Đề tài Hoạt động tư vấn cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước tại Công ty chứng khoán Ngân hàng á Châu - Thực trạng và giải pháp

Mặc dù có nhiều cố gắng nhưng do kiến thức còn hạn chế, nguồn tài liệu tham khảo không nhiều, luận văn mới chỉ đề cập đến những vấn đề cơ bản cũng như mới chỉ đưa ra những ý kiến ban đầu, chắc chắn không thể tránh khỏi nhiều sai sót. Em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến và chỉ bảo của các thầy cô giáo cũng như các nhân viên phòng Tư vấn - ACBS để luận văn của em được hoàn thiện hơn.

doc75 trang | Chia sẻ: ndson | Lượt xem: 956 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hoạt động tư vấn cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước tại Công ty chứng khoán Ngân hàng á Châu - Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Căn cứ vào tài liệu thông tin do doanh nghiệp cung cấp và số lượng cổ phần bán đấu giá công khai cho các nhà đầu tư theo cơ cấu cổ phần đã được phê duyệt trong phương án CPH, ACBS sẽ xây dựng phương án đấu giá hiệu quả nhất, đảm bảo việc bán cổ phần được hoàn tất. Các công việc tiến hành: 1. Khảo sát, đánh giá nhu cầu của giới đầu tư, tổ chức thăm dò thị trường 2. Chuẩn bị nội dung Bản công bố thông tin 3. Xây dựng phương án bán đấu giá qua TTGDCK ( nếu thực hiện phương án này) 4. Xác định các mức chiết khấu và phí bảo lãnh cho Tổ chức bảo lãnh ( trong trường hợp có Bảo lãnh phát hành ) 5. ACBS thực hiện xây dựng Quy chế đấu giá Quy chế đấu giá bao gồm các nội dung sau: - Nguyên tắc thực hiện đấu giá - Giá khởi điểm làm cơ sở cho việc đấu giá được phê duyệt trong phương án cổ phần hóa do cơ quan quyết định CPH ra quyết định phê duyệt - Điều kiện tham gia đấu giá - Quy định về việc đảm bảo khả năng thanh toán của người mua cổ phần - Quy định cụ thể các trường hợp có thể xảy ra trong quá trình đấu giá và phân phối chứng khoán bao gồm các trường hợp người mua có quyền trả lại cổ phần đã mua..v..v.. * Ký kết hợp đồng bảo lãnh chính thức và các hợp đồng khác có liên quan (trong trường hợp có sử dụng nghiệp vụ bảo lãnh phát hành ) Sau khi xác định giá bảo lãnh, ACBS và DNNN CPH đã có đầy đủ cơ sở để thỏa thuận và đi đến ký kết Hợp đồng bảo lãnh phát hành chính thức. Nội dung của Hợp đồng sẽ bao gồm một số điều khoản cơ bản sau: 1. Giá cam kết mua lại của ACBS ( giá bảo lãnh ) 2. Các chi phí cho hoạt động đấu giá và phí bảo lãnh phát hành 3. Các điều khoản quy định trách nhiệm của DNNN CPH trong việc cung cấp thông tin, đảm bảo thực hiện quy định về thời gian nắm giữ cổ phiếu được bán với giá ưu đãi cho CB-CNV. * Tổ chức đấu giá bán cổ phần Các công việc ACBS sẽ tiến hành để tổ chức đấu giá bán cổ phần cho doanh nghiệp thành công bao gồm: • Thông báo về thời gian, địa điểm tổ chức đấu giá ACBS sẽ thông báo với Ban chỉ đạo CPH và doanh nghiệp về thời gian và địa điểm tổ chức bán đấu giá. Đồng thời, ACBS phối hợp với đơn vị tổ chức đấu giá công khai tại doanh nghiệp, nơi bán đấu giá, thông báo công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng ( trên 3 số báo liên tiếp trong 1 tuần của 1 tờ báo phát hành trong toàn quốc và 1 tờ báo địa phương nơi doanh nghiệp có trụ sở chính ), và tại trụ sở, chi nhánh, đại lý nhận lệnh của ACBS và trên các bản tin, website của ACBS về các thông tin liên quan đến việc bán cổ phần trước khi tổ chức đấu giá dựa theo quy định tại điểm 2.2 Mục B của Thông tư 126/2004/TT-BTC ngày 24/12/2004. • Cung cấp thông tin và tài liệu liên quan đến tình hình tài chính của doanh nghiệp, các tài liệu liên quan đến CPH và thông tin cần thiết khác liên quan đến cuộc đấu giá cho các nhà đầu tư, các tổ chức xúc tiến đầu tư. - Nhận đăng ký tham gia đấu giá và đặt cọc tiền mua cổ phần Việc nhận đặt cọc và phát phiếu đăng ký được tổ chức trên toàn hệ thống ACBS bao gồm trụ sở, các chi nhánh, các đại lý nhận lệnh của ACBS và các chi nhánh của ACBS trên cả nước. Khách hàng cũng có thể sử dụng các tiện ích khác của ACB khi thực hiện đặt cọc và đăng ký mua cổ phiếu như chuyển tiền miễn phí... Sau khi nhà đầu tư nộp Đơn đăng ký tham giá đáu giá, ACBS sẽ tiến hành kiểm tra tính hợp lệ và xem xét các nhà đầu tư đủ điều kiện tham dự đấu giá, và phát Phiếu tham dự đấu giá cho các nhà đầu tư có đủ điều kiện. Trước ngày thực hiện bán đấu giá 03 ngày, ACBS sẽ hoàn tất việc gửi Phiếu tham dự đấu giá cho các nhà đầu tư và hoàn trả tiền đặt cọc cho các nhà đầu tư không đủ điều kiện tham dự đấu giá ( trong trường hợp nhà đầu tư đã đặt cọc ). • Thực hiện bán đấu giá Tổ chức, cá nhân tham gia đấu giá đặt giá mua ( giá đấu ) đối với số lượng cổ phần đã đăng ký vào Phiếu tham dự đấu giá và chuyển phiếu mua cổ phần qua hệ thống mạng của ACBS tại tất cả những nơi ACBS có chi nhánh và Đại lý nhận lệnh. Trong trường hợp đấu giá tại TTGDCK, nhà đầu tư được lựa chọn bỏ phiếu trực tiếp tại TTGDCK hoặc gửi qua ACBS là thành viên tham gia thực hiện việc đấu giá qua TTGDCK. Giá đặt mua của các nhà đầu tư được giữ bí mật cho đến khi công bố kết quả chính thức. Việc khớp lệnh và xác nhận kết quả khớp lệnh đựơc thực hiện hoàn toàn tự động bởi hệ thống tin học hiện đại của ACBS. - ACBS thực hiện trách nhiệm bảo lãnh ACBS sẽ mua lại toàn bộ số cổ phiếu không bán hết của đợt phát hành theo giá khởi điểm ( hoặc mức giá bảo lãnh ) và được hưởng toàn bộ số tiền đặt cọc của số cổ phần đã được đăng ký mua. • Thông báo kết quả của cuộc đấu giá ACBS lập biên bản kết thúc đấu giá và công bố công khai kết quả đấu giá trước khi cuộc đấu giá kết thúc cho các nhà đầu tư và các thành viên nhóm đấu giá. Sau đó, CTCK sẽ báo cáo kết quả đấu giá, kết quả của đợt phát hành với Ban chỉ đạo CPH để báo cáo lên cơ quan có thẩm quyền. • Thanh toán tiền mua cổ phần Trong phạm vi 15 ngày làm việc kể từ ngày công bố kết quả đấu giá, ACBS sẽ có trách nhiệm hoàn tất việc mua bán cổ phần và chuyển tiền mua cổ phần về tài khoản của doanh nghiệp CPH. 7) Tư vấn tổ chức đại hội đồng cổ đông lần đầu của doanh nghiệp thực hiện cổ phần hóa Với mục tiêu luôn vươn tới sự hoàn thiện để phục vụ khách hàng trong thời gian vừa qua, ACBS đã thực hiện tư vấn CPH cho nhiều doanh nghiệp theo một quy trình chuyên nghiệp hóa. Trong quá trình thực hiện tư vấn, các chuyên gia của ACBS thấy rằng hầu hết các doanh nghiệp còn rất lúng túng khi tổ chức Đại hội cổ đông lần đầu, vì không thấy hết tính phức tạp và tầm quan trọng của Đại hội. * Tầm quan trọng của Đại hội cổ đông lần đầu: Đây là đại hội thành lập CtyCP - đại hội thông