Đề tài Hoạt động xuất khẩu hàng hóa của các doanh nghiệp Việt Nam

Đất nước chúng ta vừa kỉ niệm tròn 25 năm ngày hoàn toàn giải phóng đất nước, hai miền Nam- Bắc thu về một mối. Trong công cuộc xây dựng đất nước hiện nay, tăng cường hoạt động Kinh tế Đối ngoại là mục tiêu hàng đầu của chính phủ và nhân dân Việt Nam. Trong đó, nổi bật và rõ nét hơn cả là hoạt động ngoại thương mà cụ thể ở đây em muốn đề cập tới là hoạt động xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang thị trường nước ngoài.

doc35 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1606 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hoạt động xuất khẩu hàng hóa của các doanh nghiệp Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
uộc khủng hoảng Tài chính- Tiền tệ năm 1997) và năm 1998 khoảng 502,4 triệu USD tức là gấp 5 lần so với năm 1994 (năm đầu tiên sau khi thực hiện bãi bỏ lệnh cấm vận. Ta có thể biểu diễn việc tăng giá trị xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam sang thị trường Mỹ bằng biểu đồ: Biểu đồ biểu diễn kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của các doanh nghiệp Việt Nam sang thị trường Mỹ Tình hình cụ thể từng mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Mỹ được phản ánh trong bảng dưới đây: Một số mặt hàng xuất khẩu điển hình của Việt Nam sang thị trường Mỹ qua các năm 1994,1995,1996: S T T Loại hàng hóa Năm 1994 Năm 1995 Năm 1996 xuất khẩu (1000 USD) Tỷ lệ trong tổng xuất khẩu (%) xuất khẩu (1000 USD) Tỷ lệ trong tổng xuất khẩu (%) xuất khẩu (1000 USD) Tỷ lệ trong tổng xuất khẩu (%) 1 Cà phê chưa rang tách cafein 29017 53,8 146025 70,3 115708 34,3 2 Tôm đông lạnh 5352 9,9 17067 8,2 28896 8,6 3 Gạo đã xay sát hoặc bán xay sát 5339 9,9 6568 1,9 4 Cafe đã rang và đã tách cafein 2145 4,0 5642 2,7 5 áo nam vải côtông 1666 3,1 6899 3,3 9477 2,8 6 Cùi dừa thô và đã tách dầu 1554 2,9 7 Than anthractice chưa đóng bánh 1548 2,9 8 Chè đen 999 1,9 9 Găng, bao tay 986 1,8 8212 4,0 6014 1,8 10 Côngtenơ phủ nhựa hoặc vải 651 1,2 11 Giày da đế cao su 3184 1,5 7899 2,3 12 Tinh dầu (Essential oils) 1606 0,8 13 Hạt cacao nguyên hoặc gãy vỡ 1408 0,7 14 Cao su đã được chỉ định kỹ thuật 1279 0,6 15 Cá đông lạnh đã lọc Mỹương 1257 0,6 16 Dầu lửa 85834 25,4 17 Giày dép cao su, nhựa dẻo 12658 3,8 18 Giày dép thể thao,đế nhựa cao su 12463 3,7 19 Hạt điều tươi và sấy khô 8015 0,4 Tổng số 49257 91,3 192570 92,7 293532 87,0 Bảng 4 Qua bảng ta thấy nổi lên hai đặc điểm nổi bật: Thứ nhất, hàng nông hải sản chiếm phần chủ yếu trong cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Mỹ và thường tập trung vào một số ít loại mặt hàng, chưa được đa dạng hóa. Năm 1994, 10 mặt hàng lớn nhất tính theo hệ điều hòa HS 6 chữ số (6-digit Harmonized System) chiếm 91,3% tổng giá trị xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ, đến năm 1995 tỷ lệ này là 92,7% và năm 1996 tỷ lệ này là 87%. Trong 10 loại mặt hàng đầu bảng có hai loại là cà phê và tôm đông lạnh chiếm 63,7% tổng giá trị xuất khẩu của năm 1994 và 78,5% của năm 1995. Đến năm 1996 có thêm mặt hàng dầu lửa tăng mạnh, mặt hàng này cùng với hai loại mặt hàng trên chiếm 68,3% tổng giá trị xuất khẩu cả năm của Việt Nam sang thị trường Mỹ. Những mặt hàng xuất khẩu quan trọng khác của Việt Nam sang thị trường Mỹ là gạo, quần áo, giày, dép, tất, sản phẩm nhựa và cao su. Thứ hai, hàng xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Mỹ chưa ổn định, trong 10 mặt hàng đầu bảng của mỗi năm chỉ còn 5 loại mặt hàng được tiếp tục cho năm sau, còn 5 mặt hàng khác là 5 mặt hàng xuất khẩu mới tìm được thị trường. Ví dụ như năm 1995 chỉ còn 5 mặt hàng số 1,2,4,5,9 của năm 1994 được tiếp tục nằm trong danh sách 10 mặt hàng đầu bảng “top ten”; đến năm 1996 cũng chỉ có 5 mặt hàng số 1,2,3,5,9 của năm 1994 được tiếp tục nằm trong danh sách “top ten”, 5 mặt hàng khác là hàng mới. Mỹ hiện nay là thị trường nhập khẩu cà phê hạt lớn nhất của Việt Nam, chiếm trên 25% tổng số xuất khẩu cà phê của Việt Nam. Trong vụ cà phê tính từ 1/11/1998 đến 31/3/1999, Việt Nam đã xuất khẩu khoảng 243.000 tấn cà phê qua cảng Thành phố Hồ Chí Minh, trong đó xuất khẩu sang thị trường Mỹ 43.264 tấn, Italia là 24.174 tấn, Tây Ban Nha là 19.271 tấn, Pháp là 13.923 tấn và Anh là 13.040 tấn. Giá cà phê trên thế giới hiện nay đang có lợi cho người trồng cà phê hơn các loại cây nông sản khác. Mỹ cũng là một thị trường quan trọng đối với hàng hải sản xuất khẩu, hiện chiếm khoảng 10% tổng giá trị hải sản xuất khẩu của Việt Nam. Dự kiến đến năm 2005, thị trường Mỹ có thể tiêu thụ tới 20% tổng giá trị hải sản xuất khẩu của Việt Nam. Hiện nay phần lớn hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ là hàng nông- hải sản, nhưng chỉ mới đạt được vài trăm triệu đô la/ năm, con số đó quả là còn rất nhỏ bé so với tổng giá trị nhập khẩu hàng nông sản của Mỹ khoảng 50 tỷ đô la mỗi năm 1.3 Quan hệ thương mại giữa hai nước khi chưa kí được hiệp định thương mại song phương: Có thể nói, Việt Nam tuy đã thoát khỏi lệnh cấm vận của Mỹ và hàng hóa được phép xâm nhập vào thị trường Mỹ nhưng đây lại là một trở ngại lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam khi phải cạnh tranh “không công bằng” với hàng hóa ngoại nhập trên đất Mỹ. Nguyên nhân của trở ngại này là do trong suốt 5 năm sau đó hai nước chưa ký được hiệp định thương mại song phương và do Mỹ chưa giành quy chế tối huệ quốc (MFN) hay quy chế về quan hệ buôn bán bình thường (NTR) cho Việt Nam. Do chưa được cấp quy chế tối huệ quốc nên hầu hết hàng hóa của Việt Nam xuất khẩu vào thị trường Mỹ phải chịu mức thuế suất rất cao. Ta có thể thấy rõ sự thiệt thòi của các doanh nghiệp Việt Nam khi xuất khẩu một số mặt hàng điển hình sang thị trường Mỹ qua bảng thống kê sau: Có tối huệ quốc Không có tối huệ quốc Một số sản phẩm giầy dép 6% 35% Một số loại đồng hồ đeo tay 6,25% 80% Một số loại quần áo bằng vải bông 10% 90% Bảng thống kê trên do giám đốc phòng thương mại Việt Nam- Hoâ Kỳ đưa ra Bảng 5 Đến nam 1998, Fukase và Martin là hai chuyên gia kinh tế của Ngân hàng Thế giới đã liệt kê ra 42 loại hàng hóa mà Việt Nam có khả năng xuất khẩu sang thị trường Mỹ nhưng phải chịu mức thuế quan rất cao nếu không được hưởng quy chế tối huệ quốc. Các loại hàng hóa này được nêu trong bảng sau: Tỷ lệ thuế quan của Hoa Kỳ đối với hàng xuất khẩu của Việt Nam khi có THQ và không có THQ S T T Loại hàng hóa Bình quân đơn giản(%) Bình quân theo trọnh lượng