, Hội đồng thẩm định Nhà nước trình thủ tướng Chính phủ quyết định. Lệ phí thẩm định hợp đồng doanh nghiệp kinh doanh nhập khẩu thiết bị chịu và tính vào phí chuẩn bị dự án. Mức lệ phí thẩm định là 0,1% trị giá hợp đồng nhưng tối đa không quá 5.000 USD cho một hợp đồng. Thời gian phê duyệt là 30 ngày kể từ ngày nhận được đề nghị phê duyệt của doanh nghiệp xin nhập khẩu máy móc, thiết bị hoặc tờ trình của Hội đồng thẩm định Nhà nước (đối với trường hợp Thủ tướng Chính phủ phê duyệt). Nếu quá thời gian quy định trên, các cơ quan chức năng có thẩm quyền phê duyệt phải chịu trách nhiệm hậu quả (nếu có) về sự chậm trễ gây lên. Hợp đồng nhập khẩu thiết bị toàn bộ có thể ký một lần hoặc ký thành nhiều hợp đồng nhỏ cho từng phần tuỳ theo yêu cầu Sau khi có phê duyệt của các cơ quan chức năng có thẩm quyền đối với hợp đồng nhập khẩu máy móc, thiết bị, Bộ Thương mại có trách nhiệm cấp giấy phép nhập khẩu cho hợp đồng nhập máy móc, thiết bị theo từng chuyến hàng nhập, phù hợp với các điều kiên của hợp đồng đã được phê duyệt. 1.5 Phân loại và tính thuế nhập khẩu thiết bị toàn bộ. 1.5.1. Nguyên tắc phân loại a, Hàng hoá nhập khẩu là một tập hợp các máy móc thuộc các nhóm, phân nhóm hàng của các Chương 84, 85, 86, 88, 89, 90 của Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi hiện hành được áp dụng nguyên tắc phân loại theo máy chính để tính thuế nhập khẩu. Đối với các trường hợp nhập khẩu lô hàng thiết bị toàn bộ gồm nhiều các tập hợp máy móc khác nhau hoặc nhiều dây chuyền khác nhau, trong đó mỗi tập hợp dây chuyền này có một máy chính thì những trường hợp này cần phân loại lô hàng nhập khẩu thành từng nhóm các máy móc thiết bị tương ứng với từng dây chuyền để tính thuế theo đúng nguyên tắc đã hướng dẫn nêu trên. Trường hợp máy chính có mức thuế nhập khẩu cao hơn mức thuế nhập khẩu của các máy móc thiết bị khác trong tập hợp các máy móc nhập khẩu thì các doanh nghiệp được lựa chọn việc áp dụng cách phân loại theo máy chính hoặc phân loại theo từng máy. Nếu lô hàng thiết bị toàn bộ nhập khẩu ngoài tập hợp các máy móc, thiết bị còn bao gồm cả vật tư, nguyên liệu, vật liệu, phụ liệu, nhiên liệu, nhà xưởng, ô tô thì chỉ áp dụng nguyên tắc phân loại theo máy chính để tính thuế nhập khẩu cho tập hợp các máy móc thuộc các Chương 84, 85, 86, 88, 89, 90 của Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi hiện hành; không áp dụng nguyên tắc phân loại theo máy chính để tính thuế nhập khẩu đối với hàng hoá nhập khẩu là các vật tư, nguyên liệu, vật liệu, phụ liệu, nhiên liệu, nhà xưởng, ô tô (những mặt hàng này thực hiện theo nguyên tắc: phân loại đúng mã số quy định cho mặt hàng đó tại Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi hiện hành). b, Tập hợp các máy móc được áp dụng nguyên tắc phân loại theo máy chính gồm ít nhất từ hai máy, thiết bị trở lên thuộc một hoặc nhiều nhóm, phân nhóm hàng của các Chương 84, 85, 86, 88, 89, 90 của Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi hiện hành. Tập hợp các máy móc này có thể là một tổ hợp (ví dụ: tổ hợp các máy móc thiết bị truyền hình gồm thiết bị thu, thiết bị truyền, camera.., tổ hợp sản xuất thuốc lá điếu gồm máy chế biến thuốc lá, máy vê thuốc, kèm thiết bị đóng gói..) hoặc chúng có thể là một dây chuyền (Ví dụ: dây chuyền may quần áo gồm máy may, máy vắt sổ, máy thùa khuyết, máy đính cúc, máy thiết kế mẫu, bàn may, máy cắt, máy phát điện...). Các máy móc khác nhau của tập hợp các máy móc này có tính chất bổ trợ gắn kết với nhau để đồng thời hay gối đầu nhau nhằm thực hiện chức năng riêng của từng máy và của cả hệ thống. c, Tập hợp các máy móc được áp dụng nguyên tắc phân loại theo máy chính nêu tại điểm a và b có thể là: - Được nhập khẩu từ một hoặc nhiều thị trường khác nhau, có xuất xứ từ một hoặc nhiều khu vực hoặc từ nhiều nước khác nhau, nhập về cùng chuyến hoặc không cùng một chuyến nhưng tập hợp các máy móc, thiết bị nhập khẩu tạo thành một tổ hợp hoặc một dây chuyền với một chuỗi các máy móc, thiết bị liên kết với nhau, có tính chất bổ trợ cho nhau để đồng thời hay gối đầu nhau thực hiện các chức năng riêng biệt của từng máy và của cả hệ thống. - Vừa nhập khẩu vừa tự sản xuất hoặc mua trong nước nhưng phải đáp ứng 3 điều kiện: Thứ nhất, máy chính phải là máy được nhập khẩu; Thứ hai, tập hợp các máy móc, thiết bị vừa nhập khẩu vừa tự sản xuất hoặc mua trong nước tạo thành một tổ hợp hoặc một dây chuyền với một chuỗi các máy móc, thiết bị liên kết với nhau, có tính chất bổ trợ cho nhau để đồng thời hay gối đầu nhau nhằm thực hiện các chức năng riêng biệt của từng máy và của cả hệ thống; Thứ ba, đối tượng sử dụng tập hợp các máy móc vừa nhập khẩu vừa tự sản xuất hoặc mua máy móc do trong nước sản xuất phải tự kê khai và chịu trách nhiệm trước pháp luật về loại máy móc tự sản xuất hoặc mua trong nước, tên đơn vị sản xuất hoặc đơn vị cung cấp máy và chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc kê khai này. Trường hợp kê khai sai thì ngoài việc bị truy thu thuế nhập khẩu theo đúng mã số của từng máy móc thiết bị quy định của Biểu thuế nhập khẩu tại thời điểm truy thu còn bị xử phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định hiện hành của Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu và các văn bản pháp luật có liên quan. 1.5.2. Thủ tục hồ sơ để phân loại và tính thuế nhập khẩu theo máy chính a, Hồ sơ Hàng hoá nhập khẩu là thiết bị toàn bộ được tính thuế nhập khẩu theo máy chính phải có đủ các hồ sơ sau đây: - Luận chứng kinh tế kỹ thuật hoặc Dự án đầu tư thiết bị toàn bộ được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt, trong đó ghi