Đề tài Hội nhập kinh tế thương mại Asean – Việt Nam

Chương 1: Tiến trình hội nhập kinh tế thương mại khu vực và thế giới của Việt Nam. 1. Xu hướng hội nhập kinh tế của khu vực và thế giới. 2. Tiến trình hội nhập kinh tế khu vực của Việt Nam. 3. Lý luận chung về quá trình hội nhập và phát triển kinh tế thương mại trong khu vực Asean. 3.1. Hội nhập Asean : Mục đích và kết cấu. 3.2. Nguyên tắc và nội dung các phương pháp tiến trình tham gia hội nhập kinh tế thương mại Asean. 3.2.1. Nguyên tắc và nội dung quá trình tham gia hội nhập. 3.2.2. Các quyền và nghĩa vụ của Việt Nam khi gia nhập Asean. 4. Sự cần thiết để tham gia hội nhập kinh tế thương mại khu vực Asean. Chương II: Thực trạng tham gia hội nhập kinh tế thương mại khu vực Asean – lộ trình thự hiện khi tham gia khu vực kinh tế thương mại Asean của Việt Nam. 1. Thực trạng quá trình tham gia hội nhập kinh tế của Việt Nam. Thực trạng quá trình tham gia hội nhập kinh tế Đánh giá quá trình tham gia hội nhập của Việt Nam 1.2.1. Những ưu điểm. 1.2.2. Những nhược điểm 2. Một số tác động của việc tham gia quá trình hội nhập kinh tế 2.1. Tác động của doanh nghiệp 2.2. Tác động của nhà nước 3. Lộ trình thực hiện khi tham gia khu vực kinh tế thương mại Asean. 3.1.Qúa trình phát triển khu vực kinh tế thương mại Asean. 3.2. Xây dựng lộ trình tham gia hội nhập thương mại Asean. Chương III: Giải pháp xúc tiến khi tham gia hội nhập khu vực kinh tế thương mại Asean. 1. Một số khó khăn vướng mắc trong lộ trình tham gia hội nhập. 2. Các giải pháp tham gia hội nhập kinh tế thương mại khu vực Asean Đối với nhà nước. Đối với doanh nghiệp. Kết luận.

docx35 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1765 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hội nhập kinh tế thương mại Asean – Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ra các thị trường bên ngoài. Đây cũng là một cơ hội nữa cho các doanh nghiệp tìm hiểu và tiếp cận với các cơ quan lập chính sách để từ đó xác định hướng đi chủ động cho mình trong bối cảnh mở cửa thị trường, chấp nhận cạnh tranh, quyết tâm vươn mạnh ra nước ngoài. Những năm gần đây , sự thay đổi nhanh chong của môi trường kinh tế - chính trị khu vực( với sự trỗi dậy của trung quốc, sự gia tăng hiện diện can thiệp của mỹ sự chuyển mình của ấn độ) đã thôi thúc ASEAN đổi mới, điều chỉnh chính sách nhằm tăng tính cạnh tranh và thúc đẩy lien kinh tếết khu vực. Một trong những thích ứng moiứ la xây dựng Cộng đồng ASEAN (AC) VÀO NĂM 2020 và tích cực mở rộng đàm phán thiết lập khu mậu dịch tự do song phương đa phương (RTA và BFTA) với các đối tác ngoài khối.Ben cạnh đó ,ASEAN đã và đang có những linh họat hơnviệc áp dụng “phương thức ASEAN bằng cách cho phép thực hiện các nguyên tắc. Việc quyết định thành lập khu vực mậu dịch tự do ASEAN Trung Quốc từ 2002 và dặc biệt là tuyên bố ở bali II năm 2003 về thiết lập AC dựa trên 3 trụ cột chính là cộng đồng kinh tế (AEC) cộng đồng an ninh (ASC) và cong đồng văn hóa xã hội (ASCC) vào năm 2020 là những quyết định đúng hướng kinh tế kịp thời của ASEAN trước nhu cầu đòi hỏi của thực tiễn. 1.2.1Những ưu điểm: Ưu điểm chính của Việt Nam là địa dư. Người ta thường phân biệt các nước ASEAN thành hai loại: những nước ASEAN hải dương (Brunei, Indonesia, Malaysia, Philippines và Singapore) và những nước ASEAN lục địa (Campuchia, Lào, Myanmar, Thái Lan và Việt Nam). Nhưng Việt Nam có thể được coi vừa là một nước lục địa vừa là một nước hải dương. Nhờ địa hình địa thế đó mà hàng hóa Việt Nam, dù để tiêu thụ trong nước hay để xuất khẩu, không cần phải quá cảnh những nước láng giềng. Ngược lại, hàng hóa của vùng Đông Bắc Thái Lan, Lào, Campuchia và tỉnh Vân Nam (Trung Quốc) xuất khẩu sang những nước khác có tiềm năng quá cảnh và tạm thời lưu kho trên lãnh thổ Việt Nam, Thái Lan, Myanmar và tỉnh Quảng Tây (Trung Quốc). Myanmar không phải là một đối thủ cạnh tranh vì địa thế hiểm trở làm cho hệ thống giao thông với những lãnh thổ phía Đông và phía Bắc không thuận tiện. Thái Lan và tỉnh Quảng Tây là đối thủ đang áp đảo Việt Nam. Nhưng bờ biển Thái Lan nằm gọn trong vịnh Thái Lan và bờ biển tỉnh Quảng Tây nằm gọn trong vịnh Bắc bộ. Trên phương diện hậu cần quốc tế, hai vịnh này là những ngõ kẹt. Vậy hàng ngoại thương của Lào, Campuchia và tỉnh Vân Nam quá cảnh Việt Nam sẽ được chở mau và rẻ hơn là qua những đường khác. Việt Nam và chín nước (và lãnh thổ) khác bao quanh biển Đông, nơi có nhiều hàng qua lại nhất thế giới. Đài Loan, với cảng Cao Hùng, và Trung Quốc, với những cảng Hồng Kông và Thượng Hải, là những điểm đến và đi của những tuyến tàu biển nối liền với cảng Singapore. Bây giờ những tàu lớn chạy trên những tuyến đó không cần phải đậu ở giữa đường để mua than chạy máy như ngày xưa. Một số tàu cỡ nhỏ (feeder) đến cỡ trung (sub panamax) chỉ có thể dừng chân ở những cảng Việt Nam để chất, dỡ hàng của Việt Nam và của những nước láng giềng, mua thêm thực phẩm tươi, cho thủy thủ đoàn nghỉ ngơi, bảo quản định kỳ hay sửa chữa bất thường... Đây là một lợi thế của Việt Nam vì Malaysia quá gần Singapore còn Philippines và Indonesia là những quần đảo không có hậu phương. Nhìn bản đồ Đông Nam Á thì thấy rằng, trừ Jakarta, thủ đô Indonesia, tất cả thủ đô các nước ASEAN đều cách Tp.HCM non hai giờ máy bay. Đài Bắc và Dakka, thủ đô Bangladesh, cũng chỉ cách Hà Nội có hơn hai giờ bay. Miền Nam Trung Quốc, vùng có kinh tế phát triển mạnh nhất của nước này, ở trọn trong tầm hai giờ bay từ Hà Nội. Ba cảng trong số những cảng lớn nhất thế giới, Singapore, Hồng Kông và Cao Hùng, cách Hà Nội hay Tp.HCM non hai giờ bay. Nói một cách khác, Việt Nam nằm ngay giữa vùng kinh tế sôi động nhất thế giới. Vị trí trung tâm này đã là một trong số những nguyên nhân của bốn chục năm chiến tranh mà Việt Nam đã phải chịu đựng. Bây giờ, với hòa bình được lập lại, vị trí đó có thể được dùng vào mục đích phát triển kinh tế. Việt Nam có nhiều sông và núi. Nhiều sông có lưu lượng lớn, kể cả những dòng sông Trung bộ, có thể tiếp nhận được các xuồng có khổ lớn, thậm chí tàu biển. Nhờ thế, tàu biển có thể vào sâu trong đất liền, tránh phải chuyển tải. Vận tải bằng đường thủy có thể chiếm một thị phần quan trọng. Việt Nam có thể là một trong số nhỏ những quốc gia có tất cả năm phương tiện giao thông: đường bộ, đường sắt, đường sông, đường biển và đường hàng không, quan trọng ngang nhau. Việt Nam chưa đô thị hóa quá đáng so với những nước châu Á khác. Trung bình mật độ dân cư cao nhưng chỉ có hai khu đô thị lớn cách nhau hơn 1.500 ki lô mét: Tp.HCM, với 5,9 triệu dân, và Hà Nội, với 3,1 triệu dân. Nếu tính thêm những tỉnh tiếp giáp thì