Đề tài Hoạt động xuất khẩu hàng dệt may tại công ty may Hanotex – Thực trạng và một số giải pháp đẩy mạnh

Kiểm tra chất lượng hàng xuất khẩu Về phía Công ty, từ khâu sản xuất cho đến hoàn tất sản phẩm thì tại mỗi bộ phận, phân xưởng đều có bộ phận kiểm tra chất lượng hàng hoá. Về phía khách hàng, họ thuê các Công ty kiểm định để kiểm tra chất lượng. Khi chất lượng đạt yêu cầu thì mới được chất hàng lên tàu và ngược lại Công ty sẽ phải sửa đổi sản phẩm cho phù hợp với yêu cầu của khách hàng. Làm thủ tục hải quan Khai báo hải quan: nhân viên phòng kế hoạch vật tư xuất nhập khẩu có trách nhiệm kê khai chi tiết về hàng hoá lên tờ khai hải quan để thuận lợi cho việc nộp thuế xuất khẩu và nhập khẩu. Thông thường Công ty làm thủ tục hải quan ở Cục hải quan Hải Phòng. - Xuất trình hàng hoá: Sau khi làm thủ tục khai báo hải quan nhân viên hải quan kiểm tra hàng hoá, niêm phong và kẹp chì. - Thực hiện các quyết định của hải quan: Sau khi kiểm tra cơ quan hải quan sẽ có quyết định về lô hàng, cho qua, không cho qua hoặc cho qua có điều kiện.

doc84 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1244 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hoạt động xuất khẩu hàng dệt may tại công ty may Hanotex – Thực trạng và một số giải pháp đẩy mạnh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
họ đã có cơ sở từ các hợp đồng trước. Họ chỉ cần thoả thuận một yếu tố biến động như số lượng, giá cả… Ÿ Kiểm tra L/C Sở dĩ nhà xuất khẩu phải thực hiện bước kiểm tra L/C bởi vì nó quyết định đến việc thanh toán tiền hàng và các tranh chấp có thể phát sinh dẫn tới người xuất khẩu không thu được tiền khi có hàng hoá đem ra nước ngoài. Vì thế đây là nghiệp vụ không thể thiếu trước khi triển khai thực hiện hợp đồng. Khi nhận thư tín dụng do ngân hàng thông báo, nhân viên phòng xuất nhập khẩu có trách nhiệm kiểm tra đối chiếu L/C với hợp đồng xem nó có phù hợp với điều khoản trong hợp đồng hay không. Nếu không phù hợp phải có đề nghị gửi tới ngân hàng mở L/C yêu cầu sửa đổi cho phù hợp. Ÿ Chuẩn bị hàng hoá Đối với Công ty thương mại thì đây là việc gom hàng, phân loại, đóng gói bao bì cho phù hợp. Công ty may HANOTEX là Công ty sản xuất hàng xuất khẩu nên việc chuẩn bị hàng hoá là tích cực sản xuất cho kịp thời hạn hợp đồng, phân loại, đóng gói bao bì theo yêu cầu của khách hàng. Việc sản xuất được thực hiện theo kế hoạch sản xuất kinh doanh của phòng kế hoạch vật tư. Ÿ Kiểm tra chất lượng hàng xuất khẩu Về phía Công ty, từ khâu sản xuất cho đến hoàn tất sản phẩm thì tại mỗi bộ phận, phân xưởng đều có bộ phận kiểm tra chất lượng hàng hoá. Về phía khách hàng, họ thuê các Công ty kiểm định để kiểm tra chất lượng. Khi chất lượng đạt yêu cầu thì mới được chất hàng lên tàu và ngược lại Công ty sẽ phải sửa đổi sản phẩm cho phù hợp với yêu cầu của khách hàng. Ÿ Làm thủ tục hải quan Khai báo hải quan: nhân viên phòng kế hoạch vật tư xuất nhập khẩu có trách nhiệm kê khai chi tiết về hàng hoá lên tờ khai hải quan để thuận lợi cho việc nộp thuế xuất khẩu và nhập khẩu. Thông thường Công ty làm thủ tục hải quan ở Cục hải quan Hải Phòng. - Xuất trình hàng hoá: Sau khi làm thủ tục khai báo hải quan nhân viên hải quan kiểm tra hàng hoá, niêm phong và kẹp chì. - Thực hiện các quyết định của hải quan: Sau khi kiểm tra cơ quan hải quan sẽ có quyết định về lô hàng, cho qua, không cho qua hoặc cho qua có điều kiện. Ÿ Giao hàng lên tàu Công ty giao hàng theo phương thức hàng đủ một container. Vì thường xuất theo điều kiện FOB nên Công ty không phải thuê tàu và mua bảo hiểm. Sau khi giao hàng lên tàu thì lấy vận đơn đường biển Seaway beal hoặc Airway beal nếu bằng hàng không. Ÿ Thanh toán Sau khi giao hàng Công ty gửi bộ chứng từ tới ngân hàng mở L/C thông qua ngân hàng thông báo yêu cầu thanh toán tiền hàng. Hầu hết Công ty sử dụng phương thức thanh toán L/C nhưng một số trường hợp làm ăn với khách hàng truyền thống thì Công ty sử dụng phương thức chuyển tiền. Ÿ Giải quyết khiếu nại Trong thực tế trường hợp này rất ít xảy ra đối với Công ty. 2.4. Đánh giá chung hoạt động xuất khẩu hàng dệt may của Công ty HANOTEX 2.4.1. Những thành tựu đạt được Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty thể hiện qua các chỉ tiêu doanh thu, lợi nhuận, các khoản đóng góp vào ngân sách Nhà nước. Hiện nay Công ty không ngừng mở rộng phạm vi kinh doanh, đa dạng hoá trong quan hệ, lấy hiệu quả kinh tế làm thước đo hành động do đó đã thu được nhiều kết quả đáng khích lệ. - Doanh thu tăng lên qua các năm dẫn đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của Công ty được đảm bảo. Đặc biệt doanh thu tăng nhanh vào năm 2001 do Công ty đã góp một phần vốn góp với đối tác nước ngoài để mua nguyên phụ liệu, tăng sự chủ động trong sản xuất. - Số lượng lao động ngày càng tăng phản ánh quy mô sản xuất được mở rộng, khả năng giải quyết công ăn việc làm cho người lao động là tốt. - Thông qua việc đa dạng hoá các mặt hàng kinh doanh, Công ty đã tạo dựng được các mối quan hệ khăng khít, tìm được nhiều đối tác trên thị trường quốc tế . - Hàng năm Công ty đã thu về một lượng ngoại tệ tương đối lớn, bổ sung cho nguồn vốn chủ sở hữu của mình và góp phần làm tăng thêm cho ngân sách Nhà nước . - Bước đầu Công ty đã chủ động được một số nguyên phụ liệu mua trong nước mà sản phẩm vẫn đảm bảo về chất lượng và mẫu mã . - Công ty đã nhanh chóng thích nghi với cơ chế thị trường, đứng vững trong và phát triển được trong điều kiện cạnh tranh ngày càng gay gắt. Công ty đã tận dụng được lợi thế do môi trường quốc tế mới đem lại: Hiệp định buôn bán hàng dệt may với EU, quy chế MFN, Việt Nam gia nhập ASEAN, Mỹ bãi bỏ cấm vận và thiết lập quan hệ thương mại với Việt Nam. 2.4.2. Những điểm hạn chế Bên cạnh những kết quả đạt được trên, hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty nói chung, hoạt động gia công xuất khẩu hàng may mặc nói riêng còn có một số điểm hạn chế sau: - Phần lớn các hợp đồng của công ty vẫn ở dạng gia công thuần tuý, những hợp đồng mua đứt bán đoạn chưa nhiều nên thực tế thì hiệu quả hoạt động chưa cao, giá trị nhận được chỉ là thù lao gia công thuần tuý. Chính vì thế khả năng tích luỹ của Công ty chưa cao, khả năng huy động vốn và sử dụng vốn còn hạn chế. - Sự chủ động về nguyên phụ liệu trong hoạt động gia công chỉ chiếm một phần rất nhỏ, thường thì công ty chỉ mua chỉ may và bao bì trong nước. - Cũng chính vì chủ yếu là thực hiện gia công theo yêu cầu của khách đặt hàng nên khả năng tự thiết kế mẫu mốt sản phẩm may mặc chưa cao, kiểu dáng chỉ tập