Đề tài Hoạt động của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) và vai trò của nó đối với sự phát triển kinh tế

Để ghi nhận những cống hiến to lớn của toàn ngành Ngân hàng trong hai cuộc kháng chiến với những thắng lợi vĩ đại của dân tộc, Đảng và Nhà nước đã phong tặng và thưởng nhiều danh hiệu cao quý cho nhiều tập thể, cá nhân của ngành. Trong đó, nhân kỷ niệm 45 năm ngày thành lập, năm 1996 ngành NH đã vinh dự được Đảng, Nhà nước trao tặng Huân chương Hồ Chí Minh, 94 đồng chí được trao tặng các Huân chương công trạng bậc cao từ Huân chương Hồ Chí Minh đến các Huân chương độc lập hạng nhất, hạng nhì, hạng ba. Tại Đại Hội thi đua yêu nước ngành Ngân hàng lần thứ IV tháng 9/2000, Đảng Nhà nước và ngành Ngân hàng đã trao tặng danh hiệu anh hùng lao động và hàng ngàn Huân, Huy chương, Bằng khen các cấp cho các tập thể và cá nhân của ngành về những thành tích trong thời kỳ đổi mới. Cho đến ngày hôm nay, hệ thống ngân hàng vẫn là nhân tố nòng cốt, tích cực trong công cuộc đổi mới toàn diện nền kinh tế đất nước theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, vận hành bằng cơ chế kinh tế thị trường có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nền văn minh tiền tệ Việt Nam đã từng bước được khẳng định thông qua tính ổn định giá trị, tính đa dạng về phương tiện thanh toán thay tiền mặt và không ngừng hoàn thiện các công nghệ điều hành cũng như công nghệ kinh doanh hiện đại hướng về các nhu cầu tiện ích đa dạng của mọi tầng lớp nhân dân. Sự lớn mạnh và thay đổi nhanh chóng theo chiều hướng ngày càng hiện đại phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế cùng với sự tiếp nối truyền thống vẻ vang của ngành trong hơn nửa thế kỷ qua chắc chắn Ngân hàng Việt Nam cũng sẽ không phụ lòng tin của Đảng, của nhân dân và của bạn bè quốc tế. Với nhiệm vụ quan trọng là "một người chiến sỹ xung kích" trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trước những thách thức và thời cơ của xu thế hội nhập và toàn cầu hoá trong giai đoạn phát triển mới.

doc29 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 2078 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hoạt động của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) và vai trò của nó đối với sự phát triển kinh tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nói chung, Ngân hàng trung ương là ngân hàng thuộc sở hữu nhà nước , được thành lập và hoạt động theo pháp luật. Ngân hàng trung ương vừa thực hiện chức năng quản lí về mặt nhà nước trên lĩnh vực tiền tệ, tín dụng ngân hàng, vừa thực hiện là chức năng của ngân hàng nhà nước. Ở đây, ngân hàng trung ương thực hiện các nghiệp vụ chủ yếu sau: Ngân hàng trung ương là cơ quan quản lí về mặt nhà nước các hoạt động của hệ thống ngân hàng bằng pháp luật: Xem xét, cấp và thu hồi giấy phép hoạt động của các ngân hàng và các tổ chức tín dụng. Kiểm soát tín dụng thông qua cơ chế tái cấp vốn và tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Quy định các thể chế nghiệp vụ, các hệ số an toàn trong quá trinh hoạt động cho các ngân hàng và các tổ chức tín dụng. Thanh tra và kiểm soát toàn bộ các hoạt động của toàn bộ hệ thống ngân hàng Áp dụng các chế tài trong trường hợp vi phạm pháp luật, nhằm bảo đảm cho cả hệ thống ngân hàng hoạt động ổn định, có hiệu quả, an toàn. Quyết định đình chỉ các hoạt động hoặc để giải thể đối với các ngân hàng và các tổ chức tín dụng trong trường hợp vi phạm nghiêm trọng luật hoặc mất khả năng thanh toán. Ngân hàng trung ương có trách nhiệm đối với ngân hàng nhà nước: Mở tài khoản, nhận và trả tiền gửi của kho bạc nhà nước Tổ chức thanh toán cho kho bạc nhà nước trong thanh toán với các ngân hàng Làm đại lí cho kho bạc nhà nước trong một số nghiệp vụ. Bảo quản dự trữ quốc gia về ngoại hối, các chứng từ có bảng giá. Cho ngân hàng nhà nước vay khi cần thiết. Ngân hàng trung ương thay mặt cho nhà nước trong quan hệ với nước ngoài trong lĩnh vực tiền tệ, tín dụng và ngân hàng: Kí kết các hiệp định về tiền tệ, tín dụng ngân hàng với nước ngoài Đại diện cho nhà nước với các tổ chức tài chính quốc tế mà nước đó là thành viên như IMF, WB, ADB… NHTW và các chính sách tiền tệ Vị trí của chính sách tiền tệ Kinh tế thị trường thực chất là một nền kinh tế tiền tệ. Ở đó, bao giờ chính sách tiền tệ cũng là một trong những công cụ quản lí kinh tê vĩ mô quan trọng nhất của nhà nước, bên cạnh chính sách tài khóa, phân phối thu nhập, chính sách kinh tế đối ngoại… Ngân hàng trung ương sử dụng chính sách tiền tệ nhằm gây ra sự mở rộng hay thắt chặt lại trong việc cung ứng tiền tệ, để ổn định giá trị đồng bản tệ, đưa sản lượng và việc làm của quốc gia đến mức mong muốn. Trong một quãng thời gian nhất định nào đó, chinh sách tiên tệ của một quốc gia có thể được hoạch định một trong hai hướng sau: Chính sách tiền tệ mở rộng, nhằm tăng lượng tiền cung ứng, khuyến khích mở rộng đầu tư sản xuất kinh doanh, tạo việc làm. Trường hợp này, chính sách tiền tệ nhằm chống suy thoái kinh tế, chống thất nghiệp. Chính sách tiền tệ thắt chặt nhằm giảm lượng tiền cung ứng, hạn chế đầu tư, kìm hãm sự phát triển quá đà của nền kinh tế. Trường hợp này chính sách tiền tệ nhằm kiềm chế lạm phát. Chính sách tiền tệ là hoạt động cơ bản, chủ yếu nhất của ngân hang trung ương. Có thể coi chính sách tiền tệ là linh hồn, xuyên suốt trong mọi hoạt động của ngân hàng trung ương. Các hoạt động khác của ngân hàng trung ương đều nhằm thực thi chính sách tiền tệ đề đạt mục tiêu của nó. Nhiệm vụ Chính sách tiền tê, một mặt là cung cấp đầy đủ phương tiện thanh toán cho nền kinh tế (lượng tiền cung ứng), mặt khác phải giữ ổn định giá trị đồng bản tệ. Để thực hiện điều đó. Thông thường trên thế giới, việc xây dựng và thực hiện chính sách tiền tệ được giao cho ngân hàng trung ương. Có một số nước, việc xây dựng chính sách tiền tệ có thể do một cơ quan khác , nhưng thực hiện chính sách tiền tệ này vẫn là ngân hàng trung ương. Tuy nhiên, trong lĩnh vực này, Ngân hàng trung ương cần được độc lập ở một mức độ nhất định với chính phủ. Các công cụ của CSTT : Nghiệp vụ thị trường mở: Khái niệm: Là những hoạt động mua bán chứng khoán do NHTW thực hiện trên thị trường mở nhằm tác động tới cơ số tiền tệ qua đó đIều tiết lượng tiền cung ứng. Cơ chế tác động:Khi NHTW mua (bán)chứng khoán thì sẽ làm cho cơ số tiền tệ tăng lên (giảm đi) dẫn đến mức cung tiền tăng lên (giảm đi). Nếu thị trường mở chỉ gồm NHTW và các NHTM thì hoạt động này sẽ làm thay đổi lượng tiền dự trữ của các NHTM (R ),nếu bao gồm cả công chúng thì nó sẽ làm thay đổi ngay lượng tiền mặt trong lưu thông(C) Đặc điểm:Do vận dụng tính linh hoạt của thị trường nên đây được coi là một công cụ rất năng động ,hiệu quả,chính xác của