vùng đô thị Tp.HCM cũng chỉ có 14,1 triệu dân. Theo điều tra mới nhất của Bộ Giao thông Vận tải, các địa phương trên tuyến quốc lộ 1 (đi qua 30 tỉnh và thành phố) đều lấy tuyến này làm trục đô thị và quy hoạch cho 130 thành phố, thị xã và thị trấn. Tổng chiều dài đô thị hóa là 550 ki lô mét (không kể khu dân cư nhỏ chưa xếp loại đô thị), chiếm 24% chiều dài toàn tuyến. Dân số phân bố đồng đều trên toàn lãnh thổ như vậy là một điều thuận lợi về quốc phòng cũng như về tiềm năng đi tới một nền công nghiệp tiên tiến mà không đặt ra nhiều vấn đề khó khăn về dân cư, giao thông, vệ sinh và môi trường. Nếu quan sát động thái, xâu chuỗi diễn biến tình hình chính trị và an ninh, phân tích địa chính trị - kinh tế thế giới qua các thời kỳ từ nửa sau thế kỷ XX đến thập niên đầu thế kỷ XXI, nhất là quãng thời trước và sau khi Việt Nam gia nhập ASEAN trong năm 1995, có thể thấy rằng: Thời kỳ trước năm 1995, thế giới còn hoài nghi về sự thành công của ASEAN, thậm chí coi ASEAN là một tổ chức quân sự thân Mỹ chống cộng, chống Trung Quốc, Việt Nam và Lào. Chỉ sau khi các định chế của ta với tư cách là Nhà nước Việt Nam chủ động hội nhập khu vực và thế giới về kinh tế, chia sẻ những tương đồng về văn hoá, hợp tác phát triển khoa học và công nghệ, chủ động giao lưu và trao đổi kinh nghiệm trong hoạt động lập pháp và cải cách tư pháp,... thì hình ảnh ASEAN trên thế giới và khu vực thay đổi hoàn toàn - ASEAN không phải là một tổ chức quân sự tập thể. Và, cũng chỉ khi Việt Nam gia nhập ASEAN, các quốc gia khác trong khu vực mới nhanh chóng gia nhập Hiệp hội, thúc đẩy khu vực phát triển nhanh và mạnh hơn, nhất là thực hiện được ước mơ tất cả 10 quốc gia ở khu vực cùng trong một Hiệp hội (chưa kể CHDC Đông Timo non trẻ với số dân chưa tới một triệu người). Thực tế cho thấy, Việt Nam gia nhập ASEAN, và ngay sau đó Quốc hội ta gia nhập AIPO đã thể hiện sự coi trọng cơ chế hợp tác liên nghị viện, ý thức đầy đủ AIPO là động lực quan trọng thúc đẩy các chương trình hợp tác nội khối và tranh thủ tác động tích cực từ phía liên nghị viện và nghị viện các nước ngoài khu vực. Rất nhiều nước, tổ chức thừa nhận rằng, Việt Nam đã đóng góp nhiều sáng kiến mở ra khả năng hiện thực cho việc khai phá và phát triển vùng sông Mê Kông mở rộng mà ngày nay trở thành khu vực phát triển rất năng động, thu hút hàng tỷ USD đầu tư từ bên ngoài vào khu vực. Đến nay tổng sản phẩm quốc nội của ASEAN đạt 737 tỷ USD, tổng giá trị buôn bán đạt khoảng 720 tỷ USD. Về chính trị, sau khi Việt Nam gia nhập ASEAN, toàn bộ các nước Đông Nam Á hợp thành một khối thống nhất, làm thay đổi bản chất quan hệ giữa ASEAN với Trung Quốc. ASEAN không chỉ trở thành đối tác về quan hệ kinh tế, chính trị, an ninh với Trung Quốc mà còn với cả các cường quốc khác trong khu vực. Vấn đề Biển Đông đã và đang được giải quyết bằng các giải pháp thích hợp thông qua đối thoại, giảm thiểu các cuộc tranh chấp trên biển nhằm làm cho Biển Đông trở thành vùng biển hợp tác và hoà bình, trong đó Việt Nam đã đóng góp quan trọng cho Hiệp hội trong vấn đề này. Việc Việt Nam gia nhập các cơ chế hợp tác liên chính phủ và liên nghị viện cũng là yếu tố tích cực thúc đẩy mở rộng hợp tác với nhiều bên đối thoại trên nhiều lĩnh vực với Nhật Bản, Hàn Quốc và các nước lớn, các nền kinh tế lớn khác.    Các quốc gia trong khu vực và nhiều nước khác từng ghi nhận rằng, trong sự phát triển của ASEAN mỗi tiến bộ đều có sự hỗ trợ rất tích cực, Việt Nam đã đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển chung đó, vì Việt Nam có một nền tảng vững chắc, đó là sự ổn định. Nhân tố quan trọng khác là, với dân số hơn 80 triệu người, Việt Nam là thị trường khá lớn, có nhiều cơ hội thu hút đầu tư nước ngoài. Những nhân tố này tạo nên sức mạnh để Việt Nam phát triển mạnh mẽ, toàn diện và vững chắc hơn. Là thành viên của ASEAN, Việt Nam có thể sử dụng nội lực này để thúc đẩy và góp phần duy trì sự ổn định hướng tới mục tiêu hoà bình, hợp tác phát triển, cùng nhau phấn đấu vì sự thịnh vượng của khu vực. Mười năm tham gia các chương trình hợp tác, các hoạt động của ASEAN, tuy chưa nhiều so với các thành viên sáng lập nhưng  nước ta được các đối tác nhấn mạnh ưu điểm của Việt Nam là rất có trách nhiệm với những cam kết trước ASEAN, và Quốc hội Việt Nam giám sát việc thực hiện các cam kết quốc tế rất nghiêm túc. Chắc hẳn các nhà lãnh đạo, các quan chức chính phủ, nhân dân và các nghị sỹ đại diện cho họ ở các quốc gia trong khu vực và nhiều nơi trên thế giới còn ghi đậm thành công to lớn của Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 6 (1998) với Tuyên bố Hà Nội và Chương trình hành động Hà Nội với dấu ấn Việt Nam. Chính phủ và Quốc hội ta đã đảm đương và làm trọn trách nhiệm thành viên của tổ chức trọng yếu của khu vực là ASEAN    Các quốc gia trong khu vực đang hướng tới thành lập một cộng đồng ASEAN theo “Tầm nhìn năm 2020” trên cơ sở hội nhập về kinh tế, sự hợp tác về văn hoá cũng như hợp tác về chính trị. Xin được đưa ra đánh giá của các quan chức ASEAN và nhiều nghị sỹ của AIPO về vai trò và vị trí của Việt Nam để thay cho lời kết, Cùng với tính kỷ luật, sự dồi dào về năng lực, Việt Nam đang góp phần đẩy con thuyền ASEAN vững bước tiến về đích. Việt Nam cũng đang có tiếng nói rất quan trọng trong ASEAN, vị thế của Việt Nam ngày càng được nâng cao trong các quan hệ quốc tế. 1.2.2.Những nhược điểm: Nhược điểm quan trọng của Việt Nam là người Việt không chú trọng mấy đến vấn đề bảo quản. Cầu đường, nhà cửa hay những cơ sở hạ tầng và thiết bị công nghiệp xây xong một hai năm đã xuống cấp, phần vì đã không được thực hiện hoàn chỉnh, phần vì chủ đầu tư, kể cả những tư nhân, không dự trù ngân sách và nhân lực bảo quản. Đây là một đặc tính văn hóa khó có thể sửa được. Trong số những nhược điểm cần được khắc phục có thể kể: - Công chức tham nhũng và thiếu khả năng nghiệp vụ, hậu quả của chính sách giáo dục đào tạo chậm được đổi mới; - Phân chia trách nhiệm quyền hành giữa các bộ ngành của Chính phủ không rõ rệt làm cho những quyết định không được phối hợp hài hòa; - Hạ tầng và thiết bị hậu cần không thích ứng với nhu cầu phát triển và hiện đại hóa kinh tế xã hội; - Ngoài vài tuyến giao thông với Trung Quốc, mạng giao thông ít kết nối với những nước lân cận; - Phần lớn kinh tế vẫn còn tính chất thủ công hay công nghiệp sơ khai; - Thiếu những phương tiện quản lý điện tử mà các nước trong vùng đã có: thủ tục ra vào cảng, hải quan và thủ tục giao dịch thương mại kết nối giữa tất cả các đối tác và tiềm năng vận tải sẵn có trên thế giới. - Mặc dù kinh tế tăng mạnh, Việt Nam vẫn còn là một nước nghèo, lại giáp