rõ tên máy móc thiết bị nhập khẩu, sản xuất hoặc mua trong nước. Doanh nghiệp xuất trình bản chính để cơ quan hải quan đối chiếu khi làm thủ tục nhập khẩu. - Văn bản xác nhận của cơ quan quản lý chuyên ngành về máy chính của lô hàng thiết bị toàn bộ nhập khẩu. Doanh nghiệp nộp bản chính cho cơ quan hải quan khi làm thủ tục. Cơ quan quản lý chuyên ngành là cơ quan quản lý có tính chất chuyên ngành đối với việc sử dụng máy móc, thiết bị nhập khẩu, có thể cấp Bộ hoặc cấp Sở. Cơ quan quản lý chuyên ngành chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc xác nhận của mình. Ví dụ: Doanh nghiệp Cổ phần A thuộc Thành phố Hà Nội có nhập khẩu tập hợp máy móc làm bia, thì cơ quan xác nhận máy chính là Bộ Công nghiệp hoặc Sở Công nghiệp, không phải là Uỷ ban nhân dân các cấp. Công ty liên doanh B đóng tại địa phương Quảng Ninh có nhập một dây chuyền sản xuất gạch thì cơ quan xác nhận máy chính là Bộ Xây dựng, không phải Bộ hoặc Sở kế hoạch tỉnh. Trường hợp có vướng mắc trong việc xác nhận máy chính thì cơ quan quản lý chuyên ngành trao đổi với Bộ Tài chính và các Bộ, ngành có liên quan để xác định máy chính làm căn cứ tính thuế nhập khẩu các máy móc, thiết bị này. - Hợp đồng nhập khẩu (trực tiếp hoặc uỷ thác), Bảng kê chi tiết lô hàng nhập khẩu (Packing list) và các chứng từ khác (nếu có) ghi rõ tên các loại máy móc thiết bị nhập khẩu (nộp bản chính cho cơ quan hải quan). b, Thực hiện việc tính thuế. Căn cứ vào hồ sơ quy định tại điểm trên và kết quả kiểm tra hàng hoá thực nhập khẩu, hoặc vừa nhập khẩu vừa tự sản xuất hoặc mua trong nước (nếu có) phù hợp quy định tại TT 85/2003/TT- BTC ngày 29/8/2003 thì cơ quan hải quan nơi làm tục nhập khẩu sẽ tính thuế tập hợp các máy móc của thiết bị toàn bộ theo máy chính và mở sổ để theo dõi hàng hoá thực nhập với Danh mục hàng hoá cần nhập khẩu đã được cơ quan phê duyệt Luận chứng kinh tế kỹ thuật hoặc Dự án đầu tư duyệt. Nếu nghi ngờ việc xác nhận của cơ quan có thẩm quyền là không chính xác, thì cơ quan hải quan làm thủ tục nhập khẩu vẫn thực hiện tạm tính thuế theo máy chính đã được xác nhận và phản ảnh ngay cho cơ quan xác nhận biết đồng thời báo cáo Tổng cục Hải quan giải quyết. Trường hợp còn vướng mắc, Tổng cục Hải quan sẽ báo cáo Bộ Tài chính để làm việc với các Bộ, ngành có liên quan giải quyết. Trường hợp xác nhận của cơ quan có thẩm quyền không phù hợp thì hàng hoá nhập khẩu sẽ được tính lại thuế. Nếu số tiền thuế nhập khẩu đã nộp nhiều hơn số thuế phải nộp theo mức thuế tính lại, đơn vị nhập khẩu thiết bị toàn bộ sẽ được hoàn thuế hoặc khấu trừ vào số thuế phải nộp của lô hàng sau. Nếu số tiền thuế đã nộp ít hơn số thuế phải nộp theo mức thuế tính lại, cơ quan hải quan sẽ thực hiện việc truy thu thuế đối với hàng hoá đã làm thủ tục. Việc thực hiện truy thu, truy hoàn hoặc khấu trừ thuế được thực hiện theo quy định của Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu. Các trường hợp kê khai nhập khẩu tập hợp máy móc, thiết bị toàn bộ để được tính và nộp thuế nhập khẩu theo máy chính nhưng thực tế không sử dụng máy móc thiết bị này thành một tổ hợp hoặc dây chuyền mà sử dụng theo máy riêng lẻ, thì ngoài việc truy thu thuế nhập khẩu theo đúng mức thuế nhập khẩu quy định cho từng máy, đơn vị còn bị xử lý hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định hiện hành của Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu và các văn bản pháp luật liên quan. Bộ Tài chính sẽ phối hợp với các Bộ ngành có liên quan để xử lý cụ thể việc áp dụng nguyên tắc phân loại theo máy chính cho các trường hợp nhập khẩu tập hợp máy móc của thiết bị toàn bộ, ngoài các máy móc, thiết bị thuộc các nhóm hoặc phân nhóm hàng của các chương 84, 85, 86, 88, 89, 90 của Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi hiện hành. (Ví dụ: thiết bị toàn bộ đường ống dẫn khí) II, Thực trạng thực hiện nghiệp vụ nhập khẩu thiết bị toàn bộ bằng vốn ngân sách Nhà nước 2.1 Thực trạng nhập khẩu thiết bị toàn bộ bằng vốn ngân sách nhà nước a, Giai đoạn trước năm 1990 Trong giai đoạn từ năm 1959 đến năm 1989, Cả nước đã nhập khẩu hơn 500 công trình thiết bị toàn bộ lớn và nhỏ bằng nguồn vốn ngân sách Nhà nước. Trong số đó có nhiều công trình trọng điểm, có tầm quan trọng lâu dài đối với đời sống kinh tế xã hội của đất nước như: Công trình cầu Thăng Long, công trình khôi phục và mở rộng cảng Hải Phòng, hệ thống các đường dây và trạm biến thế điện trong cả nước, các công trình nhà máy xi măng Bỉm Sơn, Hoàng Thạch, Hà Tiên, Công trình nhà máy nhiệt điện Phả lại, Công trình nhà máy thuỷ điện Hoà Bình, Thác Đà, Trị An, Nhà máy đường La Ngà, Công trình nhà máy giấy Tân Mai, Bãi Bằng… Trong giai đoạn này nhập khẩu thiết bị toàn bộ mang tính chất độc quyền. Chỉ có một doanh nghiệp duy nhất trong cả nước được phép nhập khẩu thiết bị toàn bộ, đó là công ty xuất nhập khẩu thiết bị toàn bộ và kỹ thuật (Technoimport) mà tiền thân là Cục kiêm tổng công ty nhập khẩu thiết bị toàn bộ và trao đổi kỹ thuật thuộc Bộ Ngoại Thương. Tất cả các công trình thiết bị toàn bộ kể trên đều do Công ty Technoimport nhập khẩu thiết bị toàn bộ Về thị trường nhập khẩu, giống như các mặt hàng khác, thiết bị toàn bộ được nhập khẩu chủ yếu từ thị trường các nước xã hội chủ nghĩa như Liên Xô, Các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu và Trung Quốc. Việc nhập khẩu có tính chất đơn giản vì hầu như đều mang tính chất giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa anh em. Việc lựa chọn đối tác không cần cân nhắc quá kỹ vì hầu hết các đối tác nước ngoài cũng đều là doanh nghiệp nhà nước của nước bạn nên rủi ro trong quá trình