CSTT vì khối lượng chứng khoán mua( bán ) tỷ lệ với qui mô lượng tiền cung ứng cần đIều chỉnh,ít tốn kém về chi phí ,dễ đảo ngược tình thế.Tuy vậy, vì được thực hiện thông qua quan hệ trao đổi nên nó còn phụ thuộc vào các chủ thể khác tham gia trên thị trường và mặt khác để công cụ này hiệu quả thì cần phải có sự phát triển đồng bộ của thị trường tiền tệ ,thị trường vốn. Dự trữ bắt buộc: Khái niệm :Số tiền dự trữ bắt buộc là số tiền mà các NH phảI giữ lại,do NHTW qui định ,gửi tại NHTW,không hưởng lãI,không được dùng để đầu tư,cho vay và thông thường được tính theo một tỷ lệ nhất định trên tổng só tiền gửi của khách hàng để đảm bảo khả năng thanh toán,sự ổn định của hệ thống ngân hàng Cơ chế tác động:Việc thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc ảnh hưởng trực tiếp đến số nhân tiền tệ (m=1+s/s+ER+RR) trong cơ chế tạo tiền của các NHTM.Mặt khác khi tăng (giảm ) tỷ lệ dự trữ bắt buộc thì khả năng cho vay của các NHTM giảm (tăng), làm cho lãI suất cho vay tăng (giảm),từ đó làm cho lượng cung ứng tiền giảm (tăng). Đặc đIểm:Đây là công cụ mang nặng tính quản lý Nhà nước nên giúp NHTW chủ động trong việc đIều chỉnh lượng tiền cung ứng và tác động của nó cũng rất mạnh (chỉ cần thay đổi một lượng nhỏ tỷ lệ dự trữ bắt buộc là ảnh hưởng tới một lượng rất lớn mức cung tiền). Song tính linh hoạt của nó không cao vì việc tổ chức thực hiện nó rất chậm ,phức tạp, tốn kém và nó có thể ảnh hưởng không tốt tới hoạt động kinh doanh của các NHTM. Chính sách tái chiết khấu: Khái niệm : Đây là hoạt động mà NHTW thực hiện cho vay ngắn hạn đối với các NHTM thông qua nghiệp vụ tái chiết khấu bằng việc đIều chỉnh lãI suất táI chiết khấu (đối với thương phiếu) và hạn mức cho vay táI chiết khấu(cửa sổ chiết khấu) Cơ chế tác động:Khi NHTW tăng (giảm ) lãi suất tái chiết khấu sẽ hạn chế (khuyến khích) việc các NHTM vay tiền tại NHTW làm cho khả năng cho vay của các NHTM giảm (tăng) từ đó làm cho mức cung tiền trong nền kinh tế giảm (tăng).Mặt khác khi NHTW muốn hạn chế NHTM vay chiết khấu của mình thì thực hiện việc khép cửa sổ chiết khấu lại. Ngoài ra, ở các nước có thị trường chưa phát triển (thương phiếu chưa phổ biến để có thể làm công cụ táI chiết khấu) thì NHTW còn thực hiện nghiệp vụ này thông qua việc cho vay táI cấp vốn ngắn hạn đối với các NHTM. Đặc điểm:Chính sách tái chiết khấu giúp NHTW thực hiện vai trò là người cho vay cuối cùng đối với các NHTM khi các NHTM gặp khó khăn trong thanh toán ,và có thế kiểm soát đựoc hoạt động tín dụng của các NHTM đồng thời có thể tác động tới việc đIều chỉnh cơ cấu đầu tư đối với nền kinh tế thông qua việc ưu đãi tín dụng vào các lĩnh vực cụ thể.Tuy vậy ,hiệu qủa của cộng cụ này còn phụ thuộc vào hoạt động cho vay của các NHTM, mặt khác mức lãi suất tái chiết khấu có thể làm méo mó ,sai lệch thông tin về cung cầu vốn trên thị trường. Trên đây là 3 công cụ tác động gián tiếp tới qui mô lượng tiền cung ứng,trong một nền kinh tế nếu NHTW sử dụng có hiệu quả cấc công cụ này thì sẽ không cần đến bất cứ một công cụ nào khác .Tuy vậy trong những điều kiện cụ thể (các quốc gia đang phát triển ;các giai đoạn kinh tế quá nóng ) thì để đạt được mục tiêu của mình ,NHTW có thể sử dụng các công cụ điều tiết trực tiếp sau: Quản lý hạn mức tín dụng của các NHTM Khái niệm :là việc NHTW quy định tổng mức dư nợ của các NHTM không được vượt quá một lượng nào đó trong một thời gian nhất định(một năm) để thực hiện vai trò kiểm soát mức cung tiền của mình.Việc định ra hạn mức tín dụng cho toàn nền kinh tế dựa trên cơ sở là các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô(tốc độ tăng trưởng ,lạm phátiêu thụ..)sau đó NHTW sẽ phân bổ cho các NHTM và NHTM không thể cho vay vượt quá hạn mức do NHTW quy định . Cơ chế tác động:Đây là một cộng cụ điều chỉnh một cách trực tiếp đối với lượng tiền cung ứng,việc quy định pháp lý khối lượng hạn mức tín dụng cho nền kinh tế có quan hệ thuận chiều với qui mô lượng tiền cung ứng theo mục tiêu của NHTM. Đặc điểm:Giúp NHTW điều chỉnh ,kiểm soát được lượng tiền cung ứng khi các công cụ gián tiếp kém hiệu quả ,đặc biệt tác dụng nhất thời của nó rất cao trong những giai đoạn phát triển quá nóng,tỷ lệ lạm phát quá cao của nền kinh tế .Song nhược điểm của nó rất lớn : triệt tiêu động lực cạnh tranh giữa các NHTM,làm giảm hiệu quả phân bổ vốn trong nến kinh tế ,dễ phát sinh nhiều hình thức tín dụng ngoàI sự kiểm soát của NHTW và nó sẽ trở nên quá kìm hãm khi nhu cầu tín dụng cho việc phát triển kinh tế tăng lên . Quản lý lãi suất của các NHTM: Khái niệm :NHTW đưa ra một khung lãi suất hay ấn dịnh một trần lãi suất cho vay để hướng các NHTM điều chỉnh lãi suất theo giới hạn đó,từ đó ảnh hưởng tới qui mô tín dụng của nền kinh tế và NHTW có thể đạt được quản lý mức cung tiền của mình. Cơ chế tác động:Việc điều chỉnh lãi suất theo xu hướng tăng hay giảm sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới qui mô huy động và cho vay của các NHTM làm cho lượng tiền cung ứng thay đổi theo. :Giúp cho NHTW thực hiện quản lý lượng tiền cung ứng theo mục tiêu của từng thời kỳ,đIều này phù hợp với các quốc gia khi chưa có điều kiện để phát huy tác dụng của các công cụ gián tiếp.Song, nó dễ làm mất đi tính khách quan của lãi suất trong nền kinh tế vì thực chất lãI suất là “giá cả” của vốn do vậy nó phải được hình thành từ chính quan hệ cung cầu về vốn trong nến kinh tế .Mặt khác việc thay đổi quy định đIều chỉnh lãI suất dễ làm cho các NHTM bị động,tốn kém trong hoạt động kinh doanh của mình. Phụ lục: Đặc điểm của một số ngân hàng ở các quốc gia khác Ngân hàng trung ương (Central Bank) ở bất cứ quốc gia nào đều là một trong những cơ quan có vị thế cực kỳ quan trọng, là ngân hàng đứng đầu trong hệ thống ngân hàng. Đặc điểm nổi bật của ngân hàng trung ương là nó không giao dịch, làm nghiệp vụ trực tiếp với các nhà kinh doanh và công chúng, khách hàng của nó là tất cả các ngân hàng khác. Ngân hàng trung ương giữ vai trò là ngân hàng của các ngân hàng; bảo quản quỹ dự trữ tiền tệ của các ngân hàng; cho các ngân hàng vay vốn khi cần thiết, thực hiện chính sách tiền tệ tín dụng của nhà nước; cơ quan phát hành tiền tệ trong nước; thanh toán và tín dụng quốc tế với ngân hàng trung ương các nước khác; là cơ quan cung cấp tiền cho ngân sách khi cần và làm một số nghiệp vụ của kho bạc nhà nước.     