qua định hướng phát triển sản xuất kinh doanh của công ty sau CPH, thông qua các chỉ tiêu cụ thể: sản lượng, doanh thu, lợi nhuận, cổ tức...; thông qua Điều lệ tổ chức và hoạt động của CtyCP, cơ cấu cổ phần và cổ đông sáng lập của công ty; bầu ra Hội đồng quản trị ( ngừơi quản lý công ty); bầu ra Ban kiểm soát ( người đại diện cho các cổ đông kiểm tra, kiểm soát tình hình hoạt động của công ty); và cũng là đại hội đánh dấu thời điểm công ty chính thức hoạt động theo Luật doanh nghiệp. ACBS là đơn vị đã tham gia tư vấn CPH cho nhiều doanh nghiệp trong thời gian vừa qua của các Bộ, ngành, thành phố Hà Nội và các tỉnh thành phố khác. Các nhân viên của ACBS được đào tạo bài bản, có tính chuyên nghiệp cao và có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực CPH và TTCK, đã thực hiện tư vấn nhiều lần Đại hội cổ đông lần đầu cho các công ty CPH và các công ty niêm yết trên TTCK Việt Nam. Tài liệu, quy trình, thủ tục tiến hành Đại hội cổ đông lần đầu được xây dựng lôgíc, chặt chẽ, đặc biệt ACBS sẽ cung cấp phần mềm kiểm phiếu bầu Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát miễn phí tiết kiệm thời gian và tiền bạc của doanh nghiệp. Đồng thời cung cấp phần mềm và in ấn các mẫu biểu, thư mời cho các cổ đông. Cụ thể, ACBS sẽ tiến hành các công việc sau: Tư vấn và xây dựng quy chế tiến hành Đại hội cổ đông lần đầu, bao gồm các bước công việc tiến hành trong Đại hội và hình thức biểu quyết thông qua các vấn đề cần thảo luận, bầu thành viên HĐQT, BKS....; tư vấn lập Quy chế họp Đại hội cổ đông lần đầu; lập giấy mời, và các tài liệu gửi cho các cổ đông trước khi tham dự Đại hội cổ đông trang trọng, ngắn gọn, dễ hiểu; lập danh sách cổ đông đủ điều kiện dự họp Đại hội cổ đông và kiểm tra tư cách các đại biểu; tư vấn bầu chủ tịch đoàn và chủ tịch Đại hội và hình thức biểu quyết thông qua; tư vấn đề cử Thư ký đại hội, Ban kiểm phiếu, và trưởng ban kiểm phiếu, và hình thức biểu quyết thông qua; tư vấn các nội dung cần trình bày trước các cổ đông về phương án CPH và điều lệ dự thảo đảm bảo ngắn gọn, trọng tâm và đủ thời lượng. Tư vấn cách thức biểu quyết thông qua các vấn đề trên; tư vấn thủ tục ứng cử HĐQT - BKS ( bằng văn bản, phương thức thông qua, nguyên tắc và thể lệ bầu cử ); tư vấn lập danh sách ứng cử viên HĐQT - BKS ; tư vấn tiến hành bầu cử và cách thức sử dụng phần mềm kiểm phiếu; Tư vấn ra mắt Đại hội và cách lập biên bản đại hội và nghị quyết đại hội, công bố công khai trước đại hội 2.2.2. Mẫu phương án cổ phần hóa Các nội dung và quy trình của hoạt động tư vấn CPH của Công ty được thể hiện trong phương án CPH. Dưới đây là một mẫu phương án CPH mà công ty đã xây dựng cho Doanh nghiệp X: ( Xem phụ lục ) 2.2.3. Kết quả nghiệp vụ tư vấn cổ phần hóa tại ACBS: Hoạt động tư vấn CPH được ACBS bắt đầu triển khai thực hiện từ năm 2001, đến nay nó đã trở thành một trong những nghiệp vụ chủ chốt và là thế mạnh của ACBS. Với ưu thế về một đội ngũ chuyên viên tư vấn giàu kinh nghiệm, trình độ chuyên môn cao..., ACBS đã và đang thực hiện được một số lượng lớn các hợp đồng tư vấn trọn gói cũng như các dịch vụ riêng lẻ khác. Loại hình DNNN mà ACBS đã tiến hành tư vấn CPH và bán đấu giá khá đa dạng, bao gồm nhiều lĩnh vực, ngành nghề khác nhau trong nền kinh tế: công nghiệp, nông nghiệp, thương mại dịch vụ... Có thể kể đến một số doanh nghiệp tiêu biểu như: • Công ty điện tử Biên Hòa - Bộ Công nghiệp ( tháng 8/2003) • Công ty XNK Bình Tây ( tháng 12/2003) • Công ty dịch vụ vận tải Sài Gòn Tranaco (tháng 4/2004) • Công ty XNK tổng hợp Petrolimex (tháng 7/2004) • Công ty kinh doanh chế biến lương thực xuất khẩu - Tổng công ty lương thực miền Nam (tháng 6/2004) • Xí nghiệp đông lạnh thủy sản Long Toàn - Tổng công ty lương thực miền Nam ( tháng 6/2004) • Công ty đầu tư phát triển nhà số 5 - Tổng công ty đầu tư và phát triển nhà Hà Nội (tháng 5/2005) • Chi nhánh SJC Hà Nội - Công ty vàng bạc đá quý Sài Gòn ( tháng 6/2005) • Công ty điện tử Nghệ An ( tháng 6/2005) .v.v.. Thời gian thực hiện tư vấn trung bình để doanh nghiệp hoàn thành quá trình chuyển đổi sở hữu tương đối ngắn (khoảng 5 tháng), Đối với các DNNN nhỏ hoặc doanh nghiệp chỉ thực hiện CPH một phần, thời gian đó càng được rút ngắn. Trên thực tế, nếu để các DNNN có quy mô nhỏ tự triển khai công tác CPH thì thời gian thực hiện là từ 6 - 12 tháng, nhiều doanh nghiệp còn dây dưa đến vài năm. Ngoài dịch vụ tư vấn CPH trọn gói, ACBS còn cung cấp các dịch vụ riêng lẻ có tính chất là một giai đoạn của quá trình CPH. Đến nay, công ty đã tién hành tư vấn xác định giá trị doanh nghiệp cho khá nhiều công ty, chủ yếu trong lĩnh vực thương mại dịch vụ như: Trung tâm kim hoàn Sài Gòn ( tháng 5/2005), công ty XNK Sài Gòn Tourist (tháng 6/2005), chi nhánh SJC Đà Nẵng (tháng 6/2005)... Đối với tư vấn niêm yết, ACBS cũng đã tham gia khá tích cực, với việc thực hiện 5 hợp đồng đưa 5 CtyCP lên niêm yết tại TTGDCK, đó là: • CtyCP nước giải khát Sài Gòn (Tribeco) (niêm yết năm 2001) • CtyCP Thủy sản số 4 (TS4) ( niêm yết năm 2002 ) • CtyCP đồ hộp Hạ Long (Canfoco) ( niêm yết năm 2001) • CtyCP Cơ khí xăng dầu (PMSC) ( niêm yết năm 2003 ) • CtyCP XNK thương mại Q.10 (Thiên Nam) ( niêm yết năm 2005) Hiện nay, ACBS đang trong quá trình thực hiện hợp đồng tư vấn niêm yết với Ngân hàng TMCP á Châu. Đặc biệt, hiện nay ACBS là một trong 3/14 CtyCK đã triển khai hoạt động tư vấn phát hành chứng khoán ra công chúng, với 2 hợp đồng: CtyCP Dược phẩm 3/2 ( tháng 5/2005), CtyCP Merufa (tháng 5/2005). Ngoài ra, trong thời gian qua, công ty cũng đồng thời tiến hành nhiều dịch vụ tư vấn khác sau CPH như: tư vấn tài chính và quản trị công ty ( Cty Vilube - tháng 11/2004), tư vấn quản lý cổ đông ( CtyCP Container Việt Nam VICONSHIP - tháng 9/2004), đại lý phát hành Chứng chỉ tiền gửi cho Ngân hàng công thương Việt Nam... Bảng 2.2. Phí tư vấn thu được qua 5 năm của ACBS Năm Phí tư vấn (triệu đồng) 2001 20 2002 50 2003 90 2004 141 2005 1818 Phí tư vấn của ACBS thu được không ngừng tăng lên qua các năm. Năm 2004 công ty đã thu được 141 tr.đ, tăng lên 51 tr.đ so với năm 2003. Đặc biệt năm 2005, doanh thu từ hoạt động tư vấn của ACBS tăng đột biến. Công ty đã thu được 1.818 tr.