Đề tài Hoàn thiện tổ chức kiểm toán nội bộ tại Công ty Than miền bắc

Số lượng lớn, rất khó khăn trong việc định lượng và đánh giá chất lượng sản phẩm. Đặc biệt việc phân loại các chủng loại than khác nhau không thể nhìn bằng mắt thường mà phải thông qua quy trình lấy mẫu và phân tích kiểm định chất lượng. Bản thân việc lấy mẫu than cũng chỉ cho những thông số chất lượng mang tính tương đối vì những mẫu than được tính đại diện cho cả khối lượng than lớn. Căn cứ để phân loại các sản phẩm than là dựa vào các chỉ tiêu như: cỡ hạt (bán kính tính bằng mm), độ tro (AK), nhiệt lượng (W), chất bốc, tỷ lệ lưu huỳnh, độ ẩm, tỷ trọng; trong đó chỉ tiêu quyết định chất lượng thương phẩm của than chính độ tro(AK). Do đó để phân biệt các loại than trên thực tế người ta phải gắn tên loại than đó với chỉ tiêu độ tro(AK), ví dụ: than cám 6a HG- AK>36%; max 40% được hiểu là than cám 6a được khai thác ở vùng than Hòn Gai, than có độ tro thấp nhất là 36% và cao nhất là 40% tương ứng với đó là các chỉ tiêu kỹ thuật đằng sau khác của than đương nhiên được hiểu là: than có nhiệt lượng từ 4000- 4500 KL/g, độ lưu huỳnh của than cám 6a vùng Hòn Gai.

doc95 trang | Chia sẻ: DUng Lona | Lượt xem: 1182 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hoàn thiện tổ chức kiểm toán nội bộ tại Công ty Than miền bắc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ều hạn chế. Trên thực tế những kiến nghị (bằng miệng) ở phần báo cáo kiểm toán thường ít được quan tâm. Nguyên nhân chủ yếu là Phòng Kiểm toán chưa thật sự thấy được tầm quan trọng của giai đoạn theo dõi sau kiểm toán. Mặt khác, việc tổ chức thực hiện theo dõi cũng thiếu tính chuyên nghiệp và không rõ ràng. Cụ thể những sửa chữa uốn nắn, kiến nghị với các đơn vị cần điều chỉnh chủ yếu thông qua các cuộc gọi điện nên thiếu tính thực hiện cao hoặc thực hiện không theo ý muốn. Phòng Kiểm toán nội bộ không phân công nhiệm vụ và trách một cách cụ thể cho từng cá nhân về việc thực hiện theo dõi sau kiểm toán. Với thực công tác theo dõi sau kiểm toán như trên, tính hiệu quả của công tác kiểm toán nội bộ ở Công ty bị ảnh hưởng một cách đáng kể. Trên thực tế có rất nhiều trường hợp các sai sót bị lặp đi lặp lại ở cùng một đơn vị ở các lần kiểm toán khác nhau. 2.2.3.Tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộ ở Công ty 2.2.3.1. Mô hình tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộ ở Công ty Bộ máy kiểm toán của Công ty được tổ chức dưới hình thức phòng kiểm toán nội bộ, theo mô hình tập trung tại trụ sở chính của Công ty. Trong mô hình bộ máy quản lý của Công ty thì Phòng Kiểm toán đứng tương đối độc lập, chỉ chịu sự chỉ đạo điều hành duy nhất từ Giám đốc Công ty. Tuy nhiên do chức năng nhiệm vụ của Phòng Kiểm toán gồm cả công tác thống kê nên tính độc lập với các bộ phận khác trong Công ty đặc biệt là với Phòng Kế toán Công ty bị hạn chế hơn. Quy chế kiểm toán nội bộ mới nhất ban hành theo Quyết định 324/QĐ-KT ngày 10/6/2002 của Giám đốc Công ty đã quy định rõ chức năng và nhiệm vụ của bộ Phòng Kiểm toán nội bộ ở Công ty. Theo đó Phòng Kiểm toán có chức năng giúp Giám đốc thực hiện việc kiểm tra, xác minh tính đúng đắn, tính hợp pháp của các tài liệu số liệu kế toán, báo cáo quyết toán của Công ty và của các công ty trực thuộc. Phòng Kiểm toán có nhiệm vụ xây dựng chương trình, kế hoạch kiểm toán hàng năm trình Giám đốc Công ty duyệt; tổ chức kiểm toán theo kế hoạch kiểm toán hàng năm và các cuộc kiểm toán đột xuất theo yêu cầu của Giám đốc. Ngoài ra, Phòng kiểm toán nội bộ còn thực hiện nhiệm vụ lập các báo cáo thống kê hàng tháng để gửi Tổng công ty Than Việt Nam và báo cáo Cục thống kê thành phố Hà Nội đảm bảo tính chính xác, theo đúng biểu mẫu và thời gian quy định. Căn cứ vào chức năng nhiệm vụ trên của mình, Phòng kiểm toán nội bộ Công ty được bố tí tập trung tại Văn phòng Công ty. Phòng kiểm toán nội bộ Công ty gồm 4 kiểm toán viên, người đứng đầu phụ trách công việc chung của Phòng là trưởng phòng kiểm toán. Trưởng phòng kiểm toán do Giám đốc Công ty bổ nhiệm với thời hạn 4 năm. Trưởng Phòng kiểm toán nội bộ là người ký, chịu trách nhiệm trước Giám đốc và trước pháp luật về báo cáo kiểm toán nội bộ; chịu trách nhiệm trước Giám đốc về các nhiệm vụ được giao theo bản kế hoạch phân công nhiệm vụ hàng năm và các nhiệm vụ đột xuất khác. Ngoài ra Trưởng phòng kiểm toán nội bộ Công ty có các nhiệm vụ và quyền hạn sau: Chủ động xây dựng kế hoạch và lập trương trình kiểm toán hàng năm, hàng quý, hàng tháng và cho từng cuộc kiểm toán. Tổ chức thực hiện các cuộc kiểm toán ở Công ty theo nhiệm vụ kế hoạch và chương trình kiểm toán đã được Giám đốc phê duyệt. Quản lý, bố trí, phân công công việc cho kiểm toán viên và thực hiện các biện pháp đào tạo và huấn luyện kiểm toán viên, bảo đảm không ngừng nâng cao trình độ và năng lực công tác của kiểm toán viên và bộ máy kiểm toán nội bộ. Đề xuất với Giám đốc về việc đề bạt, bổ nhiệm, khen thưởng, kỷ luật với kiểm toán viên nội bộ. Đề nghị trưng tập chuyên viên các bộ phận khác liên quan trong Công ty để thực hiện các cuộc kiểm toán khi thấy cần thiết. Tham mưu, kiến nghị với Giám đốc về những thay đổi trong chính sách, đường lối nhằm nâng cao hiệu quả trong công tác quản lý và điều hành hoạt động kinh doanh. Dưới Trưởng phòng kiểm toán nội bộ là Phó trưởng phòng kiểm toán nội bộ. Phó trưởng phòng kiểm toán có nhiệm vụ phụ trách một số lĩnh vực mà Trưởng phòng phân công, thay mặt phụ trách điều hành các công việc của Phòng khi Trưởng phòng đi vắng, phụ trách và trực tiếp duyệt ký các biểu báo cáo thống kê gửi các cơ quan theo quy định. Các kiểm toán viên là những người trực tiếp chịu sự chỉ đạo của Trưởng phòng và Phó trưởng phòng kiểm toán. Mỗi kiểm toán viên được phân công những lĩnh vực phụ trách theo bảng phân công nhiệm vụ hàng tháng do Trưởng phòng lập ra. Ngoài nhiệm vụ về lĩnh vực kiểm toán nội bộ, các kiểm toán viên này kiêm cả nhiệm vụ tổng hợp báo cáo thống kê từ các báo cáo thống kê chi tiết của các đơn vị trực thuộc báo cáo lên hàng tháng. Sơ đồ 4 Cơ cấu tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộ Trưởng phòng Phó trưởng phòng Kiểm toán viên Kiểm toán viên 2.2.3.2. Kiểm toán viên nội bộ ở Công ty Chất lượng kiểm toán viên nội bộ ở Công ty có thể nhìn nhận qua các khía cạnh sau: Về kiến thức, kỹ năng và kỷ luật. Nhìn chung các kiểm toán viên ở Công ty còn hạn chế về sự tinh thông nghiệp vụ trong việc áp dụng các chuẩn mực, thủ tục và kỹ thuật kiểm toán nội bộ. Nguyên nhân chủ yếu là các 3/4 kiểm toán viên ở Công ty chưa được