Mỹ Hệ thống Dự trữ Liên bang (Federal Reserve System) có chức năng như một ngân hàng trung ương, mặc dù chính thức nó không phải là một ngân hàng mà chỉ chịu những ảnh hưởng hạn chế của nhánh hành pháp và lập pháp. Hệ thống này được thành lập ngày 23 tháng 12 năm 1913, nhằm đưa ra trong nước một đồng tiền linh hoạt, tạo điều kiện dễ dàng cho việc chiết khấu các thương phiếu và cải thiện việc giám sát hoạt động ngân hàng, từ đó trách nhiệm của Hệ thống đã được mở rộng. Qua nhiều năm, người ta đã nhận thấy rằng, sự ổn định và tăng trưởng nền kinh tế, mức độ bảo đảm tình trạng có việc làm cao, sự ổn định về mãi lực đồng đô la Mỹ và sự cân bằng hợp lý trong giao dịch với những nước khác, là những mục tiêu đầu tiên trong đường lối kinh tế của Nhà nước. Hệ thống Dự trữ Liên bang bao gồm Hội đồng các Thống đốc (Board of Governors), 12 ngân hàng dự trữ khu vực (District Reserve Bank) và các văn phòng chi nhánh, Uỷ ban thị trường Công khai Liên bang (Federal Open Market Committee, FOMC). Nòng cốt của hệ thống là Hội đồng 7 Thành viên Thống đốc ở Washington. Các thành viên này được Tổng thống chỉ định và được Thượng viện tán thành với nhiệm kỳ 14 năm. Tổng thống cũng chỉ định Chủ tịch và Phó Chủ tịch của Hội đồng này trong số các thành viên của Hội đồng với nhiệm kỳ 4 năm, sau đó có thể thay mới. Từ tháng 6 năm 2001, các thành viên của Hội đồng gồm: Alan Greespan, Chủ tịch; Roger W.Ferguson Jr, Phó Chủ tịch; Edward W. Kelly Jr, Laurence H. Meyer và Edward M. Gramlich; còn hai chỗ trống. Hội đồng này làm việc dựa trên nguyên tắc tập thể đưa ra chủ trương chính sách. Ngoài những trách nhiệm này, Hội đồng còn giám sát ngân sách và hoạt động của các ngân hàng dự trữ, thông qua chỉ định những Thống đốc các ngân hàng đó và chỉ định 3 người trong Ban Giám đốc của mỗi ngân hàng khu vực, cả Chủ tịch và Phó Chủ tịch của mỗi ngân hàng dự trữ. 12 ngân hàng dự trữ này và các văn phòng chi nhánh hoạt động như những bộ phận phân quyền của Hệ thống, thực hiện những công việc hàng ngày như lưu thông tiền tệ và cung cấp các chức năng của cơ quan tài chính và những dịch vụ thuộc cơ chế chi trả. Các ngân hàng khu vực đóng tại Boston, New York, Philadelphia, Cleveland, Richmond, Atlanta, Chicago, ST. Louis, Minneapolis, Kansas City, Dallas và San Francisco. Chức năng chính của Hệ thống là chủ trương chính sách tiền tệ được kiểm soát bằng 3 công cụ: nhu cầu dự trữ, tỷ lệ chiết khấu và hoạt động của thị trường công khai. Những nhu cầu dự trữ thống nhất do hội đồng đưa ra được áp dụng cho các tài khoản giao dịch và tiền gửi có kỳ hạn của pháp nhân tại các tổ chức nhận tiền gửi. Trách nhiệm đưa ra tỷ lệ chiết khấu (lãi suất mà các tổ chức tiền gửi có thể vay tiền tại các ngân hàng dự trữ) được Hội đồng Thống đốc và các ngân hàng dự trữ cùng chia sẻ. Những thay đổi về tỷ lệ chiết khấu do từng ban giám đốc của các ngân hàng dự trữ đưa ra và phải được Hội đồng Thống đốc thông qua. Công cụ quan trọng nhất của chính sách tiện tệ là những hoạt động thị trường công khai (mua và bán các trái khoán nhà nước). Trách nhiệm ảnh hưởng tới phí tổn tiền tệ và tính khả cung tiền tệ và tín dụng thông qua việc mua và bán các trái khoán nhà nước là của Uỷ ban Thị trường Công khai Liên bang (FOMC) - gồm 7 thành viên của Hội đồng Thống đốc, Chủ tịch ngân hàng dự trữ liên bang New York và 4 Chủ tịch của các ngân hàng dự trữ liên bang khác, mỗi người phục vụ nhiệm kỳ một năm. Uỷ ban này căn cứ vào những quyết định về sự phát triển, triển vọng kinh tế và tài chính mà xác định những mục tiêu tăng trưởng hàng năm với các biện pháp chủ yếu là cung cấp tiền tệ và tín dụng. Những quyết định của Uỷ ban này do Phòng Nội thương (Domestic Trace Deck) của ngân hàng dự trữ liên bang New York tiến hành. Đạo luật Dự trữ Liên bang (Federal Reserve Act) quy định một Hội đồng Cố vấn Liên bang (Federal Adviory Council), gồm mỗi khu vực dự trữ liên bang một thành viên do ban giám đốc của một trong 12 ngân hàng dữ trữ khu vực bầu ra hàng năm, và họp với Ban lãnh đạo Dự trữ Khu vực bầu ra hàng năm. Hội đồng này họp với Ban lãnh đạo Dự trữ Liên bang (Federal Reserve Board) mỗi năm 4 lần để bàn về những bối cảnh công việc, tài chính đồng thời đưa ra những đề xuất cố vấn. Hội đồng Cố vấn Tiêu dùng (The Consumer Adviory Council) là một tập thể pháp định gồm những đại biểu của khách hàng tiêu dùng và của bên cho vay, sẽ tư vấn cho Hội đồng Thống đốc về việc thực hiện những quy định đối với người tiêu dùng và những vấn đề khác có liên quan đến người tiêu dùng. Sau khi Quốc hội thông qua Đạo luật Kiểm soát tiền tệ (Monetary Control Atc) năm 1980 thì Hội đồng Thống đốc của Hệ thống Dự trữ Liên bang thành lập Hội đồng Cố vấn các Quỹ Tiết kiệm (Thrift Institution Advisory Council) để cung cấp thông tin và những triển vọng về nhu cầu đặc biệt và các vấn đề của các Quỹ Tiết kiệm. Nhóm này gồm những đại biểu của các ngân hàng tiết kiệm tương hỗ, các hiệp hội tiết kiệm và cho vay, các quỹ tín dụng. Đức Ngân hàng trung ương là Bundesbank, đây là ngân hàng độc lập nhất với chính phủ. Quyền hạn và nghĩa vụ của Bundesbank được quy định trong hiến pháp liên bang, ưu tiên việc đảm bảo tiền tệ bằng cách chống lạm phát và trợ giúp chính sách của Chính phủ. Bundesbank có một Chủ tịch do Hội đồng ngân hàng bổ nhiệm theo ý kiến của Chính phủ. Hội đồng ngân hàng gồm 21 thành viên là đại diện từ các ngân hàng vùng, Chính phủ và các quản trị viên ngân hàng. Hội đồng họp thường xuyên 2 tuần một lần. Trung Quốc Ngân hàng trung ương có nhiều nhiệm vụ to lớn, trong đó đặc biệt quan trọng là việc quản lý dự trữ ngoại hối. Tính đến cuối quý 1 năm 2007, dự trữ ngoại hối của Trung Quốc đã lên tới hơn 1.200 tỉ USD, đưa Trung Quốc trở thành quốc gia có lượng dự trữ ngoại hối lớn nhất thế giới. Số ngoại hối dự trữ của Trung Quốc chủ yếu được đầu tư vào trái phiếu chính phủ nước ngoài, tập trung vào các trái phiếu có mức độ tín nhiệm cao. II. Vai trò của NHNN với sự phát triển kinh tế Việt Nam Những hiểu biết chung về NHNH Việt Nam Lịch sử và quá trình phát triển Lịch sử phát triển của hệ thống ngân hàng Việt Nam gắn liền với lịch sử phát triển của từng thời kỳ cách mạng và công cuộc xây dựng Đất nước. Trước cách mạng tháng 8 năm 1945, Việt Nam là nước thuộc địa nửa phong kiến dưới sự thống trị của thực dân Pháp. Hệ thống tiền tệ, tín dụng  ngân hàng được thiết lập và bảo hộ bởi thực dân Pháp thông qua Ngân hàng Đông Dương. Ngân hàng Đông Dương vừa đóng vai trò là ngân hàng Trung ương trên toàn cõi Đông Dương (Việt Nam, Lào, Campuchia), vừa là ngân hàng thương mại. Ngân hàng này là công cụ phục vụ đắc lực chính sách thuộc địa của chính phủ Pháp và làm giàu cho tư bản Pháp. Vì thế, một trong những nhiệm vụ trọng tâm của cuộc Cách mạng Tháng 8 lúc bấy giờ là phải từng bước xây dựng nền tiền tệ và hệ thống ngân hàng độc lập tự chủ. Nhiệm vụ đó đã trở thành hiện thực khi bước sang năm 1950, công cuộc kháng chiến chống Pháp ngày một tiến triển mạnh mẽ với những chiến thắng vang dội trên khắp các chiến trường và mở rộng vùng giải phóng. Sự chuyển biến của cục diện cách mạng cũng