đ phí tư vấn, gấp 13 lần so với năm 2004. Đây là một kết quả rất khả quan, thể hiện tiềm năng mà hoạt động tư vấn CPH mang lại cho công ty trong thời gian sắp tới là rất lớn. ACBS đã tập trung hơn vào lĩnh vực này, bắt kịp với xu hướng chung trên thị trường, khi yêu cầu CPH DNNN đang được triển khai ngày càng mạnh mẽ và hiệu quả. 2.3. Nhận xét về tình hình thực hiện nghiệp vụ tư vấn cổ phần hóa của Công ty chứng khoán ACBS: 2.3.1. Thuận lợi: Theo nhận định của ban lãnh đạo ACBS, nghiệp vụ tư vấn CPH chính là một trong những sản phẩm chủ đạo và mang lại nguồn doanh thu khá lớn cho công ty. Đây cũng được coi là một thế mạnh của ACBS so với các CtyCK khác hiện nay. Trong thời gian qua, công ty đã tham gia tích cực vào lĩnh vực tư vấn CPH và bán đấu giá cổ phần, thể hiện được tính chuyên nghiệp đồng thời khẳng định uy tín của công ty trong lĩnh vực này. Có được những thành quả đó là do ACBS đã biết tận dụng và phát huy những lợi thế sẵn có của công ty như: - Tính chuyên nghiệp : thể hiện ở việc ACBS đã xây dựng và chuẩn hóa quy trình tư vấn của mình, dựa trên nguyên tắc phù hợp với các quy định hiện hành về CPH, trong đó có tính đến nhiều vấn đề thực tiễn và đưa ra nhiều giải pháp cụ thể, linh hoạt, phù hợp với từng ngành, từng doanh nghiệp, liên tục điều chỉnh, cập nhật theo những quy định mới nhất của Chính phủ và của các cơ quan chức năng. ACBS là CtyCK duy nhất đã phối hợp với TTGDCK Tp.HCM (STC) xây dựng Quy trình bán đấu giá thông qua STC. - ACBS có đội ngũ chuyên viên tư vấn giàu kinh nghiệm, đạo đức nghề nghiệp cao và có kiến thức tài chính hiện đại, một số được đào tạo chuyên sâu ở nước ngoài, có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực quản lý tài chính tại các tổ chức kinh tế, tài chính và tại các cơ quan quản lý Nhà nước. - ACBS là một trong những CtyCK đi đầu trong lĩnh vực tư vấn tài chính nói chung và tư vấn CPH nói riêng. 5 năm triển khai hoạt động không phải là một khoảng thời gian dài nhưng cũng đủ để ACBS thu được nhiều kinh nghiệm và giành được sự tín nhiệm của các khách hàng doanh nghiệp. Đến nay, công ty đã thực hiện được khá nhiều hợp đồng tư vấn CPH. Hơn nữa, ACBS lại có được sự hậu thuẫn mạnh mẽ về tài chính và mạng lưới từ Ngân hàng á Châu, có quan hệ hợp tác với các tổ chức tài chính, tư vấn quốc tế như: Tập đoàn Jardine Matheson và Hãng Luật Charltons, đảm bảo cung cấp những sản phẩm tư vấn với chất lượng cao nhất theo tiêu chuẩn quốc tế. Bên cạnh những yếu tố chủ quan trên, sự chuyển biến có tính chất bước ngoặt về tư duy, nhận thức và tư tưởng chỉ đạo điều hành CPH trong thời gian gần đây cũng tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển hoạt động tư vấn CPH của ACBS. Cơ chế chính sách của Chính phủ và các cơ quan chức năng đã cởi mở, linh hoạt, có hệ thống và hoàn thiện hơn. Quá trình CPH DNNN đang được đẩy nhanh theo chiều sâu. Theo quy định 187/2004/NĐ-CP, trong thời gian tới, đối tượng CPH sẽ được mở rộng hơn. Trừ những doanh nghiệp trong một số lĩnh vực quan trọng, liên quan đến an ninh, quốc phòng, còn lại sẽ CPH, kể cả các Tổng công ty. Hoạt động CPH sẽ được tiến hành theo hai hướng: CPH toàn Tổng công ty, đối với các Tổng công ty lớn, chưa CPH toàn bộ được, trước mắt CPH công ty thành viên và chuyển sang hoạt động theo mô hình công ty mẹ - công ty con; và thu hẹp diện có cổ phần chi phối của Nhà nước, tạo nên thị trường đầy tiềm năng cho hoạt động tư vấn CPH của ACBS. 2.3.2. Hạn chế: 2.3.2.1. Thực trạng Bên cạnh những kết quả đạt được kể trên, cũng như các CtyCK đang hoạt động trên TTCK, nghiệp vụ tư vấn CPH của ACBS đã và đang vấp phải nhiều khó khăn và thử thách không chỉ từ phía khung pháp lý điều chỉnh hoạt động CPH mà còn bộc lộ những hạn chế xuất phát từ chính bản thân công ty. Trên thực tế, mặc dù số lượng hợp đồng tư vấn CPH mà ACBS đã và đang thực hiện trong thời gian qua là không nhỏ, nhưng các doanh nghiệp khách hàng của công ty chủ yếu là doanh nghiệp vừa và nhỏ, qui mô vốn không lớn, giá trị thực tế không cao lại bị khống chế về chi phí CPH. Hơn nữa, quy đinh hiện hành về mức trần đối với phí tư vấn CPH, phí tổ chức đấu giá và xác định giá trị doanh nghiệp (20% chi phí CPH) cũng thể hiện những bất cập rõ rệt. Do đó, tư vấn CPH vẫn chưa trở thành nghiệp vụ mang lại nguồn thu lớn và chủ yếu cho ACBS. Khó khăn về tài chính cũng dẫn đến một hệ lụy khác là việc phát triển mạng lưới và mở rộng các dịch vụ còn gặp khó khăn. Hệ thống đại lý nhận lệnh ở một số tỉnh thành của ACBS chưa thực sự đi vào hoạt động, và chi nhánh Hà Nội cũng chưa đủ mạnh để cạnh tranh với các CtyCK khác trên cùng địa bàn. Thêm vào đó, một thực trạng của ACBS nằm trong tình trạng chung của các CtyCK nước ta giai đoạn này là số lượng tổ chức phát hành niêm yết chứng khoán trên TTCK còn hạn chế so với số lượng tổ chức được tư vấn CPH. Theo thống kê năm 2005, các CtyCK đã thực hiện tư vấn CPH cho 525 tổ chức và bán đấu giá cổ phần thành công cho 229 tổ chức, nhưng chỉ có 15 công ty tham gia niêm yết trên TTCK. Con số này quả thực rất chênh lệch. Hoạt động tư vấn niêm yết và phát hành chứng khoán ra công chúng lần đầu lại chủ yếu tập trung vào 2 CtyCK là Bảo Việt và Sài Gòn (chiếm hơn 50% hồ sơ). Điều này cho thấy ACBS vẫn chưa thực sự chú trọng vào giai đoạn tư vấn sau CPH, trong khi hiện nay việc gắn CPH DNNN với niêm yết chứng khoán, tạo nguồn cung hàng tiềm năng và chất lượng cho TTCK đang được thúc đẩy mạnh mẽ. 2.3.2.2. Nguyên nhân của thực trạng trên Có nhiều nguyên nhân cả khách quan lẫn chủ quan dẫn tới thực trạng hoạt động trên của ACBS. Thứ nhất, nhu cầu sử dụng dịch vụ tư vấn tài chính nói chung và tư vấn CPH nói riêng của DNNN đã và đang có dự định CPH chưa cao. Đây là một trong những nguyên nhân quan trọng nhất, hạn chế khả năng cung ứng và mở rộng dịch vụ tư vấn CPH của công ty. Xét một cách tổng quan, việc sử dụng các dịch vụ thuê ngoài như dịch vụ tư vấn CPH chưa trở thành một tập quán hay thói quen của các doanh nghiệp Việt Nam. Vấn đề ở đây chính là việc đánh giá lợi ích đem lại của dịch vụ. Khác với các giao dịch kinh tế khác, dịch vụ tư vấn nhiều khi không mang lại lợi ích một cách tức thời. Giá trị thực sự của tư vấn thường khó xác định và chỉ có thể nhận biết được sau khi đã thực hiện hoặc sau một thời gian hoạt động. Theo ý kiến của nhiều nhà tư vấn, phần lớn doanh nghiệp Việt Nam chưa hiểu hoặc chưa tính toán được giá trị lợi ích mà các dịch vụ tư vấn đem lại. Có không ít doanh nghiệp không tin tưởng vào các nhà tư vấn và chất lượng của các dịch vụ tư vấn của CtyCK. Hơn nữa, nhiều DNNN vẫn còn e ngại, chần chừ trước quyết định CPH, bởi yêu cầu về tính minh bạch, công khai trong công bố thông tin, về chi phí thuê tư vấn CPH và đấu giá cổ phần công khai, sự lo ngại bộ máy quản lý điều hành