hàng ( Weighted) (%) Có THQ Không THQ Trọnglượng nhập khẩu 1994 Trọnglượng nhập khẩu 1995 Trọnglượng nhập khẩu 1996 1 Gạo 1,7 6,5 - - - - - - 2 Lúa mỳ 3,5 10,0 - - - - - - 3 Ngũ cốc 0,6 4,0 - - - - 1,4 3,6 4 Rau, quả, hạt 5,4 20,8 0,2 1,8 0,3 2,9 0,1 1,2 5 Hạt có dầu 8,2 35,4 0,0 1,6 - - 0,0 0,0 6 Míađườngcủ cải đường 2,1 - - - - - 2,5 - 7 Sợi thực vật 0,3 1,6 - - - - 0,0 0,0 8 Sản phẩm cây trồng 2,8 18,2 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 9 Bò, cừu, dê, ngựa 0,7 7,8 - - - - - - 10 Sản phẩm động vật 1,2 5,6 3,1 12,4 2,5 14,2 1,5 11,1 11 Len, tơ tằm 0,6 0,0 - - - - - - 12 Lâm sản 0,0 1,7 - - - - 0,0 0,0 13 Hải sản 0,4 3,9 0,0 0,0 0,2 4,2 0,0 0,0 14 Than 0,0 0,0 0,0 0,0 - - - - 15 Dầu lửa 0,2 0,6 - - - - 0,4 1,3 16 Ga 0,0 0,0 - - - - - - 17 Khoáng sản 0,7 10,0 3,4 7,5 1,1 10,0 1,3 10,3 18 Thịt bò, cừu, dê, ngựa 3,4 23,9 - - - - - - 19 Sản phẩm thịt 4,7 23,1 - - - - - - 20 Mỡ và dầu thực vật 3,7 12,8 0,0 - - - - - 21 Sản phẩm sữa 27,8 29,9 - - - - - - 22 Gạo đã chế biến 5,8 23,6 8,8 35,0 8,8 35,0 8,8 35,0 23 Đường 10,3 20,0 - - - - - - 24 Thực phẩm 5,5 19,2 0,3 1,1 0,3 1,3 0,5 1,9 25 Sản phẩm đồ uống và thuốc lá 16,8 92,0 2,8 18,1 4,5 22,1 2,2 17,4 26 Hàng dệt 10,3 55,1 6,7 63,8 9,6 58,2 4,4 38,5 27 Hàng may mặc 13,4 68,9 13,5 56,4 13,1 52,5 14,3 58,0 28 Sản phẩm da 5,6 33,0 11,9 46,3 9,2 28,4 8,4 22,8 29 Sản phẩm gỗ 2,1 29,4 3,3 38,7 3,5 38,9 3,5 37,3 30 Sản phẩm giấy in ấn 1,3 22,7 0,9 21,9 0,3 4,1 1,6 25,4 31 Sản phẩm dầu lửa, than 1,3 8,6 - - 0,0 4,3 - - 32 Sản phẩm hóa chất, cao su, nhựa 4,3 30,3 5,3 24,5 6,4 25,1 30,8 49,6 S T T Loại hàng hóa Bình quân đơn giản(%) Bình quân theo trọnh lượng hàng ( Weighted) (%) Có THQ Không THQ Trọnglượng nhập khẩu 1994 Trọnglượng nhập khẩu 1995 Trọnglượng nhập khẩu 1996 33 Sản phẩm khoáng chất 4,3 41,6 4,1 42,4 3,6 40,2 3,8 40,4 34 Kim loại màu 3,7 21,5 - - - - - - 35 Kim loại 3,0 28,0 0,0 0,0 0,0 0,1 0,0 1,1 36 Sản phẩm kim loại 3,6 38,9 - - 3,3 43,4 4,5 45,0 37 Xe môtô và phụ tùng 5,2 18,9 - - - - - - 38 Thiết bị vận tải 3,0 28,4 - - - - 2,8 28,3 39 Thiết bị điện tử 2,8 34,0 2,1 35,0 - - 4,1 36,8 40 Máy móc và thiết bị 2,9 37,6 3,0 35,7 1,8 46,1 2,4 30,1 41 Hàng chế tạo 3,8 46,7 5,0 47,7 5,6 39,7 13,1 40,9 Theo bảng 6, tổng mức thuế quan đánh vào hàng hóa Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Mỹ khi đã được hưởng quy chế tối huệ quốc sẽ giảm từ 35% xuống 4,9% trong đó có những loại hàng mà Việt Nam có khả năng xuất khẩu được nhiều như hàng may mặc có thể giảm mức thuế quan từ 68,9% xuống 13,4% hay hàng dệt từ 55,1% xuống 10,3%. Ta có thể lấy một ví dụ điển hình cho sự kém khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam khi xâm nhập vào thị trường Mỹ: Xuất khẩu rau quả Việt Nam: Tuy loại hàng này đã thâm nhập vào thị trường Mỹ mấy năm gần đây nhưng việc kinh doanh loại hàng này hết sức khó khăn do tiêu chuẩn chất lượng và giá bán. ở đây em muốn nói đến giá bán. Năm 1999, Tổng công ty rau quả xuất khẩu vào thị trường này với mức kim ngạch cao nhất (tính đến hết tháng 11/1999) là 2,1 triệu USD chiếm 10,5% lượng nhập khẩu của thị trường Mỹ. Một trở ngại lớn nhất khi các doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu mặt hàng này vào thị trường Mỹ là thuế suất quá cao do chưa có quan hệ thương mại bình thường với số liệu như sau: 44 USD/ tấn gấp 11,6 lần các đối thủ cạnh tranh của ta như Thái Lan chỉ có 3,8 USD/ tấn do Thái Lan đã có quan hệ thương mại bình thường với Mỹ. Với mức thuế suất cao đánh vào mặt hàng xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam sẽ làm cho giá bán của các mặt hàng đó tăng lên đáng kể và như vậy chúng ta khó có thể đứng vững trên thị trường Mỹ được lâu do giá bán cao hơn các sản phẩm có cùng chất lưọng của các đối thủ cạh tranh. Qua bảng thống kê và ví dụ trên ta thấy các doanh nghiệp Việt Nam khi xuất khẩu hàng hóa sang thị trường Mỹ phải chịu vô vàn thiệt thòi do Việt Nam chưa có quan hệ thương mại bình thường với chính phủ Mỹ. 2. Hiệp định thương mại được kí kết giữa hai nước và những cơ hội lớn cho hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường Mỹ: Có thể nói, Hiệp định thương mại được kí kết giữa hai nước vào ngày 13/7/200 đã như mở rộng cửa để đón các doanh nghiệp Việt Nam vào thị trường Mỹ và ngược lại. Sở dĩ chúng ta nói vậy là vì từ bây giờ chúng ta được đối xử bình đẳng như các nước khác trong quan hệ thương mại với Mỹ. Như vậy chúng ta thử tìm hiểu xem những nội dung chủ yếu có liên quan tới vấn đề này của Hiệp định thương mại Việt- Mỹ: Điều 1: Quy chế Tối huệ quốc: 1. Mỗi bên dành ngay lập tức và vô điều kiện cho hàng hóa có xuất xứ tại hoặc được xuất khẩu từ lãnh thổ của bên kia sự đối xử không kém thuận lợi hơn sự đối xử dành cho hàng hóa tương tự có xuất xứ tại hoặc được xuất khẩu từ lãnh thổ của bất cứ nước thữ ba nào khác trong tất cả các vấn đề liên quan tới: a) Mọi loại thuế quan và phí đánh vào hoặc có liên quan đến việc nhập khẩu hay xuất khẩu, bao gồm cả các phương pháp tính các loại thuể quan và phí đó; b) Phương thức thanh toán đối với hàng nhập khẩu, xuất khẩu và việc chuyển tiền quốc tế của các khoản thanh toán aos; c) Những quy định và thủ tục có liên quan đến xuất nhập khẩu, kể cả những quy định về hoàn tất thủ tục hải quan, quá cảnh, lưu kho và chuyển tải; d) Mọi loại thuế và phí khác trong nước đánh trực tiếp hoặc gián tiếp vào hàng nhập khẩu; e) Luật, quy định và các yêu cầu khác có ảnh hường đến việc bán, chào bán, mua, vận tải, phân phối, lưu kho và sử dụng hàng hóa lưu kho trong thị trường nội địa; f) Việc áp dụng các hạn chế định lượng và cấp giấy phép. 2. Các quy định tại khoản 1 của điều này sẽ không áp dụng đối với hành động của mỗi bên phù hợp với nghĩa vụ của bên đó trong Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) và các hiệp định trong khuôn khổ của tổ chức này. Tuy vậy, mỗi bên sẽ dành cho các sản phẩm có xuất xứ tại lãnh thổ bên kia sự đối xử tối huệ quốc trong việc giảm thuế do các đàm phán đa phương dưới sự bảo trợ của WTO mang lại với điều kiện là bên đó cũng dành lợi ích đó cho tất cả các thành viên của WTO Điều 2: Đối xử quốc gia: 1. Mỗi bên điều hành các biện pháp thuế quan và phi thuế quan có ảnh hưởng tới thương mại để tạo cho hàng hóa của bên kia những cơ hội cạnh tranh có ý nghĩa đối với các nhà cạnh tranh trong nước. 2. Theo đó,không bên nào dù trực tiếp hay gián tiếp quy định bất cứ loại thuế hoặc nội địa nào đối với hàng hóa của bên kia nhập khẩu vào lãnh thổ của mình cao hơn mức được áp dụng cho hàng hóa tương tự trong nước. 3. Mỗi bên dành cho hàng hóa có xuất xứ tại lãnh thổ của bên kia sự đối xử không kém thuận lợi hơn sự đối xử dành cho hàng hóa nội địa tương tự về mọi luật, quy định và các yêu cầu khác có ảnh hưởng đến việc bán hàng, chào bán, mua, vận tải, phân phối, lưu kho và sử dụng trong nước. 4. Ngoài những nghĩa vụ trong khoản 2 và 3 của điều này, các khoản phí và biện pháp quy định tại khoản 2 và 3 của điều này sẽ không được áp dụng theo cách khác đối với hàng nhập khẩu hoặc hàng hóa trong nước nhằm tạo ra sự bảo hộ đối với sản xuất trong nước. 5. Các nhĩa vụ tại các khoản 2,3 và 4 của điều này phải tuân thủ các ngoại lệ được quy định tại điều 3 của GATT 1994. 