đòi hỏi công tác kinh tế, tài chính phải được củng cố và phát triển theo yêu cầu mới. Trên cơ sở chủ trương chính sách mới về tài chính - kinh tế mà Đại hội Đảng lần thứ II (tháng 2/1951) đã đề ra, ngày 6 tháng 5 năm 1951, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký  sắc lệnh số 15/SL thành lập Ngân hàng Quốc Gia Việt Nam - Ngân hàng của Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á để thực hiện 5 nhiệm vụ cấp bách: Phát hành giấy bạc, quản lý Kho bạc, thực hiện chính sách tín dụng để phát triển sản xuất, phối hợp với mậu dịch để quản lý tiền tệ và đấu tranh tiền tệ với địch. Ngân hàng Quốc gia Việt Nam ra đời là kết quả nối tiếp của quá trình đấu tranh xây dựng hệ thống tiền tệ, tín dụng độc lập, tự chủ, đánh dấu bước phát triển mới, thay đổi về chất trong lĩnh vực tiền tệ, tín dụng ở nước ta. Tại Thông tư số 20/VP - TH ngày 21/1/1960 của Tổng giám đốc Ngân hàng Quốc gia ký thừa uỷ quyền Thủ Tướng chính phủ, Ngân hàng Quốc Gia Việt Nam được đổi tên thành Ngân hàng Nhà nước Việt Nam để phù hợp với hiến pháp 1946 của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Những năm sau khi Miền Nam giải phóng 1975, việc tiếp quản Ngân hàng Quốc gia Việt Nam cộng hoà và các Ngân hàng tư bản tư nhân dưới chế độ Nguỵ quyền Sài Gòn đã mở đầu cho quá trình nhất thể hoá hoạt động ngân hàng toàn quốc theo cơ chế hoạt động ngân hàng của nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung. Tháng 7 năm 1976, đất nước được thống nhất về phương diện Nhà nước, nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam ra đời. Theo đó, Ngân hàng Quốc gia ở miền Nam được hợp nhất vào NHNN Việt Nam, tạo thành hệ thống Ngân hàng Nhà nước duy nhất của cả nước. Hệ thống tổ chức thống nhất của NHNN bao gồm: Ngân hàng Trung ương đặt trụ sở chính tại thủ đô Hà Nội, các Chi nhánh Ngân hàng tại các tỉnh, thành phố và các chi điếm ngân hàng cơ sở tại các huyện, quận trên phạm vi cả nước. Căn cứ vào những biến đổi quan trọng về tình hình và nhiệm vụ cách mạng cũng như về chức năng, nhiệm vụ và tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, quá trình phát triển của hệ thống Ngân hàng Việt Nam có thể được chia làm 4 thời kỳ như sau: Thời kỳ 1951 - 1954: Trong thời kỳ này, Ngân hàng quốc gia Việt Nam được thành lập và hoạt động độc lập tương đối trong hệ thống tài chính, thực hiện trọng trách đầu tiên theo chủ trương của Đảng và nhà nước là: Phát hành giấy bạc ngân hàng, thu hồi giấy bạc tài chính; Thực hiện quản lý Kho bạc Nhà nước góp phần tăng thu, tiết kiệm chi, thống nhất quản lý thu chi ngân sách;Phát triển tín dụng ngân hàng phục vụ sản xuất, lưu thông hàng hoá, tăng cường lực lượng kinh tế quốc doanh và đấu tranh tiền tệ với địch. Thời kỳ  1955 - 1975: Đây là thời kỳ cả nước kháng chiến chống Mỹ, miền Bắc xây dựng và chiến đấu, vừa ra sức chi viện cho cách mạng giải phóng miền Nam; mọi hoạt động kinh tế xã hội phải chuyển hướng theo yêu cầu mới. Trong thời kỳ này, Ngân hàng Quốc gia đã thực hiện những nhiệm vụ cơ bản sau; + Củng cố thị trường tiền tệ, giữ cho tiền tệ ổn định, góp phần bình ổn vật giá, tạo điều kiện thuận lợi cho công cuộc khôi phục kinh tế. + Phát triển công tác tín dụng nhằm phát triển sản xuất lương thực, đẩy mạnh khôi phục và phát triển nông, công, thương nghiệp, góp phần thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa Miền Bắc và giải phóng Miền Nam. Thời kỳ 1975 - 1985: Là giai đoạn 10 năm khôi phục kinh tế sau chiến tranh giải phóng và thống nhất nước nhà, là thời kỳ xây dựng hệ thống ngân hàng mới của chính quyền cách mạng; tiến hành thiết lập hệ thống ngân hàng thống nhất trong cả nước và thanh lý hệ thống ngân hàng của chế độ cũ ở miền Nam. Theo đó, Ngân hàng Quốc gia Việt Nam của chính quyền Việt Nam cộng hoà (ở miền Nam)  đã được quốc hữu hoá và sáp nhập vào hệ thống Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, cùng thực hiện nhiệm vụ thống nhất  tiền tệ trong cả nước, phát hành các loại tiền mới của nước CHXHCN Việt Nam, thu hồi các loại tiền cũ ở cả hai miền Nam - Bắc vào năm 1978. Đến cuối những năm 80, hệ thống Ngân hàng Nhà nước về cơ bản vẫn hoạt động như là một công cụ ngân sách, chưa thực hiện các hoạt động kinh doanh tiền tệ theo nguyên tắc thị trường. Sự thay đổi về chất trong hoạt động của hệ thống ngân hàng - chuyển dần sang hoạt động theo cơ chế thị trường chỉ được bắt đầu khởi xướng từ cuối những năm 80, và kéo dài cho tới ngày nay. Thời kỳ 1986  đến nay: Từ năm 1986 đến nay đã diễn ra nhiều sự kiện quan trọng, đánh dấu sự chuyển biến căn bản của hệ thống Ngân hàng Việt Nam thể hiện qua một số "cột môc" có tính đột phá sau đây: + Từ năm 1986 đến năm 1990: Thực hiện tách dần chức năng quản lý Nhà nước ra khỏi chức năng kinh doanh tiền tệ, tín dụng, chuyển hoạt động ngân hàng sang hạch toán, kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Cơ chế mới về hoạt động ngân hàng đã được hình thành và hoàn thiện dần - Tháng 5/1990, hai pháp lệnh Ngân hàng ra đời (Pháp lệnh Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Pháp lệnh Ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính ) đã chính thức chuyển cơ chế hoạt động của hệ thống Ngân hàng Việt Nam từ 1 cấp sang 2 cấp - Trong đó lần đầu tiên đối tượng nhiệm vụ và mục tiêu hoạt động của mỗi cấp được luật pháp phân biệt rạch ròi: + Ngân hàng Nhà nước thực thi nhiệm vụ Quản lý nhà nước về hoạt động kinh doanh tiền tệ, tín dụng, thanh toán, ngoại hối và ngân hàng; Thực thi nhiệm vụ của một Ngân hàng Trung ương - là ngân hàng duy nhất được phát hành tiền; Là ngân hàng của các ngân hàng và là Ngân hàng của Nhà nước; NHTW là cơ quan tổ chức việc điều hành chính sách tiền tệ, lấy nhiệm vụ giữ ổn định giá trị đồng tiền làm mục tiêu chủ yếu và chi phối căn bản các chính sách điều hành cụ thể đối với hệ thống các ngân hàng cấp 2. + Cấp Ngân hàng kinh doanh thuộc lĩnh vực lưu thông tiền tệ, tín dụng, thanh toán, ngoại hối và dịch vụ ngân hàng trong toàn nền kinh tế quốc dân do các Định chế tài chính Ngân hàng và phi ngân hàng thực hiện. Cùng với quá trình đổi mới cơ chế vận hành trong hệ thống ngân hàng là quá trình ra đời hàng loạt các ngân hàng chuyên doanh cấp 2 với các loại hình sở hữu khác nhau gồm Ngân hàng thương mại quốc doanh, cổ phần, Ngân hàng liên doanh, chi nhánh hoặc văn phòng đại diện của ngân hàng nước ngoài, Hợp tác xã tín dụng, QTDND, công ty tài chính...Trong thời gian này,  4 ngân hàng thương mại quốc doanh lớn đã được  thành lập  gồm: 1) Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam; 2) Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam; 3) Ngân hàng Công thương Việt Nam; 4) Ngân hàng ngoại thương Việt Nam. + Từ năm 1991 đến nay: Thực hiện chủ trương đường lối chính sách của Đảng trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá hệ thống ngân hàng Việt Nam không ngừng đổi mới và  lớn mạnh, đảm bảo thực hiện được trọng trách của mình trong sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế đất nước trong thiên niên kỷ mới. Những dấu ấn dưới đây liên quan trực tiếp và thúc đẩy quá trình đổi mới mạnh mẽ hoạt động Ngân hàng: Năm 1993: Bình thường hoá các mối quan hệ với các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế (IMF, WB, ADB) Năm 1995: Quốc hội thông qua nghị quyết bỏ thuế doanh thu đối với hoạt động ngân hàng; thành lập ngân hàng phục vụ người nghèo. Năm 1997: Quốc hội khoá X thông qua Luật ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Luật các tổ chức tín dụng (ngày 2/12/1997) và có hiệu lực thi hành từ 1/10/1998; Thành lập Ngân hàng phát triển Nhà Đồng bằng Sông cửu long (Quyết định số 769/TTg, ngày 18/9/1997). Năm 1999: Thành lập Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (ngày 9/11/1999). Năm 2000: Cơ cấu lại tài chính và hoạt động của các NHTMNN và cơ cấu lại tài chính và hoạt động của các NHTMCP. Năm 2002: Tự do hoá lãi suất cho vay VND của các tổ chức tín dụng - Bước cuối cùng tự do hoá hoàn toàn lãi suất thị trường tín dụng ở cả đầu vào và đầu ra. Năm 2003: Tiến hành cơ cấu lại theo chiều sâu hoạt động phù hợp với chuẩn quốc tế đối với các Ngân hàng thương mại; Thành lập NHCSXH trên cơ sở Ngân hàng phục vụ người nghèo để tiến tới tách bạch  tín dụng chính sách với tín dụng thương mại theo cơ chế thị trường; Tiến hành sửa bước 1 Luật NHNNVN. 1.2. Tổ chức bộ máy Ngân hàng nhà nước - Mô hình ngân hàng duy nhất, có hệ thống tổ chức theo dịa giới hành chính, hoạt động theo nguyên tắc tập trung, bao cấp thống nhất trong cả nước. - Ngân hàng Nhà nước hoạt động dưới sự điều hành của thống đốc ngân hàng nhà nước. Thống đốc ngân hàng nhà nước là thành viên của chính phủ, chịu trách nhiệm trước Thủ tướng chính phủ, trước Quốc hội về lĩnh vực mà mình phụ trách. Sơ đồ bộ máy tổ chức NHNN Việt Nam Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của NHNN Việt Nam Chức năng - Chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ và hoạt động ngân hàng, là ngân hàng phát hành tiền, ngân hàng của tổ chức tín dụng, ngân hàng làm dịch vụ tiền tệ cho chính phủ. - Ổn định giá trị đồng tiền góp phần đảm bảo an toàn hoạt động hệ thống ngân hàng, thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội. Nhiệm vụ và quyền hạn - Phát hành giấy bạc và điều hòa lưu thông tiền tệ trong phạm vi cả nước, xây dựng chiến lược phát triển hệ thống ngân hàng và tổ chức tín dụng Việt Nam. - Huy động vốn tạm thời nhàn rỗi trong kinh tế, tham gia xây dựng chiến lược và kế hoạch phát triển kinh tế xã hội, điều hòa và mở rộng tín dụng nhằm phát triển sản xuất kinh doanh. - Quản lý ngân quỹ quốc gia, quản lý vay và trả nợ nước ngoài của các doanh nghiệp theo quy định của chính phủ. - Chủ trì thành lập và theo dõi các kết quả thực hiện cán cân thanh toán quốc tế. - Xây dựng các dự án luật, pháp lệnh và các dự án khác về tiền tệ hoạt động ngân hàng; ban hành các văn bản pháp luật về tiền tệ và hoạt động ngân hàng. - Cấp và thu hồi giấy phép thành lập các hoạt động của các tổ chức tín dụng; cấp và thu hồi giấy phép hoạt động ngân hàng của các tổ chức khác; quyết định giải quyết, chấp thuận chia tách, hợp nhất, sáp nhập các tổ chức tín dụng. - Kiểm tra, thanh tra hoạt động ngân hàng; kiểm soát tín dụng, xử lý các vi phạm pháp luật trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng. - Quản lý hoạt động ngoại hối và quản lý hoạt động kin doanh vàng. - Kí kết tham gia điều ước quốc tế về tiền tệ hoạt dộng ngân hàng. - Đai diện cho Cộng hào xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại các tổ chức tiền tệ và ngân hàng quốc tế trong trường hợp được chủ tịch nước hay chính phủ ủy quyền. - Tổ chức đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ ngân hàng; nghien cứu úng dụng khoa học công nghệ ngân hàng. - Thực hiện tái cấp vốn nhằm cung ứng tín dụng ngắn hạn và phương tiện thanh toán cho nền kinh tế. - Tổ chức hệ thống thanh toán qua ngân hàng cho các ngân hàng, kho bạc nhà nước… Hoạt động chủ yếu của ngân hàng nhà nước Việt Nam 1.4.1. Thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia Ngân hàng nhà nước Việt Nam là cơ quan của chính phủ, có trách nhiệm: - Chủ trì xây dựng dự án chính sách tiền tệ quốc gia, kế hoạch cung ứng lượng tiền bổ sung cho lưu thông hàng năm trình chính phủ, để chính phủ trình quốc hội. - Điều hành các công cụ chính sách tiền tệ, thực hiện việc đưa ra lưu thông, rút tiền từ lưu thông về theo tín hiệu của thị trường trong phạm vi lượng tiền cung ứng đã được chính phủ phê duyệt. 1.4.2. Phát hành tiền giấy và tiền kim loại. - Ngân hàng nhà nước là cơ quan duy nhất phát hành tiền của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bao gồm tiền giấy và tiền kim loại. - Ngân hàng nhà nước quản lý tiền dự trữ phát hành theo quy định của chính phủ; đảm bảo cung ứng đủ số lượng và cơ cấu tiền giấy, tiền kim loại cho nền kinh tế. - Trong quá trình thực hiện nghiệp vụ phát hành tiền, ngân hàng nhà nước quy định tiêu chuẩn phân loại tiền rách nát, hư hỏng; đổi và thu hồi các loại tiền rách nát hư hỏng do quá trình lưu thông tạo nên; thu hồi và rút khỏi lưu thông các loại tiền không còn thích hợp và phát hành các loại tiền khác thay thế; tổ chức tiêu hủy tiền không đủ tiêu chuẩn lưu hành. 1.4.3. Hoạt động tín dụng - Ngân hàng nhà nước cho các tổ chức tín dụng là ngân hàng vay ngắn hạn dưới hình thức tái cấp vốn. Khi được chính phủ chấp thuận, ngân hàng nhà nước cho vay đối với các tổ chức tín dụng tạm thời, mất khả năng chi trả, có nguy cơ gây mất an toàn cho hệ thông ngân hàng. - Ngân hàng nhà nước tạm ứng cho ngân sách trung ương để xử lí thiếu hụt tạm thời quỹ ngân sách nhà nước teo quy định của thủ tướng chính phủ 1.4.4. Hoạt động thanh toán - Ngân hàng nhà nước mở tài khoản và thực hiện các giao dịch cho kho bạc nhà nước, các tổ chức tín dụng trong nước và các ngân hàng nước ngoài, các tổ chức tài chính quốc tế, đồng thời, ngân hàng nhà nước làm đại lí cho kho bạc nhà nước trong việc tổ chức đấu thầu, phát hành và thanh toán tín phiếu trái phiếu kho bạc nhà nước 1.4.5. Quản lí ngoại hối và hoạt động ngoại hối - Xây dựng các dự án luật; pháp lệnh và các dự án khác về quản lí ngoại hối, ban hành các văn bản pháp quy về quản lí ngoại hối - Cấp và thu hồi giấy phép hoạt động ngoại hối cho các tổ chức tín dụng - Tổ chức, điều hành thị trường ngoại tệ liên ngân hàng và thị trường ngoại hối trong nước - Kiểm tra , thanh tra việc thực hiện các quy định của pháp luật về quản lí ngoại