đào tạo một cách bài bản về kiến thức chuyên môn về kiểm toán nói chung và kiểm toán nội bộ nói riêng. Các kiểm toán viên chủ chủ yếu mới chỉ được đào tạo chuyên ngành kế toán ở các trường đại học. Với những kiến thức còn hạn chế nên các kỹ năng thực hành của các kiểm toán viên chưa mang tính bài bản cũng như không mang lại hiệu quả cao. Bên cạnh đó hầu hết các kiểm toán viên nội bộ ở Công ty còn thiếu kinh nghiệm làm việc, thể hiện 2 trong số 4 kiểm toán viên mới chỉ có thời gian công tác dưới 3 năm. Ngoài ra các kiểm toán viên đều không thực sự nắm rõ được các quy trình sản xuất chế biến ra các sản phẩm than mà Công ty đang kinh doanh, nguyên nhân chủ yếu là các kiểm toán viên không được đào tạo những kiến thức về sản xuất chế biến các loại than. Những hạn chế về khả năng nghiệp vụ trên của các kiểm toán viên nội bộ ở Công ty như trên sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới kết quả của các cuộc kiểm toán. Về phía kiểm toán viên họ cũng không thật sự được tự tin khi thực hiện các nhiệm vụ kiểm toán của mình. Về đạo đức nghề nghiệp. Các kiểm toán viên nội bộ ở Công ty đều tuân thủ tốt các chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp. Các kiểm toán viên đều thể hiện sự chính trực và công tâm về cơ bản, sự tận tụy về lợi ích của Công ty và thái độ khiêm tốn đúng mức. Các kiểm toán viên nội bộ ở Công ty cũng đã thể hiện được sự thông cảm đối với những người có liên quan trong khi thực hiện những nhiệm vụ trong các cuộc kiểm toán. Các kiểm toán viên nội bộ ở Công ty có đặc điểm là còn rất trẻ nên bên cạnh việc hạn chế là thiếu kinh nghiệm thì họ lại có một điểm mạnh là ham học hỏi và nhiệt tình trong công việc. Hiện nay đã có 2 trong 4 kiểm toán viên đang theo học các chương trình đào tạo sau đại học về chuyên ngành kế toán- kiểm toán ở các trường đại học. Đây là một dấu hiệu tốt và là cơ sở xây dựng một đội ngũ kiểm toán viên thực sự có trình độ cao về chuyên môn nghề nghiệp nhằm, mở ra một hướng đi mới cho việc vươn tới mục tiêu xây dựng một đội ngũ kiểm toán viên nội bộ có năng lực làm việc thực sự hiệu quả trong tương lại ở Công ty. chương 3 Giải pháp Hoàn thiện tổ chức kiểm toán nội bộ tại công ty than miền bắc 3.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện tổ chức kiểm toán nội bộ tại Công ty Từ khi thành lập và đi vào hoạt động, những kết quả thu được từ hoạt động kiểm toán nội bộ còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được những mong đợi của ban lãnh đạo Công ty. Một trong những nguyên nhân làm cho chất lượng hoạt động kiểm toán nội bộ ở Công ty còn thấp là do tổ chức kiểm toán nội bộ ở Công ty còn nhiều bất cập. Những bất cập đó thể hiện ở các khía cạnh sau: Thứ nhất: Công tác lập kế hoạch kiểm toán nội bộ ở Công ty chưa được quan tâm thích đáng. Trong thực tế công tác lập kế hoạch kiểm toán ở Công ty mới chỉ dừng lại ở việc xây dựng một bản kế hoạch chung kiểm toán cho một năm hoạt động. Thực chất bản kế hoạch chung này cũng hết sức sơ sài về nội dung, mới chỉ vạch ra được đối tượng và phạm vi kiểm toán chung nhất. Bản kế hoạch chung này có tác dụng định hướng những mục tiêu mà kiểm toán nội bộ phải hướng tới, là cơ sở giúp kiểm toán viên xây dựng các kế hoạch kiểm toán cụ thể cho từng cuộc kiểm toán. Tuy nhiên trên thực tế, công tác xây dựng kế hoạch cụ thể cho mỗi cuộc kiểm toán ở Công ty chưa được thực hiện. Bộ phận kiểm toán nội bộ ở Công ty cũng chưa xây dựng được các chương trình kiểm toán cụ thể cho từng phần hành kiểm toán nên việc thực hiện kiểm toán đối với các kiểm toán viên không có bài bản và kết quả thu được là thấp. Thứ hai: Khâu thực hành kiểm toán của các kiểm toán viên cũng còn nhiều hạn chế, mà cụ thể là chưa xây dựng được những nguyên tắc làm việc cũng như những kỹ năng thực hiện chưa thực sự mang lại hiệu quả cao. Những hạn chế trong khâu này một phần là các kiểm toán viên không có các chương trình kiểm toán chi tiết để bám theo, nên việc thực hiện kiểm toán mang tính tự phát là chủ yếu. Trong quá trình thực hiện các cuộc kiểm toán, bản thân trưởng đoàn kiểm toán không thực sự kiểm soát được các hoạt động của các kiểm toán viên cũng như không đánh giá được mức độ tiến trình thực hiện các mục tiêu của cuộc kiểm toán. Thứ ba: Công tác theo dõi sau kiểm toán thực tế chưa được chú trọng. Vì vậy có hiện tượng một số đơn vị thường lặp lại các lỗi qua các cuộc kiểm toán mà không được sửa chữa mặc dù đã được ghi vào biên bản kiểm toán hẳn hoi. Thứ tư: Bộ máy kiểm toán và kiểm toán viên nội bộ ở Công ty còn nhiều hạn chế cần hoàn thiện. Đặc biệt, chất lượng kiểm toán viên nội bộ ở Công ty chưa thực sự đáp ứng được những tiêu chuẩn của một kiểm toán viên nội bộ theo các chuẩn mực nghề nghiệp về kiểm toán viên nội bộ. Do vậy nâng cao chất lượng kiểm toán viên nội bộ ở Công ty là một yêu cầu tất yếu nếu như Công ty muốn nâng cao chất lượng các cuộc kiểm toán trong tương lai. Thứ năm: Bất kỳ ban giám đốc nào cũng mong đợi có được một hệ thống kiểm soát nội bộ tốt để vận hành một cách tốt nhất hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mà họ quản lý. Ban giám đốc Công ty nhận thức rõ muốn có một hệ thống kiểm soát nội bộ tốt thì không thể không xây dựng một bộ phận kiểm toán nội bộ hoạt đông có hiệu quả. Trong thời gian qua những đóng góp mạng tính tham vấn cho Ban Giám đốc trong việc điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty của bộ phận kiểm toán nội bộ còn nhiều hạn chế, nên những kết quả thu được từ công tác điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh của ban giám đốc chưa phát huy hết hiệu quả. Ban Giám đốc Công ty cũng có những nhận xét về mặt hạn chế này của bộ phận kiểm toán nội bộ, đồng thời yêu cầu bộ phận kiểm toán nội bộ ở Công ty nhất thiết phải được đổi mới về mọi mặt để nâng cao chất lượng. Với những lý do trên, việc hoàn thiện tổ chức kiểm toán nội bộ ở Công ty trong điều kiện hiện nay không những phù hợp với những yêu cầu khách quan mà còn đáp ứng được những mong đợi của ban lãnh đạo Công ty. 3.2. Giải pháp hoàn thiện 3.2.1. Hoàn thiện quy trình thực hiện kiểm toán nội bộ 3.2.1.1 Hoàn thiện công tác lập kế hoạch kiểm toán Trước hết phải nhấn mạnh rằng: hoàn thiện công tác lập kế hoạch ở đây là muốn nói đến lập kế hoạch chi tiết cho các cuộc kiểm toán cụ thể. Hiện nay, Công tác lập kế hoạch kiểm toán cho các cuộc kiểm toán của Công ty vẫn chưa được quan tâm đúng mức. Hầu hết tất cả các cuộc kiểm toán do bộ phận kiểm toán nội bộ của Công ty tiến hành đều bỏ qua khâu lập kế hoạch. Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng này chủ yếu do nhận thức từ phía người phụ trách bộ phận kiểm toán nội bộ còn hạn chế. Người đứng đầu và phụ trách bộ phận kiểm toán nội bộ mà ở đây là Trưởng phòng kiểm toán nội bộ chưa thấy hết tầm quan trọng không thể thiếu của khâu lập kế hoạch kiểm toán. Vì vậy, để công tác lập kế hoạch kiểm toán của Công ty đi vào thực tiễn và đảm bảo tính hiệu quả, Công ty cần thực hiện theo các nội dung sau: - Xây dựng và thực hiện bắt buộc một quy trình kiểm toán nội bộ theo hướng thực hiện các bước của một quy trình chuẩn. Quy trình thực hiện kiểm toán này phải được đưa bổ sung vào bản quy chế kiểm toán nội bộ của Công ty nhằm đảm bảo tính pháp lý như một quy định mang tính bắt buộc thực hiện. Công tác lập kế hoạch kiểm toán phải thuộc trách nhiệm về Trưởng phòng kiểm toán Công ty. - Nâng cao nhận thức của các kiểm toán viên nội bộ Công ty về vai trò và tầm quan trọng của khâu lập kế hoạch kiểm toán cũng như ý nghĩa quyết định của nó tới kết quả của cả cuộc kiểm toán. Để làm được điều này Công ty nên tổ chức một cuộc hội thảo với chuyên đề riêng về công tác lập kế hoạch kiểm toán. Công ty nên mời một vài chuyên gia về lĩnh vực kiểm toán nội bộ tham gia để nâng cao chất lượng cuộc hội thảo. Đồng thời Công ty cũng cần mời đại diện bộ phận kiểm toán nội bộ một số doanh nghiệp đã thực hiện tốt công tác kiểm toán nội bộ trong những năm qua. - Việc lập kế hoạch phải đảm bảo đúng quy trình và có sự tính toán kỹ lưỡng nhằm mang lại hiệu quả công việc cao nhất sau này. Để công tác lập kế hoạch đạt hiệu quả cao thì phần quan trọng nhất là xác định các mục tiêu cụ thể cho các nhiệm vụ cá biệt. Thông qua những nhân tố như: đề nghị quản lý, những cách tiếp cận kiểm toán khác nhau sẵn có, năng lực của nhân viên, tính chất của công việc kiểm toán trước đó, các nguồn lực và thời gian có sẵn, thì những mục tiêu cụ thể và những giới hạn của kiểm toán phải được định rõ ngay từ lúc bắt đầu mỗi nhiệm vụ. Những mục tiêu đó phải được nêu rõ ràng và nhân viên kiểm toán phải hiểu kỹ các mục tiêu đó. Một khi mục đích đã được xác định thì phạm vi kiểm toán cũng được xác định. Một chiến lược kiểm toán phải được triển khai và các phương pháp phải được dự kiến để tiến hành cuộc kiểm toán. Căn cứ vào mục tiêu và phạm vi kiểm toán, người phụ trách kiểm toán phải xác định được số lượng và trình độ của nhân viên cũng như những ràng buộc của thời gian. Kỹ năng và nhu cầu phát triển của nhân viên phải được nghiên cứu khi chọn những kiểm toán viên cụ thể cho việc. Công việc phải chia nhỏ thành những nhiệm vụ cá nhân khi ước tính về nhân viên. Phân công nhiệm vụ cụ thể và rõ ràng cho từng kiểm toán viên trước một cuộc kiểm toán. Việc phân công này cần tiến hành trước khi cuộc kiểm toán diễn ra trong một thời gian nhất định có thể là 5-10 ngày. Đây là khoảng thời gian cần thiết cho phép các kiểm toán viên có thể định hướng và nghiên cứu về những mục tiêu, nhiệm vụ mà mình phải đạt được. - Người phụ trách kiểm toán nội bộ ở Công ty phải xây dựng chương trình kiểm toán chi tiết để các kiểm toán viên làm căn cứ thực hiện các nhiệm vụ được giao nhằm đạt được một cách tốt nhất các mục tiêu của cuộc kiểm toán. Một chương trình kiểm toán phải gồm có một bản công bố các mục tiêu kiểm toán, các bước kiểm toán, kiểm toán viên được phân công, tham khảo hồ sơ kiểm toán, quỹ thời gian các bước kiểm toán, ngày dự kiến bắt đầu và hoàn thành công việc kiểm toán. Do các kiểm toán viên nội bộ của Công ty còn hạn chế về kinh nghiệm và khả năng chuyên môn nên các chương trình kiểm toán cần xây dựng theo hướng chi tiết hoá các bước thực hiện về mặt nghiệp vụ thực hiện kiểm toán. Do hiện nay Công ty chưa từng xây dựng các chương trình kiểm toán trước mỗi cuộc kiểm toán nên vấn đề đặt ra ở đây là làm thế nào để hoàn thiện công tác xây dựng các chương trình kiểm toán hiện nay ở Công ty. Để làm được điều đó, trong thời gian tới kiểm toán nội bộ của Công ty cần hợp tác với kiểm toán viên bên ngoài trong việc hỗ trợ các kỹ thuật nghiệp vụ để lập nên các chương trình kiểm toán phù hợp và hiệu quả. Việc hợp tác mang tính tiếp nhận sự hỗ trợ từ bên ngoài này sẽ dừng lại khi khả năng lập các trương trình kiểm toán của bộ phận kiểm toán nội bộ ở Công ty đạt tới độ thành thạo mà không cần sự trợ giúp. - Việc chuẩn bị cho một chương trình kiểm toán đòi hỏi phải có kế hoạch, nhận định và kinh nghiệm. Kiểm toán viên nội bộ sẽ sử dụng những thông tin ban đầu đã thu thập và đánh giá trong việc điều tra. Tất nhiên, tiêu chuẩn quan trọng nhất vẫn là hệ thống kiểm soát nội bộ. Dựa vào việc điều tra, kiểm toán viên sơ bộ xác định được mức độ tin cậy của hệ thống. Bên cạnh đó thì tính trọng yếu và rủi ro cũng là các tiêu chuẩn để thiết lập chương trình kiểm toán. 3.2.1.2. Hoàn thiện khâu thực hiện kiểm toán Chất lượng thực hành kiểm toán phải được hoàn thiện nâng cao theo hướng xây dựng được một không khí làm việc mang tính chuyên nghiệp cao. Các kiểm toán viên phải đảm bảo vận dụng một cách linh hoạt khả năng chuyên môn vào các tình huống khi thực hiện các phần hành kiểm toán phụ trách. Hoàn thiện công tác thực hành kiểm toán đồng nghĩa với việc hướng các kiểm toán viên hoàn thiện phương thức hoạt động của mình theo một khuôn mẫu hoàn hảo. Các kiểm toán viên ở Công ty nhất thiết phải thực hiện một cách thành thạo các kỹ năng quy trình về mặt kỹ thuật hoạt động mà một kiểm toán viên nội bộ cần có. Kiểm toán viên khi xuống cơ thực địa cần tiến hành các hoạt động sau: - Trao đổi ý kiến với người quản lý chịu trách nhiệm. Đó sẽ là nhà quản lý mà các báo cáo tổng kết suy cho cùng và thông thường sẽ được chuyển đến anh ta. Người đó có thể là giám đốc công ty, trưởng chi nhánh, trưởng trạm. Nội dung cuộc trao đổi này thường bao gồm mục đích chung của cuộc thẩm tra, thời gian biểu và kế hoạch cụ thể khác. - Trao đổi với các cán bộ chủ chốt khác. Những cuộc trao đổi này thường cho biết thêm về nhiều hoạt động phụ và đồng thời, giúp kiểm tra đối chiếu các thông tin thu thập được từ trước. - Xem xét lại các chính sách và thủ tục của đơn vị được kiểm toán.Trao đổi với các cán bộ ở tất cả các cấp cần được bổ sung thêm bằng việc xem xét lại tất cả các loại chính sách và thủ tục được quy định bằng văn bản, chi phối việc quản lý và kiểm soát các loại hoạt động nghiệp vụ khác nhau do bộ phận tổ chức chung đảm nhiệm. - Tiếp tục tìm hiểu. Giai đoạn tìm hiểu có thể mở rộng thành một cuộc thẩm tra kiểm toán nội bộ thực thụ. Điều đó có nghĩa là tiến hành một chương trình thẩm tra thường lệ đòi hỏi phải tiếp tục