6. Phù hợp với các quy định của GATT 1994, các bên bảo đảm không soạn thảo, ban hành hoặc áp dụng những quy định và tiêu chuẩn kĩ thuật nhằm tạo ra sự trở ngại đối với thương mại quốc tế hoặc bảo hộ sản xuất trong nước. Ngoài ra, mỗi bên dành cho hàng nhập khẩu từ lãnh thổ của bên kia sự đối xử không kém thuận lợi hơn sự đối xử tốt nhất dành cho hàng nội địa tương tự hoặc hàng tương tự có xuất xứ từ bất cứ nước thứ ba nào liên quan tới những quy định và tiêu chuẩn kĩ thuật nêu trên, kể cả việc kiểm tra và chứng nhận đạt tiêu chuẩn. Theo đó các bên: a) Bảo đảm rằng mọi biện pháp vệ sinh hoặc vệ sinh thực vật không trái với các quy định của GATT 1994 chỉ được áp dụng ở mức cần thiết để bảo vệ cuộc sống hoặc sức khỏe của con người, động vật hoặc thực vật được dựa trên cơ sở nguyên lí khoa học và không được duy trì nếu không có bằng chứng đầy đủ (cụ thể như đánh giá mức độ rủi ro) có tính đến những thông tin khoa học sẵn có và điều kiện khu vực có liên quan, chẳng hạn như những vùng không có côn trùng gây hại b) Bảo đảm rằng, những quy định về kĩ thuật không được soạn thảo, ban hành hoặc áp dụng nhằm tạo ra hoặc có tác dụng tạo ra những trở ngại không cần thiếtđối với thương mại quốc tế. Vì mục tiêu này những quy định về kĩ thuật sẽ không mang tính chất hạn chế thương mại cao hơn mức cần thiết để hoàn thành mọi mục tiêu chính đáng có tính đến những rủi ro mà việc không thi hành có thể gây ra. Những mục tiêu chính đáng như vậy bao gồm những yêu cầu: An ninh quốc gia; ngăn ngừa những hành vi lừa đảo; bảo vệ sức khỏa và an toàn cho con người; đời sống và sức khỏe động thực vật hoặc môi trường. Trong việc đánh giá những rủi ro như vậy, các yếu tố liên quan để xem xét bao gồm những thông tin khoa học và kĩ thuật có sẵn, công nghệ chế bến có liên quan hoặc các ý định sử dụng cuối cùng của sản phẩm. 7. Ngay sau khi Hiệp định này có hiệu lực, các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp của công dân và công ty Hoa Kỳ được phép nhập khẩu các hàng hóa và sản phẩm để sử dụng vào hay có liên quan đến hoạt động sản xuất hoặc xuất khẩu của doanh nghiệp đó cho dù các sản phẩm nhập khẩu đó có được xác định một cách cụ thể hay không trong giấy phép đầu tư ban đầu của họ. Điều 3: Những nghĩa vụ chung về thương mại: 1. Các bên nỗ lực tìm kiếm nhằm đạt được sự cân bằng thỏa đáng về các cơ hội tiếp cận thị trường thông qua việc cùng cắt giảm thỏa đáng thuế và các hàng rào phi thuế quan đối với thương mại hàng hóa do đàm phán đa phương mang lại. 2. Các bên sẽ, trừ khi được quy định cụ thể trong một số phụ lục, loại bỏ tất cả các hạn chế, hạn ngạch, yêu cầu cấp giấy phép và kiểm soát xuất khẩu và nhập khẩu đối với mọi loại hàng hóa và dịch vụ, ngoại trừ những hạn chế, hạn ngạch yêu cầu cấp phép và kiểm soát được GATT 1994 cho phép. 3. Trong vòng hai (02) năm kể từ khi hiệp định này có hiệu lực, các bên hạn chế tất cả các loại phí và phụ phí dưới bất kỳ hình thức nào (trừ thuế xuất nhập khẩu và các loại thuế khác theo Điều 2 của chương này) áp dụng đối với hay có liên quan đến xuất nhập khẩu, ở mức tương xứng với chi phí của dịch vụ đã cung ứng và đảm bảo rằng những loại phí và phụ phí đó không phải là một sự bảo hộ gián tiếp đối với sản xuất trong nước hoặc là thuế đánh vào hàng nhập khẩu hay xuất khẩu vì mục đích thu ngân sách. 4. Trong vòng hai (02) năm kể từ khi hiệp định này có hiệu lực, các bên áp dụng hệ thống định giá hải quan dựa trên giá trị giao dịch của hàng nhập khẩu để tính thuế hoặc của hàng hóa tương tự, chứ không dựa vào giá trị của hàng hóa theo nước xuất xứ hoặc giá trị được xác định một cách võ đoán hay không có cơ sở, với giá trị giao dịch là giá thực tế đã thanhn toán hoặc phải thanh toán cho hàng hóa khi được bán để xuất khẩu sang nước nhập khẩu phù hợp với những tiêu chuẩn được thiết lập trong hiệp định về việc thi hành điều 7 của GATT 1994. 5. Trong vòng hai (02) năm kể từ khi hiệp định này có hiệu lực, các bên bảo đảm rằng các khoản phí và phụ phí quy định tại khoản 3 của điều này và hệ thống định giá hải quan quy định tại khoản 4 của điều này được quy định hay thực hiện một cách thống nhất và nhất quán trên toàn bộ lãnh thổ hải quan của mỗi bên. Điều 4 Mở rộng và thúc đẩy Thương mại: Mỗi bên khuyến khích và tạo thuận lợi cho việc tổ chức các hoạt động xúc tiến thương mại như hội chợ, triển lãm, trao đổi các phái đoàn và hội thảo thương mại tại lãnh thổ nước mình và lãnh thổ của bên kia. Tương tự mỗi bên khuyến khích và tạo thuận lợi cho các công dân và công ty của nước mình tham gia vào các hoạt động đó. Tùy thuộc vào luật pháp hiện hành tại lãnh thổ của mình, các bên đồng ý cho phép hàng hóa sử dụng trong các hoạt động xúc tiến đó được nhập khẩu và tái xuất khẩu mà không phải nộp thuế xuất nhập khẩu với điều kiện hàng hóa đó không được bán hoặc chuyển nhượng dưới hình thức khác. Trên đây là một vài điều khoản trích trong Hiệp định thương mại Việt Nam- Hoa Kỳ mà theo em nó liên quan đến nội dung của phần em đang nghiên cứu. Qua đây ta thấy được có rất nhiều điều kiện thuận lợi đang mở ra trước mắt các doanh nghiệp Việt Nam. Điều quan trọng là chúng ta phải biết nắm bắt cơ hội như thế nào phần iii. cơ hội và thách thức của các doanh nghiệp Việt Nam khi thâm nhập hàng hóa vào thị trường Mỹ: 1. Những cơ hội: 1.1 Do bản thân thị trường Mỹ: Như đã nói ở phần I, thị trường Mỹ có sức tiêu thụ vô cùng lớn. Đó là do thu nhập GDP theo đầu người của dân Mỹ cao và do thói quen tiêu dùng của người dân Mỹ. Chính vì vậy, khi xuất khẩu hàng hóa sang thị trường Mỹ các doanh nghiệp Việt Nam sẽ có cơ hội thu được nhiều lợi nhuận do bán hàng với số lượng lớn. Bên cạnh đó, thị