nhập khẩu dường như là không có. Việc thanh toán cho các hợp đồng cũng hết sức có lợi cho phía Việt Nam, chúng ta thường được cung cấp một khoản tín dụng lớn trong một khoảng thời gian dài với lãi xuất thấp. Việc đàm phán kí kết hợp đồng cũng diễn ra đơn giản vì nó được dựa trên tinh thần hợp tác và giúp đỡ giữa các nước xã hội chủ nghĩa anh em. Những công trình thiết bị toàn bộ này có ý nghĩa hết sức to lớn trong sự nghiệp xây dựng đất nước. a, Giai đoạn sau 1990 Sau sự sụp đổ của một loại các nước xã hội chủ nghĩa Liên Xô và Đông Âu, thị trường nhập khẩu truyền thống của ta bị mất đi, cùng với đó là mất đi sự giúp đỡ hết sức quý báu của các nước xã hội chủ nghĩa anh em. Trong giai đoạn đầu những năm 90, ta đã gặp rất nhiều khó khăn trong việc tìm kiếm thị trường xuất nhập khẩu nói chung và thị trường nhập khẩu thiết bị toàn bộ nói riêng. Do chưa kịp thích ứng với việc thay đổi thị trường nhập khẩu, thêm vào đó là vẫn giữ thói quen làm việc như cũ, chưa dám tin tưởng bắt tay làm việc với các nước tư bản chủ nghía nên hoạt động nhập khẩu thiết bị toàn bộ gần như bị đình trệ lại. Tuy nhiên sau thời gian thích nghi và tích cực tìm kiếm thị trường, thay đổi nhận thức và cách thức kinh doanh, hoạt động nhập khẩu thiết bị toàn bộ đang diễn ra hết sức sôi động phục vụ tích cực cho sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Hiện nay chính sách về nhập khẩu thiết bị toàn bộ bằng vốn ngân sách Nhà nước đã thông thoáng hơn rất nhiều, phù hợp với tình hình phát triển kinh tế đất nước và xu hướng chung của thế giới. Năm 1990, Nhà nước đã có một hướng đi hết sức đúng đắn đó là xoá bỏ tình trạng độc quyền trong kinh doanh thiết bị toàn bộ, cho phép được nhập khẩu trực tiếp mà không phải uỷ thác cho Technoimport như trước đây, và các doanh nghiệp chỉ cần đảm bảo các điều kiện đã nêu ở trên là được phép nhập khẩu thiết bị toàn bộ. Đến nay đã có rất nhiều công trình thiết bị toàn bộ được hoàn thành như nhà máy xi măng Hoàng Mai (giá trị hợp đồng nhập khẩu thiết bị toàn bộ là 123 triệu USD), nhà máy xi măng Tam Điệp (giá trị thiết bị toàn bộ 110 triệu USD), dự án thuỷ lợi đồng bằng sông Hồng (giá trị thiết bị toàn bộ là 10 triệu USD), nhà máy gạch men Hải Dương ( giá trị thiết bị toàn bộ là 3.550.000 USD)… và nhiều công trình thiết bị toàn bộ khác, không chỉ mang lại hiệu quả kinh tế cho đất nước mà còn có giá trị tích cực về mặt văn hoá, xã hội. Về thị trường nhập khẩu thiết bị toàn bộ: Thị trường nhập khẩu thiết bị toàn bộ đã có sự chuyển biến một cách hợp lý, theo xu hướng đa dạng hoá thị trường nhập khẩu. Sau khi thị trường truyền thống là các nước xã hội chủ nghĩa sụp đổ thì chúng ta đã nhanh chóng chuyển sang một khu vực thị trường mới, đó là khối các nước tư bản chủ nghĩa. Hiện nay các nước này đã đạt tới trình độ phát triển cao về công nghệ, các thị trường cơ bản hiện nay là Nhật, Pháp, Đức, Mỹ, Singapore, Trung Quốc, Đan mạch, Italia, Hàn Quốc, Malaysia, Thuỵ sĩ… Ngoài những công trình thiết bị truyền thống như đã nhập trước đây, thì hiện nay đã xuất hiện những nhu cầu thiết bị toàn bộ mới, đặc biệt là nhu cầu thiết bị toàn bộ để khai thác và chế biến dầu khí. Do có nhiều mặt hàng là mặt hàng mới nên kinh nghiệm nhập khẩu của ta chưa có nhiều, vì vậy trong quá trình nhập khẩu phải hết sức thận trọng. Tránh để tình trạng nhập khẩu phải thiết bị cũ, đã lỗi thời, lạc hậu, sau đó lại phải bổ sung sửa chữa mà hiệu quả hoạt động không cao. Trong hợp đồng thường có điều khoản quy định chất lượng thiết bị toàn bộ là thiết bị mới ( 100% brand new). Tuy nhiên để nhận biết thiết bị toàn bộ đó là thiết bị tiên tiến hay thiết đã bị lỗi thời, thì đòi hỏi phải có đội ngũ cán bộ am hiểu về thị trường khoa học công nghệ. Thế nhưng đội ngũ cán bộ này ở Việt Nam hiện vẫn đang còn rất thiếu và yếu, trình độ khoa học công nghệ chưa cao, kiến thức về thị trường còn nhiều hạn chế. Và do rất nhiều nguyên nhân khác mà hiệu quả của việc nhập khẩu thiết bị toàn bộ bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước chưa cao. Hiệu quả của công trình thiết bị toàn bộ lại phải sau một thời gian dài đưa vào sử dụng mới đánh giá được nên tình trạng nhập khẩu thiết bị toàn bộ đã lạc hậu về công nghệ vẫn còn diễn ra khá phổ biến. 2.2 Những tồn tại và nguyên nhân a, Những tồn tại Thứ nhất là: Nghiệp vụ nhập khẩu thiết bị toàn bộ còn yếu kém Thị trường máy móc thiết bị có những đặc điểm khác với thị trường hàng hoá khác : Thiết bị toàn bộ là sản phẩm không thể làm thí nghiệm cũng như không thể làm sẵn để chào bán; cung hàng hoá trong ngắn hạn thay đổi chậm, sức ỳ lớn và mang tính chất độc quyền kinh tế; thủ tục mua hàng, tham khảo bảng giá nhiều nơi, xét duyệt và ký hợp đồng khá phức tạp, thời kỳ mua bán chuyển giao lắp đặt kéo dài; Trị giá hợp đồng và số lượng sản phẩm lớn; hiệu quả kinh tế phải qua một thời gian mới được biểu hiện đầy đủ…Do những đặc điểm riêng biệt của mặt hàng này nên công tác nghiên cứu thị trường chiếm một vị trí rất quan trọng trong hoạt động nhập khẩu. Trên cơ sở nhu cầu thiết bị toàn bộ cần nhập khẩu, doanh nghiệp nhập khẩu sẽ tiến hành thu thập thông tin, nghiên cứu thị trường trong và ngoài nước. Trước tiên doanh nghiệp sẽ tiến hành tìm hiểu mức giá cả cùng loại ở thị trường trong nước (hoặc mức giá trần nêu trong quyết định đầu tư, đông thời thu thập thông tin về mã số thuế, thuế suất và phụ thu của mặt hàng đó. Sau đó doanh nghiệp tiến hành nghiên cứu ở thị trường nước ngoài. Trên thế giới, thị trường buôn bán thiết bị toàn bộ rất rộng lớn, đa dạng và phức tạp, vì thế ngay cả khi đã nhận biết được loại thiết bị toàn bộ cần nhập thì