tìm hiểu các hoạt động chi tiết không được các cán bộ chủ chốt trong các giai đoạn trước nhắc đến đầy đủ. ở đây đòi hỏi phải trao đổi sâu với các cán bộ, quan sát thực tế. - Xác nhận. Từ những điều cơ bản đã tìm hiểu, kiểm toán viên nội bộ chuyển sang giai đoạn xác nhận. Xác nhận là việc xác định một cách độc lập mức độ phù hợp giữa thực tiễn với những gì được coi là phải có, như đã kết luận ở giai đoạn tìm hiểu. Việc xác nhận này có thể thực hiện bằng nhiều cách, nhưng bản chất của công việc này là phải có một số bằng chứng đủ tin cậy. Bằng chứng đó có thể có được thông qua những lần phỏng vấn bằng lời, quan sát, khẳng định bằng văn bản, rà soát lại việc sử lý các số liệu, kiểm định và nhiều cách khác nữa. - Phân tích. Một giai đoạn liên quan trong các giai đoạn làm việc của kiểm toán viên nội bộ là việc phân tích. Đây là việc xem xét chi tiết hơn các thông tin về từng yếu tố cấu thành của chúng. Nó thường xuyên được tiến hành như một phần của quá trình xác nhận, chẳng hạn như ở những nơi mà việc phân tích chi tiết số dư số dư tài khoản có thể giúp xác nhận tính chính xác của tài khoản đó. Mặt khác, trong một tình huống nghiệp vụ, cần phân chia chi tiết kết quả hoạt động theo các loại điều kiện hoạt động khác nhau có thể là căn cứ xác định cách kiểm soát tốt hơn đối với một loại kết quả hoạt động cụ thể. Trong tất cả các loại phân tích đều có khía cạnh mang tính chủ quan cả trong quá trình ra quyết định về việc nên nên phân tích một loại thông tin hay một hoạt động nghiệp vụ cụ thể như thế nào lẫn sau đó là trong việc đạt được lợi ích tiềm năng nhờ tiến hành phân tích. Như vậy, phân tích là con đường cơ bản để kiểm toán viên nội bộ phục vụ có hiệu quả. - Đánh giá. Đây là một giai đoạn trọng yếu trong công việc của kiểm toán viên nội bộ khi anh ta cần rút ra kết luận làm căn cứ chắc chắn cho việc phục vụ công tác quản lý. Có thể hiểu rõ nhất phạm vi của giai đoạn này bằng cách nhìn nhận việc thực hiện nó ở ba cấp độ: Thứ nhất: Các thành quả hiện đang đạt được tốt đến đâu? Đây có thể là một câu hỏi khá hẹp giống như câu hỏi một thủ tục nào đó được tuân thủ chặt chẽ đến đâu, hay có thể là một câu hỏi nghiêm trọng hơn như một hoạt động nghiệp vụ nào đó được thực hiện có hiệu quả như thế nào. Hoặc đó cũng có thể là một nhận định chung về việc thành tích tổng thể của hoạt động nghiệp vụ đang được thẩm tra đạt hiệu quả ra sao. Thứ hai: Tại sao kết quả lại diễn ra như vậy? ở cấp độ tiếp theo cao hơn, có quan hệ chặt chẽ với lần đánh giá đầu tiên, là đánh giá xem tại sao kết quả lại đạt được như thế. Tại sao thành tích hoạt động lại tốt hay kém như vậy? Tại sao lại không thể tốt hơn? Đến lúc này sẽ bao gồm cả việc đánh giá các yếu tố nhân quả, đặc biệt là việc đánh giá mức độ mà các yếu tố nhân quả có thể được kiểm soát hiệu quả hơn. Thứ ba: Điều gì có thể làm được tốt hơn? Và bây giờ, ở cấp cao nhất, và tất nhiên là có quan hệ đan xen không thể thiếu với hai loại đánh giá nói trên, là nhận định về điều gì có thể đạt được kết quả tốt hơn trong tương lai. Các thủ tục có thể cải tiến để hiệu quả hơn chăng? Một chính sách cụ thể nên thay đổi ra sao về một vài khía cạnh, hay thậm chí là nên bãi bỏ? Những cá nhân liên quan có phải là loại người thích hợp không, và họ đã được đào tạo và quản lý thoả đáng chưa? Một số những kết luận đó có thể tương đối rõ ràng và có thể là cơ sở để đưa ra những kiến nghị cụ thể. Trong các trường hợp khác, có thể cần thêm thông tin. Trong những tình huống đó có thể kiểm toán viên nội bộ cần phát triển thêm những thông tin mới. Trong tất cả các giai đoạn của quá trình thực hành, kiểm toán viên nội bộ luôn phải không ngừng tìm cách nâng cao tính hiệu quả. Kiểm toán viên nội bộ không được thực hiện điều gì đó theo lối mòn hoặc một cách máy móc. Khi quyết định xem nên rà soát lại các tài liệu, nói chuyện với mọi người, hay quan sát các hoạt động nghiệp vụ khác nhau, người kiểm toán viên nội bộ luôn cân nhắc đến các điều kiện cơ bản gắn liền phần việc đó trong công tác thẩm tra. Điều gì đúng? Một hành động nào đó đã được thực hiện với trách nhiệm ra sao? Kết quả có giá trị đến mức nào? Còn cần làm thêm điều gì nữa? Tất cả các câu hỏi điển hình này luôn phải được nằm trong tâm trí của các kiểm toán viên nội bộ. Kiểm toán viên nội bộ không được có thành kiến thiên lệch rằng mọi thứ đều hỏng bét hoặc tai hoạ đang đến gần. Nhưng mặt khác anh ta cũng không được lạc quan tếu. Tóm lại, kiểm toán viên nội bộ phải có một cách tiếp cận mang tính cật vấn và đầy thách thức, và luôn có yêu cầu cao hơn so với một người bình thường về tính thuyết phục của vấn đề. Sau khi thực hiện các hoạt động trên, kiểm toán viên nội bộ chuyển sang giai đoạn kết luận và kiến nghị. Trong giai đoạn này, có rất nhiều khả năng về điều gì có thể thực hiện để tạo ra một hành động hoàn chỉnh. ở một thái cực, sẽ không có hành động nào hết và chúng ta sẽ chuyển ngay sang giai đoạn báo cáo, và để sau này mới xác định chính xác hành động nào sẽ được đưa ra và đưa ra khi nào. ở thái cực kia là sự hoàn tất một hành động được kiến nghị ngay tại thực địa, trong khi kiểm toán viên nội bộ vẫn còn ở đó. Trong nhiều trường hợp, một vấn đề cụ thể rõ ràng là một điều gì đó cần sử lý ngay. Đó có thể là việc khắc phục một sai lầm, hay là việc lý giải rõ ràng hơn về một chính sách của công ty. Các trường hợp khác có thể gây nhiều tranh cãi hơn. Tuy nhiên điều quan trọng là tất cả các bên đều thống nhất quan điểm về một hành động hoàn chỉnh tối đa. Lý do làm như vậy rõ ràng phản ánh một chân lý rằng, hành động sớm sẽ rút ngắn được thời gian để đạt đến lợi ích dự kiến. Lý do quan trọng hơn là mối quan hệ hợp tác giữa kiểm toán viên nội bộ và người quản lý có trách nhiệm sẽ được thực hiện hiệu quả hơn, và sự hợp tác này hướng tới lợi ích toàn cục của công ty. 3.2.1.3. Hoàn thiện công tác báo cáo kiểm toán và theo dõi sau kiểm toán Giai đoạn báo cáo là phương tiện để kiểm toán viên nội bộ tóm tắt những gì đã hoàn thành và cung cấp những thông tin này cho các nhà quản lý ở cấp cao hơn và các bên hữu quan. Kiểm toán viên nội bộ ở Công ty cần thực hiện báo cáo một cách thận trọng. Tuy nhiên, mặt khác, cần nhấn mạnh rằng kiểm toán viên nội bộ Công ty cần chú trọng tới những điều có thể hoàn thành ngay tại thực địa mà không quá quan tâm vào những điều đưa vào báo cáo. Bởi vì suy đến cùng mục đích cuối cùng của một cuộc kiểm toán nội bộ là hoàn thiện các nghiệp vụ hay hoạt động cần thẩm tra. Nói như vậy không có nghĩa là kiểm toán viên nội bộ phục vụ lợi ích Công ty tốt hơn trong