giới với hai nước nghèo nhất của khối ASEAN. Tỉnh Vân Nam cũng trong số những tỉnh nghèo của Trung Quốc. - Ngoài phần biên giới với phía Nam Campuchia ra, lãnh thổ Việt Nam có núi hiểm trở bao quanh làm giao thương với những nước láng giềng không tiện mấy. Việt Nam ở cuối bán đảo Đông Dương nên giao thương bằng đường bộ và đường sắt giữa những nước ở phía Tây và phía Bắc Myanmar có xu hướng đi tắt không quá cảnh những nước Đông Dương. Giao thương bằng đường biển của những nước đó có xu hướng vòng qua eo Malacca rồi đi thẳng sang Trung Quốc, Hàn Quốc và Nhật Bản qua biển Đông mà không dừng ở Việt Nam. - Mạng đường sắt Việt Nam kết nối với mạng của Trung Quốc nhưng mạng của Việt Nam có khổ 1.000 mi li mét còn mạng của Trung Quốc có khổ tiêu chuẩn 1.435 mi li mét. Mạng đường sắt của những nước láng giềng khác có khổ 1.000 mm nhưng lại không kết nối với mạng của Việt Nam. - Dọc bờ biển Việt Nam có nhiều sông đổ ra những khối lượng phù sa rất lớn. Vì thế mà Việt Nam có ít địa điểm thuận tiện để xây cảng lớn nước sâu và, nếu có, thì phải luôn luôn nạo vét luồng lạch để tránh cho cảng bị bồi đắp. 2. Một số tác động của việc tham gia quá trình hội nhập kinh tế Việt Nam chọn cách tham gia “ít nhất có thể” và “kéo dài lâu nhất có thể” trong các cam kết cắt giảm thuế quan và mở cửa thị trường vô hình chung đã tạo cho doanh nghiệp sự bảo hộ, khiến phần lớn doanh nghiệp Việt Nam thiếu động lực cạnh tranh. Họ dường như không quan tâm nhiều đến việc xây dựng một chiến lược kinh doanh khu vực và xa hơn là toàn cầu. Trước thực trạng đó, việc hình thành AEC sẽ có tác động không nhỏ đến Việt Nam. Thừa nhận vẫn cần phải có những nghiên cứu sâu hơn về tác động của AEC với điều kiện cụ thể của Việt Nam, nhưng các chuyên gia cũng đưa ra dự báo bước đầu rằng việc tham gia tiến trình AEC sẽ tạo thêm thương mại với Việt Nam. Điều này phản ánh rõ rệt qua hàng rào thuế quan của Việt Nam. Số liệu của Viện Kinh tế và chính trị thế giới cho thấy mức thuế quan bình quân của Việt Nam theo CEPT vẫn cao gần gấp đôi mức bình quân của ASEAN-10 (6,22% so với 3,33%) và gần 20% dòng thuế quan vẫn có thuế suất trên 5% nên hiệu ứng “tạo thêm thương mại” với Việt Nam sẽ lớn khi hàng rào thuế quan của Việt Nam thấp hơn. Dòng đầu tư nước ngoài chảy vào Việt Nam được dự báo cũng sẽ mạnh hơn cả về số lượng cũng như chất lượng khi Việt Nam tham gia tiến trình AEC. Các nhà đầu tư sẽ tìm đến Việt Nam không chỉ bởi một quy mô thị trường của AEC hơn 500 triệu dân với trên 1.000 tỷ USD GDP, mà còn bởi chi phí kinh doanh và giao dịch sẽ giảm mạnh qua việc cải thiện môi trường đầu tư. Khi đầu tư trực tiếp gia tăng, tất yếu nước đón nhận sẽ được hưởng lợi từ những công nghệ chuyển giao, tạo thêm việc làm, phát triển nguồn nhân lực và mở ra kênh tiếp cận thị trường khu vực và thế giới. Theo các chuyên gia kinh tế, đó là những “hiệu ứng động” mà Việt Nam phải biết chớp lấy. Lưu ý này xuất phát từ thực tế hiện nay Việt Nam còn áp dụng khá nhiều biện pháp phi thuế quan cũng như rào cản kinh doanh nếu không được điều chỉnh đồng bộ sẽ dẫn đến “chệch hướng đầu tư” khỏi Việt Nam. Một nhận định quan trọng khác được các chuyên gia đưa ra tại hội nghị này là, việc Việt Nam tham gia AEC sẽ không có những tác động lớn đến việc chuyển dịch nguồn thu ngân sách nhưng sẽ tác động tích cực tới quá trình cải cách thuế và cơ cấu thu ngân sách của Việt Nam. Thực tế, nguồn thu thuế từ hoạt động ngoại thương của Việt Nam luôn chiếm 20-25% tổng thu ngân sách, do đó Việt Nam cần có chính sách tốt để ứng phó với tiến trình đẩy nhanh cắt giảm thuế của AEC. Thông qua kết quả nghiên cứu về tác động ngân sách của Việt Nam tham gia CEPT/AFTA, các chuyên gia đã đưa ra những tiên liệu trong trường hợp Việt Nam tham gia AEC. Cụ thể, khi thực hiện CEPT, thu ngân sách của Việt Nam có thể bị giảm từ thuế nhập khẩu đối với hàng từ ASEAN lên đến 320 triệu USD, tương đương 75% tổng số thu thuế quan từ hàng nhập khẩu ASEAN. Tuy nhiên, khi thực hiện CEPT, số thu ngân sách của Việt Nam từ nguồn thu nhập khẩu từ các khu vực ngoài ASEAN lại tăng mạnh, có thể lên tới 4,770 tỷ USD Xây dựng mối quan hệ hợp tác kinh tế toàn diện giữa ASEAN.Xây dựng các chính sách pháp luật các chính sách kinh tế tài chính, thương mại. Với tư cách là cơ quan đại diện của Chính phủ Việt Nam tại các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế và đầu mối quan hệ với ngân hàng trung ương các nước, Ngân hàng Nhà nước đã cùng với các bộ ngành hữu quan tranh thủ được sự hỗ trợ của cộng đồng quốc tế tài trợ cho Việt Nam, tích cực vận động và thu hút được nguồn ưu đãi đáng kể phục vụ cho công cuộc phát triển kinh tế, đồng thời chủ động triển khai thực hiện các cam kết song phương và đa phương trong lĩnh vực ngân hàng, qua đó góp phần quan trọng vào tiến trình hội nhập kinh tế và nâng cao hiệu quả phát triển kinh tế xã hội của đất nước. 2.1. Tác động của doanh nghiệp Cơ cấu kinh tế dịch chuyển theo hướng khai thác lợi thế so sánh với tốc độ tăng trưởng của khu vực sử dụng nhiều lao động cao hơn so với khu vực sử dụng ít lao động.  Các chuyên gia đều có chung nhận định cho rằng khu vực doanh nghiệp Việt Nam dường như chưa ý thức đầy đủ về tiềm năng của thị trường ASEAN cũng như các ưu đãi mà các kênh hợp tác kinh tế, kỹ thuật của ASEAN mang lại. Số liệu của Viện Kinh tế và chính trị thế giới cho thấy mức thuế quan bình quân của Việt Nam theo CEPT vẫn cao gần gấp đôi mức bình quân của ASEAN-10 (6,22% so với 3,33%) và gần 20% dòng thuế quan vẫn có thuế suất trên 5% nên hiệu ứng “tạo thêm thương mại” với Việt Nam sẽ lớn khi hàng rào thuế quan của Việt Nam thấp hơn. Dòng đầu tư nước ngoài chảy vào Việt Nam được dự báo cũng sẽ mạnh hơn cả về số lượng cũng như chất lượng khi Việt Nam tham gia tiến trình AEC. Các nhà đầu tư sẽ tìm đến Việt Nam không chỉ bởi một quy mô thị trường của AEC hơn 500 triệu dân với trên 1.000 tỷ USD GDP, mà còn bởi chi phí kinh doanh và giao dịch sẽ giảm mạnh qua việc cải thiện môi trường đầu tư. Khi đầu tư trực tiếp gia tăng, tất yếu nước đón nhận sẽ được hưởng lợi từ những công nghệ chuyển giao, tạo thêm việc làm, phát triển nguồn nhân lực và mở ra kênh tiếp cận thị trường khu vực và thế giới Tác động của nhà nước: Cần cải thiện năng lực dự báo và điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước; ·         Tiếp tục thực hiện chính sách tiền tệ chặt, hạn chế tăng trưởng tín dụng nhằm giảm bớt áp lực phía cầu; ·         Tiếp tục mua bổ sung dự trữ ngoại hối nhằm dự phòng khả năng đảo chiều luồng vốn; ·         Chính sách tỷ giá cần được linh hoạt theo cả chiều giảm giá và tăng giá đồng nội tệ so với đô la Mỹ. ·         Ngân hàng Nhà nước cần tập trung vào tỷ giá hối đóai thực hơn là tỷ giá hối đóai danh nghĩa với đồng la Mỹ. ·         Chính phủ cần có giải pháp nhằm hạn chế bớt nguồn vốn chảy vào, đặc biệt các nguồn vốn đầu cơ ngắn hạn nhằm giảm bớt tác động tiêu cực, ngăn ngừa khả năng rút vốn đột ngột và khủng hoảng tài chính. 