trung chủ yếu vào một số sản phẩm chính như: áo dệt kim, áo Jacket, quần áo trẻ em… - Về thị trường, Công ty chủ yếu tập trung vào khai thác thị trường nước ngoài, chưa chú ý đúng mức đến phục vụ thị trường nội địa với sức mua ngày càng lớn. Điều này chứng tỏ Công ty chưa tận dụng hết khả năng cung ứng. - Hiện nay hoạt động gia công chủ yếu vẫn là sản xuất theo hợp đồng nên vấn đề tiêu thụ đối với sản phẩm mình sản xuất ra chưa được Công ty chú trọng, do đó việc quảng cáo, tiếp thị còn chưa có chiến lược cụ thể, Công ty còn gặp khó khăn trong việc tìm đối tác mới. Trên đây là một số kết quả đạt được cũng như những hạn chế còn tồn tại ở Công ty, nó xuất phát từ chính năng lực của Công ty trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Để nhìn nhận một cách đầy đủ về kết quả này ta cần phải tìm hiểu nguyên nhân tồn tại những mặt yếu kém, từ đó giúp Công ty có những chiến lược tận dụng cơ hội, đẩy lùi nguy cơ nhằm đạt hiệu quả cao trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu. 2.4.3. Nguyên nhân Ÿ Vốn đầu tư và cơ sở vật chất phục vụ sản xuất còn thiếu thốn Thiết bị công nghệ của Công ty tuy đã được đầu tư nhưng vẫn thiếu đồng bộ và lạc hậu. Số máy mới tuy có nhưng số lượng ít và không có những máy chuyên dùng. Do đó hạn chế việc phát huy năng lực sản xuất của Công ty trên nhiều mặt, khả năng cạnh tranh bị hạn chế. Do thiếu máy móc chuyên dùng Công ty phải bỏ qua rất nhiều cơ hội hợp đồng gia công lớn và đa dạng về chủng loại. Công ty hầu như chỉ tập trung gia công sản phẩm mũi nhọn là áo Jacket và găng tay. Thiếu vốn là một vấn đề khó khăn đối với mọi doanh nghiệp Việt Nam nói chung và đối với các doanh nghiệp may nói riêng. Đối với các tổng Công ty may Nhà nước thì nguồn vốn được đảm bảo ổn định vì có sự hỗ trợ của Nhà nước còn đối với các Công ty may như Công ty HANOTEX thì nguồn vốn phụ thuộc vào khả năng tài chính của các thành viên nên nó thường không ổn định. Vì vậy Công ty thường gặp khó khăn về vốn khi thực hiện những hợp đồng xuất khẩu lớn. Có thể nói rằng thiếu vốn kinh doanh là một trong những nguyên nhân cơ bản hạn chế sự phát triển của Công ty may HANOTEX. Do phần lớn máy móc thiết bị cũ và chuyên dùng cho may áo Jacket và găng tay da nên Công ty không sản xuất và gia công được các mặt hàng đa dạng, cầu kỳ khác cũng như thiếu vốn để mua nguyên vật liệu cho sản phẩm bán FOB. Cùng với sự phát triển ồ ạt của ngành công nghiệp may mặc Việt Nam cũng như của các nước Đông Nam á mà đặc biệt là Thái Lan. Công ty may HANOTEX đã và đang phải đối mặt với sức cạnh tranh lớn từ bên ngoài. Số lượng hàng may mặc có hạn do Công ty chỉ được Bộ Thương Mại Việt Nam phân bổ hạn ngạch cho từng mặt hàng và từng thị trường. Hơn nữa hiện nay một số thời trang của Thái Lan đang nổi lên với mức giá thấp, sản phẩm đẹp được người tiêu dùng ưa thích đang là thách thức mới cho Công ty. Ÿ Công tác điều tra nghiên cứu thị trường chưa được chú trọng Hiện nay công tác điều tra nghiên cứu thị trường chưa được đã được Công ty quan tâm nhưng chưa được chú trọng lắm vì vậy Công ty đã gặp nhiều khó khăn trong việc mở rộng thị trường và tìm kiếm thị trường mới. Những thông tin mà Công ty thu thập được còn hạn chế và thiếu chính xác và vì thế trong điều kiện cạnh tranh ngày nay Công ty đang phải đối mặt với việc thu hẹp thị trường gia công hàng xuất khẩu và đã mất đi một số bạn hàng quen thuộc. Phần lớn hạn ngạch xuất khẩu của Công ty do Bộ Thương Mại phân bổ và thuộc về thị trường có hạn ngạch EU. Do đó doanh nghiệp thường gặp khó khăn trong việc lựa chọn đối tác gia công xuất khẩu. Hơn nữa hiện nay thị trường Việt Nam đang nổi lên việc nhiều doanh nghiệp sản xuất và gia công hàng may mặc trong nước và quốc tế nên việc lựa chọn đối tác trong gia công may là bên đặt gia công chứ không phải bên nhận gia công. Ngoài ra, việc có đầy đủ thông tin để xác định đúng đối tác cần lựa chọn đôi khi bị xem nhẹ nên một phần cũng hạn chế việc nâng cao hiệu quả trong hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty. Ÿ Nguyên vật liệu phục vụ sản xuất còn nhiều khó khăn - Quản lý định mức nguyên phụ liệu. Trong thực tế khó có thể tiêu chuẩn hoá cho hàng trăm mặt hàng với nhiều mẫu mã, chủng loại khác nhau. Đây là vấn đề khá phức tạp trong việc duyệt định mức sử dụng nguyên phụ liệu gia công của các hợp đồng gia công xuất khẩu của Công ty. Hiện nay chúng ta mới có biện pháp tình thế giao cho giám đốc doanh nghiệp tự chịu trách nhiệm về định mức sử dụng nguyên phụ liệu. - Dụng cụ vật tư tiêu hao phục vụ gia công xuất khẩu. Trong quá trình gia công sản xuất các mặt hàng may mặc, bên đặt gia công thường phải cung cấp không tính tiền một số dụng cụ, vật tư như phụ tùng máy móc, bút vẽ, giấy mẫu, con thoi… Số dụng cụ này sau khi kết thúc hợp đồng thường không còn nguyên vẹn mà đã tiêu hao trong quá trình sản xuất. Tuy nhiên do chưa có quy định này nên cơ quan thuế đã tính thuế nhập khẩu đối với dụng cụ vật tư này. Nhiều doanh nghiệp đã kiến nghị Nhà nước sớm có quy chế hợp lý để tránh thiệt thòi cho doanh nghiệp. - Xử lý phế liệu và nguyên vật liệu thừa khi thanh lý hợp đồng. Đây là vấn đề khá nan giải, theo báo cáo của một số doanh nghiệp các phế liệu sau khi gia công như: Dao cắt, vải vụn, da vụn, nhãn mác hàng hoá bán thành phẩm không đạt tiêu chuẩn phải loại bỏ bên nước ngoài gửi bù không lấy lại… Cùng với một số nguyên liệu thừa sau khi thanh lý hợp đồng hiện nay chưa có biện pháp nào xử lý thích hợp. Số hàng hoá này bên đặt gia công không yêu cầu tái xuất và xin giao lại cho ta không tính tiền. Một nghịch lý là ở chỗ doanh nghiệp tiếp nhận không biết dùng vào việc gì và phải chịu thuế nhập khẩu đối với lô hàng phế liệu đó. Một số đưa ra phương án huỷ có sự chứng kiến của cơ quan hải quan nhưng chi phí để hủy cũng như tác hại về môi trường sau khi huỷ đã gây không ít khó khăn cho doanh nghiệp… - Nguồn nguyên liệu chủ yếu phải nhập ngoại. Khó khăn này có thể xuất phát từ nguyên nhân khách quan là cơ sở sản xuất nguyên phụ liệu trong nước cho ngành may mặc nước ta còn rất non yếu. Vải sản xuất trong nước còn hạn chế, chất lượng chưa cao, mẫu mã chủng loại ít, mặt hàng đơn điệu, màu sắc không đảm bảo độ bền… Còn phụ liệu trong nước thì nhìn chung mới có sản phẩm chỉ Total của công ty phong phú và bông tấm của Vicomolsan. Ÿ Khó khăn từ khía cạnh sản xuất và con người Trình độ tay nghề của công nhân còn ở mức trung bình khá, mà chất lượng của sản phẩm may mặc lại phụ thuộc vào chính sự khéo léo và tay nghề của công nhân. Thêm vào đó những