phần lớn các trường hợp bằng cách giúp đỡ các nhà quản lý tại cấp cơ sở. Trong những tình huống này, báo cáo hành động không cần phải tỉ mỉ như khi trình bày căn cứ của hành động được kiến nghị. Đồng thời ban giám đốc Công ty cũng cần phải hiểu rõ cách làm mới này để ủng hộ bộ phận kiểm toán nội bộ. Bộ phân kiểm toán viên nội bộ Công ty cũng phải hoàn thiện kỹ năng lập báo cáo. Trong đó, phải kết hợp tốt giữa hai hình thức báo cáo cơ bản là báo cáo viết và báo cáo bằng miệng. Kiểm toán viên nội bộ phải cân nhắc kỹ lưỡng những nội dung nào cần đưa vào báo cáo viết và những nội dung nào chỉ trình bày bằng miệng là đủ. Kiểm toán viên nội bộ cần sử dụng báo cáo miệng như một hình thức bổ sung cho báo cáo viết hoặc trong một số trường hợp do nhu cầu hành động khẩn cấp. Kiểm toán viên nội bộ Công ty cần phải có phương pháp tiếp cận báo cáo viết hiệu quả nhất. Cách tiếp cận mà kiểm toán viên nội bộ Công ty cần sử dụng trong báo cáo viết là tập trung vào các vấn đề quan trọng. Các vấn đề quan trọng ở đây được hiểu là các loại vấn đề mang nặng chính sách, chủ trương, các phương pháp nghiệp vụ, việc sử dụng các nguồn lực, thành tích ấn tượng. Bởi trên thực tế, nếu tiếp cận báo cáo viết theo cách này sẽ được ban giám đốc hoan nghênh và ủng hộ vì đây là những thông tin quan trọng mà họ cần, trong khi ban giám đốc không phải đọc quá nhiều chi tiết. Việc trình bày báo cáo cũng phải được cân đối một cách hợp lý nhất để mang lại hiệu quả nhất trong việc cung cấp thông tin cho ban giám đốc công ty. Kiểm toán viên cần cân đối theo hướng tích cực, có cân nhắc kỹ lưỡng những lời bình luận thuận lợi và không thuận lợi, những vấn đề hiện tại có triển vọng, nhấn mạnh những lời bình luận có tính xây dựng chứ không phải là những lời bình luận tiêu cực. Bản báo cáo của kiểm toán viên nội bộ phải đạt các tiêu chuẩn nghề nghiệp trong việc trình bày báo cáo như đảm bảo văn phong nghề nghiệp, sự chính xác, chọn từ ngữ thích hợp, sức thuyết phục, đúng ngữ pháp và chính tả. Công tác theo dõi sau kiểm toán ở Công ty cần được quan tâm hoàn thiện nhằm biến các kiến nghị thực hiện trong các báo cáo kiểm toán được thực thi theo đúng ý đồ của kiểm toán viên nội bộ cũng như của Giám đốc. Giám đốc Công ty cần giao trách nhiệm trực tiếp theo dõi việc thực hiện các kiến nghị kiểm toán được thông qua cho chính Phòng Kiểm toán nội bộ. Nhiệm vụ này phải được bổ sung và đưa vào bản quy chế kiểm toán nội bộ của Công ty. Phòng Kiểm toán nội bộ phải phân công nhiệm vụ một cách cụ thể cho từng kiểm toán viên về những nội dung cần theo dõi đối với từng cuộc kiểm toán. Các kiểm toán viên phải có trách nhiệm bám sát, đôn đốc việc thực hiện của các đơn vị cơ sở theo những nội dung kiến nghị. Các kiểm toán viên phải tổ chức theo dõi một cách khoa học đối với các nội dung yêu cầu thông qua việc mở sổ ghi chép theo các tiêu chí như thời gian, hành động sửa chữa Sổ theo dõi việc thực hiện các kiến nghị kiểm toán cần mở riêng cho từng đơn vị trực thuộc để thuận tiện cho việc đánh giá mức độ thực hiện các kiến nghị của từng đơn vị qua các cuộc kiểm toán khác nhau.Các kiểm toán viên của Công ty có thể mở sổ theo dõi việc thực hiện các kiến nghị kiểm toán theo mẫu dưới đây Bảng số 9 Sổ theo dõi việc thực hiện các kiến nghị kiểm toán Đơn vị trực thuộc: Công ty than . STT Cuộc kiểm toán Nội dung kiến nghị Hành động sửa chữa của đơn vị Số lần lặp lại kiến nghị tương tự 1 Kiểm toán Quý I năm 2005. Từ ngày 12/5/04 - 15/5/04 Yêu cầu trích khấu hao theo đúng quy định Đã sửa theo đúng yêu cầu Lần đầu 2 Từ ngày Tính lại giá vốn theo đúng phương pháp Chưa sửa theo yêu cầu Lỗi lặp lần 2 Căn cứ vào những nội dung theo dõi, các kiểm toán viên phải tổng hợp đánh giá và rút ra được đặc điểm của từng đơn vị đối với các hành động thực hiện các kiến nghị. Thông qua những kết luận đánh giá này, các kiểm toán viên có thể có những kiến nghị tiếp theo nếu thấy cần thiết nhằm nâng cao chất lượng theo dõi sau kiểm toán. 3.2.2. Giải pháp hoàn thiện tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộ 3.2.2.1 Xây dựng bộ máy kiểm toán nội bộ hiệu quả Phòng Kiểm toán nội bộ phải được xây dựng theo các hướng sau: Thứ nhất: Vị trí của Phòng Kiểm toán nội bộ phải độc lập đối với các bộ phận, các nghiệp vụ khác ở Công ty. Tính độc lập ở đây được hiểu là độc lập về mặt tổ chức trong bộ máy hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty. Thứ hai: Cơ cấu tổ chức của Phòng kiểm toán nội bộ cũng cần được hoàn thiện theo hướng phù hợp với lý thuyết về sự cân đối giữa tính tập trung và tính phân cấp trong một tổ chức. ở khía cạnh này muốn nhấn mạnh tới mối quan hệ nhân sự bên trong Phòng Kiểm toán nội bộ. Thứ ba: Mô hình tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộ cần xây dựng theo hướng kết hợp giữa mô hình tập trung và mô hình phân tán. Việc kết hợp các mô hình này phải đảm bảo xây dựng được bộ máy kiểm toán nội bộ hoạt động một cách hiệu quả nhất. Vị trí của bộ phận kiểm toán nội bộ Công ty hiện nay vẫn chưa đạt được tính độc lập cần có của nó. Do đó trước hết Công ty cần hoàn thiện và tạo vị thế xứng đáng cho bộ phận kiểm toán nội bộ đạt được tính độc lập cần thiết so với các bộ phận khác trong mô hình tổ chức quản lý ở Công ty. Giải pháp ở đây là chuyển chức năng nhiệm vụ lập các báo cáo thống kê sang Phòng Kế toán Tài chính. Làm được việc này sẽ giúp Phòng Kiểm toán chuyên tâm vào chức năng nhiệm vụ chủ yếu của mình mặt khác sẽ độc lập hơn do không phải phối hợp với Phòng Kế toán Tài chính xác minh các số liệu thống kê. Mối quan hệ bên trong Phòng kiểm toán nội bộ ở Công ty phải được xây dựng một cách chuẩn tắc. Tính tập trung và phân cấp trong một tổ chức phải được kết hợp hài hoà nhằm tạo ra một tập thể vững mạnh. Sự thể hiện mối quan hệ thành viên phải thông qua một văn bản chính thức đó là bảng phân công nhiệm vụ của bộ phận kiểm toán. Trong bảng phân công nhiệm vụ phải thể hiện rõ được nhiệm vụ và giới hạn quyền hạn của mỗi người. Công ty cần xây dựng cho mình một mô hình bộ máy kiểm toán nội bộ theo hướng vừa kết hợp được yếu tố tập trung vừa kết hợp được yếu tố phân tán. Tức là, một mặt Công ty phải có một bộ phận kiểm toán nội bộ đặt ở trụ sở Công ty với vai trò là trung tâm chỉ huy. Mặt khác, Công ty cần có một số kiểm toán viên nằm ở một số cơ sở địa bàn nằm xa so với trung tâm chỉ huy trên. Tuy nhiên trước khi đưa ra quyết định chính thức về việc thiết lập một cơ sở địa bàn, cần cân nhắc những giá trị tương đối và những thuận lợi phải có như sau: - Giảm thời gian và chi phí cho các chuyến