trường Mỹ còn có tiềm lực tài chính vô cùng dồi dào. Nguồn tài chính này được tích lũy lâu dài kể từ đại chiến thế giới thứ hai và nó ngày càng phát triển. Hiện nay Mỹ là một nước có hệ thống tài chính ngân hàng vào loại phát triển bậc nhất với trung tâm tài chính thế giới New-york nổi tiếng thế giới. Điều này tạo thuận lợi cho việc thanh toán nhanh và đảm bảo an toàn cho các doanh nghiệp Việt Nam khi buôn bán trên đất Mỹ. Không chỉ có vậy, hệ thống luật pháp nước Mỹ cũng khá dân chủ. Khi đã kinh doanh trên nước Mỹ thì tất cả các thương nhân đều được luật pháp Mỹ bảo vệ cho sự công bằng và chính đáng. Hơn nữa luật pháp Mỹ cũng quy định rất rõ ràng và đầy đủ. Nó ít dẫn đến những hiểu nhầm và sai lầm đáng tiếc có thể xảy ra. Tất cả những điều này khiến các doanh nghiệp Việt Nam có thể hoàn toàn tin tưởng và yên tâm khi buôn bán trên thị trường Mỹ. Một thuận lợi nữa đó là khi các doanh nghiệp Việt Nam đã thâm nhập được vào thị trường Mỹ và đứng vững trên đất Mỹ thì nó sẽ tạo một uy tín lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam xâm nhập được các thị trường nước ngoài khác như: Tây Âu, Nhật Bản, các nước Nam Mỹ khác…. Bởi theo quan niệm thông thường, thị trường Mỹ khá khó tính, nếu mà các doanh nghiệp Việt Nam đã đứng vững trên đất Mỹ thì các nước khác còn gì phải lo ngại về chất lượng hàng hóa cũng như cung cách phục vụ của các doanh nghiệp đó nữa. Đôi khi làm ăn người ta dựa vào uy tín của nhau để hợp tác. Chính vì vậy đây là một thuận lợi vô cùng lớn của các doanh nghiệp Việt Nam. Nó như một tài sản vô hình mà các doanh nghiệp Việt Nam nhận được khi kinh doanh trên đất Mỹ. 1.2 Hiệp định thương mại được kí kết giữa hai nước đã tạo thuận lợi cho sự cạnh tranh hàng hóa của các doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường Mỹ: Nếu như trước đây, chính phủ hai nước chưa kí kết với nhau hiệp định thương mại thì các doanh nghiệp Việt Nam khi xâm nhập hàng hóa vào thị trường Mỹ phải chịu rất nhiều thiệt thòi do phải chịu mức thuế suất cao khiến cho giá cả hàng hóa tăng lên rất nhiều so với các sản phẩm khác có cùng chất lượng của các đối thủ cạnh tranh (như đã phân tích ở mục II.1.3). Nay, khi hiệp định thương mại đã được kí kết. Cánh cửa như mở rộng hơn để đón các doanh nghiệp Việt Nam bước vào thị trường Mỹ. Vì ở phần II.2 em đã trình bày sơ qua nội dung của hiệp định có liên quan đến đề tài nên sau đây em chỉ xin được nói tóm gọn một vài ý như sau: Thứ nhất là những quy định trong Thương mại hàng hóa: Nó quy định hai bên ngay lập tức và vô điều kiện dành cho nhau Quy chế Tối huệ quốc sau khi hiệp định có hiệu lực: Điều này cũng được áp dụng với hàng dệt, may của ta xuất khẩu vào thị trường Mỹ. Trong thương mại hàng hóa ta có quyền tham gia ngay lập tức vào việc phân phối hàng hóa tại Mỹ nếu chúng ta có khả năng. Còn sau một thời gian nhất định, theo một lộ trình cụ thể, Mỹ mới được tham gia mạng lưới phân phối ở nước ta. Chúng ta thỏa thuận với Mỹ về lộ trình giảm thuế cho một số mặt hàng do chúng ta là nước đang phát triển, lại chưa là thành viên của WTO nên cam kết số thuế phải giảm thuế suất chưa nhiều so với các nước khác. Thứ hai là những quy định trong thương mại dịch vụ: Hai nước cam kết mở cho nhau thị trường dịch vụ. Mỹ là nước kinh tế thị trường tự do hoàn toàn, có trình độ phát triển cao, nếu ta có khả năng thì có thể tham gia vào thị trường này của Mỹ ngay lập tức. Trái lại trên thị trường dịch vụ của Việt Nam, Mỹ tham gia theo một lộ trình và có giới hạn, có nghĩa là tùy từng loại dịch vụ, phải có thời gian quá độ dài ngắn khác nhau, mức độ tham gia cũng giới hạn về tỷ lệ đóng góp. Theo các chuyên gia kinh tế đánh giá, kể từ khi hiệp định được kí kết, thuế suất đánh vào hàng hóa của Việt Nam nhập khẩu vào thị trường Mỹ sẽ giảm rất đáng kể, từ mức 40% (tính trung bình cho các mặt hàng) xuống còn 3%. Họ cho rằng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ sẽ tăng lên gấp đôi từ mức 500 triệu USD năm 1999 ngay trong năm đầu tiên khi hiệp định được thực hiện và trong khoảng 2-3 năm tới cứ mỗi năm kim ngạch lại tăng lên gấp đôi. Qua đây ta thấy hiệp định thương mại được kí kết giữa hai nước rất có lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam vì chúng ta được giảm thuế rất nhiều và trên một số thị trường chúng ta được phép tham gia và cạnh tranh ngay trên đất Mỹ trong khi đó Mỹ lại chưa được tự do kinh doanh tại Việt Nam (vì chúng ta là nước đang phát triển). Sau khi ta có được quy chế quan hệ thương mại bình thường với Mỹ thì hai ngành có triển vọng nhất của các doanh nghiệp Việt Nam để xuất khẩu sang thị trường Mỹ là dệt may và giày dép. Với ngành giày dép chúng ta được tự do cạnh tranh. Còn ngành dệt may tuy bị hạn chế bằng hạn ngạch nhưng phần lớn các doanh nghiệp của ta đã có kinh nghiệm tiếp cận với các thị trường lớn khác như: thị trường EU, Nhật Bản nên việc thâm nhập lĩnh vực này vào thị trường Mỹ cũng không khó lắm. Ta thử tìm hiểu cụ thể hơn về thuận lợi của một số ngành đang có mặt hàng xuất khẩu sang thị trường Mỹ kể từ sau khi hiệp định thương mại được kí kết. Với ngành dệt may: Mỹ là thị trường tiêu thụ lớn nhất thế giới với nhu cầu đa dạng. Khi chưa có hiệp định thương mại Việt- Mỹ, hàng Việt Nam vào Mỹ phải chịu thuế suất rất cao. Bình quân các mặt hàng dệt may là chịu thuế suất 49%, có loại tới 80-90%. Mỹ có nhu cầu nhập khẩu hàng dệt may từ Việt Nam rất cao, nhưng chủ yếu bằng phương thức thanh toán theo giá FOB, mặt khác Việt Nam phải xuất khẩu vào Mỹ qua nước thứ ba. Vì vậy, sự cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam với Trung Quốc, Thái Lan và các nước Châu á tại Mỹ càng gay gắt. Năm 1999, kim ngạch xuất khẩu ngành hàng này của Việt Nam vào Mỹ mới đạt 70 triệu USD. Hiệp định thương mại Việt- Mỹ được kí kết, triển vọng xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào Mỹ rất lớn. Với vấn đề thuế suất, các doanh nghiệp Việt Nam không còn phải lo vì ta không còn phải chịu mức thuế cao như trước (do chưa có quy chế tối huệ quốc) nên giá cả sản phẩm sẽ được hạ rất nhiều và sản phẩm dệt may của ta có thể cạnh tranh trên thị trường Mỹ. Về sản phẩm, thị trường Mỹ tiêu thụ rất lớn về số lượng và đòi hỏi đa dạng về màu sắc và chủng loại.Hiện nay một số loại có nhu cầu lớn như dệt kim, hàng zin, khăn tắm, dra… Về thị trường, năm 1998-1999 Vinatex đã có đoàn tiếp thị, chuẩn bị mở văn phòng tại Mỹ. Nay tiếp tục tăng cường công tác tiếp