2.2. Tác động của nhà nước Một số những tác động nêu trên cho thấy nếu Việt Nam không hấp thụ được những tác động tích cực của AEC sẽ có nguy cơ chịu những tác động không thuận của quá trình này, như: khoảng cách phát triển sẽ bị doãng ra, việc huy động các nguồn lực sẽ bị hạn chế và sẽ tiếp tục bị phân biệt đối xử ngay trong AEC, sức hấp dẫn đối với đầu tư nước ngoài sẽ bị giảm sút... Tích cực tham gia vào AEC, Việt Nam sẽ khiến các đối tác bên ngoài phải thay đổi tư duy của họ khi tiến hành xúc tiến đầu tư và thương mại. Với vị thế “đồng đẳng” trong cộng đồng, thị trường Việt Nam sẽ được coi trọng, thu hút được các công ty xuyên quốc gia trong 500 tập đoàn lớn nhất thế giới đầu tư vào Việt Nam thay vì các công ty vừa và nhỏ đến từ các nước châu Á. Để tham gia hiệu quả vào lộ trình AEC, một trong những yếu tố quan trọng nhất được đề xuất tại Hội nghị này là Việt Nam cần thực hiện tốt cải cách. Để làm được điều này bên cạnh việc thực hiện đúng, đủ và tích cực các cam kết, về phía Chính phủ cần tập trung hỗ trợ khu vực doanh nghiệp, giảm thiểu chi phí giao dịch kinh doanh thông qua cắt giảm chi phí đầu vào sản xuất và cung ứng dịch vụ với thời gian ngắn nhất. Đặc biệt cần tăng cường hiệu quả của các ngành cung ứng đầu vào cho sản xuất và dịch vụ như giao thông vận tại, điện lực, viễn thông và tài chính ngân hàng để toàn bộ nền kinh tế có được đầu vào sản xuất và dịch vụ với chi phí thấp hơn và chất lượng cao hơn. Một biện pháp nữa cũng được nhiều ý kiến bình luận tại Hội nghị hết sức lưu ý, đó là nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp nhà nước hoạt động trong 12 lĩnh vực ưu tiên của tiến trình AEC. Phương châm tham gia AEC trên 12 lĩnh vực ưu tiên ở đây là tránh đối đầu cạnh tranh trực tiếp với những đối thủ mạnh nhất trong ASEAN mà nên tận dụng cơ hội hợp tác kinh doanh, xây dựng liên minh chiến lược để “vừa làm, vừa trưởng thành” trước khi hội nhập thị trường toàn cầu. Nhìn rộng ra, các doanh nghiệp Việt Nam cần có chiến lược xây dựng quan hệ đối tác với các tập đoàn xuyên quốc gia hàng đầu trên thế giới, trên nguyên tắc yếu-mạnh bổ sung cho nhau, trước hết trên 12 lĩnh vực ưu tiên của tiến trình AEC. Bên cạnh đó, Việt Nam cần tham gia định hình một AEC hướng tới như một “thực thể kinh tế khu vực thống nhất” chứ không chỉ dừng lại như một AFTA mở rộng. Theo đó, cần xây dựng một khung khổ cam kết thương mại hàng hoá và dịch vụ tự do lưu chuyển hơn nữa thông qua đàm phán đi đến loại bỏ các biện pháp phi thuế quan. Một khung khổ đầu tư mở và tự do đối với lưu chuyển dòng vốn thông qua cải cách các quy định điều tiết thị trường theo hướng minh bạch hơn, dự đoán được và có hiệu lực hơn. Một chính sách thuế quan chung với bên ngoài để thị trường không bị phân mảng. Một mạng lưới cơ sở hạ tầng (cứng và mềm) xuyên ASEAN thông qua kêu gọi đầu tư và tài trợ để phát triển đồng bộ mạng lưới vận tải, thông tin, giao dịch an toàn giữa các thành viên Nhà nước đưa ra các chính sách hợp lý tạo điều kiện thúc đẩy hàng hóa phát triển giao lưu mạnh mẽ hơn. Lộ trình thực hiện khi tham gia khu vực kinh tế thương mại Asean Đối với Việt Nam, gia nhập ASEAN là bước đi quan trọng, hỗ trợ đắc lực việc triển khai chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa, hội nhập khu vực và quốc tế. Tham gia ASEAN đã và đang mang lại cho Việt Nam nhiều lợi ích to lớn và thiết thực, mà bao trùm là tạo môi trường quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước cũng như nâng cao vai trò và vị thế quốc tế của Việt Nam. Gia nhập ASEAN đã giúp Việt Nam phá thế bị bao vây và cô lập khi đó; giải quyết cơ bản những vấn đề tồn tại do lịch sử để lại trong quan hệ với các nước ở khu vực Đông Nam Á; tạo dựng mối quan hệ mới về chất giữa các nước thành viên ASEAN cả về song phương và đa phương. Trở thành thành viên ASEAN đã tạo điều kiện thuận lợi và tạo thế cho Việt Nam mở rộng quan hệ quốc tế, tăng cường hợp tác với các nước và các trung tâm lớn trên thế giới. Tham gia hợp tác ASEAN là môi trường thuận lợi giúp Việt Nam tích lũy kinh nghiệm và nâng cao năng lực hội nhập khu vực và quốc tế, tham gia có hiệu quả hơn vào các tổ chức khu vực và quốc tế rộng lớn hơn như Diễn đàn Hợp tác châu Á-Thái Bình Dương (APEC), Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), Tổ chức Liên Hợp Quốc (LHQ) … Đối với khu vực Đông Nam Á, việc Việt Nam gia nhập ASEAN đã thúc đẩy việc hình thành một ASEAN bao gồm cả 10 quốc gia Đông Nam Á, đưa đến những thay đổi cơ bản về Hiệp hội và tình hình khu vực. Với sự gia nhập của Việt Nam và tiếp sau đó là Lào, Mianma và Campuchia, ASEAN đã thực sự trở thành một tổ chức hợp tác khu vực mang tính toàn diện, là ngôi nhà chung của cả 10 nước thành viên cùng nhau chung sống trong hòa bình, hữu nghị, hiểu biết và tin cậy lẫn nhau, hợp tác ngày càng chặt chẽ cả về đa phương và song phương. Sự hình thành ASEAN-10 cùng với những kết quả to lớn của hợp tác ASEAN đã làm cho Hiệp hội trở thành một thực thể chính trị-kinh tế quan trọng ở Đông Nam Á và châu Á-Thái Bình Dương, tạo ra những tiền đề vật chất cho gia tăng liên kết khu vực sâu rộng hơn, hướng tới mục tiêu hình thành một Cộng đồng ASEAN vào năm 2015. 3.1. .Qúa trình phát triển khu vực kinh tế thương mại Asean. Trong 12 năm qua, Việt Nam tham gia tích cực và có nhiều đóng góp quan trọng trên tất cả các lĩnh vực hợp tác của ASEAN. Việt Nam luôn đóng vai trò chủ chốt trong việc xác định các quyết sách lớn và phương hướng hợp tác của ASEAN cũng như tăng cường đoàn kết, hợp tác và nâng cao vị thế quốc tế của Hiệp hội. Một trong những đóng góp cụ thể nổi bật nhất của Việt Nam là đã tổ chức thành công Hội nghị Cấp cao ASEAN VI vào tháng 12/1998 với kết quả quan trọng là hoàn tất quá trình hình thành ASEAN-10 và thông qua Chương trình Hành động Hà nội (HPA) để thực hiện Tầm nhìn ASEAN 2020, giúp ASEAN vượt qua thời điểm khó khăn nhất do tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế-tài chính khu vực năm 1997. Về chính trị-an ninh, Việt Nam luôn tích cực tăng cường đoàn kết và thống nhất ASEAN, kiên trì bảo vệ các nguyên tắc cơ bản của Hiệp hội, nhất là không can thiệp và đồng thuận; xử lý khéo léo một số vấn đề phức tạp, nhạy cảm trên cơ sở bảo đảm đoàn kết và lợi ích chung của ASEAN. Việt