đi như thế nào? - Tiện sử dụng cho những người không muốn có những chuyến đi bắt buộc - Phục vụ tốt hơn các nghiệp vụ của Công ty trong khu vực địa lý do cơ sở địa bàn phụ trách - Thúc đẩy kiểm toán viên nội bộ đang quản lý chính hoạt động của mình với mức độ lớn hơn. Bên cạnh đó, những bất lợi sau cũng phải tính tới: - Chi phí để duy trì văn phòng địa bàn - Có khả năng sảy ra là nhân viên kiểm toán nội bộ ở địa bàn mất tính khách quan thông qua mối quan hệ chặt chẽ hơn với nhân viên ở các cơ sở được kiểm toán. - Giảm tiếp súc trực tiếp với nhân viên chỉ huy trung tâm nên có tình trạng thiếu kiểm soát đầy đủ. - Khó khăn lớn để duy trì các chuẩn mực đồng đều cho toàn bộ Công ty. Với đặc điểm về quy mô hoạt động sản xuất kinh doanh và đặc điểm về tính chia cắt phân tán về mặt địa lý giữa các cơ sở địa bàn ở Công ty hiện nay. Công ty cần xây dựng một bộ phận trung tâm chỉ huy nằm ở Văn phòng chính của Công ty, bộ phận này gồm 3 người là phù hợp. Bộ phận trung tâm trên ngoài việc điều hành hoạt đông chung thì cần phân công phụ trách các địa bàn cơ sở gần trung tâm như Công ty than Hà Nội, Công ty than Hải Phòng, Công ty than Bắc Lạng, Công ty than Quảng Ninh. Công ty cần thiết lập hai cơ sở ở xa trung tâm, một cơ sở nằm ở Thanh Hoá để phụ trách Công ty than Thanh Hoá và Công ty than Nghệ Tĩnh. Cơ sở còn lại nằm ở Thái Nguyên để phụ trách Công ty than Bắc Thái, Công ty than Vĩnh Phú, Công ty than Tây Bắc. Khi đó sơ đồ tổ chức phòng kiểm toán nội bộ Công ty được minh hoạ như sau: Sơ đố số 5 Tổ chức lại Phòng KTNB Công ty Than miền bắc Kiểm toán trưởng Kiểm toán viên A Phụ trách khu vực Thanh Hoá - Nghệ Tĩnh Kiểm toán viên nằm tại địa bàn khu vực( số lượng 1) Kiểm toán viên B Phụ trách khu vực Bắc Thái – Vĩnh Phú- Tây Bắc Kiểm toán viên nằm tại địa bàn khu vực ( Số lượng 2) Các kiểm toán viên ở cơ sở địa bàn cần được duy trì ổn định. Chỉ khi nào thấy rằng việc duy trì đó không mang lại hiệu quả mong muốn thì mới cần thiết tới những thay đổi cho phù hợp. Việc điều hành hoạt động của phòng kiểm toán nội bộ Công ty theo mô hình trên phải hết sức linh hoạt, không được cứng nhắc. Ví dụ các kiểm toán viên ở cơ sở địa bàn trong một số trường hợp cần thiết có thể tập trung ở trung tâm để thực hiện các nhiệm vụ khác. 3.2.2.2 Hoàn thiện đội ngũ kiểm toán viên nội bộ Trước hết kiểm toán viên nội bộ Công ty phải rèn luyện tính thận trọng nghề nghiệp đúng mực trong khi thực hiện kiểm toán nội bộ. Tính thận trọng nghề nghiệp đúng mực đòi hỏi vận dụng tính cẩn trọng và kỹ năng cần có của một kiểm toán viên độc lập có trình độ và thận trọng hợp lý trong những tình huống như nhau hoặc tương tự. Tính thận trọng phải thích ứng với sự phức tạp của nhiệm vụ kiểm toán cần thực hiện. Trong việc rèn luyện tính thận trọng nghề nghiệp đúng mực,kiểm toán viên nội bộ phải đề phòng khả năng sảy ra nhứng hành động sai trái, nhầm lẫn và bỏ sót, kém hiệu xuất, lãng phí, không có hiệu quả và những mâu thuẫn quyền lợi. Tính thận trọng hàm ý cả thận trọng hợp lý và tài năng, không phải là cái gì tuyệt đối hay là thành tích phi thường. Tính thận trọng đúng mực đòi hỏi kiểm toán viên tiến hành xem xét và đối chiếu trong phạm vi hợp lý mà không đòi hỏi kiểm toán tỉ mỉ tất cả các nghiệp vụ. Để có được phẩm chất thận trọng nghề nghiệp đúng mực thì kiểm toán viên nội bộ Công ty cần lưu ý các vấn đề sau: - Mở rộng công việc kiểm toán cần thiết nhằm vào các mục tiêu kiểm toán. - Tầm quan trọng liên quan hoặc ý nghĩa của các vấn đề mà các thủ tục kiểm toán được áp dụng. - Tính đầy đủ và hiệu quả của kiểm soát nội bộ. - Chi phí kiểm toán so với lợi ích có thể mang lại. - Khi kiểm toán viên nội bộ nghi ngờ có hành động sai trái phải báo cho cấp lãnh đạo hữu quan trong tổ chức biết. Khi đó, kiểm toán viên nội bộ có thể khuyến nghị những điều tra nào là cần thiết trong hoàn cảnh này. Để hoàn thiện khả năng tinh thông nghề nghiệp cho các kiểm toán viên nội bộ Công ty thì cần phải tiến hành tập trung vào các khía cạnh sau: - Cần phải có các khoá huấn luyện chính thức cho mỗi kiểm toán viên, đặc biệt là các kiểm toán viên trẻ còn thiếu kinh nghiệm. Trong trường hợp này có thể thuê các chuyên gia bên ngoài để phục vụ cho các khoá huấn luyện theo các chủ đề chọn lọc( ví dụ như huấn luyện phương pháp lập kế hoạch kiểm toán theo quy trình chuẩn). Với thực trạng chất lượng kiểm toán viên nội bộ ở Công ty Than miền bắc hiện nay thì các khoá huấn luyện phải hướng vào các chủ đề: các chuẩn mực kiểm toán, quy chế kiểm toán nội bộ của Công ty, Các sơ đồ tổ chức, các kỹ thuật chuyên môn, kỹ thuật phỏng vấn, các trương trình kiểm toán, thu thập bằng chứng, sử dụng các chương trình phần mềm máy tính, soạn thảo những việc khám phá, thẩm tra bộ hồ sơ kiểm toán, kỹ năng viết báo cáo kiểm toán. - Các kiểm toán viên nội bộ Công ty phải duy trì sự thông thạo của mình thông qua việc không ngừng học tập. Không chỉ thông qua các hoạt động huấn luyện mà một nhân viên được tiến bộ, mà còn thông qua những cố gắng tự trau rồi của bản thân anh ta. Kiểm toán viên nội bộ phải tiếp cận và hiểu được những cải tiến, những phát hiện mới trong các chuẩn mực, thủ tục và kỹ thuật kiểm toán nội bộ. Học tập trau rồi không ngừng thông qua tham gia các hội nghề nghiệp, tham dự các buổi diễn thuyết, hội thảo, và tham gia các chương trình nghiên cứu khoá học. - Các kiểm toán viên ở Công ty cần vượt qua kỳ thi sát hạch kế toán viên công chứng( CPA). Qua được kỳ thi sát hạch này một mặt khẳng định trình độ của kiểm toán viên, mặt khác tạ ra tâm lý tự tin trong công việc của các kiểm toán viên. Gần đây ở Việt nam có sự gia tăng về sách và các lớp học luyện thi để giúp vượt qua kỳ thi sát hạch CPA. Ngoài ra Công ty cũng khuyến khích như tạo điều kiện về thời gian và vật chất cho các kiểm toán viên tham gia chương trình đào tạo sau đại học ở một số trường đại học. Những lớp học này cung cấp cho kiểm toán viên một cơ sở rộng về lý thuyết quản lý, kinh doanh, các kỹ thuật định lượng và các khái niệm kế toán - kiểm toán tiên tiến. 3.3. Kiến nghị thực hiện 3.3.1. Kiến nghị về phía Nhà nước Xây dựng quy trình chuẩn cho một cuộc kiểm toán nội bộ. Hiện nay chưa có văn bản ở cấp nhà nước nào quy định về một quy trình chuẩn chi tiết cho một cuộc kiểm toán nội bộ ở các doanh nghiệp. Trên thực tế, mặc dù một số bộ phận kiểm toán nội bộ ở các doanh nghiệp Việt Nam cũng đã tự xây dựng cho mình những quy trình kiểm toán nội bộ cho riêng họ tuy nhiên những quy trình này cũng chưa thực sự mang lại hiệu quả cao nhất cho các cuộc kiểm toán mà nguyên nhân