bị thay đổi, xáo trộn.v.v.. Đây cũng là một nguyên nhân khách quan khác tác động bất lợi đến sự phát triển của nghiệp vụ tư vấn CPH của ACBS. Thêm nữa, một số quy định về CPH của nhà nước cũng ảnh hưởng gián tiếp tới việc triển khai hoạt động này. Chẳng hạn, quy định về việc nhà nước sẽ giữ lại 51% cổ phần chi phối đối với các doanh nghiệp làm ăn có lãi, có vốn diều lệ từ 5 tỷ đồng trở lên; quy định về giải quyết lao động dôi dư do CPH DNNN... Tiếp đến phải kể đến các nguyên nhân chủ quan từ phía công ty. Đội ngũ nhân viên tư vấn còn mỏng, trình độ chuyên môn chưa đồng đều, gây khó khăn cho việc đáp ứng một khối lượng công việc lớn và phức tạp, cũng như khó có thể giảm thiểu thời gian cho quá trình tư vấn trong trường hợp công ty muốn mở rộng và phát triển thị trường mục tiêu hướng tới các doanh nghiệp lớn hơn. Bên cạnh đó, bộ phận tư vấn của ACBS vẫn còn thiếu các chuyên gia về lĩnh vực tài chính DNNN, pháp luật để hỗ trợ tốt hơn cho công tác tư vấn. Hệ thống thông tin và số liệu thống kê, tài liệu kỹ thuật chuyên môn, chuyên biệt không đầy đủ, chưa trở thành chỗ dựa đáng tin cậy để các nhà tư vấn tham khảo, phân tích và đánh giá khi triển khai hoạt công việc tư vấn. Khả năng quảng bá sản phẩm dịch vụ tư vấn đến với doanh nghiệp của công ty còn yếu. Hiện tại, công ty chỉ mới sử dụng mạng lưới quan hệ để tìm kiếm khách hàng, nhất là dựa dẫm quá nhiều vào mối quan hệ mật thiết với Ngân hàng á Châu. Các hoạt động quảng cáo, khuếch trương hình ảnh, uy tín và thương hiệu trên các phương tiện truyền thông đại chúng như: tivi, báo chí, panô, áp phích... được thực hiện còn rất hạn chế, chưa triển khai ở phạm vi lớn. Do đó, chưa thực sự thu hút được sự quan tâm, chú ý của các doanh nghiệp mỗi khi doanh nghiệp có nhu cầu sử dụng dịch vụ tư vấn CPH hoặc kết hợp nhiều loại hình dịch vụ tư vấn cùng một lúc như: chuyển đổi hình thức hoạt động, tái cơ cấu tài chính, phát hành thêm cổ phiếu... Ngoài ra còn có một số yếu tố khác ảnh hưởng bất lợi tới hoạt động tư vấn CPH của ACBS như: quy mô vốn của công ty chưa phải thuộc loại lớn nhất trong các CtyCK hạn chế khả năng cạnh tranh trên thị trường, điều kiện trang bị cơ sở vật chất, trang thiết bị hiện đại phục vụ cho công tác tư vấn.v.v.. Chương III: Một số giải pháp phát triển hoạt động tư vấn cổ phần hóa tại Công ty chứng khoán ACB 3.1. Định hướng phát triển hoạt động tư vấn cổ phần hóa của ACBS: 3.1.1. Mục tiêu trước mắt: Trong những năm sắp tới, để đáp ứng sự phát triển của qui mô thị trường ngày càng tăng, hoạt động CPH ngày càng sôi động, hoạt động tư vấn CPH của ACBS đòi hỏi phải tiếp tục phát huy những thành quả đã đạt được, và phải xác định đây là sản phẩm chủ đạo, đầy tiềm năng của công ty cần được xúc tiến mạnh mẽ. Trước hết, ACBS cố gắng hoàn thành các hợp đồng tư vấn CPH đã ký kết trong thời gian ngắn nhất có thể với hiệu quả cao nhất. Nguyên tắc hoạt động tư vấn của công ty chính là đề cao quyền lợi của khách hàng trên cơ sở tuân thủ các quy định của Nhà nước và đạo đức nghề nghiệp của người kinh doanh chứng khoán. Do đó, cùng với việc tăng cường nhân lực về cả số lượng và chất lượng để phục vụ cho công việc tốt hơn, ACBS sẽ triển khai những nghiệp vụ tư vấn khác như: tư vấn tái cấu trúc doanh nghiệp,... nhằm giúp doanh nghiệp nâng cao được giá trị của mình. Nhờ vậy, công ty sẽ đảm bảo giới thiệu đến công chúng đầu tư các doanh nghiệp có tình hình tài chính lành mạnh, và khả năng phát triển tốt. Về việc mở rộng thị trường mục tiêu, các đối tượng khách hàng doanh nghiệp đã và đang sử dụng dịch vụ tư vấn CPH của ACBS khá đa dạng, bao gồm các doanh nghiệp thuộc Bộ Công nghiệp (Cty Điện tử Biên Hòa, CtyCP xây lắp điện và viễn thông, Cty xây lắp điện Hà Nội,...), Bộ Giao thông vận tải ( Cty dịch vụ vận tải Sài Gòn...), các doanh nghiệp thương mại, dịch vụ (CtyCP thương mại Nam Sài Gòn,Trung tâm kim hoàn Sài Gòn...).v..v.. Ngoài ra, công ty cũng tham gia tư vấn cho các doanh nghiệp trực thuộc các tổng công ty 90, 91, trực thuộc các bộ ngành khác như: Cty VICADI-Tcty điện lực Việt Nam, Cty lương thực Hà Bắc-TCty lương thực miền Bắc... Trong thời gian tới, ACBS tiếp tục củng cố và phát triển thị trường cũ, đồng thời nỗ lực giới thiệu tới người đầu tư các doanh nghiệp lớn và kinh doanh thực sự hiệu quả trong những lĩnh vực khác như: vật liệu xây dựng, dầu khí, xây dựng công trình, dược phẩm,... Công ty cũng cố gắng đưa được nhiều tổ chức tham gia đấu giá trên các TTGDCK, nhằm mở rộng cơ hội đầu tư cho công chúng đầu tư, thu lợi nhiều tỷ đồng cho Nhà nước và doanh nghiệp. Cùng với việc xác định rõ thế mạnh của công ty, ACBS sẽ từng bước tiếp cận những nhóm khách hàng là các doanh nghiệp quy mô đủ lớn, đủ điều kiện niêm yết trên TTCK sau khi thực hiện CPH. Thực tế trong thời gian vừa qua, ACBS là một trong 3 CtyCK thực hiện hoạt động tư vấn phát hành chứng khoán ra công chúng lần đầu, bao gồm: CtyCK Bảo Việt (hồ sơ CtyCP Vật tư xăng dầu - Comeco và CtyCP Kinh đô), CtyCK Đông á (CtyCP Giấy Đồng Nai - Cogido), CtyCK ACB (CtyCP Dược phẩm 3/2). Công ty cũng sẽ chú trọng hơn tới các ngân hàng thương mại cổ phần có đủ điều kiện để phát hành thêm cổ phiếu và tham gia niêm yết trên TTCK tập trung. Đây cũng là một nhóm đối tượng khách hàng đầy tiềm năng của ACBS trong thời gian sắp tới. 3.1.2. Mục tiêu dài hạn: Trong ngắn hạn, doanh thu từ hoạt động tư vấn tài chính nói chung và tư vấn CPH/niêm yết nói riêng không phải là nguồn thu lớn nhất của ACBS. Tuy nhiên, xét trong dài hạn, đây là công tác trọng tâm, mang lại thu nhập ổn định, lâu dài và chủ chốt cho công ty. Bởi vì, hướng phát triển của CtyCP trong thời gian tới là lên niêm yết tại TTCK. Nếu làm tốt công tác tư vấn CPH, công ty sẽ tạo được uy tín, thu hút được nhiều khách hàng doanh nghiệp, từ đó gia tăng được nguồn thu từ phí tư vấn cũng như các khoản phí khác có liên quan. Đồng thời, việc niêm yết chứng khoán trên TTCK của các doanh nghiệp cũng góp phần lôi kéo sự chú ý và sự tham gia của công chúng vào hoạt động của TTCK chính thức. Đây là tiền đề, cơ sở quan trọng để công ty có thể triển khai tốt hơn các nghiệp vụ môi giới, lưu ký, quản lý cổ đông và các dịch vụ tư vấn tài chính khác. Do đó, mục tiêu của ACBS về lâu dài là đảm bảo cung cấp dịch vụ tư vấn CPH với chất lượng tốt nhất, không ngừng củng cố và mở rộng thị phần, tạo dựng hình ảnh và vị thế vững chắc cho công ty trong lĩnh vực này, góp phần thúc đẩy các nghiệp vụ khác của công ty cùng phát triển. 