thị, quảng cáo sản phẩm, môi giới cho các doanh nghiệp Mỹ và Việt Nam… bằng nhiều con đường. Các văn phòng của Vinatex tại Hồng Kông và Mỹ phải mở rộng tiếp thị thị trường Mỹ. Đồng thời tiếp tục phối hợp với các đối tác thứ ba đã có để mở rộng thị trường này. Như vậy mọi vấn đề từ khâu sản xuất ra sản phẩm, giá cả, khâu tiêu thụ đều thuận lợi cho các doanh nghiệp xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang thị trường Mỹ. Với ngành thủy sản: Như chúng ta đều biết, Mỹ là thị trường lớn của thế giới về nhập khẩu thủy sản, mặc dù kim ngạch xuất khẩu thủy sản của Việt Nam vào thị trường này gia tăng ở mức 40%/ năm, nhưng cũng chỉ mới đạt đến khoảng 100 triệu USD. Bây giờ cơ hội đã mở ra. Kể từ khi hiệp định thương mại Việt- Mỹ được kí kết, các doanh nghiệp thủy sản của Việt Nam rất phấn khởi. Xuất khẩu thủy sản nói chung và vào thị trường Mỹ nói riêng sẽ tăng trưởng nhanh. Các nhà nhập khẩu của Mỹ rất quan tâm tới các mặt hàng thủy sản của Việt Nam như: tôm sú, cá ba ba, cá tra… Các doanh nghiệp thủy sản Việt Nam phấn khởi vì sẽ có những chuyển động lớn và các nhà nhập khẩu của Mỹ sẽ có khả năng và yên tâm đầu tư vào ngành thủy sản Việt Nam để tăng cường xuất khẩu vào thị trường Mỹ. Công ty xuất nhập khẩu An Giang (Agifish) đang chuẩn bị cổ phần hóa trong đó chính phủ Việt Nam cho phép bán cổ phần cho người nước ngoài. Vì vậy hiệp định thương mại Việt- Mỹ sẽ tạo cơ hội cho các nhà đầu tư của Mỹ vào ngành thủy sản Việt Nam và tiến tới làm cho ngành thủy sản Việt Nam vững mạnh và có nhiều thuận lợi cả về chất lẫn lượng khi xâm nhập trở lại vào thị trường Mỹ. 2-3 năm qua ngành thủy sản Việt Nam đã chuẩn bị kỹ về đầu tư thiết bị và nâng cao chất lượng sản phẩm, đáp ứng nhu cầu của thị trường nhập khẩu và đã vượt qua giai đoạn khó khăn nhất. Bằng chứng là đã có 40 doanh nghiệp thủy sản của Việt Nam đã được cấp chứng nhận xuất khẩu thẳng vào EU. Các cơ quan quản lý chất lượng của Mỹ cũng đã tiến hành khảo sát các điều kiện sản xuất và quản lý chất lượng sản phẩm của các doanh nghiệp Việt Nam. Nhiều doanh nghiệp Việt Nam đã bảo đảm được các quy trình và tiêu chuẩn HACCP, đủ điều kiện xuất khẩu thủy sản vào thị trường Mỹ. Đồng thời Việt Nam cũng phát triển mạnh về nuôi trồng thủy sản (cá, tôm…) để phát triển chế biến thủy sản xuất khẩu. Về thị trường Mỹ, hiệp hội thủy sản Việt Nam và các doanh nghiệp thủy sản hàng đầu đã tiếp cận và xúc tiến qua các hội chợ chuyên ngành thủy sản (Boston). Thực tế một số doanh nghiệp Việt Nam đã theo kịp công nghệ chế biến thủy sản, thậm chí vượt cả các doanh nghiệp trong khu vực bảo đảm được các yêu cầu xuất khẩu thủy sản vào Mỹ và có khả năng cạnh tranh. Như vậy ta có thể thấy Mỹ là một thị trường lớn cho thủy sản Việt Nam. Các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản của Việt Nam có thể tìm kiếm được nguồn lợi nhuận khổng lồ từ việc cung cấp loại mặt hàng này. Có thể nói hiệp định thương mại Việt- Mỹ là cơ hội cho hoạt động kinh tế của Việt Nam. Thị trường Mỹ là sân chơi lớn, một thị trường hiện đại mà sớm hay muộn các doanh nghiệp Việt Nam cũng phải tham gia. Song các doanh nghiệp phải nắm được luật chơi, phải thay đổi toàn diện hoạt động theo cách thức hiện đại và theo thông lệ quốc tế. Trước mắt sẽ có cả thuận lợi và khó khăn cho các doanh nghiệp Việt Nam, nhất là khi Việt Nam chưa phát triển cơ sở hạ tầng cho kinh doanh hiện đại. Như vậy doanh nghiệp cần có sự hỗ trợ. Bên cạnh những yếu tố khác, công nghệ thông tin (CNTT) sẽ là công cụ phục vụ đắc lực cho các doanh nghiệp Việt Nam bước vào sân chơi này. Hơn nữa CNTT còn là đẩy nhanh sự hòa nhập của kinh tế Việt Nam vào mạng lưới kinh tế toàn cầu theo xu hướng thương mại thế giới hiện nay. Chính vì điều này, ở đây lại xuất hiện cơ hội cho thêm một lĩnh vực nữa. Lĩnh vực này hoàn toàn mới. Đó là lĩnh vực CNTT. Là một công ty tin học, sau hiệp định thương mại Việt- Mỹ, Diginet sẽ thuận lợi hơn trong việc mở rộng hợp tác với các công ty phần mềm của Mỹ. Công ty dự định mở văn phòng tại Mỹ để tìm đối tác làm ăn, viết các phần mềm mới và khai thác buôn bán trên Internet. Nhưng chiến lược phát triển của Diginet vẫn tập trung cho thị trường nội địa. Diginet sẽ gián tiếp tham gia thị trường Mỹ thông qua việc hỗ trợ các doanh nghiệp Việt Nam xây dựng hệ thống kế toán tối ưu, đáp ứng các yêu cầu của hoạt động kinh tế hiện đại. Lemon 3 là phần mềm kế toán Việt Nam chuyên nghiệp nhất trên thị trường hiện nay (phục vụ các doanh nghiệp lớn) và sắp tới là phần mềm Lemonseed dành cho tất cả các doanh nghiệp vừa và nhỏ do Diginet phát hành với những ưu việt đã dược khách hàng tín nhiệm. Phần mềm này giúp cho các doanh nghiệp thực hiện chính xác, khoa học, nhanh chóng các nghiệp vụ kinh doanh như: cung cấp số liệu, phân tích hoạt động và hiệu quả kinh doanh, thị trường, xây dựng dự án đầu tư, kinh doanh hệ thống báo biểu rõ ràng… Khi doanh nghiệp Việt Nam mở rộng được thị trường Mỹ thì đó cũng là cơ hội phát triển của Diginet. Điều này là chắc chắn vì chỉ sau thời gian rất ngắn, riêng doanh số phần mềm kế toán của Diginet đã tăng 40-50%, trong đó có nhiều doanh nghiệp lớn có cổ phần nước ngoài như Savinmex… đã là những khách hàng của công ty. 1.3 Việt Nam là thành viên của khối APEC- một khối mà phía Mỹ cùng tham gia vào: Như ta đã biết APEC là một diễn đàn Châu á Thái Bình Dương có sức hấp dẫn vô cùng lớn đối với các nước trong khu vực. Cho đến nay khối APEC đã có 21 thành viên. Rất may mắn, cùng với Mỹ, Việt Nam cũng đã là thành viên chính thức của tổ chức này từ năm 1998. APEC tiến hành hợp tác trên bình diện rộng, bao trùm nhiều lĩnh vực như: tài chính, viễn thông, tiêu chuẩn chất lượng, thủ tục hải quan, đầu tư, đi lại của doanh nhân, hợp tác kinh tế kỹ thuật, phát triển nguồn nhân lực…Do năng lực còn hạn chế, Việt Nam phải thực hiện phương thức tiếp cận dần với cơ chế APEC, trước mắt là những lĩnh vực có lợi cho hoạt động xuất nhập khẩu như: thủ tục hải quan, tiêu chuẩn và hợp chuẩn, hệ thống lương thực APEC. Trong khối APEC có những nguyên tắc mà bắt buộc tất cả các thành viên trong khối phải thi hành, không phân biệt giàu nghèo giữa các nước. Sau đây là các nguyên tắc tạo ra rất nhiều điều kiện thuận lợi cho phía Việt Nam trong quan hệ buôn bán với Mỹ. Đó là: Thứ nhất là cắt giảm thuế quan của tất cả các mặt hàng công nghiệp chế biến xuống còn 0-5%. Nó được cam kết trong chương trình hành động quốc gia (IAP) Thứ hai là loại bỏ các