vẫn phải nghiên cứu thị trường. Để đi tới quyết định nên nhập khẩu của hãng nào thì doanh nghiệp phải nghiên cứu về tình hình sản xuất, giá cả và chất lượng máy móc thiết bị cũng như uy tín và khả năng tài chính của hãng, nắm rõ các điều kiện về tập quán thương mại, quan hệ thương mại của nước đó với Việt Nam. Tuy nhiên việc nghiên cứu thị trường vẫn còn bị xem nhẹ, công tác tổ chức nghiên cứu thị trường còn tiến hành chưa tốt. Chính vì vậy trong những năm 1998, 2000 chúng ta đã mắc phải những sai lầm lớn trong hoạt động nhập khẩu thiết bị toàn bộ cho các nhà máy mía đường, gây thiệt hại nghiêm trọng đối với kinh tế và xã hội. Tình trạng nhập khẩu phải thiết bị cũ, lạc hậu, đã lỗi thời diễn ra khá phổ biến, ví dụ như thiết bị toàn bộ của nhà máy đường Việt Trì là thiết bị cũ thanh lý do Trung Quốc chế tạo từ năm 1958. Gía cả là một điều khoản trong hợp đồng được các doanh nghiệp Việt Nam hết sức quan tâm chú ý. Để cạnh tranh, giá cả mà các đối tác nước ngoài đưa ra thường rất khác nhau, đòi hỏi đội ngũ cán bộ phải có trình độ cao để phân tích xem với giá đó thì máy móc có đầy đủ, đồng bộ không, có đáp ứng được các chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật hay không. Khi xem xét về đơn giá cần chú ý rằng các nhà sản xuất thường hạ giá thiết bị chính, chi tiết chính để cạnh tranh trong khi đó lại nâng giá các chi tiết lên để bù lại khiến tổng giá thành của thiết bị vẫn không thay đổi. Do công tác nghiên cứu tìm hiểu về giá không tốt, chúng ta thường phải nhập với giá khá cao. Cũng do không tìm hiểu kỹ về thị trường giá cả nên cùng dây truyền thiết bị của Trung Quốc, cùng công suất 1.000 tấn mía /ngày) nhưng giá nhập chênh nhau hàng chục tỷ đồng: Nhà máy đường Sơn La nhập với giá 65 tỷ , nhà máy đường ở tỉnh Kon Tum nhập với giá 70 tỷ. nhà máy đường Bình Thuận nhập với giá 75,2 tỷ, nhà máy đường Trị An nhập với giá 76 tỷ đồng. Không chỉ yếu kém trong công tác nghiên cứu thị trường mà tình trạng yếu kém và sai phạm còn xảy ra ở tất cả các khâu trong nội dung của thiết bị toàn bộ. Công tác nghiên cứu khả thi, thiết kế kỹ thuật sơ bộ, thiết kế kỹ thuật cơ bản, thiết kế kỹ thuật chi tiết còn tiến hành chưa tốt. Trong giai đoạn cung cấp thiết bị và chạy thử, đưa vào sản xuất có rất nhiều vấn đề nảy sinh như máy móc còn giao chậm và giao không đồng bộ, chưa học hỏi và tranh thủ được kinh nghiệm của các chuyên gia. Thứ hai là: Xin giấy phép nhập khẩu khó, mất nhiều thời gian Giấy phép nhập khẩu của các công trình máy móc thiết bị khác nhau là do các bộ chuyên nghành khác nhau quản lý, ví dụ như khi nhập khẩu máy móc thiết bị sản xuất nhôm tấm thì phải xin giấy phép nhập khẩu của Bộ Công nghiệp nay là Bộ Công Thương, nhập khẩu thiết bị sản xuất thức ăn chăn nuôi thì phải xin giấy phép của Bộ Nông nghiệp, nhập khẩu máy cán thép thì phải xin giấy phép nhập khẩu của Bộ Xây dựng… Mỗi công trình thiết bị toàn bộ để được nhập khẩu hầu như phải xin rất nhiều giấy phép, đó là chưa kể đến việc có những công trình nhập khẩu thiết bị toàn bộ mà có đến hai, ba Bộ chuyên nghành quản lý, chồng chéo trong thủ tục hành chính. Việc xin giấy phép nhập khẩu thường cũng gặp rất nhiều khó khăn, có khi phải chờ đến hàng tháng mới xin được một giấy phép. Có những hàng hoá cần rất nhiều giấy phép con, ví dụ như dụng cụ y tế phải xin giấy phép con cho 27 mặt hàng. Có khi hàng hoá đã về đến cảng, đến kho ngoại quan mà vẫn chưa xin đủ giấy phép nhập khẩu của các bộ, ngành liên quan. Tình trạng trên dẫn đến việc hợp đồng thiết bị toàn bộ thường kéo dài, chậm trễ trong khâu nhận hàng, tốn chi phí lưu kho lưu bãi. Hơn nữa thủ tục hải quan còn nhiều điểm bất cập, ảnh hưởng không nhỏ đến việc khai thông hàng hoá. Qui định hiện nay về thủ tục nhập khẩu máy móc thiết bị toàn bộ bằng vốn ngân sách nhà nước cho các dự án được nhiều cơ quan thuộc nhiều cấp ban hành dẫn đến nảy sinh mâu thuẫn giữa các văn bản, làm ách tắc hoạt động nhập khẩu, gây thiệt hại về thời gian và tiền của cho các đơn vị nhập khẩu. Ví dụ như trước đây đối với máy móc thiết bị trong nước chưa sản xuất được thì khi nhập khẩu phải xin giấy phép nhập khẩu của Bộ Công nghiệp nhưng để được miễn thuế nhập khẩu thì phải xin giấy phép Bộ Thương mại. Mặc dù theo qui định thì thiết bị trong nước chưa sản xuất được chỉ cần bộ quản lý ngành xác nhận là được miễn thuế nhập khẩu. Hiện nay hai Bộ này đã hợp nhất thành một Bộ là Bộ Công Thương,sự mâu thuẫn trong quản lý đã được giảm bớt đi rất nhiều nhưng vẫn còn khá phức tạp gây khó khăn cho nhiều doanh nghiệp nhập khẩu. Thứ ba là: Khó khăn trong việc huy động vốn cho dự án nhập khẩu thiết bị toàn bộ Kinh doanh nhập khẩu thiết bị toàn bộ là một lĩnh vực kinh doanh đặc biệt và đầy khó khăn vì hoạt động nhập khẩu thiết bị toàn bộ cần một số vốn lớn. Bên cạnh đó chính sách và cách thức quản lý ngồn vốn của Nhà nước còn nhiều bất cập. Việc giải ngân không đúng tiến độ khiến cho chủ đầu tư gặp rất nhiều khó khăn để tìm ra nguồn vốn bổ sung trong khi chờ được cấp vốn.Vấn đề nợ đọng vốn đầu tư xây dựng cơ bản tạo ra tình trạng dây dưa giữa nhiều chủ thể khác nhau trong nền kinh tế. Chủ đầu tư nợ nhà thầu, nhà thầu nợ ngân hàng, nợ thuế nhà nước, nợ doanh nghiệp cung ứng thiết bị toàn bộ, nợ lương công nhân… Nhiều công trình thiết bị toàn bộ đã bị ngừng trệ dẫn tới hàng loạt chi phí phát sinh ngoài dự kiến, thậm chí có nhiều công trình phải bỏ dở vì chi phí phát sinh quá cao, điều này đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến nhà nhập khẩu thiết bị toàn bộ . Nhiều trường hợp nhập khẩu thiết bị toàn bộ mà công ty bị lỗ nhưng vẫn phải thực hiện vì sắp