Nam cũng có nhiều đóng góp quan trong trong việc duy trì môi trường hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển ở khu vực; duy trì vai trò chủ đạo của ASEAN trong việc xử lý các vấn đề khu vực cũng như tại các diễn đàn hợp tác khu vực do ASEAN khởi xướng. Về kinh tế, Việt Nam đã tham gia tích cực và thực hiện đầy đủ các cam kết về liên kết kinh tế khu vực trên nhiều lĩnh vực, kể cả trong ASEAN và giữa ASEAN với các đối tác bên ngoài, góp phần làm cho ASEAN dần trở thành một thực thể kinh tế thống nhất, ngày càng trở nên hấp dẫn hơn đối với đầu tư và kinh doanh nước ngoài. Đặc biệt, Việt Nam đã tích cực thúc đấy hợp tác ASEAN về thu hẹp khoảng cách phát triển, thông qua thực hiện Sáng kiến Liên kết ASEAN (IAI), Chương trình hợp tác Mê Công và Hành lang Đông-Tây. Về văn hóa-xã hội, Việt Nam đã tham gia tích cực vào tất cả các hoạt động hợp tác chuyên ngành rất đa dạng và phong phú với hàng trăm dự án khác nhau, góp phần nâng hợp tác chuyên ngành của ASEAN lên tầm cao mới. Đặc biệt, Việt Nam đã đề xuất xây dựng Cộng đồng Văn hóa-Xã hội ASEAN, một trong ba trụ cột của Cộng đồng ASEAN, nhằm mục tiêu đưa ASEAN trở thành một “cộng đồng các xã hội đùm bọc và chia sẻ lẫn nhau”. Về quan hệ đối ngoại của ASEAN, Việt Nam đã góp phần tích cực thúc đẩy quan hệ đối ngoại của ASEAN, nhất là sự hợp tác với các bên đối thoại của ASEAN thông qua khuôn khổ ASEAN+1, trong đó Việt Nam đã hoàn thành tốt nhiệm vụ điều phối viên trong quan hệ đối thoại với một số nước Nga, Mỹ, Ôxtrâylia và Canađa. Việt Nam cũng có những đóng góp tích cực và xây dựng trong việc định hướng phát triển của nhiều tiến trình hợp tác khu vực do ASEAN khởi xướng và giữ vai trò chủ đạo như ASEAN+3, Cấp cao Đông Á (EAS) và Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF), góp phần thúc đẩy xu thế đối thoại và hợp tác vì phát triển ở châu Á-Thái Bình Dương. Trong thời gian tới, Việt Nam sẽ làm gì để thúc đẩy hơn nữa tiến trình hội nhập khu vực vì lợi ích của Việt Nam và của khu vực, hướng tới một Cộng đồng ASEAN vào năm 2015. Hợp tác ASEAN liên quan trực tiếp đến môi trường an ninh và phát triển của Việt Nam. Một ASEAN liên kết chặt chẽ, đoàn kết và thống nhất, có vai trò và vị thế quốc tế quan trọng, là hoàn toàn phù hợp với lợi ích cơ bản và lâu dài của Việt Nam. Hơn nữa, hợp tác ASEAN rất đa dạng và phức tạp, không chỉ bó hẹp trong phạm vi khu vực Đông Nam Á và 10 nước thành viên ASEAN, mà còn liên quan nhiều đến quan hệ và chính sách của các đối tác quan trọng bên ngoài thông qua các khuôn khổ hợp tác khu vực như ASEAN+1, ASEAN+3, EAS và ARF. Điều đó đòi hỏi phải có sự tham gia tích cực ở các cấp và sự phối hợp chặt chẽ của các các bộ, ngành liên quan của Việt Nam. Lộ trình Hội nhập tài chính tiền tệ ASEAN; thúc đẩy sự phát triển chiều sâu của thị trường vốn; tiếp tục tăng cường Tự do hóa các dịch vụ tài chính, Tự do hóa tài khoản vốn; Hợp tác trong lĩnh vực hải quan; tăng cường cơ sở hạ tầng; hợp tác để thích nghi, giảm nhẹ các tác động của biến đổi khí hậu; và nâng cao hình ảnh ASEAN để biến nơi này thành điểm đến đầu tư.    Tại cuộc họp báo tối qua với sự có mặt của lãnh đạo Bộ Tài chính 10 nước ASEAN, trả lời PV về việc sẽ có đồng tiền chung ASEAN hay không và bao giờ, Bộ trưởng Tài chính VN Vũ Văn Ninh cho biết đây là vấn đề đã được đưa ra tại nhiều cuộc họp tài chính khu vực, tuy nhiên lộ trình còn dài vì còn rất nhiều vấn đề phức tạp thuộc về mỗi nước cần giải quyết. Bộ trưởng Tài chính Malaysia - Nor Mohamed Yakcop khẳng định thêm: Tất cả chúng ta đều muốn đẩy mạnh công việc này. Tuy nhiên đồng tiền chung không phải là mục tiêu duy nhất, cái chính là một sự gắn kết chặt chẽ và bền vững, tạo một sự hội nhập  sâu trong khu vực, và việc này chúng ta đã có tiến bộ lớn. Về “Quỹ tiền tệ ASEAN + 3” (Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc) để ngăn ngừa và đối phó với khủng hoảng tài chính, Bộ trưởng Vũ Văn Ninh và Bộ trưởng Tài chính Thái Lan - Surapong Suebwonglee thông báo đã đạt được một số thỏa thuận về nguyên tắc hoạt động của Quỹ, và sẽ tiếp tục bàn thêm về những tiêu chí cụ thể để đi đến thống nhất tại Hội nghị Bộ trưởng Tài chính ASEAN + 3 vào tháng 5 tới đây tại Madrid - Tây Ban Nha. Trong một diễn biến khác, nhân dịp này, đoàn của Hội đồng Kinh doanh Hoa Kỳ - ASEAN gồm đại diện các tập đoàn tài chính hàng đầu của Mỹ do Chủ tịch Hội đồng Mathew Daley và ông Piyush Gupta, TGĐ về ngân hàng và thị trường khu vực ASEAN của Citibank đồng thời là Chủ tịch Nhóm công tác về tài chính của Hội đồng dẫn đầu đã có cuộc hội đàm đa phương với 10 Bộ trưởng Tài chính trong khu vực, và các cuộc gặp song phương với Bộ trưởng Tài chính và Thống đốc Ngân hàng Nhà nước VN, cùng với Bộ trưởng Tài chính Singapore Tharman Shanmugaratnam và Tổng thư ký ASEAN Surin Pitsuwan. Trước tình hình các quốc gia ASEAN đang phải đối mặt với những thách thức ngày càng tăng nhằm đảm bảo tăng trưởng, đồng thời vừa phải tránh gây biến động về lãi suất, giá tiêu dùng và năng lượng, những trao đổi của đoàn doanh nghiệp Hội đồng Kinh doanh Hoa Kỳ-ASEAN mang tính thực chất, xây dựng và hiệu quả. Và tựu trung, vẫn là những cái nhìn lạc quan. “Với tư cách là các nhà đầu tư tham gia vào thị trường, chúng tôi ý thức rõ các thách thức mà các Bộ trưởng phải đương đầu - ông Piyush Gupta -TGĐ khu vực ASEAN của Citibank nói - Tuy nhiên, ngay cả trong tình hình hiện nay, chúng tôi vẫn nhìn thấy những cơ hội cho các quốc gia ASEAN tiếp tục đẩy mạnh các cải cách cơ cấu khu vực tài chính và các nỗ lực hội nhập khu vực nhằm tăng cường sự ổn định và độ hấp dẫn của các nền kinh tế khu vực …”.   3.2. Xây dựng lộ trình tham gia hội nhập thương mại Asean. “Dựa trên nền tảng hợp tác sẵn có và cam kết cùng nỗ lực vì lợi ích chung của khu vực, tôi tin tưởng trong tương lai, ASEAN sẽ hội nhập kinh tế sâu rộng hơn, thu hẹp chênh lệch về trình độ phát triển giữa các nước thành viên, đạt được một hệ thống thương mại đa phương công bằng và mở cửa, có năng lực cạnh tranh toàn cầu” - Phó Thủ tướng Nguyễn Sinh Hùng nhấn mạnh. Qua đó, ông bày tỏ hy vọng mục tiêu biến ASEAN trở thành Cộng đồng kinh tế ASEAN vào năm 2015 như đã tuyên bố tại Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN lần thứ 13 tại Singapore sẽ trở thành hiện thực. Đó là đưa ASEAN trở thành một cơ sở sản xuất và thị trường đơn nhất, một khu vực kinh tế có tính năng động và cạnh tranh cao, một khu vực phát triển cân bằng và hội nhập hoàn toàn vào nền kinh tế toàn cầu. Bài học quý từ cuộc khủng hoảng năm 1997 Theo Phó Thủ tướng Nguyễn Sinh Hùng, để xây dựng thành công Cộng đồng kinh tế ASEAN thì vấn đề hợp tác tài chính - tiền tệ là bộ phận cấu thành vô cùng quan trọng, vì sự ổn định và phát triển lành mạnh của hệ thống tài chính - tiền tệ quyết định đến sự ổn định và phát triển của cả nền kinh tế. Tuy nhiên, tình hình tài chính - tiền tệ thế giới và khu vực thời gian qua đã và đang tạo ra những thách thức mới cho việc duy trì ổn định kinh tế vĩ mô và tăng trưởng của mỗi nước và cả khu vực. Trong bối cảnh đó, ông đánh giá cao việc các Bộ trưởng Tài chính và Thống đốc Ngân hàng TƯ ASEAN tiến hành rà soát lại lộ trình được thông qua từ năm 2003 và các chương trình tài chính khác trong ASEAN nhằm tăng cường hơn nữa quá trình hợp tác và hội nhập tài chính - tiền tệ trong khu vực. Việc thông qua kênh Hội nghị Bộ trưởng ASEAN mở rộng hợp tác với 3 nước đối tác Nhật Bản, Trung Quốc và Hàn Quốc (AFMM+3) nhằm tiếp tục thúc đẩy thực hiện “Sáng kiến phát triển thị trường vốn châu Á” và “Sáng kiến ChiangMai” cũng sẽ là nỗ lực chung nhằm đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế - tài chính của khu vực và góp phần làm vững mạnh hệ thống tài chính của ASEAN. “Bên cạnh đó, kinh nghiệm từ cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997 cũng sẽ là bài học quý báu để chúng ta cùng nhìn nhận lại cơ chế giám sát ASEAN, quá trình tự do hoá tài khoản vốn, tự do hoá dịch vụ tài chính và đẩy mạnh việc phát triển hợp tác qua biên giới giữa các thị trường vốn trong khu vực Đông Nam Á nói riêng và châu Á nói chung” – Phó Thủ tướng Nguyễn Sinh Hùng nói. Ông cũng đề nghị các Bộ trưởng Tài chính ASEAN cùng nhau chia sẻ kinh nghiệm, giải pháp đối phó với tình hình suy giảm kinh tế toàn cầu, kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội, đưa ra những giải pháp chung tốt nhất để thúc đẩy hợp tác và củng cố hệ thống tài chính mỗi nước và toàn khu vực. Nhân dịp này, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Phạm Bình Minh đã trao cho Tổng Thư ký ASEAN Surin Pitsuwan văn bản của VN chính thức phê chuẩn Hiến chương ASEAN. Cùng với Singapore, Brunei, Lào và Malaysia, VN là nước thứ 5 phê chuẩn Hiến chương ASEAN nhằm góp phần đưa Hiến chương này vào thực hiện từ năm 2009 để xây dựng một ASEAN hoà bình, ổn định, phát triển và liên kết chặt chẽ. Đẩy mạnh hợp tác tài chính - tiền tệ ASEAN Ngay sau lễ khai mạc, các Bộ trưởng Tài chính ASEAN đã bước vào phiên làm việc chính thức đầu tiên của AFMM 12. Theo Bộ trưởng tài chính VN Vũ Văn Ninh (chủ trì hội nghị), AFMM 12 sẽ tập trung thảo luận lộ trình hội nhập tài chính - tiền tệ và các hợp tác tài chính khác trong ASEAN để cùng đạt được mục tiêu đưa ASEAN trở thành một thị trường đơn nhất, một khu vực kinh tế có tính năng động và cạnh tranh cao, một khu vực phát triển cân bằng và hội nhập hoàn toàn vào nền kinh tế toàn cầu.. Bên cạnh đó, AFMM 12 cũng là dịp để các Bộ trưởng Tài chính ASEAN và các vị khách mời trao đổi quan điểm về tình hình, triển vọng kinh tế thế giới và khu vực, b àn thảo các đối sách và đưa ra những quyết định quan trọng để bảo vệ nền tài chính - tiền tệ khu vực trong bối cảnh kinh tế toàn cầu có nhiều biến động như hiện nay. Đồng thời đánh giá và thảo luận các sáng kiến về hội nhập và hợp tác tài chính - tiền tệ trong ASEAN, từ đó đưa ra được những giải pháp để thúc đẩy hơn nữa quá trình này. Theo Vụ Hơp tác Quốc tế (Bộ Tài chính VN), mục tiêu chính của AFMM và AFMM+3 là tăng cường đối thoại và giám sát kinh tế, tài chính giữa các nước Đông Á, giúp các nước thành viên ngăn ngừa nguy cơ xảy ra khủng hoảng và củng cố hệ thống tài chính khu vực. Hiện nay, hoạt động hợp tác tài chính ASEAN tập trung vào việc triển khai thực hiện lộ trình hội nhập đến 2015 về phát triển thị trường vốn, tự do hóa tài khoản vốn, tự do hóa dịch vụ tài chính và hợp tác tiền tệ; tăng cường đối thoại chính sách ở cấp Bộ trưởng, chia sẻ thông tin và đưa ra những biện pháp khuyến nghị ở cấp khu vực cũng như quốc gia nhằm hợp tác ngăn ngừa những nguy cơ xảy ra khủng hoảng; tăng cường hợp tác trong các lĩnh vực khác như bảo hiểm, thuế, hải quan Chương III: Giải pháp xúc tiến khi tham gia hội nhập khu vực kinh tế thương mại Asean. Việc Việt Nam tham gia ASEAN là một trong những hoạt động đối ngoại có tính đột phá của tiến trình triển khai đường lối đối ngoại Đổi mới - đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ đối ngoại, tăng cường hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Bên cạnh những ý nghĩa và tầm quan trọng về an ninh - chiến lược và đối ngoại, tham gia ASEAN đồng thời mang lại cho Việt Nam nhiều lợi ích và thành công về kinh tế. Tham gia hợp tác kinh tế ASEAN thời gian qua đã không chỉ góp phần vào những thành tựu to lớn về tăng trưởng và phát triển kinh tế của Việt Nam mà còn có ý nghĩa rất quan trọng góp phần thúc đẩy tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước. Trong những năm qua, từ việc khởi động tiến trình xây dựng Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) năm 1992 đến việc ký Hiệp định khung ASEAN về Dịch vụ (AFAS) năm 1995, Hiệp định về Khu vực Đầu tư ASEAN (AIA) năm 1998, và quyết định về thành lập Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC), vào năm 2015, ASEAN đã và đang khẳng định quyết tâm tăng cường hợp tác và tự do hoá, vì lợi ích phát triển của Hiệp hội cũng như của mỗi thành viên, nhất là trước những phát triển mới của tiến trình toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực. Không chỉ tăng cường liên kết, tự do hoá kinh tế - thương mại trong nội bộ Hiệp hội, kể từ năm 2002 đến nay, ASEAN đã đồng thời khởi động các tiến trình đàm phán xây dựng khu vực mậu dịch tự do với một loạt đối tác - những đối tác kinh tế - thương mại quan trọng hàng đầu của ASEAN. Với các lộ trình đàm phán hiện nay, dự kiến trong khoảng từ năm 2010 đến 2020, ASEAN sẽ hoàn tất việc xây dựng khu vực mậu dịch tự do với Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, Úc + Niu-di-lân và EU. Ngoài ra, hợp tác kinh tế giữa ASEAN với nhiều đối tác lớn và quan trọng khác như Hoa Kỳ, CHLB Nga, Canada v.v.. cũng sẽ ngày một tăng cường, hướng tới khả năng liên kết và tự do hoá trong tương lai không xa. Các tiến trình hợp tác, liên kết kinh tế giữa ASEAN- Đối tác đã ngày càng góp phần quan trọng vào sự tăng hưởng và phát triển kinh tế của khu vực cũng như mỗi quốc gia thành viên. Phát biểu tại buổi hội thảo, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Vũ Dũng đã nhấn mạnh: Mặc dù tham gia muộn và với trình độ phát triển kinh tế thấp hơn nhiều so với đa số các thành viên khác, Việt Nam, về cơ bản, đã rất tích cực và nghiêm túc thực hiện các cam kết về hợp tác, tự do hoá kinh tế - thương mại của Hiệp hội, đồng thời tham gia vào các tiến trình đàm phán, thiết lập các thể chế liên kết, tự do hoá kinh tế chung của ASEAN với các Đối tác. Thứ trưởng cũng cho rằng, đối với Việt Nam, tham gia hợp tác kinh tế ASEAN không phải là tiến trình hoàn toàn thuận lợi, chỉ có những cơ hội mà không có khó khăn, thách thức. Đối với bất kỳ quốc gia, nền kinh tế nào khi tham gia hội nhập kinh tế quốc tế đều đứng trước một tiến trình hai mặt: thuận lợi - khó khăn; cơ hội - thách thức và Việt Nam không phải là ngoại lệ. Hơn nữa, tham gia hợp tác kinh tế ASEAN, Việt Nam còn có những khó khăn có tính riêng biệt, đặc thù. Đó là những khó khăn xuất phát từ một nền kinh tế đang trong giai đoạn chuyển đổi, trình độ phát triển còn thấp, bước đầu tham gia hội nhập kinh tế quốc tế. Mặt khác, bản thân tiến trình hợp tác, tự do hoá và hội nhập kinh tế của ASEAN cũng không phải luôn thuận lợi. ASEAN đang phải nghiên cứu, tìm kiếm các chiến lược và giải pháp nhằm thúc đẩy tiến trình hợp tác kinh tế của mình sao cho thật sự hiệu quả. Các tiến trình liên kết, tự do hoá kinh tế - thương mại ASEAN-Đối tác hầu hết mới ở giai đoạn khởi đầu, chủ yếu trong quá trình đàm phán nên còn nhiều khó khăn, trở ngại và chưa thể đánh giá đầy đủ giá trị và hiệu quả. 1.Một số khó khăn vướng mắc trong lộ trình tham gia hội nhập. Gia nhập ASEAN và tham gia các chương trình hợp tác kinh tế của tổ chức này là bước đầu tiên trên con đường thực hiện chính sách tự do hoá thương mại, hội nhập với nền kinh tế thế giới mà Nhà nước ta đã vạch ra và đang thực hiện. Tự do hoá thương mại, hội nhập với nền kinh tế thế giới - ở quy mô toàn cầu nói chung và khu vực nói riêng - chỉ có ý nghĩa khi đem lại những lợi ích thiết thực cho đất nước, thể hiện rõ nhất ở lợi ích cho các doanh nghiệp. Cùng với việc mở cửa thị trường theo các cam kết quốc tế, các hàng rào bảo hộ sẽ bị loại bỏ dần. Điều đó nhắc tất cả các nhà sản xuất - cho dù là chỉ sản xuất hàng tiêu thụ trong nước - phải ý thức được về mức độ cạnh tranh ngày càng tăng với hàng hoá từ nước ngoài đưa vào, để từ đó xác định chiến lược đúng đắn, quyết tâm nâng cao trình độ quản lý và sản xuất, đổi mới kỹ thuật để nâng cao chất lượng và hạ giá thành, chấp nhận cạnh tranh bình đẳng với mọi hàng hoá không phân biệt xuất xứ. Bên cạnh đó, tự do hoá thương mại còn đem lại những thuận lợi đáng kể mà khai thác triệt để chúng mới là mục tiêu lâu dài cần xác định cho mỗi doanh nghiệp. Theo các chương trình AFTA và AICO, thuế suất hàng nhập khẩu vào các nước ASEAN cũng giảm đi đáng kể, tuy nhiên các doanh nghiệp của chúng ta - hoặc vì chưa đủ sức vươn ra nước ngoài, hoặc vì thiếu thông tin hay những lý do khác nữa - đã chưa tận dụng được. Sắp tới, công tác hỗ trợ, xúc tiến thương mại sẽ được nâng lên một vị trí mới nhằm giúp các doanh nghiệp nhanh chóng tìm kiếm bạn hàng, thiết lập quan hệ kinh tế ổn định, đặt những bước tiến vững chắc ra các thị trường bên ngoài. Đây cũng là một cơ hội nữa cho các doanh nghiệp tìm hiểu và tiếp cận với các cơ quan lập chính sách để từ đó xác định hướng đi chủ động cho mình trong bối cảnh mở cửa thị trường, chấp nhận cạnh tranh, quyết tâm vươn mạnh ra nước ngoài. Những năm gần đây , sự thay đổi nhanh chong của môi trường kinh tế - chính trị khu vực( với sự trỗi dậy của trung quốc, sự gia tăng hiện diện can thiệp của mỹ sự chuyển mình của ấn độ) đã thôi thúc ASEAN đổi mới, điều chỉnh chính sách nhằm tăng tính cạnh tranh và thúc đẩy lien kinh tếết khu vực. Một trong những thích ứng moiứ la xây dựng Cộng đồng ASEAN (AC) VÀO NĂM 2020 và tích cực mở rộng đàm phán thiết lập khu mậu dịch tự do song phương đa phương (RTA và BFTA) với các đối tác ngoài khối.Ben cạnh đó ,ASEAN đã và đang có những linh họat hơnviệc áp dụng “phương thức ASEAN bằng cách cho phép thực hiện các nguyên tắc. Việc quyết định thành lập khu vực mậu dịch tự do ASEAN Trung Quốc từ 2002 và dặc biệt là tuyên bố ở bali II năm 2003 về thiết lập AC dựa trên 3 trụ cột chính là cộng đồng kinh tế (AEC) cộng đồng an ninh (ASC) và cong đồng văn hóa xã hội (ASCC) vào năm 2020 là những quyết định đúng hướng kinh tếịp thời của ASEAN trước nhu cầu đòi hỏi của thực tiễn. Những thuận lợi cho Việt Nam khi là thành vien của ASEAN: Được nâng cao vị thế và tạo thế đứng vững chắc trên trường quốc tế, có tiếng nói trong việc định hướng phát triển chung của nền kinh tế thế giới thông qua những cuộc thương lượng và đàm phán, từ đó có điều kiện bảo vệ các quyền lợi và thực hiện các nghĩa vụ theo hướng có lợi cho quốc gia. Có điều kiện khai thác nhiều tiềm năng thông qua việc hợp tác đa dạng với nhiều đối tác để mở rộng và ổn định thị trường, tiếp cận nguồn vốn quốc tế, tạo mội trường hấp dẫn để đẩy nhanh tiến độ thu hút đầu tư nước ngoài, tiếp cận nhanh sự chuyển giao khoa học – công nghệ trên diện rộng và tham gia tích cực vào việc phân công lao động quốc tế. Giữ vững và ổ định an ninh quốc gia để phát triển Có điều kiện thúc đẩy tiến trình cải cách và cơ cấu lại nền kinh tế linh hoạt và năng động hơn theo hướng nâng cao hiệu quả. Cụ thể là đẩy nhanh quá trình cải cách khu vực doanh nghiệp Nhà nước nâng cao tính cạnh tranh của các doanh nghiệp, xoá bỏ cơ chế còn mang tính bao cấp trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, đầu tư và xuất nhập khẩu phát huy hơn nữa tiềm năng và thế mạnh của các thành phần kinh tế. Nâng cao khả năng nắm bắt và vận dụng có hiệu quả các quy tắc ứng xử theo chuẩn mực quốc tế, góp phần nhanh chóng đưa nền kinh tế của nước ta tiến lên phát triển ngang tầm quốc tế. Có điều kiện thực hiện tốt các quan hệ đối ngoại, góp phần tích cực trong việc duy trì . Bên cạnh những thuận lợi cơ hội thì Việt Nam đã và sẽ có những khó khăn thách thức phải vượt qua để tham gia đầy đủ và có hiệu quả cao hơn vào hoạt động ASEAN, tương xứng với vị trí và vai trò của mình trong Hiệp hội: Về mặt hợp tác trong cộng đòng an ninh ASEAN : đối với Việt Nam, thách thức không phải là nhỏ khi gia nhập ASEAN.Sự khác biệt về chế độ chính trị và hệ tư tưởng còn là một trong những trở ngại lớn đối với Việt Nam trong ASEAN. Về kinh tế Việt Nam đòi hỏi phải hài hòa về mặt pháp luật cũng như ứng xử.