hạn chế định lượng và các hàng rào phi thuế quan khác. Đối với các sản phẩm đưa vào các danh mục cắt giảm thuế quan cũng được quy định trong các văn bản nói trên. Đối với các sản phẩm được cho là nhạy cảm như hàng nông sản chưa qua chế biến, hàng dệt may cũng lần lượt được đưa vào danh mục cắt giảm thuế quan Thứ ba là dành ưu tiên cho các nước thành viên chậm phát triển hơn. APEC quy định đối với các thành viên phát triển, việc tự do hóa mậu dịch được tiến hành vào năm 2010 và với các thành viên đang phát triển là vào năm 2020. Như vậy tham gia vào khối APEC là một khối có uy tín lớn trên đấu trường quốc tế và lại cùng là thành viên với Mỹ, các doanh nghiệp Việt Nam rất có nhiều lợi thế do những nguyên tắc của khối APEC quy định và bắt buộc các nước thành viên phải tuân theo với mục tiêu các nước lớn giúp đỡ các nước nhỏ và đang phát triển để cùng thúc đẩy và phát triển kinh tế giữa các nước trong khu vực. Bên cạnh đó thì Việt Nam còn là thành viên của ASEAN và AFTA. Vói vị thế về địa lí cũng như kinh tế chính trị, Việt Nam hiện là một thị trường đầy tiềm năng của khu vực Châu á chưa được khai thác với những lợi thế so sánh sẵn có về nguồn lực, tài nguyên thiên nhiên cũng như những lợi thế vượt trội tạm thời do ít bị ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế trong khu vực hiện nay cùng với đường lối kiên trì mở cửa của chính phủ trong phát triển kinh tế đang hấp dẫn rất nhiều nước trong quan hệ thương mại đầu tư trên thế giới. Vì lý do này, trong tương lai, Việt Nam nằm trong tiêu điểm của Mỹ nhằm mở rộng quan hệ kinh tế nói chung và quan hệ thương mại đầu tư nói riếngẽ không là điều đáng ngạc nhiên. Như vậy, theo quan điểm này, phía Mỹ sẽ dành nhiều thuận lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam trong chiến lược phát triển quan hệ với các nước trong khu vực châu á. 2. Những thách thức: Ta biết rằng mọi vấn đề đều có hai mặt của nó. Bên cạnh rất nhiều điều kiện thuận lợi dành cho các doanh nghiệp Việt Nam khi xuất khẩu hàng hóa sang thị trường Mỹ thì cũng còn vô vàn khó khăn mà các doanh nghiệp chúng ta phải đối phó. Sau đây em xin trình bày một vài khó khăn mà em nhận thấy: 2.1 Do chu kỳ sống ngắn của sản phẩm: Như ta biết, vòng đời của bất kỳ một sản phẩm nào đều phải trải qua 4 giai đoạn chính. Đó là: hình thành, phát triển, bão hòa và suy thoái. Cùng với xu hướng phát triển của thời đại, khoa học công nghệ ngày một tiên tiến thì vòng đời của một sản phẩm ngày càng ngắn (tức là khoảng cách giữa các giai đoạn ngày một rút ngắn). Bên cạnh đó, bản thân người tiêu dùng Mỹ còn có một đặc trưng nổi bật đó là tính “chóng chán”. Chính điều này đòi hỏi các nhà sản xuất và kinh doanh luôn luôn có sự tìm tòi, sáng tạo và đặc biệt phải biết nắm bắt nhanh nhẹn thời cuộc. Đây là một thách thức với các doanh nghiệp Việt Nam vì chúng ta mới chuyển đổi từ nền kinh tế bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lí của nhà nước cho nên còn nhiều yếu tố bất cập trong các vấn đề quản lí và đôi khi còn thiếu một chút tính năng động trong kinh doanh. Như vậy, đây là một thách thức đối với các doanh nghiệp Việt Nam. Nó đòi hỏi nhiều hơn nữa tính năng động và sáng tạo của các nhà quản lí thị trường của Việt Nam. 2.2 Do chính bản thân các doanh nghiệp Việt Nam: Như ta đã biết, phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam thuộc loại các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Chúng ta chưa quen sản xuất hàng đem xuất khẩu với số lượng lớn. Đây là một khó khăn đối với chúng ta vì như ở phần trên tại phần I.3, em đã trình bày về “ Một vài nét đặc trưng của thị trường Mỹ” trong đó có nói tới nét tiêu biểu của thị trường Mỹ là họ thường đặt hàng với số lượng lớn bởi vì họ thường không chỉ tiêu dùng ở Mỹ mà họ thiết lập hệ thống phân phối toàn cầu (tức là hàng hóa từ Mỹ sẽ theo các kênh đi khắp thế giới). Nhiều doanh nghiệp Việt Nam sang Mỹ tìm hiểu thị trường không kí được hợp đồng do không đáp ứng được yêu cầu này. Lấy một thí dụ: Sau khi đối tác Mỹ đặt hàng 2 triệu sơ mi tơ tằm, một doanh nghiệp Việt Nam đành lắc đầu và than thở với Thương vụ rằng: Một năm chúng tôi làm hết sức cũng chỉ được có 500.000 chiếc. Bên cạnh đó, tiềm lực tài chính của các doanh nghiệp Việt Nam thường nhỏ hẹp nên chúng ta sẽ ít có cơ hội sử dụng dịch vụ tư vấn vốn dĩ rất quen thuộc với thị trường Mỹ buộc chúng ta phải tìm hiểu và tiếp cận trực tiếp với các nhà nhập khẩu hoặc các nhà phân phối lớn. Đây cũng là một khó khăn vì thực tế chúng ta biết đâu mà lần và nếu như chỉ sử dụng những nhà nhập khẩu cũ thì sự tiếp cận rất hạn hẹp và ta sẽ dễ bị họ ép giá. Có thể nói đây cũng là một vấn đề đặt ra trong việc tìm kiếm các đối tác làm ăn của các doanh nghiệp Việt Nam trong khâu tiêu thụ hàng hóa. Một yếu tố nữa do bản thân các doanh nghiệp Việt Nam đó là khoa học công nghệ ở trình độ thấp. Hàng hóa của ta xuất khẩu sang thị trường Mỹ chủ yếu làm thủ công và rất ít sử dụng máy móc công nghệ cao. Do sản xuất bằng thủ công là chính nên nhiều khi hàng hóa không đồng đều và chính xác như mẫu chào hàng. Chính điều này chưa tạo uy tín lắm cho hàng hóa Việt Nam trên thị trường Mỹ và chúng ta chưa bán được hàng với giá cao. Lấy ví dụ: Hàng dệt may của Việt Nam phải bán giá thấp hơn nhiều so với hàng dệt may Trung Quốc. Bên cạnh đó, do trình độ công nghệ chưa cao cho nên đôi khi sản xuất ra những hàng hóa chưa đạt tiêu chuẩn kĩ thuật (ISO). Mà như ta đã biết hệ thống tiêu chuẩn chất lượng của Mỹ vào loại chặt chẽ nhất trên thế giới. Chính phủ Mỹ ban hành bộ (ISO) với những quy định khắt khe nhằm bảo vệ lợi ích người tiêu dùng tuyệt đối. Có thể nói đây là một hàng rào ngăn cản lớn với hàng hóa xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam do chất lượng hàng hóa của chúng ta chưa cao. 2.3 Do còn yếu kém về thông tin: Thật vậy, các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay chưa quan tâm nhiều lắm đến công nghệ thông tin. Trong khi thế giới hiện nay người ta đã nói nhiều đến Thương mại điện tử thì chúng ta vẫn còn rất mơ hồ về khái niệm này. Nếu như trong phần I.3, em đã nói về nền kinh tế mới ở Mỹ, rất nhiều công ty Mỹ đã bắt đầu chuyển sang phương thức làm ăn trên Internet. Người bán hàng sau khi nhận được thông tin cần mua trên các Websites thì họ sẽ cử nhân viên phục vụ đưa sản phẩm trực tiếp từ kho đến tận tay người tiêu dùng. Rõ ràng đây là một kiểu làm ăn mới mà các doanh nghiệp chúng ta chưa