hối, kiếm soát việc xuất nhập khẩu ngoại hối… 1.4.6. Thanh tra, tổng kiểm soát của ngân hàng nhà nước - Ngân hàng nhà nước tiến hành thanh tra tổ chức và hoạt động của các tổ chức tín dụng và hoạt động ngân hàng của các tổ chức khác, nhằm góp phần bảo đảm an toàn hệ thống ngân hàng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, phục vụ thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia - Tổng kiểm soát ngân hàng nhà nước là đơn vị thuộc bộ máy ngân hàng nhà nước , có nhiệm vụ kiểm soát hoạt động của các đơn vị thuộc hệ thống ngân hàng nhà nước; kiểm soát nội bộ đối với các đơn vị thực hiện nghiệp vụ của ngân hàng trung ương. 1.4.7. Hoạt động thông tin - Ngân hàng nhà nước tổ chức thu nhận, phân tích và dự báo thông tin trong và ngoài nước về kinh tế, tài chính, tiền tệ và hoạt động ngân hàng nhằm phục vụ việc xây dựng và điều hành chính sách tiền tệ quốc gia - Ngân hàng nhà nước trao đổi và làm dịch vụ thông tin về tiền tệ và hoạt động ngân hàng cho các tổ chức tín dụng, các tố chức khác và cá nhân. 2.Vai trò của NHNN Việt Nam với sự phát triển kinh tế 2.1. Kiểm soát lạm phát, ổn định giá trị đồng bản tệ Trong điều kiện lưu thông tiền vàng thì giá trị đồng tiền luôn luôn được ổn định do cơ chế tự phát của tiền vàng Trong điều kiện lưu thông tiền giấy, lạm phát luôn là khả năng tiềm tang, thậm chí khó tránh khỏi ở các nước. lúc này cới chức năng của mình, NH luôn coi việc kiểm soát lạm phát, ổn định giá trị đồng tiền là mục tiêu hàng đầu của chính sách tiền tệ. ổn định giá cả là điều ai cũng mong muốn. Bởi giá cả tăng lên gây tình trạng khó khăn trong cuộc sống của một bộ phận người lao động, mất ổn định nền kinh tế xã hội. tình trạng đó gây khó khăn trong việc hoạch định các chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội, gây ra sự xung đột quyền lợi giữa một số nhóm dân cư. Do vậy, kiểm soát lạm phát nhằm ổn định giá cả hàng hóa và dịch vụ là tiền đề cho phát triển kinh tế lâu bền, bảo đảm ổn định đời sống cho người lao động. Thông qua chính sách tiền tệ, NHNN có thể góp phần quan trọng trong việc kiểm soát lạm phát. Nếu NHNN thực hiện chính sách tiền tệ mở rộng thì giá cả hàng hóa và dịch vụ sẽ tăng lên, dẫn đến tình trạng lạm phát. Nếu NHNN thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt sẽ làm cho giá cả hàng hóa và dịch vụ giảm xuống. kiểm soát lạm phát dược biểu hiện trước hết ở chỗ ổn định giá trị đối nội của đồng tiền. Mặt khác nó còn được biểu hiện ở sự ổn định giá trị đối ngoại của đồng tiền, được đo bằng tỷ giá hối đoái thả nổi. Trong nền kinh tế mở, cùng với sự phát triển của thương mại quốc tế, tỷ giá đồng tiền trở thành mối quan tâm hàng đầu của các quốc gia. Bởi lẽ, một sự tăng lên trong giá trị đồng bản tệ so với ngoại tệ sẽ hạn chế cạnh tranh trên thị trường quốc tế, hạn chế xuất khẩu. Ngược lại giá trị đồng bản tệ giảm xuống so với ngoại tệ sẽ khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu. Đó cũng là lý do khiến cho hiện nay Mỹ đang buộc Trung quốc đánh giá lại giá trị đồng Nhân Dân tệ. Do đánh giá quá thấp giá trị đồng tiền của mình lên hàng hóa Trung Quốc trở lên rẻ hơn so với hàng hóa của Mỹ khiến cho trên thị trường Mỹ tràn ngập hàng hóa của Trung Quốc…Trên thế giới hiện nay đã và đang tồn tại một tam giác kinh tế gồm Mỹ, liên minh châu Âu, và Nhật đang cạnh tranh với nhau ngày một gay gắt, không phải bằng vũ trang mà chính bằng ba đồng tiền USD, EURO, YÊN. Hiện nay các nước ở Đông Á đang dự định thành lập một đồng tiền chung gồm Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, và các nước Đông Nam Á. Để kiềm chế lạm phát, NHNN việt Nam tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt thận trọng, bảo đảm tốc độ tăng trưởng tín dụng khoảng 25%, đồng thời chỉ đạo hướng dẫn các NHTM thực hiện cho vay theo cơ chế thỏa thuận đối với dự án sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Mặt khác, để tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp tổ chức cá nhân, nhất là khu vực nông nghiệp nông thôn, doanh nghiệp xuất khẩu, doanh nghiệp nhỏ và vừa vay được vốn để phát triển sản xuất kinh doanh, NHNN chỉ đạo các tổ chức tín dụng nhất là các NHTM nhà nước giảm lãi suất cho vay đến mức chấp nhận được Tuy nhiên theo đuổi mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền cũng không đồng nghĩa với tỷ lệ lạm phát bằng không. Bởi lẽ trong thực tế để có được tỷ lệ lạm phát giảm xuống thì phải đánh đổi bằng sự gia tăng nào đó của tỷ lệ thất nghiệp. Kinh nghiệm của nhiều nước phát triển cho thấy, tỷ lệ lạm phát vừa đủ là cần thiết cho phát triển kinh tế xã hội. 2.2. Tạo việc làm Bất cứ một quốc gia nào tên thế giới cũng phải quan tâm đến tỷ lệ thất nghiệp, bởi lẽ: Thất nghiệp cao trước hết làm cho bản thân gia đình người thất nghiệp gặp khó khăn về tài chính, làm mất đi lòng tự trọng cá nhân và là một trong những nguyên làm tăng thêm các tệ nạn xã hội như trộm cắp, ma túy, mại dâm… Thất nghiệp tăng không chỉ làm lãng phí nguồn lao động mà còn làm tăng thêm nguồn tài nguyên để không như: nhà xưởng, thiết bị … làm cho tổng sản phẩm quốc dân ( GDP ) giảm xuống. Vì vậy giảm tỷ lệ thất nghiệp là mối quan tâm không nhỏ của các quốc gia. Nếu NHNN theo đuổi chính sách tiền tệ mở rộng sẽ tạo điều kiện mở rộng đầu tư sản xuất, khi đó doanh nghiệp và nền kinh tế cần nhiều lao động hơn, công ăn việc làm tăng lên làm cho tỷ lẹ thất nghiệp giảm xuống. Ngược lại, nếu NHNN theo đuổi chính sách tiền tệ thắt chặt sẽ làm cho tỷ lệ thất nghiệp tăng lên. Tuy nhiên theo đuổi mục tiêu công ăn việc làm cao không có nghĩa là tỷ lệ thất nghiệp bằng không. Bởi lẽ, một tỷ lệ thất nghiệp nhất định sẽ là có lợi cho nền kinh tế. Đó là khi người lao động quyết định tìm một công việc khác tốt hơn, phù hợp hơn thì họ là những người thất nghiệp tạm thời trong thời gian đang tìm việc, hoặc những sinh viên mới tốt nghiệp ra trường vẫn đang trong giai đoạn xin việc… mặt khác để có một công ăn việc làm cao thì phải chấp nhận tỷ lệ lạm phát gia tăng nào đó. Hai mục tiêu này luôn triệt tiêu nhau trong quá trình thực thi chính sách tiền tệ. 2.3. Điều chỉnh tăng trưởng kinh tế - Mục tiêu tăng trưởng kinh tế luôn ngắn chặt với mục tiêu việc làm cao. Chính sách tiền tệ có thể tác động đồng thời đến hai mục tiêu này. Khi cung ứng tiền tệ tăng lên, trong ngắn hạn lãi suất giảm sẽ khuyến khích đầu tư, mở rộng sản xuất kinh doanh, nhà nước và doanh nghiệp có nhu cầu sử dụng lao động nhiều hơn, làm tăng sản lượng và tăng trưởng kinh tế. Ngược lại, khi cung tiền tệ giảm trong ngắn hạn lãi suất tăng sẽ hạn chế đầu tư thu hẹp hoạt động sản xuất kinh doanh, nhà nước và doanh nghiệp cần ít lao động hơn, làm cho mức sản lượng giảm, tăng trưởng kinh tế chậm lại - Theo tính toán của Tổng cục Thống kê, quý I/2010 tuy tăng trưởng cao, nhưng mới chỉ đạt 5,83%, muốn đạt chỉ tiêu cả năm tăng 6,5% thì quý II phải phấn đấu tăng 6%, quý III tăng 6,5% và quý IV phải đạt mức tăng 7,3%. Như vậy, tăng trưởng dư nợ tín dụng của các quý còn lại trong năm 2010 cũng phải có mức tăng tỉ lệ thuận với mức tăng trưởng kinh tế. Để đạt mức tăng GDP 6,5% thì mức tăng trưởng dư nợ của VN năm 2010 sẽ khoảng trên/dưới 30%. Với chủ trương hạ mặt bằng LS như hiện nay, cùng thông tin là NHNN sẽ tiếp tục giảm tiếp một số LS công bố của mình thì có thể thấy có vẻ như hiện nay CSTT đang tạm thời nới lỏng để làm tăng tính thanh khoản cho nền kinh tế và hỗ trợ các TCTD giảm LS cho vay. Như vậy, có thể thấy CSTT đang nghiêng một chút về hỗ trợ tăng trưởng (để tiếp tục tạo đà vì mức tăng GDP quý I cũng đang bị coi là thấp). Tuy nhiên, sự nới lỏng sẽ không kéo dài quá lâu. Mức tăng tín dụng trong nửa đầu tháng 4 đã khả quan hơn quý I. Mặt bằng LS cho vay VND giảm xuống sẽ khuyến khích người vay tiền tăng nhu cầu vay. 3. Những hạn chế của NHNN Việt Nam - Hệ thống pháp luật chưa đầy đủ rõ ràng. - Chịu ảnh hưởng nhiều từ Chính phủ và Bộ tài chính khiến cho NNHN yếu kém về tổ chức chuyên môn và tầm ảnh hưởng. - Khả năng thu hút vốn, điều động vốn còn kém. - Nghiệp vụ ngân hàng còn hạn chế. Kiến nghị: Cuộc khủng hoảng mới nhất vẫn còn để lại những di chứng lặng nề, câu hỏi được đặt ra là phải chăng vai trò và chức năng của NHTW cần phải được thay đổi để phù hợp hơn với thị trường tài chính đang ngày càng đổi mới? sau đây là một số khuyến nghị cho các NHTW Đánh giá rủi ro của toàn bộ hệ thống Trước hết, NHTW cần phải đánh giá rủi ro trên toàn bộ hệ thống của một quốc gia có cân nhắc đến mối quan hệ giữa nền kinh tế sản xuất và thị trường tài chính và giữa các định chế tài chính với nhau. Việc đánh giá này sẽ làm cơ sở cho các hành động chính sách liên quan đến sự ổn định của hệ thống tài chính. Đương nhiên, đây chính là câu chuyện mà nhiều người cho rằng nói thì dễ nhưng làm thì khó. Trước khi xảy ra cuộc khủng hoảng, các NHTW đã đưa ra lời cảnh báo về tình trạng tích tụ rủi ro thông qua các báo cáo hệ thống tài chính. Tuy nhiên, việc công bố những lời cảnh báo không phải là việc làm khó khăn chút nào. Các nhà lãnh đạo ngân hàng và bản thân các đối tượng tham gia thị trường ở chừng mực nào đó đã nhận biết được những rủi ro đó. Nếu người ta nghiêm chỉnh hành động để cắt giảm các rủi ro đó, thì cần phải thực hiện những hành động chỉnh sửa. Nhưng để vượt qua khuôn khổ của công tác phân tích và thực hiện những hành động chỉnh sửa, thì cần phải thực hiện việc đánh giá một cách kỹ lưỡng, cần một ý chí chính trị mạnh mẽ cùng với một khuôn khổ pháp lý đủ mạnh để cho phép thực hiện những hành động có hiệu quả cao. Trong bất cứ trường hợp nào, nếu không thực hiện việc đánh giá toàn bộ một hệ thống, thì không thể thực hiện được các hành động. Rõ ràng NHTW có được vị thế đương nhiên để đóng vai trò thực hiện việc đánh giá đó. Với chức năng là cơ quan chịu trách nhiệm về chính sách tiền tệ, NHTW tập trung vào các điều kiện kinh tế vĩ mô, có mối quan hệ chặt chẽ với các đối tác thị trường tài chính và có nền văn hóa thể chế sẽ quan tâm thích đáng đến công tác nghiên cứu. 4.2. Đánh giá lại việc thực thi chính sách tiền tệ Thứ hai, cần phải đánh giá lại việc thực thi chính sách tiền tệ. Khi nhìn vào các đối tượng tham gia thị trường và toàn bộ ban lãnh đạo cấp cao của ngân hàng, thì động cơ của họ chịu sự tác động của điều kiện kinh tế vĩ mô và tài chính. Ví dụ điển hình nhất là công cuộc tìm kiếm lãi suất được người ta chứng kiến trong cái gọi là Thời kỳ Tiết chế vĩ đại. Vấn đề động cơ này chuyển biến thành mối thách thức đầy khó khăn cho chính sách tiền tệ khi mà tình trạng bong bóng tài sản có xuất hiện. Vấn đề này thường được tranh luận một cách đơn giản là phải chăng chính sách tiền tệ nên chống lại làn gió vừa xuất hiện hoặc tình trạng giá cả tài sản có leo thang. Tuy nhiên, người ta tin rằng cách đặt vấn đề như vậy gây ra tình trạng rối rắm trong các cuộc thảo luận về chính sách tiền tệ. Không có NHTW nào tin rằng tình trạng bong bóng có thể hoặc cần phải ngăn chặn chỉ thông qua chính sách tiền tệ mà thôi. Cách đặt vấn đề thực tế hơn đối với các NHTW là: “chính sách tiền tệ có thể hoặc cần được thực thi như thế nào trong một môi trường mà ở đó giá cả tài sản có đang tăng lên, hoạt động tín dụng đang tăng lên và tình trạng cho vay vượt quá mức cho phép đang diễn ra và nền kinh tế đang tăng trưởng, điều đó đánh đi một tín hiệu mạnh mẽ cần phải xiết chặt chính sách, trong khi chỉ có mặt bằng giá cả là ổn định?”. Trong một bầu không khí ảm đạm như vậy, việc nâng lãi suất cơ bản ở chừng mực nào đó có tác động ngắn hạn trong việc làm giảm bớt các hoạt động kinh tế giống như tình trạng bong bóng. Mặt khác, nếu NHTW duy trì chính sách tiền tệ rất nới lỏng, thì sẽ gây ra hậu quả cấp tín dụng tràn lan và cho vay quá mức cho phép. Khi người ta thảo luận về mối quan hệ giữa chính sách tiền tệ và tình trạng bong bóng, chẳng có ai tỏ ra quá lạc quan hoặc quá bi quan. Việc tích tụ các khoản nợ quá mức không thể hạn chế bằng một mình chính sách tiền tệ, mà cần phải phối hợp hàng loạt các biện pháp chính sách. Đồng thời, nếu chính sách tiền tệ không phù hợp, thì tình trạng bong bóng lại càng trở nên nghiêm trọng hơn, và cuối cùng sẽ nổ tung làm cho nền kinh tế suy giảm trầm trọng. 4.3. Chỉnh sửa lại các quy chế an toàn Thứ ba là các NHTW cần phải góp phần vào cuộc tranh luận đang diễn ra trong việc chỉnh sửa lại các quy chế an toàn. NHTW có thể hoặc không phải đóng vai trò là cơ quan quản lý điều tiết tùy thuộc vào quy định trong hệ thống pháp luật của từng nước. Tuy nhiên, cho dù quy định của hệ thống pháp luật như thế nào đi chăng nữa, thì các NHTW là những cơ quan chịu trách nhiệm về sự ổn định của hệ thống tài chính ngân hàng sẽ có thể và cần phải đóng vai trò xây dựng trong việc thiết kế các quy định an toàn. Cách hành xử của các định chế tài chính chịu tác động mạnh mẽ bởi cả môi trường kinh tế vĩ mô lẫn các quy định an toàn. Lấy một ví dụ cụ thể như các quy định an toàn về yêu cầu vốn pháp định và các thông lệ ngân hàng như nhu cầu trích lập dự phòng cần phải được đánh giá lại với mục đích giảm bớt xu hướng thiên về chu kỳ. Một khuôn khổ hướng dẫn các ngân hàng thiết lập quỹ dự phòng trong điều kiện kinh tế phát triển để các ngân hàng có thể sử dụng các quỹ dự phòng đó nhằm duy trì chức năng trung gian tài chính của mình trong tình hình kinh tế vĩ mô gặp khó khăn là điều vô cùng quan trọng. 