đến thời điểm thực hiện hợp đồng thì việc huy động vốn để hoàn thành hợp đồng gặp khó khăn. Nguồn vốn Nhà nước cấp thường nhỏ giọt, không phù hợp với tiến độ thực hiện công trình thiết bị toàn bộ. Trong khi nguồn vốn của các công ty nhập khẩu thiết bị toàn bộ còn hạn chế thì một giải pháp được tính tới là vay vốn ngân hàng. Tuy nhiên chi phí bỏ ra là khá lớn do lãi suất khá cao, thời hạn tín dụng thường ngắn trong khi thời gian nhập khẩu thiết bị thường kéo dài đến hàng năm, có những công trình kéo dài đến vài năm. Tình trạng Nhà nước nợ vốn cho dự án hiện nay đang khá phổ biến và đang là mối lo lớn cho các chủ đầu tư. b, Nguyên nhân của những tồn tại trên Thứ nhất: Nguồn vốn nhập khẩu là vốn ngân sách nhà nước. Mà hiện nay công tác giám sát, đánh giá kết quả đầu tư thực hiện vốn Ngân sách Nhà nước và vốn ODA còn nhiều yếu kém bất cập. Việc quản lý vốn còn khép kín, chưa công khai minh bạch. Trong khi đó các nghành các cấp từ Trung ương đến địa phương chưa kiên quyết xoá bỏ cơ quan chủ quản, chưa có một chương trình toàn diện, quyết liệt có hiệu quả trong việc chống lãng phí thất thoát trong quá trình mua sắm thiết bị toàn bộ gắn liền với chống tham nhũng. Quá trình nhập khẩu thiết bị toàn bộ từ nước ngoài là nơi dễ thất thoát vốn đầu tư nhất trong các dự án đầu tư bằng vốn ngân sách Nhà nước. Đây là khâu mà các nhà đầu tư thường gọi là “ mỏ vàng dễ đãi ”, dễ xảy ra tiêu cực nhất. Mặt khác, cách thức quản lý vốn ngân sách của nhà nước còn nhiều bất cập. Hệ thống các văn bản pháp quy liên quan đến vốn ngân sách Nhà nước còn thiếu đồng bộ. Việc giải ngân vốn thường xuyên chậm hơn tiến độ công trình của công trình thiết bị toàn bộ vì vậy nhiều dự án đã bị chậm tiến độ lại để chờ vốn của nhà nước cấp xuống tiếp. Thứ hai: Do cơ chế quản lý chưa nghiêm và khép kín, thiếu công khai minh bạch nên các cán bộ rất dễ bị tha hoá về mặt đạo đức, chạy theo thành tích mà không cần quan tâm đến chất lượng và hiệu quả mà công trình thiết bị toàn bộ mang lại. Trong khi đó Nhà nước lại chưa quy định rõ trách nhiệm của mỗi bên, đến khi phát hiện sai phạm thì không bên nào chịu đứng ra nhận trách nhiệm. Rất nhiều cán bộ đã làm trái quy định không được phép nhập khẩu bằng vốn ngân sách Nhà nước những thiết bị trong nước đã sản xuất được. Hiện nay Việt Nam đã có một vài nhà sản xuất có đủ khả năng cung cấp một số dây chuyền thiết bi toàn bộ, và mặc dù nhà sản xuất trong nước liên tục khẳng định khả năng cung cấp thiết bị toàn bộ mà công trình yêu cầu nhưng chủ đầu tư và cơ quan chủ quản vẫn cứ tiếp tục cho nhà thầu nhập khẩu thiết bị toàn bộ của nước ngoài đưa vào công trình. Ví dụ như trong việc nhập khẩu thiết bị, Chính phủ có văn bản quy định đối với các cơ sở chế biến đường vừa và nhỏ không nhập toàn bộ, chỉ nhập các thiết bị quan trọng trong nước chưa sản xuất được, nhưng có tới 19 nhà máy có công suất dưới 2.000 tấn mía/ngày nhập thiết bị toàn bộ của nước ngoài và nhập ngay cả khi Thủ tướng có văn bản qui định cấm nhập. Câu hỏi đặt ra là tại sao tình trạng như vậy vẫn có thể xảy ra, và ai là người chịu trách nhiêm cho những sai phạm đó. Rất nhiều cán bộ còn có tư tưởng vốn là vốn của nhà nước, không phải của riêng ai nên không cần phải tiết kiệm, mà chỉ cần giải ngân hết số vốn nhà nước cấp cho dù công trình đó có hiệu quả hay không. Tư tưởng này còn trầm trọng hơn đối với các dự án sử dụng vốn ODA, nhiều người còn có quan niệm sai lầm về nguồn vốn này rằng đó là nguồn vốn viện trợ nên không cần phải sử dụng tiết kiệm. Thứ ba: Hạn chế về nguồn nhân lực. Để nhập khẩu thành công thiết bị toàn bộ bằng vốn ngân sách nhà nước, cán bộ nhập khẩu không chỉ cần thành thạo kỹ năng ngoại thương, hiểu biết về kỹ thuật mà còn phải có kiến thức tổng hợp về kinh tế xã hội, chính sách của Đảng và Nhà nước. Đội ngũ cán bộ nhập khẩu thiết bị toàn bộ hiện nay phần lớn là những người có nhiều năm kinh nghiệm về xuất nhập khẩu thiết bị toàn bộ. Tuy nhiên một hạn chế của đội ngũ này là những kỹ năng về tin học, ngoại ngữ còn hạn chế, chưa nhanh nhạy với thị trường. Cách thức tìm kiếm thị trường của họ còn khá truyền thống và thụ động, quá trình tiếp thu những cái mới còn chậm. Tình trạng đó có thể khắc phục bằng cách tuyển thêm cán bộ trẻ, cán bộ trẻ tuy có nhược điểm là kinh nghiệm còn ít nhưng bù lại họ có những ưu điểm có thể bổ sung cho những nhược điểm của cán bộ đã nhiều năm kinh nghiệm như nhanh nhạy nắm bắt thị trường, có trình độ ngoại ngữ, tin học . Thế nhưng, hiện nay các cơ quan nhà nước cũng như hoạt động nhập khẩu thiết bị bằng vốn ngân sách nhà nước khó có thể thu hút được đội ngũ cán bộ trẻ giỏi nghiệp vụ, bởi vì chính sách tiền lương đối với họ còn chưa thoả đáng và môi trường làm việc nhà nước chưa hấp dẫn. III Giải pháp hoàn thiện nghiệp vụ nhập khẩu thiết bị toàn bộ bằng ngồn vốn ngân sách nhà nước. 3.1 Giải pháp về phía doanh nghiệp Thứ nhất: Huy động và sử dụng vốn có hiệu quả. Do đặc điểm của hoạt động nhập khẩu thiết bị toàn bộ là giá trị hợp đồng lớn, thời gian thực hiện kéo dài nên việc huy động và sử dụng vốn có hiệu quả là một trong những nhân tố quyết định sự thành công của hoạt động nhập khẩu thiết bị toàn bộ. Để huy động và sử dụng vốn có hiệu quả ta cần phải lập một đề cương chi tiết về kế hoạch huy đông và sử dụng vốn. Cần nắm bắt và hiểu rõ chính sách và cách thức quản lý vốn của Nhà nước. Tìm mọi biện pháp để tạo, đa dạng nguồn vốn và kinh doanh có hiệu quả. Doanh nghiệp có thể nâng cao hiệu quả sử dụng vốn bằng cách quản lý vốn một cách hợp lý. Trong đó quản lý một cách hợp lý cần : chấp hành nghiêm chỉnh chế quản lý tài chính, tín dụng