kịp tiếp nhận thông tin và làm quen với phongcách bán hàng như vậy. Thông tin luôn biến động hàng ngày, hàng giờ. Nếu các doanh nghiệp Việt Nam không nắm bắt kịp thời thông tin thì có khi chúng ta bị thua lỗ rất nhiều tiền chỉ trong một thời gian ngắn vì không kịp thời xử lí thông tin. 2.4 Do các doanh nghiệp chưa có kinh nghiệm kinh doanh trên thị trường Mỹ: Do bản thân các doanh nghiệp Việt Nam sản xuất và kinh doanh còn mang tính chụp giật, xuất khẩu với số lượng nhỏ cho nên nhiều hợp đồng lớn chúng ta không đáp ứng được. Đáng nhẽ các doanh nghiệp Việt Nam cần liên kết với nhau tạo thành một Hiệp hội những nhà xuất khẩu Việt Nam trên đất Mỹ để đáp ứng hàng hóa với số lượng lớn thì chúng ta lại cạnh tranh nhau bằng cách liên tục hạ giá và như vậy, các đối tác Mỹ ngồi giữa sẽ được hưởng lợi. Còn bản thân, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ bị thua thiệt do không bán được giá cao. Ngoài ra còn rất nhiều yếu tố nữa mà do chưa có kinh nghiệm kinh doanh trên thương trường quốc tế khiến cho các doanh nghiệp của chúng ta không thu được lợi nhuận cao và đôi khi phải chịu nhiều thiệt thòi khi quan hệ làm ăn với các đối tác nước ngoài. 2.5 Hiệp định thương mại được kí kết cũng là một thách thức với các doanh nghiệp Việt Nam: Do mọi nguyên tắc đều được quy định bằng văn bản. Trong hiệp định có điều 7 của chương I quy định về “Tranh chấp thương mại” và nó có hình thức xử phạt rất nặng nếu các bên vi phạm. Mà như ta biêt, luật pháp Mỹ rất nghiêm ngặt và nó xử phạt không trừ một ai. Trong khi đó, các doanh nghiệp Việt Nam lại quen làm ăn theo kiểu “luồn lách” và luật pháp Việt Nam không nghiêm cho nên chúng ta dễ mắc phải những sai lầm và đôi khi phải trả giá rất đắt mà trước đấy chúng ta không nghĩ đến. phần iv. các giải pháp: 1. Tầm vĩ mô: 1.1 Tăng cường nỗ lực để hiệp định thương mại có hiệu lực: Chính phủ Việt Nam cần phải tác động, vận động để Quốc hội Mỹ phê chuẩn Hiệp định. Còn chúng ta sẽ căn cứ vào hiến pháp, pháp lệnh về các điều ước quốc tế để làm thủ tục nội bộ vào thời gian thích hợp. Ngoài ra, chính phủ Việt Nam phải chuẩn bị thật tích cực, chủ động để khi Hiệp định có hiệu lực, ta có thể đi vào thị trường này ngay. Các ngành hữu quan, các doanh nghiệp hữu quan cần căn cứ vào lộ trình cam kết để chuẩn bị tư thế sẵn sàngtham gia hợp tác trong khuôn khổ của mình. 1.2 Tăng cường tìm kiếm thông tin: Chính phủ ta cần có kế hoạch phối hợp: Bộ Ngoại giao phối hợp với Bộ Thương mại để chỉ đạo hệ thống đại diện ngoại giao và đại diện thương mại Việt Nam ở nước ngoài nhằm tìm kiếm, thăm dò thị trường và cung cấp thông tin nhanh nhạy kịp thời về thương nhân và nhu cầu thị trường sở tại, đáp ứng tốt hơn hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu cho các doanh nghiệp trong nước. Bộ Thương mại phối hợp với Bộ Tài chính, Bộ Ngoại giao và các Bộ liên quan để bổ sung kinh phí cho hoạt động xúc tiến xuất khẩu. Chính phủ ta phải cử ngay bộ phận các cấp, các ngành hữu quan để tiến hành việc thu thập và phổ biến rộng rãi các thông tin về hệ thống pháp luật của Mỹ, của liên bang cũng như của từng bang để khi vào thị trường này thì tuân thủ theo đúng luật của họ. đồng thời cần làm cho các doanh nghiệp xuất khẩu của ta thấy được nhu cầu, thị hiếu, tập quán của người tiêu dùng Mỹ là gì để sản xuất và xuất khẩu. Vấn đề bức bách nữa là phải tiến hành công tác xúc tiến thương mại với thị trường Mỹ để giới thiệu tiềm năng, hàng hóa của Việt Nam, tìm đối tác nhằm tăng xuất khẩu hàng hóa. Chính phủ Việt Nam không ngừng tổ chức các hội chợ, triển lãm trưng bày sản phẩm của cả hai nước Việt- Mỹ nhằm tăng sự hiểu biết lẫn nhau về hàng hóa, tập tục, văn hóa, xã hội của hai nước nhằm giúp cho các doanh nghiệp Việt Nam kinh doanh trên thị trường Mỹ có hiệu quả hơn. 1.3 Tăng cường cho vay vốn: Chính phủ Việt Nam cần mở rộng các đối tượng vay ngoại tệ (ngoài nghị định 63 chỉ cho vay nhập khẩu) đến các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả có khả năng tái tạo ngoại tệ. Bên cạnh đó, chính phủ Việt Nam cũng nên thực hiện chính sách cho vay ưu đãi bằng nhiều biện pháp như: cho trả chậm so với thời hạn bình thường, trả góp, hạ mức lãi suất thấp hơn cho các doanh nghiệp kinh doanh hàng xuất khẩu. 1.4 Thực hiện chính sách điều chỉnh Tỷ giá hối đoái: Như ta đã biết, theo lý thuyết Chính sách Thương mại Quốc tế, nếu như chính phủ một nước duy trì một mức tỷ giá hối đoái thấp hơn so với thực tế một chút với đồng tiền mạnh (cụ thể ở đây là đồng đôla) thì nó sẽ là một điều kiện để thúc đẩy hàng hóa xuất khẩu của nước đoa ra nước ngoài. Theo quan điểm này, chính phủ Việt Nam có thể duy trì một mức tỷ giá hối đoái thấp hơn so với giá trị thực tế của nó chỉ một chút thôi để không ảnh hưởng đến lợi ích kinh tế của cả nước mà lại tạo đà thúc đẩy được hàng hóa xuất khẩu các doanh nghiệp trong nước ra nước ngoài (cụ thể là thị trường Mỹ) bởi giá trị hàng hóa lúc đó tính bằng đồng đôla sẽ được giảm xuống và khuyến khích người tiêu dùng Mỹ tiêu thụ nhiều sản phẩm hơn của ta. 2. Tầm vi mô: Nếu như chính phủ đã có những biện pháp nỗ lực như vậy thì bản thân các doanh nghiệp Việt Nam cũng phải có những cố gắng lớn vì thực tế sau khi đã thâm nhập được vào thị trường Mỹ thì đây là cuộc đối chọi của các doanh nghiệp Việt Nam với thị trường đầy khắc nghiệt này. 2.1 Tìm kiếm và xử lí thông tin tốt: Các doanh nghiệp Việt Nam phải tích cực tìm kiếm thông tin về các đói tác Mỹ chứ không chỉ có ngồi chờ đợi hành động của chính phủ. Các doanh nghiệp Việt Nam phải tích cực tham gia các hội chợ do chính phủ Việt Nam tổ chức nhằm tăng cường hiểu biết thông tin về đối tác Mỹ. Ngoài ra, nếu doanh nghiệp nào có tiềm lực về tài chính thì có thể tự bỏ tiền để tham gia các hội chợ triển lãm quốc tế nhằm giới thiệu mình và tìm hiểu trực tiếp thị trường nước ngoài. Bên cạnh đó, một việc làm không thể thiếu đối với các doanh nghiệp Việt Nam muốn thâm nhập vào thị trường Mỹ là họ phải không ngừng đổi mới hệ thống công nghệ thông tin của doanh nghiệp mình như: điện thoại, điện tín, máy fax và đặc biệt phải nối mạng Internet để truy cập vào các Websites của thị trường Mỹ và thị trường thế giới để tránh rủi ro do thiếu thông tin. Có hai địa chỉ đáng tin cậy ở Mỹ cho các doanh nghiệp Việt Nam muốn đặt quan hệ đó là: US- Vietnam Business Committee (ủy ban Thương mại Hoa Kỳ- Việt Nam) và Vietnam Trade Council (Hội đồng Thương mại Việt Nam ) 2.2 Sử dụng các nguồn lực