công nhân có kinh nghiệm và tay nghề cao lại không muốn ở lại với Công ty vì rất nhiều lý do như: chế độ đãi ngộ, tiền lương và điều kiện làm việc… Mẫu mã sản phẩm may mặc còn nghèo nàn: Mặc dù Công ty đã có một trung tâm thiết kế thời trang nhưng chưa phát huy được hết hiệu quả. Một thực tế trớ trêu là những hoạ sĩ thiết kế thời trang giỏi thì không chịu về làm công cho Công ty HANOTEX. Khó khăn trong công việc định giá gia công xuất khẩu: Việc tính toán để đưa ra một mức giá đối với cả hai bên là hết sức khó khăn, đặc biệt đối với bên nhận gia công để có thể đảm bảo trang trải được các chi phí và có lãi. Trong xu thế cạnh tranh ngày càng quyết liệt thì các doanh nghiệp đều muốn đưa ra một mức giá thấp nhất, đồng thời có hiệu quả đối với doanh nghiệp mình. Do đó việc có thể hạ thấp chi phí trong đơn giá gia công là hết sức khó khăn. Chương 3 một số giải pháp và kiến nghị nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hàng dệt may tại Công ty HANOTEX 3.1. Định hướng phát triển của Công ty trong những năm tới Nhận thức được vị trí quan trọng của ngành Dệt May trong công cuộc Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước, ngày 4/9/1998 Chính phủ đã có quyết định số 169/QĐ phê duyệt quy hoạch phát triển ngành công nghiệp Dệt May đến năm 2010. Các chỉ tiêu sản xuất và xuất khẩu đến năm 2010 được đặt ra như sau: Bảng - 13: chỉ tiêu sản xuất và xuất khẩu đến năm 2010 Chỉ tiêu Đơn vị Năm 2000 2005 2010 1. Sản xuất Vải lụa SP dệt kim Sp mẫu ( quy chuẩn) 2. Kim ngạch XK Hàng dệt Hàng may Tr.mét Tr. SP Tr. SP Tr. USD Tr. USD Tr. USD 800 70 580 2000 370 1630 1330 150 780 3000 800 2200 2000 210 1200 4000 1000 3000 (Nguồn: Quy hoạch tổng thể phát triển ngành công nghiệp dệt may đến năm 2010 – Bộ Công Nghiệp) Để đạt được mục tiêu này, từ nay đến năm 2005 ngành dệt may phải có mức tăng trưởng bình quân 13% /năm, từ năm 2005 tăng trưởng 14%/năm. Mục tiêu phát triển của ngành công nghiệp Dệt May đến năm 2010 là: Phát triển một cách bền vững; hướng vào xuất khẩu để tăng ngoại tệ, góp phần tăng nguồn tích luỹ để CNH-HĐH đất nước: tạo thêm nhiều việc làm cho xã hội, giúp cho quá trình chuyển đổi cơ cấu được thực hiện nhanh chóng; phấn đấu đạt mục tiêu xuất khẩu 4 tỷ USD năm 2005 và 8 tỷ USD năm 2010; đưa nước ta trở thành một trong những cường quốc xuất khẩu hàng dệt may trong khu vực và trên thế giới. Cùng với xu hướng phát triển chung của ngành dệt may Việt Nam Công ty may HANOTEX cũng có những hướng đi riêng trong việc xuất khẩu hàng hoá ra các thị trường nước ngoài. Ngoài việc thực hiện những mục tiêu của mình Công ty HANOTEX cũng góp phần làm cho ngành dệt may Việt Nam thêm lớn mạnh, đẩy mạnh tăng trưởng nền kinh tế đất nước. Trên cơ sở những kết quả thực tế đạt được trong các năm qua, đứng trước những khó khăn và thuận lợi như đã phân tích, đồng thời để góp phần thực hiện mục tiêu chung của ngành dệt may Việt Nam, Công ty HANOTEX đã đề ra những phương hướng phát triển cụ thể trong vài năm tới như sau: 3.1.1. Về chất lượng sản phẩm Chất lượng sản phẩm là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến uy tín danh tiếng của Công ty, đồng thời chất lượng sản phẩm cũng là một yếu tố mà các doanh nghiệp cạnh tranh với nhau, nếu chất lượng sản phẩm tốt sẽ giúp cho Công ty có chỗ đứng vững trên thị trường. Đối với Công ty HANOTEX sự thành bại trên thị trường phụ thuộc vào sự thích hợp của chất lượng sản phẩm, sự phù hợp của giá cả và điều kiện mua bán giao nhận. Trong đó cạnh tranh về chất lượng sản phẩm là cạnh tranh mạnh mẽ và quan trọng nhất. Bởi vì sản phẩm may mặc không chỉ thoả mãn nhu cầu bảo vệ mà quan trọng hơn đó là nhu cầu làm đẹp, nhu cầu khẳng định địa vị nên họ sẵn sàng chấp nhận mức giá cao hơn để có được điều đó. Do vậy để tạo uy tín và chỗ đứng vững chắc trên thị trường may mặc xuất khẩu thì chất lượng sản phẩm luôn là nội dung cơ bản trong chiến lược sản phẩm của bất kỳ doanh nghiệp nào. Sản phẩm có chất lượng cao giúp Công ty tạo được uy tín với khách hàng, nó thể hiện sức mạnh trong cạnh tranh đối với các doanh nghiệp cùng ngành. Như vậy để nâng cao chất lượng sản phẩm sản xuất, Công ty cần chú ý các vấn đề sau: - Đầu tư nâng cấp trang thiết bị, quy trình sản xuất sản phẩm may. - Đảm bảo chất lượng vật tư dụng cho sản xuất sử dụng đúng định mức tiêu chuẩn kỹ thuật. - Chăm lo đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ kỹ thuật và công nhân lành nghề. - Tổ chức học tập nâng cao trình độ tay nghề cho công nhân. - Thực hiện tốt công tác kiểm tra chất lượng sản phẩm trước khi xuất. - Có chính sách thưởng phạt hợp lý nhằm khuyến khích bồi dưỡng vật chất cho cán bộ công nhân viên toàn Công ty để động viên và nâng cao tinh thần trách nhiệm, tính sáng tạo của họ. 3.1.2. Đa dạng hoá và cải tiến mẫu mã sản phẩm Hiện nay nhu cầu của người tiêu dùng luôn luôn thay đổi do đó để đáp ứng được nhu cầu đó của ngươì tiêu dùng Công ty phải thường xuyên thay đổi, cải tiến mẫu mã sản phẩm của mình. Trong thời gian tới để đẩy mạnh hơn nữa khả năng đa dạng hoá sản phẩm, Công ty cần chú trọng đến các vấn đề sau: - Điều tra nghiên cứu thị trường để tìm ra nhu cầu hiện tại của người tiêu dùng từ đó tìm cách đáp ứng tốt nhất các nhu cầu này. - Cần có chiến lược đa dạng hoá sản phẩm một cách cụ thể và các đIều kiện cần thiết cho triển khai thực hiện chiến lược đó. - Chú trọng thích đáng cho công tác nghiên cứu thị trường phục vụ cho sáng tạo mẫu mốt. 3.1.3. Về cơ cấu tổ chức và quản lý Tiến tới hoàn thiện và mở rộng thêm bộ phận kinh doanh và các dịch vụ bán hàng. Để tận dụng nguồn vật tư dư thừa cũng như nguồn vật tư trong nước,nâng cao chuyên môn, nghiệp vụ cho các cán bộ quản lý, đội ngũ cán bộ cần phải biết quản lý sản xuất kinh doanh, biết thu thập và xử lý các thông tin cần thiết một cách khoa học, biết xác lập và xác định mục tiêu, ra các quyết định hợp lý và kịp thời. Mở rộng và đào tạo cán bộ trên các lĩnh vực: chuyên môn, ngoại ngữ, tin học,... 