3.2. Một số đề xuất nhằm phát triển hoạt động tư vấn cổ phần hóa tại Công ty chứng khoán ACB: Trên cơ sở định hướng phát triển nghiệp vụ tư vấn CPH của ACBS và cơ sở lý thuyết chung về những tiền đề để ACBS thực hiện tốt công tác này, kết hợp với những điều kiện thực tế của công ty, tôi xin đưa ra một số đề xuất như sau: * Phát triển nguồn nhân lực Cần phải nhận thức rõ một điều rằng nguồn nhân lực chính là yếu tố quyết định đến thành công của hoạt động tư vấn nói chung, tư vấn CPH nói riêng. Do đó, để nâng cao chất lượng dịch vụ, trước hết phải đảm bảo các điều kiện về nhân tố con người. Công ty cần xây dựng chiến lược phát triển nhân lực trong dài hạn cũng như các kế hoạch ngắn hạn, về cả số lượng và chất lượng. Trên cơ sở thực trạng đội ngũ chuyên viên tư vấn của bộ phận phân tích hiện nay còn trẻ, nắm vững chuyên môn, nhiệt tình với công việc nhưng lại rất hạn chế về số lượng, đồng thời cần phải được nâng cao hơn nữa về kiến thức nghiệp vụ, kiến thức pháp luật và trau dồi kinh nghiệm, tạo được sự đồng đều trong trình độ của các chuyên viên, theo ý kiến của bản thân tôi, một số điều công ty cần chú ý thực hiện trong giai đoạn sắp tới là: Trước tiên, để phục vụ cho việc mở rộng khách hàng và đáp ứng kịp thời nhu cầu sử dụng dịch vụ tư vấn ngày càng tăng của các doanh nghiệp, công ty cần tuyển thêm nhân viên để bổ sung cho đội ngũ tư vấn viên ở trụ sở chính cũng như chi nhánh Hà Nội, bao gồm: chuyên viên về tài chính doanh nghiệp, chuyên viên về luật, và một số tư vấn viên am hiểu các lĩnh vực khác của nền kinh tế. Công ty cũng cần thực hiện chuyên môn hóa trong phân công lao động, phân định trách nhiệm một cách khoa học và phù hợp với năng lực của từng cán bộ tư vấn. Đồng thời, ACBS cần tổ chức các khóa bồi dưỡng nghiệp vụ ngắn hạn cũng như tăng cường sự trao đổi, học hỏi kinh nghiệm với các chuyên viên tư vấn của các CtyCK khác. Một điều quan trọng là cần khích lệ tinh thần làm việc và ý thức gắn bó lâu dài với công ty thông qua việc sử dụng các hình thức khen thưởng vật chất cũng như động viên tinh thần cho những cá nhân đạt thành tích tốt. Trong dài hạn, công ty cần triển khai kế hoạch tuyển dụng, đào tạo phù hợp và mang tính lâu dài, thường xuyên.Có như vậy, mới đảm bảo được chất lượng của đội ngũ tư vấn phục vụ cho mục tiêu mở rộng thị trường, hướng tới đối tượng khách hàng doanh nghiệp có quy mô và năng lực tài chính lớn hơn. * Hoàn thiện quy trình tư vấn Chất lượng của hoạt động tư vấn CPH không chỉ phụ thuộc vào chất lượng đội ngũ tư vấn viên, mà nó còn được quyết định bởi quy trình tư vấn mà công ty xây dựng và áp dụng linh hoạt cho mỗi DNNN CPH. Có thể nói quy trình tư vấn ACBS đã được xây dựng và từng bước chuẩn hóa, theo hướng đáp ứng tốt nhất các nhu cầu của doanh nghiệp khách hàng về mặt thời gian, hiệu quả cũng như chi phí tư vấn. Tuy nhiên, trên cơ sở các quy định pháp luật về CPH đang được sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện từng ngày, quy trình tư vấn của công ty cũng cần được bổ sung, hoàn chỉnh thêm cho phù hợp. Trong đó, cần đặc biệt chú ý tới một số vấn đề như: • Giai đoạn xây dựng phương án CPH: Trong giai đoạn này, khó khăn lớn nhất đối vớí hoạt động tư vấn của Công ty là công tác xác định giá trị doanh nghiệp và công tác xây dựng phương án lao động. Trên thực tế, những hướng dẫn cụ thể để giải quyết các vướng mắc này vẫn chưa có. Tuy nhiên, theo Nghị định 187/2004/NĐ-CP quy định, khi tiến hành xác định giá trị doanh nghiệp, Hội đồng định giá chỉ được sử dụng một trong hai phương pháp: phương pháp định giá theo giá trị tài sản áp dụng đối với các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh có nhiều tài sản hữu hình, và phương pháp dòng tiền chiết khấu sử dụng cho các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ, tư vấn, kế toán - kiểm toán, du lịch... Việc lựa chọn phương pháp nào để tiến hành định giá doanh nghiệp CPH thực sự là một vấn đề gây nhiều tranh cãi. Có ý kiến cho rằng phương pháp tài sản mới thể hiện được giá sàn của doanh nghiệp, đảm bảo không thất thoát vốn của Nhà nước nhưng chưa thể hiện được giá trị thực tế của doanh nghiệp do vẫn không tính hết các giá trị tiềm năng như: lợi thế kinh doanh, tài sản vô hình (thương hiệu, tên tuổi doanh nghiệp, nhãn mác sản phẩm...), giá trị quyền sử đụng đất, .v.v..; đặc biệt khi các doanh nghiệp này đang làm ăn có lãi và có thương hiệu, thị phần lớn trên thị trường. Còn phương pháp chiết khấu sẽ giải quyết được hầu hết các vướng mắc trong việc xác định lợi thế thương mại và tiềm năng của doanh nghiệp. Nhưng yêu cầu của phương pháp này là cần xác định được dòng tiền tương lai một cách chính xác và chắc chắn để tính toán hệ số chiết khấu dòng tiền, do đó phải có kỹ thuật phức tạp, và chỉ sử dụng một cách hiệu quả nếu hội đủ những thông tin cần thiết. Chúng ta cũng có thể áp dụng đồng thời cả hai phương pháp để thể hiện được một khoảng dao động về giá trần - giá sàn của doanh nghiệp, giúp nhà đầu tư có cái nhìn khách quan hơn đối với giá trị doanh nghiệp và mức độ rủi ro trước khi quyết dịnh đầu tư. Do đó, tùy theo điều kiện cụ thể mà công ty sẽ nghiên cứu, lựa chọn phương pháp định giá thích hợp cho từng doanh nghiệp, trên cơ sở quy trình chung đã được hoàn thiện. Trong quá trình xác định giá trị doanh nghiệp, cũng cần lưu tâm đến một số vấn đề khác như: thủ tục tư vấn và thực hiện công tác kiểm kê, phân loại và đánh giá tài sản. Doanh nghiệp và tổ chức định giá nên kiểm kê, phân loại tài sản không sử dụng được để giảm thiểu thời gian định giá. Có thể sử dụng những thông tin ghi trong sổ sách kế toán để chứng minh với cơ quan có thẩm quyền rằng, những tài sản như: ôtô bị tai nạn, vật tư quá hạn không cần dùng, hư hỏng hoặc chờ thanh lý... không cần phải định giá. Tài sản định giá phải đảm bảo chất lượng tối thiểu bằng 20% chất lượng tài sản mới, nếu không sẽ đưa vào diện thanh lý, phá dỡ... Như vậy, quá trình định giá doanh nghiệp sẽ được tiến hành với tiến độ nhanh hơn, thuận lợi hơn. Bên cạnh đó, công ty cũng cần tập trung cho vấn đề xây dựng phương án sắp xếp và đào tạo lại lao động, vì đây là một vấn đề mang tính nhạy cảm cao, liên quan trực tiếp đến quyền lợi của người lao động. Những món nợ bằng tiền dù sao cũng dễ giải quyết hơn gánh nặng thừa lao động - một hậu quả tất yếu của quá trình chuyển đổi, sắp xếp lại doanh nghiệp. Từ thời kỳ bao cấp, trong các DNNN Giám đốc các doanh nghiệp được tự chủ trong việc tuyển dụng lao động, không có quy định khống chế