ngoại tệ của Nhà nước; khi bỏ vốn ra kinh doanh phải tính đến khả năng lỗ lãi, thời gian thu hồi vốn và các rủi ro có thể xảy ra để có các biện pháp phòng ngừa, xây dựng phương án kinh doanh một cách hợp lý. Thường xuyên đánh giá hiệu quả một cách hợp lý và nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng vốn. Xây dựng một kết cấu tài sản một cách hợp lý. Khi nhập khẩu thiết bị toàn bộ cần chú ý tới việc giám định, kiểm tra chất lượng, các thông số kỹ thuật và nhiều thông tin về mặt hàng nhập khẩu. Giảm tối đa chi phí không cần thiết để tiết kiệm vốn. Đối với doanh nhiệp nhập khẩu thiết bị toàn bộ thông qua hình thức uỷ thác mà không phải hình thức nhập khẩu trực tiếp cần phải qui định rõ ràng về điều khoản thanh toán vì nguồn vốn ngân sách nhà nước rót xống thường không theo kịp tiến độ của chủ đầu tư. Khi nhà nước nợ vốn chủ đầu tư thì nhà đầu tư sẽ khó có thể thanh toán đúng như thoả thuận trong hợp đồng. Vì vậy nhà nhập khẩu uỷ thác cần có những giải pháp để chủ động nguồn vốn của mình trong trường hợp chủ đầu tư thanh toán chậm. Đối với chủ đầu tư phải tuân thủ những qui định về huy động và sử dụng vốn ngân sách nhà nước. Cần có những biện pháp tích cực tác động đến chính phủ như thông qua các diễn đàn doanh nghiệp, các cuộc gặp gỡ với Bộ ngành… để đề xuất và kiến nghị những giải pháp phù hợp với thực tế hoạt động kinh doanh, nêu ra những khó khăn mà doanh nghiệp gặp phải khi huy động vốn để Nhà nước có những điều chỉnh hợp lý trong quá trình quản lý vốn ngân sách, tạo điều kiện cho việc huy động và sử dụng vốn ngân sách của chủ đầu tư được nhanh chóng và đạt được hiệu quả cao nhất. Thứ hai: Tăng cường công tác nghiên cứu thị trường Kinh doanh thiết bị toàn bộ đòi hỏi phải nghiên cứu cả thị trường trong nước và thị trường nước ngoài một cách kỹ lưỡng. Đặc biệt là thị trường nước ngoài vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến trình độ khoa học công nghệ, về giá cả lắp đặt , vận hành và quá trình bảo hành. Hơn nữa việc tìm hiểu, thu thập thông tin thường rất khó khăn vì vậy việc phân tích, đánh giá, tổng hợp và đưa ra dự báo về thị trường một cách xác thực là vô cung quan trọng. Công tác nghiên cứu thị trường quốc tế: để đảm bảo cho hoạt động nhập khẩu diến ra thuận lợi doanh nghiệp cần: Nắm vững pháp luật, tập quán thương mại quốc tế cũng như tình hình kinh tế, chính trị của nước đó, tìm ra ưu điểm của thiết bị toàn bộ sản xuất tại đây cũng như tập quán xuất nhập khẩu của các nước này. Nghiên cứu mặt hàng thiết bị toàn bộ có thể nhập khẩu về công nghệ, giá cả, mẫu mã, chất lượng, chính sách xuất nhập khẩu mặt hàng đó, các lệnh phong toả, trợ giá của chính phủ đối với các thiết bị toàn bộ. Hình thành mạng lưới kinh doanh văn phòng đại diện ở nước ngoài, tìm hiểu thị trường thông qua các tham tán thương mại và đại sứ quán của Việt Nam tại các nước. Nghiên cứu về cước phí vận tải, cách thức vận chuyển, bảo hiểm phù hợp trong từng điều kiện khác nhau sao cho có lợi nhất… Công tác nghiên cứu thị trường trong nước gồm: nghiên cứu nhu cầu mặt hàng thiết bị toàn bộ của nền kinh tế cũng như ảnh hưởng tối ưu của việc nhập khẩu thiết bị mang lại cho nền kinh tế. Nghiên cứu các chính sách trợ giúp nhập khẩu,thuế nhập khẩu, thủ tục kiểm định giám định của các cơ quan chức năng có liên quan. Sản phẩm đầu ra của thiết bị toàn bộ sản xuất, phản ứng của thị trường trước sản phẩm này, tính ưu việt của sản phẩm so với các sản phẩm cùng loại khác đang tiêu thụ trên thị trường. Nghiên cứu tình hình giá cả, quy luật cung cầu, cơ chế điều tiết giá, sự biến động giá và chính sách buôn bán, thuế xuất ưu đãi, chính sách đãi ngộ của nhà nước đối với tổ chức sử dụng thiết bị toàn bộ. Cước phí vận tải giao nhận, chi phí ngân hàng… Trên cơ sở nắm bắt toàn bộ ảnh hưởng các yếu tố trong và ngoài nước, nhà nhập khẩu sẽ tiến hành nhập khẩu thiết bị toàn bộ một cách tối ưu nhất, mang lại lợi ích kinh tế xã hội lớn nhất. Đối với hình thức mua qua đấu thầu thì phải có biện pháp thông báo rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng để các nhà thầu biết đến nhu cầu thiết bị toàn bộ cho công trình, từ đó tiến hành đấu thầu. Càng thông báo rộng rãi thì nhà đầu tư càng có nhiều cơ hội lụa chon được nhà thầu cung cấp thiết bị toàn bộ tối ưu nhất. Đối với hình thức gọi chào hàng cạnh tranh, sau khi nhận được đơn chào hàng từ phía đối tác nước ngoài, nhà nhập khẩu phải xem xét lưa chon đối tác một cách tối ưu nhất. Việc lựa chọn đối tác phải căn cứ vào kết quả so sánh giữa các đơn chào hàng. Đơn chào hàng được lựa chọn là đơn chào hàng đáp ứng đầy đủ các yêu cầu của chủ đầu tư nhất, đồng thời có nhiều điều kiện thuận lợi cho phía Việt Nam nhất về kỹ thuật, công nghệ, phạm vi cung cấp, giá cả, điều kiện thanh toán, điều kiện giao hàng… Ngoài những thông tin từ phía bạn hàng truyền thống ta nên tìm kiếm thông tin so sánh giá cả và tìm bạn hàng mới. Một trong những phương tiện rất hiệu quả hiện nay mà các doanh nghiệp nên tân dung đó là tìm kiếm thông tin trên mạng internet, đây là một phương thức hiệu quả mà chhi chí lại không cao Thứ ba: chú ý tới sự biến động về tỷ giá Hợp đồng nhập khẩu thiết bị toàn bộ thường có giá trị rất lớn nên mỗi sự biến động nhỏ của tỷ giá cũng ảnh hưởng rất lớn đến giá trị hợp đồng.Hiện nay sự biến động của tỷ giá đang diễn ra hết sức phức tạp. Đồng USD đang bị mất giá so với EURO, JPY và một số đồng tiền khác. Rất nhiều nhà nhập khẩu khi ký hợp đồng nhập khẩu thiết bị toàn bộ từ châu Âu hay Nhật Bản thì tỷ giá còn ở mức thấp, đến khi thanh toán thì tỷ giá đã lên rất cao, làm phát sinh thêm giá trị của hợp