3.1.4. Về lao động Tổ chức cải tiến sản xuất để đạt năng suất lao động cao, nâng cao hiệu quả sản xuất. Đào tạo mới và đào tạo lại đội ngũ cán bộ công nhân kỹ thuật thích ứng với cơ chế thị trường, với trình độ CNH - HĐH. Công nhân phải có trách nhiệm bảo quản máy móc thiết bị mà mình phụ trách, có tác phong công nghiệp trong sản xuất dây chuyền, vận hành máy móc. 3.1.5. Về máy móc thiết bị Tiếp tục đầu tư hoàn thiện dần máy móc, thiết bị theo hướng CNH-HĐH để có khả năng sản xuất các sản phẩm đòi hỏi kỹ thuật cao, thích ứng với các thị trường khó tính nhất. Tuy nhiên, Công ty cần tránh hiện tượng đầu tư ồ ạt tạo nên sự mất cân đối về cơ cấu, các thiết bị chuyên dụng, nhập nhiều nhưng vẫn thiếu về chủng loại. Việc nhập công nghệ, máy móc thiết bị phải được cân nhắc lựa chọn kỹ lưỡng về đặc điểm kỹ thuật cũng như các chỉ tiêu kinh tế thương mại tránh hiện tượng nhập thiết bị lạc hậu, thiết bị tân trang và giả giá đầu vào. 3.1.6. Về loại hình kinh doanh Từ trước đến nay công ty chủ yếu thực hiện gia công theo loại hình nhận nguyên liệu giao thành phẩm, tức là công ty chỉ đảm nhận các công đoạn trong quá trình sản xuất, chịu trách nhiệm làm thủ tục nhập nguyên phụ liệu và xuất thành phẩm. Với loại hình này, lợi nhuận mang lại không cao song đây là bước đi không thể thiếu được của bất kỳ công ty may nào. Mục tiêu cuối cùng của công ty là tiến hành sản xuất, xuất khẩu trực tiếp sản phẩm để thu được lợi ích kinh tế cao nhất. Do vậy trong các năm tới, công ty sẽ đẩy mạnh tìm kiếm khách hàng đặt gia công theo hình thức mua nguyên liệu bán thành phẩm. 3.2. Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hàng dệt may tại Công ty HANOTEX 3.2.1. Tổ chức tốt công tác nghiên cứu và tiếp cận thị trường Nghiên cứu thị trường là vấn đề đặt ra với mọi hoạt động kinh doanh ở mọi cấp khác nhau, từ quản lý Nhà nước đến tổ chức hoạt động của các doanh nghiệp ở các quy mô lớn nhỏ, vì thị trường là xuất phát điểm của mọi hoạt động trong nền kinh tế hàng hoá. Nghiên cứu thị trường để thích ứng với thị trường luôn biến động là biện pháp quan trọng cho sự tồn tại và phát triển của bất cứ doanh nghiệp may mặc xuất khẩu nào. Chú trọng công tác nghiên cứu và tiếp cận thị trường nhiều khi là yếu tố quyết định cho sự thành công của doanh nghiệp trên thị trường quốc tế. Một trong những khó khăn tồn tại của Công ty may HANOTEX hiện nay là sự yếu kém trong công tác nghiên cứu và tiếp cận thị trường. Bởi vậy, ngay từ bây giờ Công ty HANOTEX cần quan tâm hơn đến công tác này là phải đặt thành nội dung quan trọng trong chiến lược kinh doanh của mình. Từ đó Công ty có kế hoạch, biện pháp tổ chức và đầu tư thích đáng. Công tác nghiên cứu thị trường được thực hiện ở hai mức độ khác nhau. Trước tiên Công ty cần nghiên cứu khái quát thị trường, các nhân tố ảnh hưởng: môi trường cạnh tranh, môi trường chính trị pháp luật, khoa học công nghệ, môi trường văn hoá xã hội… sau đó tiến hành nghiên cứu chi tiết thị trường để có những thông tin cụ thể hơn. Trong bước này Công ty cần thực hiện phân đoạn thị trường theo các tiêu thức khác nhau như: tuổi, giới tính, nghề nghiệp, thu nhập, tập quán tiêu dùng… nghiên cứu nhu cầu tiêu dùng của từng đoạn thị trường khác nhau đối với sản phẩm của Công ty, hành vi mua sắm của họ cũng như nhân tố ảnh hưởng đến hành vi đó để có cách ứng xử thích hợp. Thông qua mối quan hệ với các bạn hàng vào tìm hiểu, làm ăn với Công ty cần có ý thức tận tâm chịu khó tìm hiểu để nắm bắt được kinh nghiệm của họ trong công tác nghiên cứu thị trường. Đó là cách hiệu quả nhất để hiểu biết thị trường một cách sát thực trong khi điều kiện khảo sát thị trường còn khó khăn. Bởi vì họ là những chuyên gia dày dạn kinh nghiệm, am hiểu về thị trường thế giới, thành thạo trong kinh doanh xuất khẩu hàng may mặc. Muốn nắm bắt thông tin và tìm bạn hàng, Công ty cần duy trì tốt các mối quan hệ với các cơ quan chức năng trong và ngoài nước cũng như phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Tổng Công ty Dệt may Việt nam, Hiệp hội may Thương vụ của ta tại các nước… đồng thời, bằng các mối quan hệ năng động như các mối liên kết với Việt Kiều tại nước ngoài, các văn phòng và nhiều cơ quan khác ở nước ngoài để khai thác nắm bắt thông tin của các thị trường khác nhau. Vì kinh phí còn hạn hẹp, ngoài các mối quan hệ trên Công ty còn phải làm tốt công tác thông tin quảng cáo coi đó là nghiệp vụ quan trọng trong chiến lược Marketing. Bằng các hình thức như thông qua các phương tiện thông tin đại chúng. Để giới thiệu về Công ty, Công ty cần phối hợp với các cơ quan chức năng để tham gia các hội chợ triển lãm hàng dệt may quốc tế tại Việt nam và các nước. Tuy vậy Công ty vẫn cần phải tính toán sao cho việc tham dự có hiệu quả nhất như lựa chọn hội chợ mà Công ty đã có vị trí tương đối thu hút khách hàng, mặt hàng giới thiệu phải được lựa chọn kỹ càng về mẫu mốt và chất lượng sản phẩm, việc thuê và thiết kế gian hàng để trưng bày sao cho rẻ, đẹp và phù hợp… Ngoài ra Công ty cũng cần phải tiến tới thành lập các văn phòng đại diện ở nước ngoài, các văn phòng này sẽ cung cấp đầy đủ các thông tin về thị trường tiêu thụ, thị trường giá cả và dự báo những thông tin về nhu cầu thị trường để Công ty có những bước xử lý chính xác và ra quyết định kịp thời. Nó còn có nhiệm vụ thay mặt Công ty đàm phán, giao dịch, chào hàng, giới thiệu mặt hàng xuất khẩu của Công ty tới các khách hàng, các Công ty nước ngoài để làm cơ sở cho Tổng Giám đốc ký kết các hợp đồng xuất khẩu có hiệu quả. Để làm tốt công tác nghiên cứu và tiếp cận thị trường Công ty cần quan tâm nhiều hơn đến bộ phận chức năng chuyên làm công tác thị trường sao cho bộ phận này trở thành một trợ thủ đắc lực cho hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty. Công ty phải thực sự đề cao vai trò của công tác này, biến nó thành một hoạt động mang tính thường xuyên và có chính sách đầu tư thích đáng cho việc đào tạo đội ngũ cán bộ chuyên gia giỏi chuyên có trách nhiệm nghiên cứu và tiếp cận thị trường với chức danh và đãi ngộ một cách thoả đáng. Mặc dù còn nhiều khó khăn nhưng nếu quan tâm đúng mức và chú trọng thích đáng chắc chắn Công ty sẽ cải thiện được những yếu kém về công tác nghiên cứu và tiếp cận thị trường như hiện nay góp phần đưa Công ty HANOTEX trở thành một doanh nghiệp có kinh nghiệm trên thương trường từ đó đẩy mạnh quá trình xuất nhập khẩu của Công ty. 3.2.2. Mở rộng quan hệ với các đối tác nước ngoài Trong điều kiện nền kinh tế hiện nay vai trò của các đối tác thật sự quan trọng, nó quyết định sự thành bại của bất kỳ một Công ty nào. Hoạt động hợp tác kinh doanh có được duy trì hay không phụ thuộc vào sự lựa chọn đối tác. Mỗi lĩnh vực hoạt động khác nhau thì sự tác động của các yếu tố này là khác nhau nhưng nhìn chung đều ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh. Trong hoạt động gia công hàng xuất khẩu, vai trò của công tác lựa chọn đúng đối tác hết sức quan trọng. Do đặc điểm của hoạt động này, sự phụ thuộc của mỗi bên là rất lớn, nên cả hai phía phải tìm hiểu kỹ về nhau để quan hệ thương mại giữa hai bên đạt hiệu quả cao