định mức, dẫn đến tình trạng Giám đốc tuyển dụng quá nhiều lao động so với nhu cầu sản xuất. Hậu quả là khi các doanh nghiệp tiến hành sắp xếp lại đều có một bộ phận lao động không đáp ứng được yêu cầu và trở thành lao động dôi dư. Trong khi quy định hiện hành (Điều 31 Bộ Luật lao động) đối với trường hợp doanh nghiệp thực hiện chuyển quyền sở hữu, thì người sử dụng lao động kế tiếp vẫn phải thực hiện hợp đồng với tất cả lao động của doanh nghiệp. Vô tình Điều luật này đã trở thành vật cản của quá trình củng cố và đổi mới doanh nghiệp. Do đó, để thực hiện tốt công tác tư vấn sắp xếp và đào tạo lại lao động cho doanh nghiệp, công ty cần tham khảo dự thảo Nghị định về chính sách đối với lao động dôi dư trong việc sắp xếp, đổi mới phát triển DNNN sắp ban hành, đồng thời kết hợp với doanh nghiệp thực hiện điều chỉnh lao động một cách linh hoạt, hợp lý theo quy định của pháp luật và yêu cầu cụ thể của doanh nghiệp. • Giai đoạn xây dựng kế hoạch và phương án tư vấn sau CPH: Sau CPH, doanh nghiệp chuyển đổi sang một loại hình sở hữu hoàn toàn khác với hình thức DNNN trước đây, chịu sự điều chỉnh của Luật doanh nghiệp, do đó không tránh khỏi những khó khăn bỡ ngỡ ban đầu về: yêu cầu quản trị công ty theo thông lệ quốc tế, lựa chọn nhà đầu tư chiến lược, hay về lao động dôi dư..., đặc biệt là vướng mắc trong vấn đề tài chính của doanh nghiệp. Đây chính là mảng mà công ty có thể tiếp tục cung cấp các dịch vụ tư vấn hỗ trợ nhằm giúp doanh nghiệp ổn định và phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh sau khi CPH. Đồng thời, chính sách của nhà nước ta hiện nay là khuyến khích các công ty CPH có đủ điều kiện lên tham gia niêm yết trên TTCK. Do đó, công ty cần tăng cường hoạt động tư vấn phát hành/niêm yết, phát huy vai trò trung gian, là chiếc cầu nối các nhà đầu tư với TTCK, giúp công chúng đầu tư cũng như các doanh nghiệp quan tâm hơn tới thị trường và đến với các dịch vụ của ACBS. Công ty cũng cần phối hợp với các CtyCK khác trong lĩnh vực bảo lãnh phát hành để giải quyết kịp thời các vướng mắc về quyết toán thuế, giới hạn trong quy định về bảo lãnh phát hành, từ đó khắc phục được tình trạng thời gian xét duyệt hồ sơ bị kéo dài, nhận được nhiều hợp đồng có giá trị lớn. * Gia tăng năng lực về vốn Hiện nay, quy định của pháp luật về chứng khoán có chiều hướng khuyến khích các CtyCK nâng cao năng lực tài chính bằng cách tăng mức vốn tối thiểu yêu cầu cho mỗi loại hình dịch vụ chứng khoán. Điều này thực sự có ý nghĩa quan trọng đối với hoạt động của mỗi CtyCK bởi, chỉ có các CtyCK có tiềm lực tài chính mạnh mới đủ điều kiện làm công ty kinh doanh đa năng (full service brokerage firm). Những công ty có quy mô nhỏ hơn hoặc là sẽ chỉ chuyên thực hiện một số loại hình dịch vụ nhất định, hoặc là làm nhà môi giới phụ (sub-broker) cho CtyCK khác. Cần phải thấy rằng việc thực hiện đa dạng các nghiệp vụ không những giảm thiểu rủi ro trong hoạt động kinh doanh chứng khoán cho công ty, mà chính các nghiệp vụ này sẽ có tác dụng hỗ trợ tích cực cho nhau trong quá trình hoạt động. Cụ thể, hoạt động tư vấn CPH sẽ được thực hiện hiệu quả hơn nếu công ty cũng triển khai tốt các nghiệp vụ khác như: bảo lãnh phát hành, tư vấn tài chính doanh nghiêp hay tự doanh... ( Chẳng hạn, trong giai đoạn đấu giá bán cổ phần ra công chúng, công ty cũng có thể thực hiện bảo lãnh phát hành hay đại lý phát hành đối với những doanh nghiệp có nhu cầu và đủ điều kiện). Việc tăng vốn kinh doanh cũng tạo điều kiện để công ty có thể cải thiện cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ cho hoạt động kinh doanh của công ty, trong đó có lĩnh vực tư vấn CPH. Do đó, trong thời gian tới, ACBS cần tăng vốn và mở rộng phạm vi kinh doanh của các nghiệp vụ khác cũng như nghiệp vụ tư vấn CPH nói riêng. Với một nguồn lực dồi dào về tài chính dành cho hoạt động tư vấn, ACBS mới có thể tiếp tục triển khai các hoạt động tư vấn trên diện rộng. Bởi cũng như bất cứ một hoạt động nghiệp vụ nào khác, trước khi có được nguồn thu từ hoạt động tư vấn, công ty phải chi phí cho các hoạt động khuếch trương, quảng bá thương hiệu và sản phẩm dịch vụ tư vấn, cho quá trình tiếp xúc và thăm dò các doanh nghiệp. Hiện nay, công ty mới chỉ sử dụng mạng lưới quan hệ để tìm kiếm khách hàng, vẫn chưa đủ khả năng về vốn đầu tư cho hoạt động tư vấn để thực hiện các chiến dịch quảng cáo lớn, có quy mô và mang tầm chiến lược cũng như phát triển một bộ phận Marketing riêng phục vụ cho nghiệp vụ tư vấn. Bên cạnh đó, khả năng nghiên cứu và triển khai ứng dụng các kỹ thuật nghiệp vụ mới của công ty cũng còn hạn chế do chưa được quan tâm đầu tư vốn. Trong thời gian tới, công ty cần thành lập một bộ phận riêng để thực hiện các nghiên cứu, đánh giá nhu cầu thị trường hoặc nghiên cứu, tìm hiểu các kỹ thuật nghiệp vụ tiên tiến, phức tạp trên thế giới để áp dụng vào điều kiện cụ thể của nước ta. Ngoài ra, ACBS phải thường xuyên theo dõi, nắm bắt các thông tin về CPH DNNN nhất là lịch trình CPH từ các Bộ và Tổng công ty, cũng như các văn bản pháp luật có liên quan để điều tiết hoạt động tư vấn của công ty cho phù hợp. Đồng thời, công ty cần tiếp tục duy trì các mối quan hệ sẵn có với các cấp quản lý, các doanh nghiệp, tích cực hơn nữa trong việc tìm kiếm và mở rộng mạng lưới khách hàng mới, đặc biệt chú trọng tới nhóm khách hàng là doanh nghiệp lớn trong tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế và các ngân hàng TMCP có đủ điều kiện niêm yết trên TTCK. Để gia tăng năng lực hoạt động tư vấn của công ty, ACBS cũng cần tích cực tìm kiếm các dự án hỗ trợ kỹ thuật (TA) từ các tổ chức quốc tế để hỗ trợ công ty nhanh chóng hiện đại hóa hoạt động, cập nhật hóa và hiện đại hóa kiến thức tài chính cho đội ngũ cán bộ làm nhiệm vụ tư vấn, phân tích tại công ty. 3.3. Kiến nghị Để thúc đẩy sự phát triển của hoạt động tư vấn CPH của các CtyCK nói chung và của ACBS nói riêng, vai trò của Chính phủ, UBCKNN, các Bộ, Ban, ngành có liên quan là rất quan trọng. Trước tiên, cần đưa tiến trình CPH DNNN của nước ta bước sang giai đoạn thay đổi về chất, chuyển từ đẩy mạnh sang đẩy nhanh, không chỉ tăng tốc về tốc độ mà quan trọng hơn, đối tượng, phạm vi, cách thức, phương pháp CPH cũng phải có những bước nhảy vọt về cả lượng và chất. Trong bối cảnh tiến trình hội nhập quốc tế và khu vực hiện nay, việc nâng cao sức cạnh tranh cho các DNNN và cho cả nền kinh tế là một trong những vấn đề cần ưu tiên nhất. Một trong nhiều giải pháp khả thi có thể triển khai