4.4. Tăng cường việc cung cấp các dịch vụ ngân hàng Thứ tư là cần phải tăng cường việc cung cấp các dịch vụ của NHTW. Trong những năm gần đây, các NHTW đã thực hiện nhiều biện pháp để tăng cường tính ổn định và hiệu quả của hệ thống thanh toán, chẳng hạn như các biện pháp giảm thiểu rủi ro thanh toán phát sinh từ sự khác biệt trong múi giờ trong các giao dịch ngoại hối và đẩy mạnh việc kiểm soát hệ thống thanh toán. Trong quá trình khủng hoảng, trong lĩnh vực hoạt động của thị trường tiền tệ, các NHTW đã mở rộng quy mô thế chấp và mạng lưới các đối tác, và các NHTW lớn đã hợp tác với nhau để cung cấp thanh khoản đô la Mỹ. Các biện pháp này đã giúp đỡ cho việc phục hồi sự ổn định của các thị trường tài chính. Tuy nhiên, trong các thị trường tài chính thường xuyên biến động vẫn còn nhiều thách thức. Người ta thường nói rằng các thị trường tài chính đang dần dần trở nên thông suốt theo nghĩa bóng. Nhưng thực tế thị trường này còn lâu mới trở nên thông suốt, và chỉ cần nhìn vào bằng chứng được thể hiện trong các giao dịch tài chính và các giao dịch thanh toán không thôi là sẽ rõ. Trong ngày, những lệnh thanh toán từ trong ra và từ ngoài vào hoàn toàn không đồng bộ, và do đó lại xuất hiện yêu cầu tín dụng thêm một ngày nữa. Điều này là đặc trưng trong các giao dịch ngoại hối, cho dù các rủi ro đó đã giảm đi thông qua việc áp dụng nghiệp vụ thanh toán kết nối liên tục (CLS). Ngoài ra, tình trạng biến động thị trường có thể bất ngờ tăng nhu cầu tài trợ ngắn hạn, do các định chế tài chính yêu cầu bổ sung thế chấp trong khuôn khổ các thỏa thuận ký quỹ. Kết quả là trong quá trình thực hiện các giao dịch tài chính, tình trạng rò rỉ thanh khoản hoặc ứ đọng thanh khoản tạm thời là không thể tránh khỏi và do vậy nảy sinh tình trạng ách tắc. Trong thời kỳ khủng hoảng, tình trạng thiếu thanh khoản do sự ách tắc như vậy có thể làm cho tình hình trở nên trầm trọng. Các NHTW cần phải liên tục đánh giá để làm sao các dịch vụ ngân hàng có thể khắc phục được những khiếm khuyết đó. 4.5. Tăng cường văn hóa tổ chức và nguồn nhân sự Công tác tổ chức tại các NHTW không thể phát triển mạnh mẽ nếu như không có một nền văn hóa phong phú nhấn mạnh đến các mục tiêu căn bản và nếu như không có lực lượng nhân sự hùng mạnh để thể hiện nền văn hóa đó. Thứ nhất, cả các NHTW lẫn các định chế tài chính cần phải xây dựng một nền văn hóa nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc duy trì một viễn cảnh dài hạn. Nếu không, cả hai không thể đạt được mục tiêu một cách bền vững, đó là sự ổn định tài chính và kinh tế vĩ mô dài hạn cho các NHTW và khả năng sinh lời lâu dài cho khu vực tư nhân. Thứ hai, trong trường hợp của các NHTW, người ta phải chuẩn bị sẵn sàng để khắc phục những khiếm khuyết của các hợp đồng chưa hoàn chỉnh và các thị trường. Các giao dịch tài chính được hoàn tất bằng việc sử dụng một loạt các hợp đồng và người ta không thể soạn thảo một hợp đồng thể hiện mọi thực trạng trong tương lai. Theo thuật ngữ kinh tế học thì không bao giờ tồn tại “các hợp đồng hoàn chỉnh”. Ví dụ, một NHTW có thể đóng vai trò là một nhà môi giới trung thực hay là một chất xúc tác trong việc xây dựng một giải pháp theo hướng thị trường cho một vấn đề mới phát sinh. Để sẵn sàng khắc phục các khiếm khuyết đó, điều tối quan trọng là các NHTW rất nhạy bén với những thay đổi trên các thị trường tài chính và trong hệ thống tài chính. Tuy nhiên, vì các NHTW không phải là các tổ chức thiên về lợi nhuận, cho nên có nguy cơ là các NHTW không thể nhanh chóng nhận biết được những thay đổi đó. Mặt khác, từng định chế tài chính và các đối tượng khác tham gia thị trường lại không nhất thiết phải đồng hóa những tác động có thể xảy ra về hành vi của mình lên toàn bộ hệ thống tài chính. Không thể duy trì sự ổn định trong hệ thống tài chính nếu không có sự hợp tác giữa các NHTW và khu vực tư nhân. Các NHTW cần có những cán bộ có kỹ năng xuất sắc để thúc đẩy mối quan hệ xây dựng với các định chế tài chính và các đối tượng tham gia thị trường, nắm vững các thông lệ kinh doanh một cách chi tiết và mài sắc quan điểm vĩ mô của mình. Một trong những vai trò quan trọng của NHTW là phải phát triển nền văn hóa tổ chức đó. Các NHTW phải xây dựng cho mình một nền văn hóa thừa nhận tầm quan trọng của các nỗ lực hợp tác và kịp thời công bố cho dân chúng biết những vấn đề mới nảy sinh trong nền kinh tế của các thị trường tài chính có thể tác động tiêu cực đến sự ổn định của thị trường tài chính. KẾT LUẬN Trải qua hơn 50 năm xây dựng và trưởng thành, NHNN Việt Nam đã góp phần xứng đáng vào những thành tựu của cuộc cách mạng Việt Nam qua những chặng đường chói ngời chủ nghĩa anh hùng cách mạng và thắng lợi vẻ vang, góp phần củng cố nền độc lập, tự chủ, phục vụ sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất nước nhà. Để ghi nhận những cống hiến to lớn của toàn ngành Ngân hàng trong hai cuộc kháng chiến với những thắng lợi vĩ đại của dân tộc, Đảng và Nhà nước đã phong tặng và thưởng nhiều danh hiệu cao quý cho nhiều tập thể, cá nhân của ngành. Trong đó, nhân kỷ niệm 45 năm ngày thành lập, năm 1996 ngành NH đã vinh dự được Đảng, Nhà nước trao tặng Huân chương Hồ Chí Minh, 94 đồng chí được trao tặng các Huân chương công trạng bậc cao từ Huân chương Hồ Chí Minh đến các Huân chương độc lập hạng nhất, hạng nhì, hạng ba. Tại Đại Hội thi đua yêu nước ngành Ngân hàng lần thứ IV tháng 9/2000, Đảng Nhà nước và ngành Ngân hàng đã trao tặng danh hiệu anh hùng lao động và hàng ngàn Huân, Huy chương, Bằng khen các cấp cho các tập thể và cá nhân của ngành về những thành tích trong thời kỳ đổi mới.      Cho đến ngày hôm nay, hệ thống ngân hàng vẫn là nhân tố nòng cốt, tích cực  trong công cuộc đổi mới toàn diện nền kinh tế đất nước theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, vận hành bằng cơ chế kinh tế thị trường có sự  quản lý vĩ mô của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nền văn minh tiền tệ Việt Nam đã từng bước được khẳng định thông qua tính ổn định giá trị, tính đa dạng về phương tiện thanh toán thay tiền mặt và không ngừng hoàn thiện các công nghệ điều hành cũng như công nghệ kinh doanh hiện đại hướng về các nhu cầu tiện ích đa dạng của mọi tầng lớp nhân dân. Sự lớn mạnh và thay đổi nhanh chóng theo chiều hướng ngày càng hiện đại phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế cùng với sự tiếp nối truyền thống vẻ vang của ngành trong hơn nửa thế kỷ qua chắc chắn Ngân hàng Việt Nam cũng sẽ không phụ lòng tin của Đảng, của nhân dân và của bạn bè quốc tế. Với nhiệm vụ quan trọng là "một người chiến sỹ xung kích" trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trước những thách thức và thời cơ của xu thế hội nhập và toàn cầu hoá trong giai đoạn phát triển mới.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc25855.doc
Tài liệu liên quan