nhất. Công tác mở rộng quan hệ với các đối tác nước ngoài do phòng kinh doanh tiếp thị đảm nhiệm thông qua các hoạt động như: cử đại diện ra nước ngoài, qua các phòng thương mại, các tổ chức thông tin… nhằm tìm kiếm thông tin về các thị trường cũng như các đối tác nước ngoài mà Công ty cần thiết lập mối quan hệ làm ăn, từ đó công ty có thể mở rộng thị trường xuất khẩu của mình đồng thời mở rộng được các mối quan hệ thương mại với các đối tác kinh doanh. Trong tương lai Công ty sẽ tích cực mở rộng quan hệ với các đối tác của các nước: Mỹ, Nhật Bản, EU, đặc biệt là thị trường Mỹ – một thị trường mà công ty đã và đang tập trung khai thác và doanh số đạt được trên thị trường này là lớn. Những năm qua hiệu quả đạt được từ hoạt động mở rộng quan hệ với với các đối tác nước ngoài chưa cao do công ty được thành lập trong một thời gian ngắn nên chưa có mối quan hệ truyền thống với khách hàngvà một phần cũng là do hoạt động của phòng kinh doanh tiềp thị chưa đạt hiệu quả. Vì vậy trong những năm tới Công ty sẽ tăng cường hơn nữa công tác mở rộng quan hệ với các đối tác nước ngoài để hoạt động kinh doanh xuất khẩu của Công ty đạt hiệu quả cao nhất. 3.2.3. Mở rộng hình thức xuất khẩu trực tiếp Gia công là hoạt động chủ yếu của Công ty, đó cũng là bước đi tất yếu của bất kỳ doanh nghiệp nào. Tuy nhiên phương thức kinh doanh này mang lại hiệu quả không cao, do đó Công ty nên tiến tới xuất khẩu trực tiếp sản phẩm của mình. Điều này sẽ giúp Công ty tăng được doanh thu từ xuất khẩu, chủ động hơn trong sản xuất và đặc biệt sản phẩm sản xuất sẽ mang nhãn hiệu Công ty thể hiện danh tiếng, uy tín trên thị trường. Để tiến tới xuất khẩu trực tiếp sản phẩm của mình Công ty cần chú trọng tới: tự chủ thêm một số nguyên phụ liệu để dần tới tự cung ứng toàn bộ nguyên phụ liệu bằng việc mua trong nước. Như vậy Công ty cần liên kết chặt chẽ hơn với các ngành cung ứng nguyên phụ liệu đầu vào. Đạt được sự chủ động này, Công ty sẽ tự tổ chức sản xuất và như vậy cơ hội để đạt hiệu quả cao sẽ nhiều hơn so với gia công đơn thuần. Hơn nữa tiến tới phương thức kinh doanh xuất khẩu trực tiếp, sự phát triển của Công ty sẽ kéo theo các ngành cung cấp nguyên phụ liệu phát triển. Tiến hành nghiên cứu thị trường vì hoạt động theo phương thức xuất khẩu trực tiếp, sản phẩm sản xuất ra không còn được bao tiêu toàn bộ, nó phảt đáp ứng phù hợp với nhu cầu thị hiếu người tiêu dùng thì mới được thị trường chấp nhận. Do đó cần nghiên cứu để biết được những cái thị trường cần và có sự cung ứng cho phù hợp. Thiết kế mẫu mốt: Sau khi nghiên cứu để nắm bắt được nhu cầu thị trường, Công ty cần phải đầu tư phát triển hoạt động thiết kế mẫu mốt sao cho phù hợp với nhu cầu đó. Sản phẩm do Công ty tự thiết kế, sản xuất phải đảm bảo phù hợp về kiểu mẫu, chất lượng, màu sắc, giá cả… với thị trường này thì mới được thị trường đó chấp nhận. Ngoài những mặt hàng chính mà Công ty gia công theo yêu cầu của khách hàng, khi xuất khẩu hàng hoá Công ty cần đa dàng hoá các mặt hàng để đáp ứng mọi nhu cầu về chủng loại. Điều đặc biệt quan trọng khi phát triển từ hình thức gia công đơn thuần sang xuất khẩu trực tiếp là kinh nghiệm trong lĩnh vực thương mại quốc tế. Trước đây Công ty thường chỉ gia công cho khách hàng truyền thống thì mọi quan hệ đơn giản hơn. Còn khi tiến lên xuất khẩu trực tiếp, để hoạt động này đạt hiệu quả cao, Công ty cần bồi dưỡng chuyên môn cho cán bộ hoạt động trong lĩnh vực xuất nhập khẩu để họ có đủ năng lực, tích luỹ kinh nghiệm, bảo vệ cho lợi ích của Công ty trước những khách hàng từng trải. Khi hoạt động xuất khẩu trực tiếp, Công ty sẽ phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường quốc tế. Dựa vào những khách hàng gia công truyền thống của mình Công ty tiến hành chào hàng theo hình thức xuất khẩu đặc biệt là những thị trường mà ta được ưu đãi về chính sách thuế nhập khẩu thì nên tận dụng để thâm nhập. Tuy nhiên năng lực cạnh tranh luôn được khẳng định thông qua mẫu mã, chất lượng, giá cả hàng hoá nên Công ty cần chú trọng vấn đề này. Chuyển từ hình thức kinh doanh là gia công sang xuất khẩu đòi hỏi cả một quá trình nên Công ty cần tiến hành dần theo từng bước để ngày càng nâng cao thế chủ động của mình, khẳng định năng lực của mình khi đứng trước một thị trường mà cơ hội thì nhiều song khó khăn cũng rất to lớn. 3.2.4. Nâng cao chất lượng hoạt động hậu cần kinh doanh Ÿ Đối với nguyên liệu, phụ liệu Hiện nay, nguồn nguyên liệu cho các cơ sở sản xuất hàng xuất khẩu của Công ty vẫn chủ yếu là được nhập từ nước ngoài bởi vì vải và các nguyên phụ liệu trong nước chưa đáp ứng được yêu cầu về chất lượng và chủng loại đa dạng của khách hàng. Do đó Công ty cần có mối quan hệ chặt chẽ với cơ sở sản xuất nguyên phụ liệu của nước ngoài nhằm tạo cho Công ty có nguồn nguyên phụ liệu đảm bảo chất lượng và ổn định hơn cho sản xuất và xuất khẩu trực tiếp hàng may mặc. Điều đó đòi hỏi Công ty phải thực hiện tốt công tác nghiên cứu thị trường quốc tế để đảm có những thông tin cần thiết về cơ sở đó, tránh cho Công ty phải mua qua các tổ chức trung gian hay những thiệt hại do không hiểu biết về thị trường. Ngoài ra Công ty cần phải phối hợp chặt chẽ với các cơ sở cung cấp nguyên phụ liệu trong nước. Điều đó sẽ cho Công ty tạo nên sức mạnh tổng hợp cho một chu trình khép kín, đồng bộ từ nguyên phụ liệu cho đến sản phẩm cuối cùng. Từ đó Công ty chủ động trong kế hoạch sản xuất kinh doanh mà cụ thể là kế hoạch đẩy nhanh quá trình chuyển sang xuất khẩu trực tiếp của Công ty đem lại hiệu quả kinh tế cao hơn. Ÿ Đối với máy móc thiết bị Công ty may HANOTEX cũng như nhiều doanh nghiệp may mặc khác đứng trước nhu cầu to lớn về đổi mới và hiện đại hoá trang thiết bị máy móc phục vụ cho may xuất khẩu buộc các Công ty phải nhập chúng từ nước ngoài, kể cả phụ tùng thay thế. Trong điều kiện nguồn vốn còn hạn hẹp như hiên nay thì đó là một vấn đề khá nan giải với Công ty vì vậy Công ty cần phải hợp tác tốt với các Công ty cơ khí may, cung cấp cho họ những thông tin về những nhu cầu đổi mới, thay thế, sửa chữa máy móc thiết bị của Công ty. Thậm chí Công ty có thể hỗ trợ một phần kinh phí cho họ có thể sản xuất ra các máy móc thiết bị, phụ tùng thay thế với giá rẻ và chất lượng đảm bảo, giúp cho Công ty tiết kiệm một khoản ngoại tệ lớn mà vẫn đảm bảo cho hoạt động sản xuất hàng gia công và trực tiếp. Đồng thời nếu chưa sản xuất được thì họ cũng có thể tư vấn thông tin kịp thời cho Công ty trong việc đầu tư máy móc thiết bị, công nghệ một cách có hiệu quả. Ÿ Đối với trình độ tay nghề