ngay là đa dạng hóa sở hữu để thay đổi hẳn phương thức quản lý và nâng cao năng lực tài chính cho các doanh nghiệp. Và như vậy, CPH DNNN là con đường ngắn nhất và chủ động nhất để thực hiện được các mục tiêu này. Đẩy nhanh tiến độ, CPH DNNN không những góp phần gia tăng nguồn cung trên TTCK, mà còn gia tăng một số lượng đáng kể các nhà đầu tư chứng khoán ngay từ bên trong của chính doanh nghiệp được CPH và các nhà đầu tư bên ngoài doanh nghiệp. Đối với các CtyCK, CPH cũng đã tạo điều kiện để các trung gian tài chính này có thể triển khai các dịch vụ môi giới, tự doanh, tư vấn CPH, xác định giá trị doanh nghiệp, đại lý và bảo lãnh phát hành chứng khoán..., bởi thói quen và nhu cầu sử dụng các dịch vụ mà CtyCK cung cấp của các khách hàng doanh nghiệp gia tăng. Hiện nay, do vẫn còn tồn tại nhiều bất cập từ chính sách thuế, chính sách lãi suất, chính sách tín dụng, chính sách quản lý phát hành, nhiều CtyCP đủ điều kiện niêm yết vẫn e ngại phát hành các công cụ tài chính và niêm yết chứng khoán trên TTCK. Để thực hiện chủ trương gắn CPH DNNN với niêm yết chứng khoán và khuyến khích các DNNN có quy mô tương đối lớn, có tình hình tài chính lành mạnh, khả năng phát triển tốt để CPH và niêm yết ngay trên TTCK, Chính phủ cần có chính sách ưu đãi về thuế (miễn, giảm) đủ mạnh để hấp dẫn các CtyCP đủ điều kiện niêm yết thực hiện niêm yết trên TTCK. Từ nay đến năm 2010, nên thực hiện chính sách ưu đãi lũy thoái cho các Công ty thực hiện niêm yết chứng khoán trên TTCK. Theo đó, lấy thời điểm 2005 làm mốc, mức ưu đãi về thuế khi niêm yết chứng khoán sẽ giảm dần qua các năm tính từ năm 2005. Sau 2010, mọi chế độ ưu đãi về thuế sẽ chấm dứt. Cho đến nay, cơ sở pháp lý về CPH đã được hình thành một cách có hệ thống, nhiều văn bản, chính sách chỉ đạo, hướng dẫn công tác CPH của cơ quan quản lý được ban hành như: Chỉ thị 11/2004/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ; chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết TW 9 khóa IX, trong đó yêu cầu Bộ Tài chính sửa đổi, bổ sung ngay các văn bản pháp quy đảm bảo căn cứ cho việc mở rộng diện CPH các DNNN; Quyết định 155/2004/QĐ-TTg về việc ban hành tiêu chí, danh mục phân loại công ty nhà nước và công ty thành viên hạch toán độc lập thuộc Tổng công ty nhà nước; Nghị định 187/2004/NĐ-CP ( ngày 16/11/2004), về việc chuyển công ty nhà nước thành CtyCP đã mở rộng diện DNNN cần CPH, thực hiện nguyên tắc thị trường đối với việc định giá doanh nghiệp CPH và mua bán công khai cổ phiếu, khắc phục tình trạng CPH khép kín trong nội bộ doanh nghiệp; Quyết định 528/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày 14/6/2005 phê duyệt danh sách công ty CPH thực hiện bán đấu giá cổ phần, niêm yết, đăng ký giao dịch tại các TTGDCK Việt Nam.v.v.. Tuy nhiên, nhu cầu có một bộ Luật Chứng khoán hoàn chỉnh để tạo lòng tin cho các chủ thể tham gia trên TTCK là hết sức cấp bách. Đây sẽ là cơ sở pháp lý quan trọng cho hoạt động của thị trường, khắc phục những khó khăn mà ở tầm pháp lý hiện nay Nghị định 144/2003/NĐ-CP (ngày 28/11/2003) và các văn bản hướng dẫn khác chưa thể giải quyết được. Để có thể xây dựng được một bộ Luật Chứng khoán minh bạch, đầy đủ, rõ ràng, phù hợp với yêu cầu của TTCK còn non trẻ của Việt Nam và xu thế phát triển của ngành công nghiệp chứng khoán trong kỷ nguyên toàn cầu hóa và quốc tế hóa các TTCK, trước hết khi bàn đến những chi tiết cụ thể trong dự luật, thiết nghĩ, cần thống nhất một số nguyên tắc chỉ đạo để làm cơ sở cho việc xây dựng bộ Luật. Có thể kể đến một số quan điểm định hướng mang tính nguyên tắc sau: Một là, Luật Chứng khoán cần phải được xây dựng dựa trên các nguyên tắc quản trị công ty theo thông lệ quốc tế chứ không nên và không thể vin vào lý do xuất phát điểm nền kinh tế thị trường ở Việt Nam còn thấp để sáng tạo riêng cho mình một luật chơi, dẫn đến không tránh khỏi tính tùy tiện, chắp vá, thiếu tính hệ thống. Hai là, Luật Chứng khoán phải đủ cụ thể, đủ chi tiết, nhất là các chế tài đối với các hành vi công bố những thông tin sai lệch và thiếu trung thực trong hồ sơ phát hành và bản cáo bạch, các thủ tục đình chỉ phát hành để có thể làm căn cứ điều chỉnh các vấn đề phát sinh trong thực tế, nhằm bảo vệ các nhà đầu tư có hiệu quả, tránh cách hiểu và hướng dẫn thực hiện tùy tiện. Ba là, Luật Chứng khoán phải được thiết kế đủ mở để phạm vi điều chỉnh của Luật có thể bao quát đến các chủ thể tham gia thị trường, các cơ quan quản lý, các sản phẩm tài chính đã có, sẽ có và của chính bản thân thị trường. Đây là điều kiện cần để đảm bảo tính ổn định của Luật. Dĩ nhiên, hai yêu cầu trên là mâu thuẫn, khó có thể cùng tồn tại trong một bộ luật. Vì vậy, để có thể đồng thời thỏa mãn cả hai yêu cầu đầy đủ, chi tiết và đủ mở, UBCKNN nên tập trung sức xây dựng song song hai bộ Luật: Luật Chứng khoán và Luật Sở Giao dịch chứng khoán. Sau đó, cần vạch một lộ trình cụ thể để xây dựng các bộ luật liên quan khác như: Luật tư vấn đầu tư, Luật tín thác (trust inventure), luật công ty đầu tư ... như thông lệ của các nước đã có TTCK phát triển. Việc hoàn thiện hệ thống pháp lý thị trường, ngoài những nỗ lực của UBCKNN, còn cần sự ủng hộ mạnh mẽ của Bộ Tài chính, sự phối hợp của các Bộ, Ban, ngành liên quan. Bên cạnh đó, Chính phủ và các Bộ, trong đó có Bộ Tài chính và Bộ Lao động thương binh xã hội cần xem xét và hoàn thiện các văn bản hướng dẫn nhằm tháo gỡ các vướng mắc về mặt pháp lý mà các tổ chức tư vấn gặp phải trong quá trình thực hiện nhiệm vụ. Cụ thể là: Về bước xác định giá trị doanh nghiệp: cần tiếp tục hoàn chỉnh hai phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp đã có và đưa thêm các phương pháp định giá mới kèm theo hướng dẫn cụ thể của Bộ Tài Chính, tránh tình trạng thất thoát tài sản Nhà nước nếu xác định giá trị doanh nghiệp thấp hơn giá thị trường, hoặc định giá quá cao gây khó khăn cho quá trình bán cổ phần ra công chúng. Thêm nữa, Chính phủ cần xem xét lại quyết định về việc giữ 51% cổ phần tại các doanh nghiệp CPH làm phần vốn Nhà nước và bổ sung các chính sách phù hợp để quản lý phần vốn này một cách hiệu quả nhất mà vẫn đảm bảo tính tự chủ cho doanh nghiệp. Về các vấn đề có liên quan đến người lao động: Chính phủ đã có chủ trương hỗ trợ, thực hiện nhiều chính sách ưu tiên cho người lao động trong các DNNN CPH. Tuy nhiên vẫn tồn tại nhiều bất cập cần giải quyết kịp thời, nhất là đối với số lao động dôi dư sau CPH. Trước hết là sự hoạt động kém hiệu quả của Quỹ hỗ trợ sắp xếp và CPH