chủ yếu là việc nghiên cứu xây dựng ở các doanh nghiệp còn hạn chế. Nhà nước với khả năng về tài chính và nguồn nhân lực hoàn toàn có thể thực hiện một chương trình khoa học mang tính thực tế cao về việc xây dựng quy trình chuẩn tắc cho một cuộc kiểm toán nội bộ. Một quy trình chuẩn cho một cuộc kiểm toán sẽ là cơ sở tốt nhất cho bộ phận kiểm toán nội bộ ở các doanh nghiệp có thể tự xây dựng cho mình những quy trình kiểm toán nội bộ hiệu quả nhất. Đây cũng sẽ là một tiền đề không thể thiếu được cho việc hoàn thiện tổ chức kiểm toán nội bộ trong các doanh nghiệp Việt Nam. Nghiên cứu ban hành hệ thống chuẩn mực hành nghề kiểm toán nội bộ áp dụng cho các doanh nghiệp. Mặc dù Bộ Tài chính đã có Quyết định số 832/TC-QĐ-CĐKT ngày 28/10/1977 ban hành Quy chế kiểm toán nội bộ và Thông tư số 52/1998/TT-BTC ngày 16/4/1998 hướng dẫn tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộ tại doanh nghiệp Nhà nước, sau đó là Thông tư số 171/1998/TT-BTC ngày 22/12/1998 hướng dẫn thực hiện kiểm toán nội bộ tại doanh nghiệp nhà nước. Tuy nhiên trên thực tế cho đến nay chưa có một chuẩn mực kiểm toán nội bộ nào được Nhà nước ban hành. Trên thế giới năm 1974 Viện nghiên cứu kiểm toán viên nội bộ(IIA) đã thiết lập Uỷ ban về Trách nhiệm và Chuẩn mực Nghề nghiệp và Uỷ ban này đã nghiên cứu và thông qua các chuẩn mực nghề nghiệp của kiểm toán nội bộ. Các chuẩn mực này gồm 5 chuẩn mực chung và trong mỗi chuẩn mực chung lại gồm nhiều chuẩn mực cụ thể. Việc ra đời của các chuẩn mực nghề nghiệp kiểm toán viên nội bộ là một bước tiến quan trọng trong quá trình phát triển của kiểm toán nội bộ. Các chuẩn mực này là công cụ phục vụ cho hoạt động nghề nghiệp trong tất cả các lĩnh vực kinh doanh, ở rất nhiều mức độ khác nhau của chính phủ, và ở tất cả các tổ chức nơi mà kiểm toán viên nội bộ có mặt. Các chuẩn mực hàng nghề kiểm toán viên nội bộ cũng là tiêu chuẩn dùng để đánh giá và đo lường các hoạt động của phòng kiểm toán nội bộ. Tuy nhiên những chuẩn mực mà Viện nghiên cứu kiểm toán viên nội bộ (IIA) thông qua cũng chỉ mang tính chung nhất, muốn áp dụng chúng vào một môi trường xã hội cụ thể thì cần phải có những thay đổi cho phù hợp. Nhà nước Việt Nam cần sớm ban hành các chuẩn mực hành nghề kiểm toán nội bộ áp dụng cho các doanh nghiệp ở Việt Nam. Các chuẩn mực này phải được nghiên cứu kỹ lưỡng sao cho nội dung của nó phải phù hợp với những chuẩn mực hành nghề của Viện nghiên cứu kiểm toán viên nội bộ đồng thời phải thích ứng với môi trường kinh tế xã hội ở Việt Nam. Các chuẩn mực cũng đòi hỏi phải giản đơn, dễ hiểu, dễ truyền đạt, tạo điều kiện thuận lợi cho các kiểm toán viên dễ dàng tiếp thu và hướng họ vào những hành động theo chuẩn mực. Khuyến khích thành lập và hoạt động của hiệp hội kiểm toán viên nội bộ ở Việt Nam. Việc thành lập một hiệp hội kiểm toán viên nội bộ ở Việt Nam là một yêu cầu khách quan bởi sự ra đời và phát triển của Hiệp hội này sẽ giúp cho kiểm toán nội bộ ở Việt Nam phát triển mạnh mẽ hơn. Việc thành hiệp hội kiểm toán viên nội bộ cần thiết phải do Nhà nước đứng ra thành lập bởi chỉ Nhà nước mới có đủ uy tín cần thiết giúp cho một tổ chức khá phức tạp như Hiệp hội kiểm toán viên nội bộ ra đời và phát triển một cách hiệu quả. Hiệp hội kiểm toán viên nội bộ Việt Nam phải đảm bảo có chất lượng hoạt động tốt để có thể quy tụ được những kiểm toán viên nội bộ xuất sắc ở những đơn vị áp dụng thành công mô hình kiểm soát nội bộ có sử dụng bộ phận kiểm toán nội bộ như là một nhân tố trọng tâm. Hoạt động của Hiệp hội cần tập trung vào các vấn đề thiết thực nhằm đẩy mạnh sự phát triển của kiểm toán nội bộ ở Việt Nam. 3.3.2. Kiến nghị về phía Công ty Than miền bắc Đưa kế hoạch kiểm toán nội bộ vào kế hoạch sản xuất kinh doanh hàng năm. Công ty phải đưa kế hoạch kiểm toán nội bộ vào kế hoạch sản xuất kinh doanh hàng năm. Việc đưa kế hoạch kiểm toán nội bộ vào kế hoạch sản xuất kinh doanh hàng năm sẽ đảm bảo tính hệ thống và tính tập trung trong công tác lập kế hoạch. Mặt khác, việc đưa kế hoạch kiểm toán vào kế hoạch sản xuất kinh doanh hàng năm sẽ giúp cho việc thực hiện công tác kiểm toán một cách hiện thực hơn, chính tắc hơn và do đó hiệu quả mang lại chắc chắn sẽ cao hơn. Kế hoạch kiểm toán được đưa vào kế hoạch sản xuất kinh doanh hàng năm của Công ty chủ yếu phải thể hiện được các chỉ tiêu về mặt giá trị như chi phí được phê duyệt nhằm phục vụ cho hoạt động kiểm toán nội bộ trong năm. Các chỉ tiêu hiện vật cũng cần được thông qua như số lượng các cuộc kiểm toán, số lượng nhân viên cần thiết, các nguồn lực khác sẽ được huy động và sử dụng. Tổ chức đánh giá lại tính hiệu quả của bộ phận kiểm toán nội bộ để khắc phục những điểm yếu. Hoạt động kiểm toán nội bộ cũng là một loại hoạt động đặc thù riêng, nên cũng cần phải có những xem xét đánh giá khách quan về tính hiệu năng hiệu quả của hoạt động này từ đó có những điều chỉnh cho phù hợp. Trên thực tế Công ty chưa có những đánh giá tính hiệu quả của bộ phận kiểm toán nội bộ ở Công ty. Để làm được điều này Công ty cần thực hiện kiểm toán tính hiệu quả của hoạt động kiểm toán nội bộ của Công ty thông qua việc thuê ngoài các công ty kiểm toán độc lập. Thực hiện điều này sẽ mang lại những cái nhìn mới mẻ hơn về bộ phận kiểm toán nộ bộ ở Công ty từ nhiều phía. Về phía ban giám đốc họ sẽ đặt niềm tin nhiều hơn vào bộ phận kiểm toán nội bộ và như thế vị thế của kiểm toán nội bộ cũng được cải thiện theo chiều hướng tích cực. Về phía các kiểm tóan viên nội bộ họ sẽ có nhận thức rõ ràng hơn về chức năng và nhiệm vụ của bản thân và điều quan trọng hơn là họ thấy được những điều mình đã làm được và những điều chưa làm được từ đó có hướng đi đúng đắn nhằm hoàn thiện khả năng bản thân. Đánh giá tính hiệu năng hiệu quả của bộ phận kiểm toán nội bộ ở Công ty phải chỉ ra được những mặt mạnh cần phát huy và những mặt yếu cần khắc phục của bộ phận kiểm toán nội bộ. Sau khi có những đánh giá xác đáng về bộ phận kiểm toán nội bộ ở Công ty thì một việc cần thiết phải làm là đưa ra những giải pháp hữu ích nhằm khắc phục những điểm yếu trên. Những giải pháp phải mang tính khả thi và tính tối ưu cần thiết. Tạo vị thế độc lập của bộ phận kiểm toán nội bộ trong mô hình quản lý ở Công ty than miền bắc. Bộ phận kiểm toán nội bộ phải tạo được vị thế độc lập trong mô hình quản lý của Công ty. Vị thế độc lập cho phép kiểm toán viên nội bộ có những phán đoán khách quan và không thành kiến, cần thiết để tiến hành đúng đắn những cuộc kiểm toán. Ban giám đốc phải cho bộ phận kiểm toán nội bộ một địa vị với tính độc lập thoả