của đội ngũ lao động Đây chính là nơi sẽ đào tạo và cung cấp cho Công ty những công nhân kỹ thuật lành nghề những cán bộ có năng lực giúp cho Công ty vượt qua khó khăn không ngừng vươn lên để khẳng định mình trên thị trường may mặc thế giới bằng những sản phẩm có chất lượng cao. Sự phối hợp của Công ty với các cơ sở đào tạo sẽ giúp việc đào tạo gắn liền với nhu cầu sử dụng, đảm bảo chất lượng và đáp ứng yêu cầu thực tế sản xuất kinh doanh của Công ty. Công tác này có thể thực hiện dưới các hình thức tổ chức các cuộc kiểm tra tay nghề công nhân, tổ chức các khoá đào tạo ngắn hạn cho cán bộ công nhân viên để nâng cao trình độ… Những người được có những kiến thức và phẩm chất cho nghề nghiệp và sẽ là nhân tố quyết định sự thành công của Công ty trong việc thực hiện chuyển đổi từ gia công đơn thuần sang gia công mua NL bán TP. Ÿ Đối với vấn đề cung ứng vốn Quan hệ hợp tác tốt với tổ chức tín dụng có thể nhanh chóng tiếp cận được với những nguồn vốn cho vay ưu đãi giúp Công ty giải quyết vấn đề nan giải hiện nay là thiếu vốn. Họ cũng có thể hỗ trợ Công ty kịp thời những lúc nhu cầu vốn lên cao. 3.2.5. Không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm Trong bất cứ một môi trường kinh doanh nào, chất lượng sản phẩm là yếu tố hàng đầu, sản phẩm đảm bảo chất lượng thì người tiêu dùng mới chấp nhận, bạn hàng mới tìm đặt. Chất lượng sản phẩm là yếu tố quan trọng hàng đầu quyết định sự thành bại của mỗi doanh nghiệp. Để thoả mãn kịp thời các yêu cầu về chất lượng, Công ty HANOTEX cần thực hiện các biện pháp thiết thực sau: Ÿ Chăm lo đào tạo bồi dưỡng nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ kỹ thuật và công nhân lành nghề Yếu tố con người có vai trò hết sức quan trọng trong việc nâng cao chất lượng sản phẩm của Công ty may HANOTEX. Muốn làm ra sản phẩm có chất lượng lượng cao, người lao động phải có trình độ nghề nghiệp tinh thông. Nhiều chuyên gía hàng đầu về công nghiệp dệt may thế giới đã rút ra kết luận rằng: “đối với quần áo, khâu quan trọng nhất là khâu may và điều này phụ thuộc vào tay nghề của công nhân nên lĩnh vực mà họ cần cải tiến trước hết không phải là công nghệ mà là trình độ tay nghề của công nhân”. Do vậy chăm lo đào tạo, sử dụng, bồi dưỡng, khuyến khích vật chất đối với cán bộ kỹ thuật, công nhân lành nghề là động lực quan trọng, thiết thực nâng cao chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp. Công ty thường xuyên tổ chức các khoá học đào tạo nâng cao trình độ cho công nhân, cán bộ kỹ thuật và có chế độ đãi ngộ hợp lý với những người có năng lực. Đặc biệt Công ty có thể cử một số công nhân, cán bộ kỹ thuật đi học ở nước ngoài và khi về họ sẽ là nòng cốt cho việc nâng cao trình độ cho toàn bộ lực lượng công nhân và cán bộ kỹ thuật của Công ty. Ÿ Tiếp tục đầu tư đổi mới thiết bị công nghệ hiện đại, đồng bộ, có trọng điểm nhằm tạo sự thay đổi căn bản về chất lượng sản phẩm của Công ty Điều này đảm bảo được cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại phù hợp, đó là yếu tố then chốt nhằm tạo ra sản phẩm có chất lượng cao, thực sự mang lại sức cạnh tranh mạnh mẽ cho sản phẩm của Công ty trên thị trường thế giới. Tuy nhiên cần tránh hiện tượng đầu tư ồ ạt tạo nên sự mất cân đối về cơ cấu, các thiết bị chuyên dùng, nhập nhiều nhưng vẫn thiếu về chủng loại. Việc nhập công nghệ nói chung, máy móc thiết bị nói riêng phải được cân nhắc kỹ lưỡng về đặc điểm kỹ thuật cũng như các chỉ tiêu kinh tế thương mại, tránh hiện tượng nhập thiết bị lạc hậu và thiết bị tân trang. Công ty cũng cần tập trung nguồn lực để đầu tư các thiết bị hiện đại thuộc thế hệ mới nhằm nâng cao năng suất tạo ra sản phẩm may mặc cao cấp, có giá trị cao, đa dạng phong phú về chủng loại nhằm đáp ứng mọi khu vực thị trường. Cũng như nhiều doanh nghiệp dệt may khác, đầu tư đổi mới trang thiết bị là yếu tố quan trọng để nâng cao chất lượng và đa dạng hoá sản phẩm, song khó khăn lớn nhất đối với công ty may HANOTEX hiện nay là vấn đề vốn. Do vậy việc huy động có hiệu quả nguồn vốn trong và ngoài nước là giải pháp quan trọng để tháo gỡ khó khăn đó. Ÿ Thực hiện tốt công tác kiểm tra chất lượng sản phẩm là biện pháp quan trọng để nâng cao chất lượng sản phẩm Công tác kiểm tra chất lượng sản phẩm phải được tiến hành tốt thì mới hạn chế được những tổn thất do những sản phẩm không đạt tiêu chuẩn chất lượng phải trả lại, tạo điều kiện mở rộng khả năng sản xuất, tăng khả năng cạnh tranh của công ty trên thị trường may mặc thế giới. Quan trọng hơn nữa là giữ được chữ tín của công ty trên thị trường, đó là tài sản vô hình rất quí báu để đảm bảo cho công ty chỗ đứng vững chắc và ngày càng phát triển trên thị trường thế giới góp phần tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu trực tiếp của công ty. Đúng vậy, dù công ty có cố gắng bao nhiêu về mặt thời gian giao hàng nhưng nếu sản phẩm không đáp ứng những quy định tiêu chuẩn thị trường nhập khẩu cũng không được thị trường chấp nhận và chỉ là sự lãng phí vô ích. Chất lượng không đạt tiêu chuẩn cao của nước nhập khẩu chính là sự tồn tại đang cản trở khả năng chuyển sang xuất khẩu trực tiếp của công ty may HANOTEX. Do vậy trước hết nhận thức công ty cần coi công tác kiểm tra chất lượng sản phẩm, phải xem xét nó là một bộ phận không thể thiếu khi doanh nghiệp theo đuổi mục tiêu chất lượng. Trước mắt công ty phải đảm bảo đáp ứng tốt hơn những quy định tiêu chuẩn của thị trường nhập khẩu thông qua các khách hàng của doanh nghiệp. Đó cũng chính là cơ sở để công ty phấn đấu nâng cao trình độ sản xuất và chất lượng sản phẩm cuả mình. Để làm được điều đó công ty cần chú trọng công tác chăm lo đào tạo bồi dưỡng trình độ chuyên môn cho đội ngũ cán bộ công nhân viên trong việc kiểm tra chất lượng sản phẩm để họ không chỉ là những người có vai trò quan trọng trong việc kiểm tra chất lượng sản phẩm mà còn là những trợ thủ đắc lực cố vấn trong việc tham gia sáng kiến cải tiến nâng cao chất lượng sản phẩm của Công ty về tiêu chuẩn chất lượng. Ÿ Tiến tới áp dụng hệ thống quản trị chất lượng ISO 9000 – 2000 Trong những năm qua chất lượng sản phẩm của công ty mặc dù đã được nâng lên đáng kể nhưng so với các doanh nghiệp may khác trong khu vực và trên thế giới, công ty vẫn phải nỗ lực hơn trong công tác cải tiến và nâng cao chất lượng sản phẩm của mình. Để cho sản phẩm may mặc của Công ty may HANOTEX chiếm lĩnh trên thị trường và phát triển trên thị trường thế giới gắn với các biểu tượng uy tín chất lượng cao của nhãn hiệu Việt Nam thì việc tiến tới áp dụng ISO 9000: 2000 là mục