doanh nghiệp. Từ trước đến nay, nguồn kinh phí chi trả cho người lao động chủ yếu trông vào Quỹ này. Tuy nhiên, tính đến nay, các khoản chi trợ cấp lao động dôi dư cho công tác CPH chỉ đạt trên 6,4 tỷ đồng, chiếm một con số rất nhỏ trong nguồn thu từ quỹ là 718,6 tỷ đồng. Hơn nữa, nguyên tắc cấp kinh phí của Quỹ là “nguyên tắc cấp một lần”. Theo đó, mỗi doanh nghiệp thuộc phạm vi hỗ trợ của Quỹ chỉ được lập hồ sơ xin hỗ trợ một lần. Hậu quả là nếu doanh nghiệp lập hồ sơ chưa hoàn chỉnh hoặc chỉ cần thiếu hồ sơ của một người lao động thì toàn bộ hồ sơ của doanh nghiệp sẽ phải chờ đợi xét duyệt, làm kéo dài thời gian thực hiện CPH của doanh nghiệp. Thêm nữa, Chính phủ cần xem xét thêm các chính sách ưu đãi đối với người lao động, đặc biệt là lao động dôi dư để giảm bớt tình trạng người lao động dôi dư vẫn tiếp tục đeo bám doanh nghiệp, không muốn để DNNN thực hiện CPH. Do đó, Bộ Lao động thương binh và xã hội cần nhanh chóng hoàn thiện Nghị định về chính sách đối với lao động dôi dư trong việc sắp xếp, đổi mới và phát triển DNNN để sớm trình Chính phủ ban hành. Bên cạnh đó, Chính phủ và Bộ Tài Chính cần đưa ra các giải pháp hữu hiệu hơn để thúc đẩy TTCK phát triển, tăng tính thanh khoản cho cổ phiếu của các CtyCP, cũng như tăng cường sự nhận thức pháp luật về chứng khoán và TTCK cho công chúng đầu tư, các doanh nghiệp tham gia trên thị trường. Song song với khung pháp lý về CPH, Chính phủ cũng cần ban hành các văn bản pháp luật về lĩnh vực tư vấn CPH cùng các văn bản hướng dẫn cụ thể của UBCKNN và Bộ Tài Chính. Tính đến nay, UBCKNN cũng đã thể hiện được vai trò của mình trên thị trường, thông qua việc thực hiện được một khối lượng lớn công việc có tác động mạnh đến hoạt động tư vấn CPH của CtyCK như: qui chuẩn hóa hoạt động đấu giá cổ phần, ban hành danh sách các doanh nghiệp bán đấu giá - đăng ký giao dịch - niêm yết, hay ban hành quy chế về công bố danh sách tổ chức có khả năng định giá, tư vấn CPH hàng năm... Việc công khai chất lượng của các tổ chức định giá và số lượng doanh nghiệp mà tổ chức định giá đã thực hiện năm trước, trong đó xác định rõ có bao nhiêu doanh nghiệp bán cổ phần thành công có tác dụng thúc đẩy các cổ chức định giá (bao gồm cả các CtyCK) không ngừng nâng cao chất lượng dịch vụ tư vấn, đưa ra mức phí cạnh tranh để đáp ứng tốt nhất nhu cầu khách hàng, tăng uy tín cho công ty trong lĩnh vực tư vấn CPH. Cùng với việc mở Sàn giao dịch Hà Nội, thành lập Trung tâm lưu ký chứng khoán, mở “room” cho nhà đầu tư nước ngoài, tiến hành sửa đối, soạn thảo nhiều lần dự thảo Luật Chứng khoán,... những quy định điều chỉnh hoạt động tư vấn CPH của các CtyCK cần phải tiếp tục được ban hành, bổ sung và hoàn thiện theo chiều hướng ngày càng hợp lý hơn, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của CtyCK, các DNNN CPH cũng như sự phát triển bền vững của TTCK. Kết luận Hoạt động tư vấn cổ phần hóa của các công ty chứng khoán đã và đang thể hiện vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, cải thiện tình hình số lượng và chất lượng hàng hóa trên thị trường chứng khoán, đồng thời góp phần đa dạng hóa các hoạt động nghiệp vụ của công ty chứng khoán. Tuy nhiên, do tính chất phức tạp của quy trình, thủ tục cổ phần hóa và do sự mới mẻ của hoạt động tư vấn này nên tư vấn cổ phần hóa vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề cần xem xét và hoàn thiện. Hy vọng trong thời gian tới, Công ty chứng khoán ACB sẽ tiếp tục duy trì những thành tựu đã đạt được, cũng như phát triển tốt hơn nữa hoạt động về cả chiều rộng và chiều sâu để đạt được những mục tiêu và chất lượng mà công ty đã đặt ra. Qua thời gian thực tập tại Công ty chứng khoán ACB - Chi nhánh Hà Nội, được sự quan tâm giúp đỡ, chỉ bảo nhiệt tình của các thầy cô giáo, các nhân viên phòng Tư vấn - ACBS đã giúp em nắm bắt, thâm nhập thực tế, củng cố kiến thức và hoàn thiện kiến thức lý luận tiếp thu được trong nhà trường, tạo điều kiện cho em hoàn thành khóa luận với nội dung:”Hoạt động tư vấn cổ phần hóa tại Công ty chứng khoán Ngân hàng á Châu - Thực trạng và giải pháp”. Mặc dù có nhiều cố gắng nhưng do kiến thức còn hạn chế, nguồn tài liệu tham khảo không nhiều, luận văn mới chỉ đề cập đến những vấn đề cơ bản cũng như mới chỉ đưa ra những ý kiến ban đầu, chắc chắn không thể tránh khỏi nhiều sai sót. Em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến và chỉ bảo của các thầy cô giáo cũng như các nhân viên phòng Tư vấn - ACBS để luận văn của em được hoàn thiện hơn. Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với cô giáo - TS. Lê Hoàng Nga, các thầy cô giáo trong khoa Tài Chính - Học viện Ngân Hàng cùng tập thể nhân viên phòng Tư vấn - Công ty chứng khoán ACB đã tận tình giúp đỡ em hoàn thành luận văn này. Danh mục tài liệu tham khảo 1. Nghị định số 64/2002/NĐ-CP ngày 19/6/2002 về việc chuyển doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần 2. Nghị định số 187/2004/NĐ-CP ngày 16/11/2004 về việc chuyển công ty nhà nước thành công ty cổ phần 3. Nghị định số 69/2002/NĐ-CP ngày 12/7/2002 về quản lý và xử lý nợ tồn đọng đối với doanh nghiệp nhà nước 4. Nghị định số 41/2002/NĐ-CP ngày 11/4/2002 về chính sách đối với người lao động dôi dư do sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước 5. Thông tư số 76/2002/TT-BTC ngày 09/9/2002 hướng dẫn những vấn đề tài chính khi chuyển doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần 6. Thông tư số 79/2002/TT-BTC ngày 12/9/2002 hướng dẫn xác định giá trị doanh nghiệp khi chuyển doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần. 7. Thông tư số 126/2004/TT-BTC ngày 24/12/2004 hướng dẫn thực hiện Nghị định số 187/2004/NĐ-CP ngày 16/11/2004 của Chính phủ về chuyển công ty nhà nước thành công ty cổ phần 8. Báo Đầu tư chứng khoán số 23 ( ngày 22/2/2006) 9. Tạp chí ngân hàng số 12 năm 2005 10. Tạp chí chứng khoán tháng 9/2004 11. Báo Công nghiệp Việt Nam ngày 12/4/2004 12. Chứng khoán Việt Nam số 1+2, 3, 4, 5, 10, 11/2005 13. Thị trường chứng khoán và công ty cổ phần - NXB Chính trị Quốc gia - 2001 14. Công ty cổ phần và thị trường chứng khoán - NXB Xây dựng Hà Nội-1999 15. Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước - NXB Chính trị Quốc gia - 2001 16. Tài liệu về tư vấn cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước của Công ty chứng khoán Ngân hàng á Châu Mục lục Trang Phụ lục Danh mục tài liệu tham khảo

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0202.doc
Tài liệu liên quan