đồng. Một số nhà nhập khẩu đã chuyển hướng nhập khẩu sang thị trường Mỹ để tránh tình trạng phát sinh thêm chi phí. Tuy nhiên cần phải khẳng định rằng diễn biến về tỷ giá không phải là không thể dự đoán. Các doanh nghiệp cần nghiên cứu tìm hiểu kỹ trước khi ký kết hợp đồng và lựa chọn đồng tiền thanh toán cũng như xu hướng giá của đồng tiền mình lựa chọn. Ngoài ra, doanh nghiệp có thể sử dụng các công cụ bảo hiểm tỷ giá như giao ngay (spot), giao dịch có kỳ hạn (forward), giao dịch hoán đổi (swap), giao dịch quyền chọn (option). Hiện nay thì phần lớn các doanh nghiệp chưa quan tâm tới các nghiệp vụ bảo hiểm tỷ giá mà chỉ mua ngoại tệ khi đến hạn thanh toán. Trước tình hình biến động tỷ giá diễn ra phức tạp như hiện nay thì doanh nghiệp cần thay đổi nhận thức và có các công cụ thích hợp để hiệu quả của hợp đồng là lớn nhất. Thứ tư: Chú ý tới việc quản lý đội ngũ cán bộ Nghiệp vụ nhập khẩu thiết bị toàn bộ bằng nguồn vốn nhà nước là một nghiệp vụ khá phức tạp. Tuy nhiên, theo như phân tích đã nêu ở trên thì đội ngũ cán bộ thực hiện vẫn còn thiếu và trình độ còn nhiều hạn chế. Thêm vào đó là việc quản lý còn nhiều bất cập dẫn tới tình trạng suy thoái đạo đức, cố tình làm sai của đội ngũ cán bộ này. Để nâng cao hoạt động nhập khẩu thiết bị toàn bộ, cần có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng thêm kiến thức cho đội ngũ cán bộ nhập khẩu. Cụ thể những cán bộ kỹ thuật thì cần đào tạo thêm các kiến thức về kinh tế, thị trường, kiến thức về nghiệp vụ ngoại thương, còn những cán bộ về ngoại thương thì cần đào tạo thêm những kiến thức về kỹ thuật, công nghệ. Đồng thời trang bị thêm kiến hức về marketing, phổ biến các kiến thức liên quan đến pháp luật, tập quán thương mại quốc tế, chính sách xuất khẩu thiết bị toàn bộ của các nước, các khu vực trên thế giới, chính sách về nhập khẩu thiết bị toàn bộ của nước ta. Tổ chức các cuộc gặp gỡ trao đổi và học hỏi kinh nghiệm. Bên cạnh việc tổ chức các khoá học ngắn hạn, doanh nghiệp nên khuyến khích các cán bộ tự đi học, tự trang bị cho mình những kiến thức chuyên môn cón thiếu. Doanh nghiệp có thể thanh toán toàn bộ hoạc một phần chi phí cũng như tạo điều kiện về thời gian và phương tiện phục vụ cho quá trình học tập và nghiên cứu cho các cán bộ nhân viên. Bên cạnh đó, doanh nghiệp cũn cần có chính sách tuyển dụng nhân viên mới, đối tượng của chính sách này có thể là các sinh viên giỏi mới ra trường, có trình độ, năng động, nhiệt tình trong công việc, tích cực tìm tòi, nghiên cứu và hoạt động có hiệu quả. Tuy họ chưa có kinh nghiệm nhưng với sự chỉ bảo, giúp đỡ của các cán bộ già giàu kinh nghiệm thì chác chắn trong tương lai họ sẽ là đội ngũ kế cận cho lớp cán bộ hiện nay. Hiện nay, hầu hết các doanh nghiệp nhập khẩu thiết bị toàn bộ bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước là các doanh nghiệp nhà nước nên công tác kỷ luật lao động còn chưa nghiêm. Trong công tác quản lý lao động, cần bố trí công việc phù hợp với khả năng chuyên môn của từng người, tạo điều kiện cho họ học hỏi tác phong làm việc hiện đại. Bên cạnh đó, cũng cần có chính sách tiền lương và thưởng một cách hợp lý đối với những cán bộ thực hiện nhập khẩu thiết bị toàn bộ một cách hiệu quả, cũng như chính sách kỷ luật đối với các cán bộ có sai phạm trong quá trình nhập khẩu. 3.2. Giải pháp về nhà nước Thứ nhất là thực hiện cải cách hành chính Thủ tục hành chính phiền hà là căn bệnh phổ biến ở nước ta. Muốn có hiệu quả cao trong kinh doanh, nhà nước cần đơn giản hóa các thủ tục hành chính. Để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp kinh doanh nhập khẩu thiết bị toàn bộ hoạt động hiệu quả nhà nước phải đơn giản hoá các thủ tục nhập khẩu. Nhà nước cần chỉ đạo những cơ quan chức năng có sự phối hợp chặt ché trong việc quản lý nhập khẩu thiết bị toàn bộ bằng vốn ngân sách nhà nước. Theo quy định hiện hành thì Bộ Công Thương có trách nhiệm phê duyệt các dự án thiết bị toàn bộ theo thẩm quyền của mình. Tổng cục hải quan có trách nhiệm kiểm tra giám sát hàng nhập khẩu, thu thuế nhập khẩu… Mặc dù hiện nay có hững cải cách đáng kể trong thủ tục hải quan như: doanh nghiệp tự khai và tính thuế, thực hiện thí điểm hải quan điện tử…Tuy nhiên việc tổ chức hoạt động vẫn còn gây phiền hà đối với doanh nghiệp như một số cán bộ hải quan bị biến chất gây ra những tiêu cực làm mất lòng tin của doanh nghiệp. Theo như qui định thì trong vòng 30 ngày kể từ ngày nộp hồ sơ, Bộ Công Thương phải trả lời về việc có cho phép thực hiện hợp đồng hay không. Do vậy Bộ Công Thương cần nâng cao trình độ của các cán bộ trong việc xem xét, phê duyệt các hợp đồng nhập khẩu thiết bị toàn bộ. Chỉ có những cán bộ có trình độ chuyên môn cao mới nắm rõ việc nhập khẩu thiết bị toàn bộ đó có lợi hay không trong một thời gian ngắn như vậy. Bộ cũng nên phân công rõ từng cán bộ phụ trách về một lĩnh vực cụ thể để các chuyên viên của Bộ nắm rõ hơn về lĩnh vực mình phụ trách và để các doanh nghiệp tiện liên hệ. Nhà nước cần tạo môi trường pháp lý và các chế độ quản lý hiện đại để giúp các doanh nghiệp nhập khẩu thiết bị toàn bộ hoạt động hiệu quả trong môi trường đó. Đồng thời có chính sách về xuất nhập khẩu nhất quán ổn định để các hoạt động của nhà nhập khẩu ổn định, không bị sáo trộn và giữ được chữ tín đối với bạn hàng. Tham gia sâu hơn nữa quá trình hội nhập kinh tế quốc tế từ đó công khai và minh bạch công tác quản lý. Nhà nước cần có nhiều cải cách trong biện pháp quản lý vốn ngân sách nhà nước, chống tham ô, lãng phí trong quá trình sử dụng vốn. Những tiêu cực xảy ra trong quá trình nhập khẩu thiết bị toàn bộ phần lớn là do chính sách