tiêu chất lượng hàng đầu của công ty. Do đó trong tương lai công ty sẽ tiến tới áp dụng hệ thống quản trị chất lượng ISO 9000: 2000 - Đây là phương tiện hiệu quả giúp các nhà sản xuất tự xây dựng và áp dụng hệ thống đảm bảo chất lượng ở cơ sở mình, đồng thời cũng là phương tiện để bên mua có thể căn cứ vào đó tiến hành kiểm tra người sản xuất, kiểm tra sự ổn định về sản xuất và chất lượng trước khi tiến hành ký hợp đồng. 3.3. Một số kiến nghị đối với Nhà nước 3.3.1. Đầu tư phát triển ngành dệt, có sự cân đối giữa ngành dệt với ngành may Ngành dệt trong nước hiện nay vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu nguyên phụ liệu ngành may. Các doanh nghiệp may hầu như phải nhập khẩu nhất là với các mặt hàng cao cấp, mặt hàng có chất lượng cao. Đặc biệt đối với các mặt hàng gia công xuất khẩu thì 100% các loại vải là do nhập khẩu. Còn vải trong nước sản xuất chất lượng thấp, chưa đồng bộ, chưa đạt tiêu chuẩn cho xuất khẩu. Mặc dù, Tổng công ty Dệt may Việt Nam ra đời với phương châm “may là lối ra cho dệt” nhưng vẫn chưa đem lại hiệu quả, vẫn còn tồn tại “dệt đi dường dệt còn may đi đường may”. Lượng hàng dệt nhập khẩu vào Vệt Nam vẫn là một con số lớn. Vì vậy phương châm “may là lối ra cho dệt” cần được thực hiện một cách triệt để và việc đầu tư cho dệt cần được làm theo chiều sâu, hình thành một số cụm sản xuất dệt, in, nhuộm hoàn tất có công nghệ hiện đại nhằm đáp ứng vải cho may xuất khẩu… Điều đó vừa tạo cho sự phát triển cho cả may và dệt của Việt Nam. Hơn nữa, Tổng công ty Dệt may Việt Nam cũng cần phải tạo ra được sự kết hợp hài hoà giữa dệt và may. Ngành dệt hiện nay cần phải có những hoạt động cụ thể: Có quy hoạch phát triển hàng dệt may theo chiều sâu nhằm đảm bảo cân đối giữa hai ngành dệt và may. Có quy hoạch sắp xếp lại ngành dệt: để có thể phối hợp phát huy năng lực hiện có bổ sung các trang thiết bị mới để dệt ra vải mà người tiêu dùng trong nước ưa thích để tạo nguồn cho ngành may xuất khẩu . Có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp may sử dụng nguồn nguyên liệu, phụ liệu trong nước. Trên đây là một số giải pháp nhằm tạo đà cho phát triển ngành dệt, qua đó hỗ trợ các doanh nghiệp may trong quá trình sản xuất và xuất khẩu. 3.3.2. Ban hành những chính sách, chế độ nhằm khuyến khích các doanh nghiệp nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh Đứng trước xu thế quốc tế hoá và khu vực hoá đời sống kinh tế xã hội, các doanh nghiệp Việt Nam phải chấp thuận các cuộc cạnh tranh không khoan nhượng. Hơn nữa, cùng với việc gia nhập khối AFTA, Việt Nam đang chuẩn bị gia nhập tổ chức thương mại quốc tế (WTO) sự cạnh tranh bình đẳng lúc đó không chỉ đối với các nước trong khu vực mà còn mở rộng ra đối với các nước trên thế giới tham gia WTO. Đứng trước cạnh tranh ngày càng trở nên gay gắt đó, để có thể giúp cho các doanh nghiệp bước đầu làm ăn có hiệu quả trên thương trường và có thể nâng cao uy tín hơn nữa đảm bảo sự thành công của mình cũng như giúp cho các doanh nghiệp chưa có hiệu quả chuyển sang có lãi và bước đầu tạo được uy tín và chỗ đứng trên thị trường thì đòi hỏi phải có sự hỗ trợ của Nhà nước. Thứ nhất: Nhà nước cần ban hành chính sách giúp cho các doanh nghiệp có quy mô nhỏ có thể vay vốn của các tổ chức tín dụng để mua sắm máy móc thiết bị hiện đại phù hợp, xây dựng nhà xưởng mở rộng sản xuất kinh doanh. Đồng thời căn cứ vào mức độ phát triển của khoa học kỹ thuật về loại máy móc thiết bị, Nhà nước cũng như Tổng Công ty xem xét và cấp nguồn khấu hao cho Công ty để tiến hành đầu tư mua sắm máy móc thiết bị. Thứ hai: Nhà nước có các giải pháp hỗ trợ các doanh nghiệp thâm nhập vào thị trường mới. Nhà nước tham gia đàm phán, ký kết mở rộng hạn ngạch may mặc cho Việt Nam và EU, hướng vào thị trường rộng lớn nhưng khó tính như Bắc Mỹ, Nhật Bản. Đồng thời Nhà nước đứng ra bảo lãnh cho các doanh nghiệp nhỏ có thể tham gia vào việc gia công hàng xuất khẩu cho các nước thuộc khu vực này. Nhà nước xem xét việc cấp thêm hạn ngạch cho doanh nghiệp vào EU để tạo thêm công ăn việc làm, nâng cao đời sống cho người lao động. Thứ ba: Do đặc điểm ngành may mặc, số lượng lao động chiếm tỷ lệ tương đối cao, do đó Nhà nước cần ban hành các chính sách chế độ ưu đãi cho lao động nữ nhằm khuyến khích họ nhiệt tình sản xuất, nâng cao năng suất lao động. Cụ thể như vấn đề đề bạt cán bộ trong doanh nghiệp, vấn đề nâng bậc lương, độ tuổi nghỉ hưu, vấn đề bảo hộ lao động, bảo vệ sức khoẻ cho người lao động. Thứ tư: Quản lý vĩ mô đối với tất cả các doanh nghiệp, tổ hợp sản xuất hàng may mặc xuất khẩu trên phạm vi cả nước, nhằm hướng các doanh nghiệp ở bất kỳ thành phần kinh tế nào cũng theo định chế lợi ích chung của ngành may Việt Nam để tránh tình trạng cạnh tranh không lành mạnh, dẫn tới việc khách hàng ép giá gây thiệt hại cho doanh nghiệp. Tránh tình trạng hiện nay, Tổng Công ty dệt may Việt Nam chỉ hỗ trợ về các mặt cũng như chỉ có chính sách quản lý vĩ mô chung. Ngoài ra các doanh nghiệp may mặc khác không nằm trong Tổng Công ty may thì vẫn phải cạnh tranh quyết liệt, không có sự hỗ trợ ở tầm vĩ mô. 3.3.3. Đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại, hỗ trợ cho các doanh nghiệp Để giữ vững vị trí và thị trường truyền thống đồng thời mở rộng thâm nhập các thị trường khác một cách suôn sẻ và hiệu quả, các doanh nghiệp may Việt Nam cần có sự hỗ trợ của Nhà nước một cách thích đáng. Chính phủ Việt Nam cần nỗ lực hơn nữa trong quan hệ đàm phán với các nước để giảm thuế nhập khẩu của các nước này đối với hàng hoá Việt Nam nói chung và hàng dệt may nói riêng, nhằm mở rộng hơn nữa cho hàng xuất khẩu Việt Nam. Thắt chặt và quan tâm các mối quan hệ song phương và đa phương đã xây dựng được nhằm tạo cơ hội cho ngành. Tổ chức các hoạt động tuyên truyền quảng cáo bán hàng như hội chợ triển lãm hàng may mặc Việt Nam tại các thị trường nước ngoài nhằm giới thiệu hàng dệt may Việt Nam với các thị trường đó. Tổ chức nghiên cứu thị trường, giá cả, hỗ trợ và tư vấn cho các Công ty may xuất khẩu như: phát huy chức năng Phòng Thương Mại và Công Nghiệp Việt Nam, thành lập một trung tâm giao dịch và xúc tiến xuất khẩu hàng dệt may, đảm nhiệm chức năng tìm kiếm thị trường, môi giới, thu thập xử lý thông tin về thị trường về khách hàng một cách kịp thời, khảo sát thực tế thị trường. Nghiên cứu ứng dụng các nghiệp vụ marketing để phát hiện thêm nguồn khách hàng tiềm năng, thực hiện các hoạt động khuếch trương cần thiết giúp cho các mặt hàng mới của dệt may Việt Nam tìm được chỗ đứng vững chắc và