Điều này ít nhiều cũng động chạm đếnchủ quyền và an ninh quốc gia.Với hệ thống pháp luật còn quá phức tạp khiến cho nhiều nhà đầu tư còn e ngại khi tham gia. Khiến cho Việt Nam bị mất đi nhiều nhà đầu tư lớn. Việt Nam đang trong thời kỳ chuyển đổi và hiệu quả quản lý còn bất cập, hệ thống các thể chế kinh tế thị trường còn chưa đồng bộ, còn yếu kém, cộng thêm với sự chảy máu chát xám lớn nhiều người chưa quen với cơ chế hội nhập mới mà vẫn kinh doanh làm việc theo cơ chế bao cấp. Thách thức lớn nhất là trình độ phát triển kinh tế của nước ta còn thấp, năng lực cạnh tranh của nền kinh tế nói chung, của từng ngành và từng doanh nghiệp nói riêng còn yếu. Việt Nam đi sau rất nhiều nước trên đường phát triển. Cơ chế thị trường còn đang trong quá trình hình thành, các khuôn khổ pháp lý còn chưa hoàn chỉnh, chưa phù hợp với thông lệ và chuẩn mực quốc tế. Còn tồn tại nhiều bất hợp lý trong cơ cấu sản xuất, cơ cấu kinh tế, trong việc phân bổ các nguồn lực của nền kinh tế, trong việc vận dụng các chính sách, quy định, trong việc quy hoạch chiến lược phát triển các ngành kinh tế. Sự hiểu biết về các tổ chức cần hội nhập còn rất hạn chế, đội ngũ cán bộ còn thiếu lại bị hạn chế về chuyên môn, ngoại ngữ và kỹ năng hoạt động đàm phán đa phương. Mở cửa kinh tế còn làm cho nền kinh tế trong nước dễ bị tác động bởi sự biến động không thuận lợi diễn ra từ các nước khác. Các nước ASEAN có những lợi thế tương đồng giống Việt Nam do vậy việc hợp tác thông qua sự phân công lao động sẽ trở nên khó khăn phức tạp và mang tính cạnh tranh gay gắt hơn. Cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam hiện nay chủ yếu là nông sản chưa qua chế biến. Đây là những mặt hàng giảm thuế chậm, trong khi đó những mặt hàng công nghiệp, xuất nguyên liệu là những mặt hàng giảm thuế nhanh lại là sản phẩm xuất khẩu của các nước AFTA khác và là sản phẩm nhập khẩu của Việt Nam. Cạnh tranh gay gắt trong thu hút đầu tư nước ngoài, nhất là trong điều kiện hiện nay, khi mà nhiều nước trong khu vực đã vực dậy sau cơn khủng hoảng. Chúng ta cần phải đưa ra những biện pháp khắc phục để đẩy mạnh nền kinh tế phát triển vững chắc tạo tiền đề cho sự phát triển hội nhập thế giới. 2.Các giải pháp tham gia hội nhập kinh tế thương mại khu vực Asean 2.1. Đối với nhà nước Việt Nam cần thực hiện tốt cải cách. Để làm được điều này bên cạnh việc thực hiện đúng, đủ và tích cực các cam kết, về phía Chính phủ cần tập trung hỗ trợ khu vực doanh nghiệp, giảm thiểu chi phí giao dịch kinh doanh thông qua cắt giảm chi phí đầu vào sản xuất và cung ứng dịch vụ với thời gian ngắn nhất. Đặc biệt cần tăng cường hiệu quả của các ngành cung ứng đầu vào cho sản xuất và dịch vụ như giao thông vận tại, điện lực, viễn thông và tài chính ngân hàng để toàn bộ nền kinh tế có được đầu vào sản xuất và dịch vụ với chi phí thấp hơn và chất lượng cao hơn. 2.2. Đối với doanh nghiệp Các doanh nghiệp Việt Nam cần có chiến lược xây dựng quan hệ đối tác với các tập đoàn xuyên quốc gia hàng đầu trên thế giới, trên nguyên tắc yếu-mạnh bổ sung cho nhau, trước hết trên 12 lĩnh vực ưu tiên của tiến trình AEC. Bên cạnh đó, Việt Nam cần tham gia định hình một AEC hướng tới như một “thực thể kinh tế khu vực thống nhất” chứ không chỉ dừng lại như một AFTA mở rộng. Theo đó, cần xây dựng một khung khổ cam kết thương mại hàng hoá và dịch vụ tự do lưu chuyển hơn nữa thông qua đàm phán đi đến loại bỏ các biện pháp phi thuế quan. Một khung khổ đầu tư mở và tự do đối với lưu chuyển dòng vốn thông qua cải cách các quy định điều tiết thị trường theo hướng minh bạch hơn, dự đoán được và có hiệu lực hơn. Một chính sách thuế quan chung với bên ngoài để thị trường không bị phân mảng. Một mạng lưới cơ sở hạ tầng (cứng và mềm) xuyên ASEAN thông qua kêu gọi đầu tư và tài trợ để phát triển đồng bộ mạng lưới vận tải, thông tin, giao dịch an toàn giữa các thành viên và với thế giới. Kết luận ASEAN là thị trường hấp dẫn thu hút các nhà đầu tư cũng như các hiệp hội các quốc gia trên thê giới quan tâm. ASEAN đã có những bạn hang quen thuộc như EU, trung quốc , mỹ , nhật bản , giúp cho ASEAN có cơ hội và thách thức mới trong môi trường kinh doanh. Các nước ASEAN hướng tới việc đẩy mạnh hợp tác để phát triển, nâng cao tính cạnh tranh của lĩnh vực công nghệ thông tin và truyền thông (ICT) của các nước ASEAN, giảm mức độ phát triển không đồng đều về kỹ thuật số trong từng nước và giữa các nước ASEAN. Qua đó, hợp tác giữa khu vực tư nhân và nhà nước trong việc thực hiện e-ASEAN cũng được tăng cường. Ðể hỗ trợ những mục tiêu trên trở thành hiện thực việc tự do hoá thương mại đối với dịch vụ và đầu tư một vai trò quan trọng. Đầu tư vào dịch vụ và phát triển thương mại ,quảng bá một ASEAN hung hành chính tạo mạnh và phát triển trrên toàn thế giới. Các nước ASEAN cần phải tăng cường hợp tác vững mạnh hơn nữa Các lộ trình hội nhập ưu tiên được xây dựng dựa trên ý tưởng thắt chặt các liên kết hữu cơ giữa những ngành kinh tế mà ASEAN đang có ưu thế hoặc nhiều tiềm năng phát triển như nông nghiệp, thủy sản, cao su, dệt may, đồ gỗ, điện tử, du lịch… nhằm nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa ASEAN trên thị trường thế giới. Theo đó, các nước ASEAN hài hòa thủ tục hải quan, công nhận lẫn nhau các tiêu chuẩn hàng hóa, thuế… mục đích là đơn giản hóa thủ tục thuận lợi cho việc hội nhập nhanh hơn. Phía trước của ASEAN tuy còn nhiều cơ hôi dể phát triển song cũng không ít thách thức đòi hỏi Việt Nam cũng như các thành viên khác trong ASEAN phải tăng cường hợp tác, liên kinh tếết chặt chẽ hơn nữa, cùng nhau đưa ra những ý tưởng mới và các biện pháo thực hiện các ý tưởng đó để biến ý tưởng của “tầm nhìn 2020”. Đây cũng sẽ là sân chơi chung cho các nước trong hiệp hội phát triển toàn diện. Trong hơn 10 năm qua, ASEAN đã chứng kiến sự phát triển nhanh, mạnh của Việt Nam trong Hiệp hội. Việt Nam là thanh viên ASEAN là cầu nối của ASEAN với các nước Đông Băc Á về mặt địa lý, Viêt Nam dẫ có nhưng đóng góp nhất định cho sự tồn tại , phát triển của ASEAN và cũng đã đạt được hiệu quả nhất định.“Việt Nam ngày càng có nhiều kinh nghiệm và tin ở khả năng của mình, trở thành đầu tàu trong ASEAN, thúc đẩy sự phát triển của tổ chức này”. Với thế và lực ngày càng gia tăng, cùng với kinh nghiệm của 12 năm qua, Việt Nam chắc chắn sẽ tham gia hợp tác ASEAN tích cực và chủ động hơn, góp phần thực hiện mục tiêu hình thành Cộng đồng ASEAN vào năm 2015. Việt Nam sẽ tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong việc đề ra các quyết sách lớn và phương hướng phát triển của Hiệp hội. Việt Nam sẽ quan tâm hơn đến việc nâng cao hiệu quả và chất lượng tham gia; tích cực nghiên cứu và đề xuất sáng kiến khả thi để thúc đẩy hợp tác ASEAN trên những lĩnh vực phù hợp, nhằm tận dụng tối đa các cơ hội và lợi ích thiết thực có được. Với chúng ta những người thuộc thế hẹ trẻ cần phải cố gắng hơn nữa để xây dụng một Việt Nam giàu đẹp xứng đáng với tầm quan trọng của Việt Nam trong thế giới.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxTM-12.docx
Tài liệu liên quan