một cách có hiệu quả: Nguồn lực ở đây em muốn đề cập tới là vốn, tư liệu sản xuất, nguồn nhân lực. Về vốn, thì các doanh nghiệp xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam có thể tạo vốn bằng nguồn vốn chủ sở hữu và nếu thiếu thì các doanh nghiệp Việt Nam có thể vay thêm các ngân hàng trong nước theo chính sách ưu đãi của chính phủ. Nhưng dù nguồn vốn có là nguồn chủ sở hữu hay nguồn vốn đi vay thì các doanh nghiệp Việt Nam cũng cần biết tiết kiệm để sử dụng chúng cho có hiệu quả. Các doanh nghiệp Việt Nam cần biết đầu tư vào đúng bộ phận còn chưa đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng của thị trường Mỹ nhằm tạo một bộ máy vận hành đồng bộ, tránh tình trạng lãng phí. Về tư liệu sản xuất, gồm có trang thiết bị máy móc và nguyên vật liệu đầu vào. Các doanh nghiệp Việt Nam cần biết đầu tư vào những máy móc hiện đại nhằm tăng năng suất sản phẩm và hơn nữa là nâng cao chất lượng hàng xuất khẩu của mình lên vì như ta biết hệ thống tiêu chuẩn chất lượng do chính phủ Mỹ đặt ra là hết sức khắt khe. Nếu chúng ta đầu tư không đúng mức thì có thể khi xuất khẩu hàng hóa sang thị trường Mỹ ta sẽ bị xử phạt rất nặng và có thể để lại những hậu quả khôn lường. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp Việt Nam cần tích cực chủ động đi tìm các nguồn nguyên vật liệu. Nếu chúng càng dồi dào và chất lượng càng ngày càng tốt thì đó sẽ là một phần quyết định tới số lượng và chất lượng của thành phẩm làm ra để xuất khẩu sang thị trường Mỹ. Về nguồn nhân lực, đây là yếu tố quan trọng nhất trong việc buôn bán hàng hóa với phía Mỹ. Vì con người là chủ thể của mọi hành động cho nên nó có tính quyết định đến thành bại của bất kỳ một doanh nghiệp nào. Vì vậy, các doanh nghiệp cần rất chú trọng vào khâu tuyển chọn nhân công lao động. Cần tuyển những người công nhân lành nghề có khả năng làm việc lâu dài để đỡ tốn chi phí tuyển chọn. Tiếp đến là tuyển chọn nhân viên văn phòng. Đây là bộ phận rất quan trọng vì nó thực hiện nhiều công việc mang tính quyết định như: hạch toán và lên kế hoạch cho công ty, tìm biện pháp xâm nhập vào các thị trường mới, các nhân viên phòng Marketing…Đội ngũ nhân viên văn phòng này đòi hỏi phải có nghiệp vụ chuyên môn vững vàng và có kinh nghiệm trên thương trường quốc tế. Ngoài ra các nhân viên này phải thông thạo tiếng Anh để có thể dịch và hiểu ngay các thông tin lấy từ thị trường Mỹ một cách nhanh nhẹn và kịp thời. Bên cạnh đội ngũ nhân viên này còn phải thành thạo sử dụng máy vi tính để truy cập các thông tin trên mạng Internet vì các công ty của Mỹ ngày nay truyền tải thông tin của mình trên Internet là rất nhiều. Đặc biệt, với một vài bộ phận như: bộ phận bán hàng, đội ngũ chuyên đi đàm phán và kí kết hợp đồng với đối tác nước ngoài thì đòi hỏi ở họ là có một khả năng giao tiếp tốt. Các doanh nghiệp Việt Nam không nên chỉ chú trọng mỗi khâu tuyển chọn mà còn nên tổ chức thường xuyên các lớp đào tạo ngắn hạn hoặc dài hạn để nâng cao nghiệp vụ chuyên môn và các phương tiện hỗ trợ cho nghiệp vụ chuyên môn đó. Đối với công nhân thì thường xuyên tổ chức các cuộc thi tay nghề để động viên tinh thần làm việc và khuyến khích họ hăng say làm việc hơn. Đi kèm với các biện pháp trên, các doanh nghiệp phải có chế độ khen thưởng và xử phạt nghiêm minh. Nếu ai vi phạm kỉ luật mà nhẹ có thể xử phạt hành chính, nếu nặng có thể đuổi việc. Ngược lại nếu ai có nỗ lực trong công việc giúp công ty hoàn thành kế hoạch thì sẽ được thưởng và có thể được đề bạt, thăng chức. 2.3 Các doanh nghiệp Việt Nam cần xây dựng Hiệp hội: Thật vậy,khi buôn bán với thị trường nước ngoài, do thiếu kinh nghiệm trên thương trường quốc tế, các doanh nghiệp Việt Nam chúng ta nhiều khi lại cạnh tranh nhau bằng các biện pháp như hạ giá… khiến cho các đối tác nước ngoài được hưởng lợi trong khi đó thì các doanh nghiệp chúng ta thì bị thua thiệt nhiều từ việc bán phá giá lẫn nhau. Nguyên nhân là chúng ta chưa biết đoàn kết lại để cùng thu lợi nhuận trên thị trường quốc tế và mang về nhiều ngoại tệ cho đất nước . Thiết nghĩ, đã đến lúc các doanh nghiệp Việt Nam có cùng chủng loại mặt hàng xuất khẩu sang thị trường nước ngoài cần thành lập các Hiệp hội hàng Việt Nam để tăng uy tín cho hàng hóa Việt Nam hơn nữa và để tránh tình trạng bị ép giá dẫn đến thua thiệt nhiều. Trên đây là một số giải pháp cả tầm vĩ mô (cấp nhà nước) và tầm vi mô (cấp doanh nghiệp) mà theo em là có thể thực hiện để đẩy mạnh hơn nữa việc xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam vào thị trường Mỹ. lời kết ĐĐĐ Đất nước chúng ta vừa kỉ niệm tròn 25 năm ngày hoàn toàn giải phóng đất nước, hai miền Nam- Bắc thu về một mối. Trong công cuộc xây dựng đất nước hiện nay, tăng cường hoạt động Kinh tế Đối ngoại là mục tiêu hàng đầu của chính phủ và nhân dân Việt Nam. Trong đó, nổi bật và rõ nét hơn cả là hoạt động ngoại thương mà cụ thể ở đây em muốn đề cập tới là hoạt động xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang thị trường nước ngoài. Như chúng ta đều biết, Mỹ là kẻ thù của nhân dân Việt Nam trong chiến tranh nhưng lại là bạn của chúng ta trong thời bình. Chính quan điểm này đã là động lực cho chính phủ hai nước tiến hành quan hệ bình thường hóa về chính trị và gần đây nhất là quan hệ bình thường hóa thương mại giứa hai nước mà điểm mốc của nó là Hiệp định Thương mại vừa được kí kết tháng 7 vừa qua (13/ 7/ 2000). Nó mở đầu cho một trang lịch sử buôn bán giữa hai dân tộc. Bài viết trên đây của em nêu lên những khó khăn và thuận lợi của các doanh nghiệp Việt Nam khi xuất khẩu hàng hóa sang thị trường Mỹ. Bên cạnh đó, em cũng nêu ra một số giải pháp mà theo em là thiết thực nhằm khắc phục những khó khăn để từ đó thúc đẩy hơn nữa hàng hóa của các doanh nghiệp Việt Nam thâm nhập vào thị trường Mỹ. Vì thời gian có hạn, trong quá trình trình bày bài viết nếu có sai sót gì, em mong các thầy cô giáo thông cảm và lượng thứ. Một lần nữa em xin trân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong khoa đã tạo điều kiện để em viết đề án này và đặc biệt là thầy giáo Nguyễn Duy Bột, người đã tận tình chỉ bảo để em có được bài viết này. tài liệu tham khảo Kinh tế học Mỹ. Tạp chí Kinh tế Châu á Thái Bình Dương số 4/2000. Tạp chí Kinh tế Thế giới số 3/2000. Tạp chí Thương mại các số 11, 12, 14, 15, 17, 10/ 2000 Thời báo Kinh tế các số 112, 115, 118, 123/ 2000.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc34976.doc
Tài liệu liên quan