phát triển trên thị trường này. 3.3.4. Cải tiến thủ tục xuất, nhập khẩu Một khó khăn đối với các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu hiện nay là những rườm rà trong thủ tục xuất nhập khẩu hàng hoá, mỗi một lô hàng trước khi được nhập vào hay xuất ra khỏi biên giới một quốc gia đều phải tiến hành khai báo thủ tục hải quan. Để có thể quản lý lượng hàng hoá ra vào một nước việc làm đó là tất yếu, song Việt Nam là một trong những nước có quy chế về thủ tục rườm rà trên thế giới mặc dù trong những năm gần đây vấn đề này đã được lưu tâm và đã có phần cải thiện so với trước đây. Trong môi trường quốc tế hoá nền kinh tế quốc dân, nhu cầu hội nhập với thế giới đã là một điều kiện tiên quyết để phát triển nền kinh tế đất nước thì việc khai thông các thủ tục chồng chéo một cách hợp lý nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp kinh tế nước ngoài tiếp xúc và tiến tới hợp tác làm ăn với các doanh nghiệp Việt Nam là rất cần thiết. Việc làm này không chỉ có lợi ích như vậy mà kéo theo đó là cơ hội thu hút đầu tư nước ngoài, tạo động lực phát triển kinh tế trong nước. Bên cạnh đó, bộ máy hành chính trong ngành sẽ được thu gọn tránh tình trạng cồng kềnh. Một điều quan trọng nữa của việc đơn giản một cách hợp lý các thủ tục giấy tờ, đó là hạn chế được tình trạng nhũng nhiễu của các cán bộ Hải quan, tránh tình trạng chậm chạp ảnh hưởng đến tiến độ sản xuất và thời gian giao hàng. Các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu nói chung và các doanh nghiệp xuất khẩu hàng may mặc nói riêng, trước khi tiến hành xuất nhập khẩu, phải có được hạn ngạch do Bộ Thương Mại cấp. Và đây lại là một vấn đề nữa trong việc hoàn thành thủ tục xin hạn ngạch. Để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp hoàn thành công việc này một cách đơn giản hơn, dành thời gian và sức lực cho nhiệm vụ phát triển doanh nghiệp góp phần trong công cuộc CNH - HĐH đất nước, chính phủ cũng cần làm gọn hơn thủ tục này. Một số thủ tục cụ thể đặc trưng đối với hoạt động gia công hàng xuất khẩu trong quá trình thực hiện hợp đồng: - Đơn giản hoá thủ tục nhập khẩu nguyên phụ liệu, hàng mẫu, bản vẽ hiện vẫn còn rườm rà, mất thời gian gây khó khăn cho doanh nghiệp . - Cải tiến và đơn giản hoá thủ tục hoàn thuế cho các doanh nghiệp sản xuất hàng nguyên phụ liệu cho các doanh nghiệp khác may xuất khẩu. - Cho phép các doanh nghiệp xuất khẩu nộp thuế giá trị gia tăng đối với nguyên liệu đầu vào sau khi xuất khẩu, thay vì phải nộp ngay sau khi hàng về. kết luận Xuất khẩu hàng may mặc đang là vấn đề sôi động trong hoạt động thương mại của nước ta. Hiện nay giá trị do xuất khẩu hàng may mặc đem lại cho nền kinh tế nước ta rất lớn. Để có thể phát triển và đưa ngành Dệt may Việt Nam trở thành một trong những ngành công nghiệp mũi nhọn, đòi hỏi mỗi doanh nghiệp phải cố gắng phấn đấu và hoàn thiện mình. Là một trong những doanh nghiệp thuộc ngành dệt may Việt Nam, Công ty may HANOTEX cũng có những nét đặc trưng chung của ngành dệt may, song cũng có những nét đặc thù. Hoạt động sản xuất chính của Công ty HANOTEX là gia công hàng may mặc xuất khẩu. Tuy mới đi vào hoạt động trong thời gian ngắn nhưng nhìn chung hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty được tiến hành thuận lợi và ngày càng khẳng định được chỗ đứng của mình trên thương trường. Trên đây là toàn bộ thực trạng và một số ý kiến góp phần đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu của Công ty may HANOTEX. Bên cạnh những thành tựu đạt được còn có rất nhiều hạn chế nhưng toàn bộ cán bộ và công nhân viên của Công ty may HANOTEX sẽ nỗ lực đưa Công ty phát triển vững mạnh, đưa sản phẩm dệt may của Công ty trở thành một nhãn hiệu có uy tín trên thế giới. Mục lục Bảng 2: một số giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hàng dệt may tại công ty HANOTEX. Tổ chức tốt công tác nghiên cứu và tiếp cận thị trường. Mở rộng quan hệ với các đối tác nước ngoài. Mở rộng hình thức xuất khẩu trực tiếp. Nâng cao chất lượng hậu cần kinh doanh. Không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm. Bảng 3: giải pháp “không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm” Chăm lo đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ kỹ thuật và công nhân lành nghề. Tiếp tục đầu tư đổi mới thiết bị công nghệ hiện đại, đồng bộ, có trọng điểm nhằm tạo sự căn bản về chất lượng sản phẩm. Tiến hành tốt công tác kiểm tra chất lượng sản phẩm là biện pháp quan trọng nâng cao chất lượng sản phẩm. Tiến tới áp dụng hệ thống quản trị chất lượng ISO 9000 - 2000. Bảng 5: Kết quả sản xuất kinh doanh – công ty HANOTEX. Bảng: Kim ngạch xuất khẩu và doanh thu xuất khẩu. Chỉ tiêu ĐV tính 1999 2000 2001 2002 Kim ngạch XK USD 3.082.800 3.463.876 4.004.675 3.577.086 Doanh thu XK Tr Đ 44.535 49.000 58.077 48.680,7 Bảng: báo cáo thực hiện doanh thu và lợi nhuận năm 2001-2002. Đơn vị : triệu đồng Chỉ tiêu KH 2001 TH 2001 TH/KH KH 2002 TH 2002 TH/KH 1. Tổng doanh thu 52.000 63.890 122,87 58.000 52.804,28 91,04 2. Doanh thu thuần: -Doanh thu XK +Gia công +Bán đứt +XK uỷ thác -Doanh thu nội địa +Gia công +Bán đứt +Bán khác 52.000 50.000 42.000 7.540 460 2.000 539,5 1.430 30,5 63.890 58.077 48.048 10.091 836 5.812 2.809 2.905 97 122,87 116,15 114,4 133,84 181,92 290,63 420,74 103,2 319,79 58.000 55.000 45.500 9.450 550 2.500 755 1.700 45 52.804,28 48.680,70 40.187,10 7.930 563,21 4.123,6 1.029,4 3.020,7 73,53 91,04 88,50 88,32 83,90 102,40 164,90 136,34 177,70 163,40 3. Lợi nhuận sau thuế 1.232 1.488,8 120,84 1.250 1.301,3 104,10 Bảng6: Hình thức xuất khẩu bảng: so sánh giá trung bình sản phẩm áo Jăcket giữa hai phương thức xuất khẩu STT Chỉ tiêu Đơn vị 2001 2002 1 Số lượng gia công đơn thuần Chiếc 465.520 489.550 2 Trị giá gia công đơn thuần USD 1.536.216 1.223.875 3 Số lượng gia công MNL - BTP Chiếc 53.750 94.510 4 Trị giá gia công MNL – BTP USD 1.393.750 2.173.730 5 Giá một sản phẩm: - Gia công đơn thuần - Gia công MNL – BTP USD USD USD 3,3 25 2,5 23 Bảng: so sánh tỷ lệ gia công đơn thuần và gia công MNL-BTP Chỉ tiêu Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 Số tuyệt đối Số tương đối Số tuyệt đối Số tương đối Số tuyệt đối Số tương đối Số tuyệt đối Số tương đối (Tr đ) (%) (Tr đ) (%) (Tr đ) (%) (Tr đ) (%) Tổng doanh thu XK 44.535 100 49.000 100 58.077 100 48.680,7 100 Gia công đơn thuần 44.535 100 43.120 88 41.815,4 72 34.076,5 65 Gia công MNL - BTP 0 0 5.880 12 16.261,6 28 14.604,2 35

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docA0408.doc
Tài liệu liên quan