đáng trong tổ chức để họ có thể phát huy sức mạnh và hoàn thành chức năng nhiệm vụ của mình. Để làm được điều đó cần thực hiện: Kiểm toán viên nội bộ phải được sự ủng hộ của Ban Giám đốc Công ty để họ có được sự cộng tác của những bộ phận được kiểm toán và để công việc của họ không bị can thiệp. Để làm được điều đó trong bản quy chế tổ chức bộ máy quản lý của Công ty phải xác định rõ mục đích, quyền hạn và trách nhiệm của bộ phận kiểm toán nội bộ. Bên cạnh đó Công ty cần bổ xung những nhiệm vụ và quyền hạn của bộ phận kiểm toán nội bộ trong bản Quy chế kiểm toán nội bộ hiện tại của Công ty sao cho tính độc lập của bộ phận kiểm toán nội bộ được tăng lên. Để tính độc lập của bộ phận kiểm toán nội bộ ở Công ty phát huy hiệu quả thì người phụ trách bộ phận kiểm toán nội bộ mà cụ thể ở đây là trưởng phòng kiểm toán nội bộ chỉ chịu trách nhiệm trước một cá nhân duy nhất có đủ quyền hạn để bộ phận kiểm toán nội bộ hoạt động có hiệu lực, đó là Giám đốc Công ty. Nói như vậy là khẳng định một nguyên tắc tạo vị thế độc lập cho bộ phận kiểm toán nội bộ chứ không phải nói đến địa vị của cá nhân trong Công ty. Bởi vì theo quan điểm logic là thẩm quyền báo cáo càng cao thì tính độc lập của kiểm toán viên nội bộ càng lớn hơn. Tính độc lập của bộ phận kiểm toán nội bộ được tăng cao khi người phụ trách có nhiệm vụ và quyền hạn báo cáo trực tiếp với ban giám đốc về những kế hoạch công tác hay những thay đổi lớn. Hàng năm, người phụ trách kiểm toán nội bộ phải trình bản tóm tắt về chương trình kiểm toán, kế hoạch nhân sự và kinh phí để ban giám đốc duyệt. Người phụ trách cũng phải trình bày những thay đổi quan trọng để duyệt y và công bố sau đó. Người phụ trách kiểm toán cũng phải đệ trình báo cáo hoạt động cho ban giám đốc mỗi năm nhiều lần tuỳ theo tình hình thực tế phát sinh. Báo cáo hoạt động phải làm nổi bật những phát hiện kiểm toán quan trọng cùng với những kiến nghị và lưu ý ban giám đốc về những sai lệch lớn so với kế hoạch kiểm toán chung, kế hoạch nhân sự và kinh phí đã được duyệt cùng với những lý do sai lệch. Tổ chức và khuyến khích các hoạt động nghiên cứu khoa học nhằm xây dựng các chương trình kiểm toán chuẩn. Công ty cần có những bước đi mạnh dạn trong việc nâng cao chất lượng các cuộc kiểm toán trong tương lai. Một trong những hướng đi hợp lý trong hoàn cảnh hiện nay là Công ty cần phát huy hết sức mạnh nội lực hiện có của bản thân. Tổ chức khuyến khích nghiên cứu khoa học để xây dựng các chương trình kiểm toán nội bộ nhằm phát huy tính hiệu quả từ nội lực của Công ty là một giải pháp không thể bỏ qua. Nếu xét về khả năng chuyên môn của các kiểm toán viên hiện tại ở Công ty thì công tác nghiên cứu khoa học trong việc xây dựng các trương trình kiểm toán áp dụng cho Công ty không phải là một việc quá sức của họ. Mặt khác nếu việc nghiên cứu khoa học được triển khai ở Công ty sẽ mang lại nhiều lợi ích thiết thực mang tính lâu dài. Thứ nhất, các kiểm toán viên sẽ phải động não, tìm hiểu, nghiên cứu một cách tích cực từ đó nâng cao trình hiểu biết và có những kiến thức hữu ích về chuyen môn. Thứ hai, các kiểm toán viên nội bộ Công ty sẽ là những người sẽ trực tiếp áp dụng các trương trình kiểm toán trong các cuộc kiểm toán sau này ở Công ty nên việc áp dụng những “sản phẩm” mà họ làm ra sẽ thuận lợi hơn. Và cuối cùng, các kiểm toán viên nội bộ ở Công ty là người hiểu tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh ở Công ty cũng như hệ thống kiểm soát nội bộ ở Công ty hơn bất cứ ai nên những chương trình kiểm toán mà họ xây dựng sẽ mang lại hiệu quả cao trong quá trình thực hiện. Phần Kết luận Như vậy những vấn đề về tổ chức kiểm toán nội bộ đã được Tác giả đề cập và phân tích một cách chi tiết, trong đó những kiến thức hiện đại về tổ chức kiểm toán nội bộ được Tác giả đặc biệt coi trọng. Những lý luận này là cơ sở không thể thiếu được nhằm hoàn thiện tổ chức kiểm toán nội bộ tại Công ty Than miền bắc. Tác giả cũng đã khái quát thực trạng hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty Than miền bắc từ đó giúp người đọc có cái nhìn tổng quan về Công ty Than miền bắc. Bằng phân tích thực tế, thực trạng hoạt động tổ chức kiểm toán nội bộ tại Công ty Than miền bắc đã được Tác giả đề cập một cách rõ nét. Cuối cùng mục đích cuối cùng của Luận văn này đã được Tác giả đạt tới thông qua việc đưa ra các phương hướng và giải pháp hoàn thiện tổ chức kiểm toán nội bộ tại Công ty Than miền bắc. Cuốn Luận văn này đã được hoàn thành bằng những cố gắng nỗ lực của bản thân và sự hướng dẫn tận tình trực tiếp của Tiến sỹ Lê Thị Hòa, sự giúp đỡ nhiệt tình của các thầy cô giáo Khoa Kế toán – Kiểm toán trường Đại học Kinh tế Quốc dân. Qua đây Tác giả muốn bày tỏ lòng cảm ơn chân thành nhất tới các thầy cô trên; cảm ơn Ban Giám đốc Công ty Than miền bắc đã tạo điều kiện thuận lợi cho tác giả tiếp cận các tài liệu quý báu liên quan tới Công ty. Cuối cùng Tác giả mong muốn rằng cuốn Luận văn này sẽ mang lại những đóng góp nhất định trong việc nâng cao chất lượng kiểm toán nội bộ tại Công ty Than miền bắc trong một tương lai gần. Mặt khác do khả năng có hạn, nên những sai sót trong cuốn Luận văn này là không thể tránh khỏi, do đó Tác giả luôn mong đợi và tiếp thu sự góp ý chân thành từ phía độc giả. Xin chân thành cảm ơn ! Tài liệu tham khảo Ngô Thế Chi, Đào Xuân Tiêm, Vương Đình Huệ (1995), Kế toán - Kiểm toán và phân tích tài chính doanh nghiệp, NXb Tài chính, Hà nội Vũ Cao Đàm (2005), Phương pháp luận nghiên cứu khoa học, NXB Khoa học và kỹ thuật, Hà nội. Huỳnh Văn Hoài (2001), Cẩm nang nghiệp vụ kiểm toán, NXB Thống kê, Hà nội. 4. Vương Đình Huệ , Đoàn Xuân Tiên (1996), Kiểm toán, NXB Tài chính, Hà nội. 5.Vương Đình Huệ, Vũ Huy Cẩm (1993), Kiểm toán Quốc tế, NXB Thống kê, Hà nội. 6. Võ Văn Nhị(2004), Hướng dẫn thực hành chế độ kế toán mới, Nhà xuất bản Tài chính, Hà nội. Bùi Văn Mai (1995), Tìm hiểu về kiểm toán độc lập ở Việt Nam, NXB Tài chính, Hà Nội. 8 .Nguyễn Quang Quynh (2003), Lý thuyết kiểm toán, NXB Tài chính, Hà nội. Các văn bản pháp quy hiện hành về kiểm toán. 10. Alvin A.Arens, James K.Loebbecke (2000), Kiểm toán - Auditing, NXB Thống kê. Dịch và biên soạn: Đặng Kim Cương, Phạm Văn Được. 11. Victor Z.Brink and Herbert Witt (2000), Kiểm toán nội bộ hiện đại. Đánh giá các hoạt động và hệ thống kiểm soát - Modern Internal Auditing. Appraising Operations and Controls ,NXB Tài chính, Hà nội.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLvan hchinh-1.doc
  • docDanh muc viet tat.doc
  • doctom tat Lvan hchinh.doc
Tài liệu liên quan