và cơ chế quản lý chưa còn nhiều yếu kém, thêm vào đó là chế độ tiền lương chưa thoả đáng. Cần xây dựng lại chính sách tiền lương và quản lý lao động một cách hiện đại và hiệu quả để thu hút được đội ngũ lao động trẻ giỏi nghiệp vụ. Nhà nước cũng cần có hướng chỉ đạo để ngân hàng nhà nước và các ngân hàng thương mại có thể đứng ra bảo lãnh cho nhà nhập khẩu vay những khoản tiền từ các hãng sản xuất nước ngoài dưới dạng trả chậm với mức lãi xuất ưu đãi. Thứ hai là quản lý vốn ngân sách một cách hiệu quả. Hiện nay quản lý vốn ngân sách nhà nước còn nhiều yếu kém. Nguyên nhân chính vẫn là công tác quản lý chưa chặt chẽ và chưa đồng bộ. Một nguồn vốn đầu tư mà thông qua nhiều mối quản lý cho nên tính chịu trách nhiệm không tập trung và không cao. Hơn nữa trình tự thủ tục hành chính như thủ tục xây dựng cơ bản, trình tự đấu thầu, trình tự quyết toán vốn ngân sách nhà nước rườm rà, thiếu chặt chẽ, và còn nhiều kẽ hở. Đây là một trong những yếu tố ảnh hưởng lớn tới tiến độ giải ngân cũng như dẫn đến tình trạng thất thoát vốn nhà nước. Tình trạng xây dựng chắp vá, ngành này xây rồi nghành khác sửa, khâu chuẩn bị các yếu tố đầu tư và kiểm tra chất lượng đầu tư đặc biệt là tiến độ thời gian không đảm bảo đã gây tổn thất gián tiếp do gía cả ngày càng leo thang mà công trình chậm ngày nào là phát sinh thêm chi phí ngày đó. Do vậy nhà nước phải có biện pháp quản lý vốn hiệu quả, chặt chẽ và đồng bộ để nguồn vốn ngân sách đạt được hiệu quả, góp phần phát triển kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân. 3.3 Một số kiến nghị. Thứ nhất: Một giải pháp mang tính lâu dài, có tính chiến lược đối với toàn nền kinh tế mà nhà nước cần hết sức chú ý đó là tạo cơ sở hạ tầng cho thương mại điện tử phát triển và thúc đẩy thương mại điện tử phát triển trong các doanh nghiệp. Lơi ích của thương mại điện tử đối với các nhà kinh doanh nói chung và kinh doanh xuất nhập khẩu nói riêng là hết sức to lớn. Nó giúp cho việc nghiên cứu và tìm kiếm thị trường được dễ dàng hơn, nhà nhập khẩu có thể so sánh, lưa chon nhà cung cấp một cách tối ưu nhất mà vẫn giảm được chi phí kinh doanh… Do tính ưu việt của thương mại điện tử như vậy nên nhà nước cần có chính sách và chiến lược phát triển thương mại điện tử tại Việt Nam một cách đúng hướng. Tuy nhiên hiện nay tình trạng chưa nhận thức rõ về thương mại điện tử, áp dụng thương mại điện tử còn ở trình độ thấp và cơ sở hạ tầng cũng như đội ngũ lao động cho thương mại điện tử còn chưa đáp ứng được nhu cầu. Nhà nước cần có biện pháp tuyên truyền giáo dục và có chính sách đào tạo nghiệp vụ thương mại điện tử để các doanh nghiệp nhận thức được vai trò của thương mại điện tử và ứng dụng thành công vào hoạt động kinh doanh của mình. Thứ hai: Hiện nay ở nước ta cũng đang từng bước xây dựng hệ thống hải quan hiện đại. Mô hình hải quan điện tử đã được đưa vào thử nghiệm và trong quá trình thử nghiệm thì hải quan điện tử đã chứng minh được tính ưu việt của mình, khắc phục được những nhược điểm của hải quan truyền thống như: tiết kiệm được chi phí cho cả phía hải quan cũng như phía các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu, tránh được tình trạng gian lận trong kê khai, giảm bớt được khối lượng công việc cho bên hải quan, một số cán bộ hải quan biến chất cũng khó có thể gây khó khăn, phiền hà, sách nhiễu cho doanh nghiệp hơn. Tuy nhiên hải quan điện tử mới chỉ được thử nghiệm ở một phạm vi nhỏ các doanh nghiệp cũng như các chi cục hải quan. Sau quá trình thử nghiệm và hoàn thiện mô hình hải quan điện tử,Nhà nước cần tích cực, sớm triển khai hình thức này rông rãi trên phạm vi cả nước Thứ ba: Từ thực tế của những công trình thiết bộ nhập khẩu bằng vốn ngân sách Nhà nước hiện nay thì hiệu quả những công trình thiết bị toàn bộ 100% vốn ngân sách nhà nước không cao bằng những nhập khẩu những công trình thiết bị toàn bộ bằng các nguồn vốn khác. Một hình thức nhập khẩu thiết bị toàn bộ cần chú ý đến đó là liên doanh liên kết với các doanh nghiệp nước ngoài cung cấp thiết bị toàn bộ với số vốn của Việt Nam lớn hơn. Hình thức này có ưu điểm là Việt Nam có thể tiết kiệm vốn trong đầu tư, dây chuyền thiết bị toàn bộ đảm bảo hơn về chất lượng và trình độ công nghệ, mặt khác ta lại có thể tranh thủ kinh nghiêm, học hỏi cách thức quản lý hiện đại của đối tác nước ngoài. KẾT LUẬN Hiện nay, Việt Nam đang trong quá trình công nghiệp hó hiện đại hoá đất nước nên như cầu về thiết bị toàn bộ và kỹ thuật để tăng cường xơ sở vật chất là rất lớn. Tuy nhiên do điều kiện kinh tế còn nhiều khó khăn nên không cho phép chúng ta nhập khẩu tràn lan, bừa bãi xác thiết bị toàn bộ mà phải nhập khẩu một cách có trọn lọc và hiệu quả. Trên thực tế để nhập khẩu thiết bị toàn bộ bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước một cách có hiệu quả là điều không phải đơn giản, nó đòi hỏi sự cố gắng của cả Nhà nước và các doanh nghiệp tham gia nhập khẩu. Do thời gian, kiến thức chuyên môn và phương pháp nghiên cứu còn nhiều hạn chế nên bài viết của em còn nhiều thiếu sót. Em rất mong nhận được sự đóng góp và phê bình của các thầy cô. Qua đây em xin cảm ơn cô Nguyễn Mai Thu đã tận tình hướng dẫn em trong suốt quá trình làm đề án này. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO: www.baomoi.com www.doanhnghiep.net www.doisongphapluat.com.vn www.hiendaihoa.com www.itpc.hochiminhcity.gov.vn www.moi.gov.vn www.mpi.gov.vn www.quangngai.gov.vn www.vietnamnet.vn www.vnet.vn www.vnexpress.net www.nhandan.com www.xahoithongtin.com.vn www.thuvienphapluat.com.vn MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc10023.doc
Tài liệu liên quan